Tác dụng chống viêm tuyệt vời cũng được thể hiện ở các hoạt chất<br />
pyrazolidindion, có chứa nhóm diarylhydrazin trong cấu tạo của mình. Như vậy,<br />
phenylbutazon (butadion 112), chất trước đây được sử dụng như là chất giảm đau và<br />
hạ sốt (antipyretic), trong khoảng 10 năm trở lại đây được sử dụng như là thuốc chống<br />
viêm khớp rất hiệu quả. Thuốc hóa dược này được tổng hợp bằng phương pháp trùng<br />
ngưng hợp chất hydrazobenzen (109) với dẫn xuất của axit malonic (110) hoặc (111)<br />
khi có mặt bazơ (natri etylat) trong dung môi xylen. Hydrazobenzen dễ dàng thu được<br />
khi tiến hành dimer hóa gốc tự do aminophenyl, các gốc này tạo thành khi khử<br />
nitrobenzen (108) bằng xúc tác kim loại (Pd/C hoặc Fe):<br />
<br />
5.3.5. Imidazol với khả năng chống ký sinh vật, chống cao huyết áp và các<br />
hoạt tính sinh học khác<br />
Các loại thuốc có nguồn gốc tổng hợp hay có nguồn gốc từ sinh vật thường có<br />
chứa nhân imidazol. Imidazol không chứa nhóm thế (113) thể hiện một vài hoạt tính<br />
sinh học, trong đó có khả năng ức chế enzym thromboxane B-2 (enzym tham gia vào<br />
quá trình chuyển hóa axit arachidonic). Điều này dẫn tới sự tăng nồng độ prostacyclin<br />
và khi đó sẽ cản trở qua trình đông tụ máu. histamin (114) là amin có nguồn gốc tự<br />
nhiên và thể hiện vai trò là chất truyền các xung động thần kinh trong cơ thể. Ở trạng<br />
thái tự do, hoạt chất này có thể gây ra dị ứng. Ở dạng dihydroclorua, nó được sử dụng<br />
<br />
119<br />
<br />
để chữa các bệnh viêm khớp, bệnh phong tê thấp và các bệnh dị ứng khác. Dẫn xuất<br />
của imidazol là dazoxyben (115) thể hiện mạnh hoạt tính sinh học chống lại sự tạo<br />
thành các thromboxane gây ghẽn mạch.<br />
<br />
Dazoxyben thu được bằng cách trùng ngưng phenol (116) với cloetanol (117)<br />
thành cloetylete n-hydroxybenzamid (118), trong đó nguyên tử clo sẽ được thay thế<br />
bằng imidazol. Tiếp theo, sau khi thủy phân nhóm amid của hợp chất trung gian (119)<br />
người ta thu được thuốc (115):<br />
<br />
Hơn 30 năm trước, y học lâm sàng đã đưa vào sử dụng những loại thuốc hữu ích<br />
tiêu diệt trùng roi (trichomonas), loại thuốc này được tổng hợp trên nền tảng 5nitroimidazol. Cùng nhóm với những loại thuốc đó là những chất chống ký sinh trùng<br />
(diệt trùng roi) như metronidazol (125) và tinidazol (126). Quá trình tổng hợp nhân<br />
imidazol được thực hiện trên nền diamin (120) – bằng quá trình đóng vòng dẫn xuất<br />
diaxetyl của etilendiamin (121) với sự có mặt của CaO. Sản phẩm tạo thành 2metylimidazolin (122) bị dehydro hóa trên xúc tác niken tạo thành diazol (123), sau<br />
đó được xử lý tiếp với hỗn hợp nitro hóa ở nhiệt độ cao (1400 C). Ở bước cuối cùng,<br />
nitroimidazol bị ankylhóa tại vị trí N-1 bởi oxirane hoặc 2-brometanol (124) chúng ta<br />
thu được metronidazol (125):<br />
<br />
120<br />
<br />
Đã hơn nửa thế kỷ qua, để làm giảm huyết áp nhãn cầu khi điều trị bệnh thiên<br />
đầu thống người ta sử dụng alcaloit pilocarpin (alcaloit này được tách ra từ cây<br />
Pilocarpus p. Jaborandi từ những năm cuối của thế kỷ 19). Quá trình tổng hợp hoạt<br />
chất này bắt đầu từ este etyl 3-etoxycacbonylpentanoat (127), este này bị formyl hóa<br />
thành dẫn xuất 2-formyl (128) và nhóm formyl sau đó bị khử tới hydroxymetyl. Rượu<br />
(129) đóng vòng tạo thành axit cis-pilopovoic (lacton 130), sau khi chuyển hóa qua<br />
chất trung gian cloanhydrit sẽ tạo thành 4-diazirinoyllacton (131) bằng phản ứng với<br />
diazometan. Chất (131) dưới tác dụng của oxit bạc trong etanol bị tách mất nitơ và<br />
chuyển thành este của axit homopilopovic (132). Sau đó este bị thủy phân, còn dạng<br />
axit tự do thông qua chất trung gian cloanhydrit chuyển thành dẫn xuất của<br />
diaziridinoylmetyl (133). Dẫn xuất này dưới tác dụng của anhydrit axit axetic biến đổi<br />
thành axyl oxyxeton (134), tiếp tục bị đóng vòng trong điều kiện phản ứng Mannich<br />
với amoniac và formaldehit tạo thành nhân imidazol. Ở giai đoạn cuối cùng, các nhà<br />
hóa học đã tiến hành phản ứng metyl hóa nhân imidazol tại vị trí N-1, và khi đó chúng<br />
ta thu được pilocarpin (135):<br />
<br />
121<br />
<br />
Vòng imidazol bị hydro hóa một phần thường là thành phần cấu tạo của một loạt<br />
các loại biệt dược. Ví dụ như, hai dẫn xuất của imidazolin – lofexidin (139) và<br />
clophelinum (144) – là chất chống cao huyết áp, chúng không chỉ giống nhau về cấu<br />
tạo, mà còn tương đồng về cơ chế tác dụng sinh học (phong tỏa sự giải phóng ra<br />
adrelanin – adrenergic antagonist)<br />
Trong quá trình tổng hợp lofexidin (139), vòng imidazolin được tạo thành nhờ<br />
tác dụng của 2-clopropionitril (137) với 2,6-diclophenol (136) trong môi trường kiềm<br />
và xúc tác KI. Sản phẩm O-ankyl hóa (138) sau đó được trùng ngưng với etilendiamin<br />
với sự có mặt của xúc tác carbon disulfit. Trong quá trình trùng ngưng sẽ tạo thành<br />
hydroxyanua:<br />
<br />
Clophelinum, sử dụng trong điều trị bệnh tăng huyết áp, được điều chế từ<br />
tetrametylthiuramdisulfit (anhydrit của axit dithiocarbaminic, 140), trước tiên chất<br />
(140) bị phá hủy dưới tác dụng clo thành diclometylenimmoni clorua (141). Tiếp đó<br />
không cần tinh chế, cho phản ứng với 2,6-dicloanilin, chúng ta thu được chloramidin<br />
(142). Dẫn xuất này dễ dàng tạo muối với etilendiamin và muối tạo thành (143) sẽ<br />
<br />
122<br />
<br />
đóng vòng thành clophelinum (144) khi nung nóng từ 20 đến 1000C (sự ngưng tụ đi<br />
kèm với việc tách loại một nhóm dimetylamin):<br />
<br />
Oxymetazolin (147) có cấu tạo tương tự với hai dẫn xuất imidazolin (139) và<br />
(144) được xem xét ở trên, dễ dàng phản ứng với các thụ thể α-adrenergic (adrenergic<br />
receptor) và cũng có tác dụng làm co mạch. Chất ban đầu (146) được tổng hợp bằng<br />
phản ứng clometyl hóa phenol (145) theo cơ chế electrophil. Nhóm thế bị định hướng<br />
vào vị trí C-5 là do sự cản trở không gian được tạo ra bởi nhóm tret-butyl của nhân<br />
phenol. Hợp chất (146) bị xyan hóa, và dẫn xuất tạo thành khi đun nóng với<br />
etilendiamin sẽ cho ta oxymetazolin (147):<br />
<br />
Hai loại thuốc trợ tim – enoxymon (150) và pyroxymon (151) – có chứa nhóm<br />
imidazolin. Trong quá trình tổng hợp chúng, người ta tiến hành phản ứng axyl hóa 4ankylimidazolin-2-on (149) bằng cloaroyl (148) theo phản ứng Friedel-Crafts:<br />
<br />
Các dẫn xuất của benzimidazol, dibazolum (152) được sử dụng rộng rãi trong<br />
điều trị bệnh, đây là hợp chất tổng hợp đầu tiên tương tự alcaloit papaverin. Nó thể<br />
<br />
123<br />
<br />