Chuyên đề văn học "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài & "Việt Bắc" của Tố Hữu_2
lượt xem 18
download
Tham khảo tài liệu 'chuyên đề văn học "vợ chồng a phủ" của tô hoài & "việt bắc" của tố hữu_2', tài liệu phổ thông phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyên đề văn học "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài & "Việt Bắc" của Tố Hữu_2
- Chuyên đề văn học "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài & "Việt Bắc" của Tố Hữu "Việt Bắc" được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu. Phần đầu bài thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước, và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Đoạn thơ này dài 16 câu (từ câu 59 đến câu 74), trích trong phần đầu bài "Việt Bắc". Bao trùm đoạn thơ là những nỗi nhớ với tất cả niềm tự hào, nhớ chiến công, nhớ những con đường chiến dịch, nhớ đoàn quân, nhớ dân công, nhớ ngọn đuốc, nhớ ngọn đèn pha của đoàn xe ra trận... Âm điệu hào hùng, niềm vui dào dạt. Sáng bừng vần thơ là sự ca ngợi sức sống mãnh liệt của đất nước và con người Việt Nam trong máu lửa. 1. Bốn câu đầu là lời "hỏi - đáp" giữa mình với ta, giữa kẻ ở với người về.
- "Ai về ai có nhớ không!" - câu hỏi phiếm chỉ, hình như không hỏi riêng một người nào mà là hỏi tất cả, hỏi nhà thơ, hỏi người cán bộ kháng chiến, hỏi anh bộ đội đã từng "chín năm nắng núi mưa ngàn" với Việt Bắc, một thời gian khổ mà oanh liệt. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến bâng khuâng, đậm đà tình nghĩa. Sau câu hỏi "Ai về ai có nhớ không?" là câu trả lời: "Ta về ta nhớ...", cấu trúc vần thơ cân xứng, thượng, hạ hô ứng nhịp nhàng. Người về xuôi giàu tình nghĩa thủy chung mới có tiếng nói ấy, tấm lòng ấy, và nỗi nhớ ấy: "Ta về ta nhớ Phù Thông, đèo Giàng... Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà:. Chỉ một chữ "nhớ" trong câu hỏi mà có đến 5 chữ "nhớ" thiết tha trả lời. Nỗi nhớ bao trùm tất cả, nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những trận đánh đẫm máu, nhớ những chiến công oai hùng một thời oanh liệt. Nhớ trận Phủ Thông, đèo Giàng, với lưỡi mác và ngọn giáo búp đa, anh bộ đội Cụ Hồ trong tư thế dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn những năm đầu kháng chiến. "Nhớ sông Lô" là nhớ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947: "Tàu giặc đắm sông Lô - Tha hồ mà uống nước - Máu tanh đến bây giờ - Chưa tan mùi bữa trước" (“Cá nước”). Nhớ phố Ràng, nhớ trận công kiên chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm 1949, đánh dấu bước trưởng thành trong khói lửa của quân đội ta, để từ đó, tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên giới giải
- phóng Cao Bằng, Lạng Sơn: "Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà". "Nhớ từ... nhớ sang..." nỗi nhớ dào dạt, mênh mông, nhớ tha thiết, bồi hồi. Đoạn thơ với những địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao Lạng, Nhị Hà... như những trang kí sự chiến trường nối tiếp xuất hiện, để lại bao tự hào trong lòng người đọc về bước đi lên của lịch sử dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Có biết bao máu đổ xương rơi, bao chiến sĩ anh hùng ngã xuống mới có thể đưa những tên núi, tên sông, tên đèo vào lịch sử, vào thơ ca, tạc vào lòng ta nỗi nhớ ấy. Phép đối xứng của Tố Hữu vận dụng sáng tạo gợi lên vẻ đẹp thi ca, làm cho câu thơ, vần thơ hài hòa cân xứng, diễn tả những bước đi lên hào hùng của dân tộc kháng chiến: "Ai về ai nhớ...", "Ta về ta nhớ...". Câu thơ lục bát được ngắt thành 2 vế 3/3 và 4/4 đối nhau, đọc lên đầy ấn tượng: "Nhớ sông Lô / nhớ phố Ràng, Nhớ từ Cao Lạng / nhớ sang Nhị Hà". 2. Tám câu thơ tiếp theo nói về những đường Việt Bắc, những nẻo đường hành quân, những nẻo đường chiến dịch: "Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung". Những điệp thanh "đêm đêm, rầm rập...", cùng với so sánh "như là đất rung" đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa 4000 năm của dân tộc. Khí thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung đất chuyển trời, không một thế lực
- tàn bạo nào có thể ngăn cản được! Cả một dân tộc ào ào ra trận. Chúng ta tự hào về các tráng sĩ đời Trần mang chí căm thù "Sát Thát", quyết chiến và quyết thắng: "Chương Dương cướp giáo giặc - Hàm Tử bắt quân thù". Chúng ta tự hào về các nghĩa sĩ Lam Sơn: "Đánh một trận sạch không kình ngạc - Đánh hai trận tan tác chim muông". Chúng ta càng tự hào về cuộc kháng chiến nhân dân thần thánh của thời đại Hồ Chí Minh: "Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Không khí kháng chiến, không khí lịch sử được tái hiện qua màu sắc thần kì sử thi. Đoàn quân ra trận đông đảo, người người lớp lớp, như sóng cuộn "điệp điệp trùng trùng". Có "ánh sao đầu súng", có "đỏ đuốc", có "muôn tàn lửa bay", có sức mạnh của bước chân "nát đá". Câu thơ "Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" là một tứ thơ sáng tạo, vừa hiện thực vừa mộng ảo. Ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép. Ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận của anh bộ đội. Đặc biệt các phụ âm "đ" (đi, điệp điệp, đầu, đỏ, đuốc, đoàn) với 2 chữ "nát đá" góp phần tạo nên âm điệu anh hùng ca, gợi tả sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ta càng đánh, càng mạnh và chiến thắng giòn
- giã. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta chỉ có gậy tầm vông, giáo mác, vũ khí thơ sơ. Ta càng đánh, càng thắng, lực lượng kháng chiến ngày thêm hùng hậu. Quân đội ta đã phát triển thành những binh đoàn, có pháo binh, có đoàn xe ra tiền tuyến: "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên". Ngọn đèn pha của đoàn xe kéo pháo, của đoàn xe vận tải "bật sáng" phá tan những lớp "sương dày", đẩy lùi những thiếu thốn, khó khăn, soi sáng con đường kháng chiến, "như ngày mai lên" một bình minh chiến thắng! Hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho một tương lai tươi sáng của đất nước. Con đường Việt Bắc, con đường ra trận đầy máu lửa và chiến công, cũng là con đường đi tới ngày mai huy hoàng tráng lệ của đất nước, dân tộc. 3. Bốn câu thơ cuối đoạn thơ, một lần nữa Tố Hữu lại gọi tên các địa danh "chiến thắng trăm miền" trên đất nước thân yêu. Là Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Là Đồng Tháp, An Khê. Là đèo De, núi Hồng. Mỗi địa danh ghi lại một chiến công. Nhà thơ có một cách nói rất hay, rất biến hóa để diễn tả niềm vui chiến thắng dồn dập, giòn giã: "Tin vui chiến thắng... vui về.. vui từ... vui lên"; không chỉ có một hai nơi rời rạc, lẻ tẻ mà là "trăm miền", khắp mọi miền đất nước. Điệp từ "vui" như tiếng reo mừng thắng trận cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam:
- "Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng". Đọc thơ Tố Hữu ta đã nhiều lần bắt gặp các địa danh. Trong bài "Việt Bắc" hơn 10 lần nhà thơ dùng cách gọi tên đó. Chế Lan Viên đã có nhận xét rất tinh tế về biện pháp nghệ thuật gọi tên các địa danh trong thơ Tố Hữu: ... "hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi, ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu mãi tên lên mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lên rồi" (Thơ Tố Hữu). Có thể nói, cách gọi tên các địa danh đã tạo nên nét đẹp riêng trong thơ Tố Hữu, đã thể hiện tình yêu sông núi và niềm tự hào dân tộc. Và đó cũng là một nét đẹp trong đoạn thơ này. Nếu "thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp", thì đoạn thơ trên đây của Tố Hữu giúp ta cảm nhận ý kiến ấy. Đây là một đoạn thơ hay và đẹp trong bài "Việt Bắc". Đoạn thơ vang lên như một khúc ca thắng trận. Âm điệu thơ lục bát vốn nhẹ nhàng, êm ái nhưng ở đây, Tố Hữu đã chọn từ, dùng điệp âm, điệp thanh, gọi tên các địa danh - nên đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca, có sức lôi cuốn hấp dẫn kì lạ.
- Những con đường Việt Bắc thời máu lửa cũng là con đường vui, con đường thơ, nó đã tỏa sáng hồn ta ngọn lửa Điện Biên thần kì, để ta yêu thêm, tự hào hơn Việt Bắc, "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa". Nửa thế kỉ đã đi qua, đọc đoạn thơ trên, âm vang lịch sử, âm vang "Quân đi điệp điệp trùng trùng..." ra trận vẫn còn chấn động lòng ta. Nỗi nhớ trong đoạn thơ là một nỗi nhớ đẹp; nỗi nhớ của một tình yêu lớn: yêu Việt Bắc, yêu kháng chiến, yêu Đất nước Việt Nam thân yêu.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề Hóa học – Năm học 2010-2011
41 p | 661 | 332
-
Chuyên đề ôn thi ĐH - CĐ Hóa học vô cơ - Gv. Nguyễn Minh Tuấn
186 p | 750 | 224
-
Tài liệu luyện thi Đại học môn Hóa học năm 2013-2014
461 p | 513 | 220
-
Chuyên đề bài tập trắc nghiệm Hóa vô cơ
186 p | 695 | 178
-
Hóa học vô cơ - tập một
278 p | 359 | 115
-
Đề thi học sinh giỏi giải toán trên máy tính cầm tay cấp tỉnh, năm học 2011 - 2012
10 p | 644 | 110
-
Chuyên đề ôn thi đại học, cao đẳng môn: Ngữ văn lớp 12 - Truyện ngắn sau cách mạng tháng tám năm 1945 Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ nhặt của Kim Lân
15 p | 210 | 25
-
Chuyên đề văn học "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài & "Việt Bắc" của Tố Hữu_1
6 p | 252 | 19
-
Giải bài tập Hóa học (Tập 2: Hóa vô cơ): Phần 2
148 p | 27 | 5
-
Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
8 p | 65 | 5
-
Bài giảng Chuyên đề: Nghị luận xã hội
33 p | 281 | 4
-
Đề thi học kì 1 môn Địa lí lớp 6 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Hoàng Văn Thụ
6 p | 6 | 4
-
Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 9 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Võ Trường Toản, Châu Đức
4 p | 12 | 4
-
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
3 p | 192 | 3
-
Chuyên đề môn Toán lớp 9 - Chuyên đề 1: Căn bậc hai và hằng đẳng thức
17 p | 128 | 2
-
Giáo án Ngữ văn lớp 8 - Chuyên đề 1: Văn học hiện thực
43 p | 86 | 2
-
Đề thi học kì 1 môn Địa lí lớp 9 năm 2023-2024 có đáp án - Trường THCS Võ Như Hưng, Điện Bàn
5 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn