Cơ sở lý luận - Xuất khẩu lao động
lượt xem 107
download
Tham khảo luận văn - đề án 'cơ sở lý luận - xuất khẩu lao động', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ sở lý luận - Xuất khẩu lao động
- PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU Theo kết kết quả điều tra Lao động- Việc làm , tại thời điểm 1/7/2003 lực lượng lao động cả nước(gồm những người đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế) có hơn 42.128 ngàn người,trong đó khu vực thành thị chiếm 24,18%,khu vực nông thôn chiếm 75,82%.So với thời điểm 1/7/85%.Bên cạnh đó,nhiều cuộc điều tra khác cũng cho thấy nguồn nhân lực ở Việt Nam có quy mô lớn đã , đang và sẽ tạo ra cung về nhân lực với số lượng nhiều.Hằng năm số lượng người cần có việc làm tăng thêm hơn 1,5 triệu người .Trong khi đó,với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế như hiện nay ,cầu về nhân lực phản ánh một cơ cấu lạc hậu,đại bộ phận nguồn nhân lực còn nằm trong khu vực nông nghiệp.Chính sự bất cân đối này đã đặt ra vấn đề là phải giải quyết việc làm cho người lao động. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện bằng thị trường trong nước mà còn phải chú trọng phát triển cả thị trường ngoài biên giới,chính vì vậy vấn đề xuất khẩu lao động (XKLĐ) hiện nay đang được quan tâm rất nhiều. Xuất khẩu lao động là một hoạt động khá mới ở nước ta và chỉ phát triển mạnh mẽ nhất trong những năm gần đây.Mặt khác hoạt động này ở nước ta cũng đang bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết.Chính vì vậy ,với mục đích tìm hiểu thực trạng để đưa ra giải pháp nhằm pháy huy hiệu quả hơn,em quyết định chọn đề tài về hoạt động XKLĐ để nghiên cứu,và lấy Nam Định làm thí điểm cho việc nghiên cứu để có thể nhìn nhận một cách cụ thể nhất trong việc thực hiện hoạt động này. Mặc dù đã có cố gắng trong việc nghiên cứu,song chắc chắn bản thảo này vẫn còn nhiều thiếu sót.Em rất mong được thầy xem xét và chỉ bảo để đề án 1
- của em được hoàn chỉnh nhất trong bản chính sắp tới.Em xin chân thành cảm ơn thầy. PHẦN 2 : NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận I. Xuất khẩu lao động 1.Khái niệm: Xuất khẩu lao động được hiểu là việc đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (gọi tắt là XKLĐ) .Đây là một hoạt động kinh tế – xã hội của Nhà nước nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực,giải quyết việc làm,tăng thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động,tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước,đồng thời tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhà nước ta cũng thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động này thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động nhằm tạo việc làm ở nước ngoài cho người lao động Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Đồng thời Đảng và Nhà nước còn thể hiện sự quan tâm cụ thể trong việc chỉ đạo, thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp và các đoàn thể cũng như gia đình và bản thân người lao động trong hoạt động XKLĐ. 2.Các hình thức XKLĐ: Điều 134a – Bộ luật lao động đã có quy định, XKLĐ có thể được thực hiện thông qua 4 hình thức : Một là, thông qua cung ứng lao động theo các hợp đồng kí kết với bên nước ngoài. Hai là, thông qua việc đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài. 2
- Ba là, thông qua việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các dự án đầu tư ở nước ngoài. Bốn là, các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Bộ luật lao động cũng có quy định đối với những doanh nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bao gồm: Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động XKLĐ. Doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam. Tất cả các doanh nghiệp trên muốn XKLĐ thì phải được Cục quản lý lao động Nhà nước cấp giấy phép. Hiện nay trong cả nước ta có 154 doanh nghiệp có giấy phép hoạt động XKLĐ trong đó 16 doanh nghiệp chuyên doanh XKLĐ, 134 doanh nghiệp (chiếm 87%) doanh nghiệp được bổ sung chức năng XKLĐ,còn lại là doanh nghiệp tư nhân tham gia XKLĐ,trong số 154 doanh nghiệp này thì hơn 25% doanh nghiệp có giấy phép lao động được XKLĐ và tu nghiệp sinh tại Nhật và gần 20% doanh nghiệp có giấy phép tuyển lao động sang Hàn Quốc II. Lợi ích và hạn chế của việc XKLĐ: a.Lợi ích của việc XKLĐ : XKLĐ thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước 3
- Bảng 1 : Kết quả hoạt động XKLĐ giai đoạn 1991-1999 Năm Số lao động XK Số ngoại tệ thu (người) về(1.000 USD) 1991 1.020 2.500 1992 810 6.800 1993 3.960 15.800 1994 9.230 43.100 1995 10.050 77.900 1996 12.660 100.800 1997 18.470 129.200 1998 12.240 148.300 1999 20.700 150.800 2002 46.122 1.200.000 Tổng cộng 136.622 1.875.200 ( Chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi) Riêng hai năm 1996-1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động đang làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của nước ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250.000, thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD - đây là con số mà chỉ ít ngành sản xuất đạt được. Doanh thu từ XKLĐ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị 4
- hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp thì tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt khoảng 15 – 20%. Đối với Nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý nhà nước bình quân cho một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7 USD - đây là một khoản lợi lớn mà chưa có suất đầu tư nào có được. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 – 15 lần so với thu nhập của lao động trong nước. Do vậy, XKLĐ không những làm tăng thu nhập quốc dân mà còn là cơ hội tốt để người lao động tích lũy vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ. Bên cạnh đó, XKLĐ thời gian qua cũng đã tạo việc làm cho một bộ phận người lao động, góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. Bình quân trong 10 năm 1980 – 1990 theo hiệp định Chính phủ, hàng năm Việt Nam đưa đi được khoảng 26.000 lao động, chiếm khoảng gần 3% lực lượng lao động tăng hàng năm. Từ năm 2001 đến nay đã đưa đi được trên 157.000 người, nghĩa là đã giải quyết việc làm tạm thời cho họ cùng với hàng ngàn người khác qua các tổ chức kinh tế làm dịch vụ XKLĐ. Mặt khác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động. Ngoài ra, thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật,ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi họ trở về. Như vậy, hoạt động XKLĐ nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế, xã hội không nhỏ, góp phần trực tiếp và gián tiếp vào việc tăng tích lũy vốn cho công nghiệp hóa. b.Hạn chế trong công tác XKLĐ : 5
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, người sử dụng lao động ngày càng có điều kiện để đưa ra nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Công nhân không những phải có sức khỏe tốt, có ý thức phục tùng kỷ luật cao, mà còn phải sử dụng được ngôn ngữ của nước tiếp nhận. Đây là điểm yếu của người lao động Việt Nam. Lao động Việt Nam nhiều khi chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà thị trường đặt ra như ngoại ngữ, tay nghề, sức khỏe và đặc biệt là ý thức kỷ luật, tỷ lệ bỏ trốn hiện tại ở Hàn Quốc là 59,25%, Nhật Bản là 27,09%, Đài Loan 7%. Tại thị trường Malaysia, nhiều lao động Việt Nam đã vi phạm kỷ luật như: uống rượu, đánh nhau và đình công. Bên cạnh đó, đa số người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài là nông dân, tiếp thu ngoại ngữ chậm, lại được đào tạo trong thời gian quá ngắn, vì vậy vốn kiến thức mà họ được trang bị cũng như học hỏi được là rất ít và không đồng bộ. Ưu điểm của số lao động này là có sức khỏe, nhưng họ lại không có nghề nghiệp chuyên môn và chưa quen với tác phong công nghiệp trong nền sản xuất của nước bạn. Mặt khác, hệ thống đào tạo của nước ta chưa chú trọng về việc cho người lao động tìm hiểu cũng như có kiến thức về văn hóa, chính trị, luật pháp cũng như những đặc trưng của nước sở tại mà họ sẽ lao động, vì vậy tạo cho người lao động sự bỡ ngỡ khi làm việc trong môi trường hoàn toàn mới và xa lạ này. Ngoài ra, công tác XKLĐ còn bị hạn chế trong quá trình tiến hành, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chủ trương khuyến khích, nhưng người lao động vẫn là người phải bỏ vốn như là khoản chi phí ban đầu cho công việc mới của họ. Khoản phí ban đầu này là quá lớn đối với người lao động, đặc biệt là đối với lao động nông thôn không có việc làm phải đi XKLĐ. Như vậy, bên cạnh những lợi ích to lớn mà XKLĐ mang lại, hiện nay công tác XKLĐ vẫn đang còn nhiều hạn chế cần được khắc phục để ngày càng có thể hoàn thiện hơn công tác này. 6
- III. Quan điểm, chính sách và vấn đề quản lý XKLĐ: 1.Quan điểm XKLĐ: Đảng và Nhà nước ta luôn cho rằng, phát triển hợp tác quốc tế trong việc tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Song song với quan điểm này, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định cụ thể về hoạt động XKLĐ như bộ luật lao động, nghị định, thông tư hay các công văn hướng dẫn thi hành… Quan điểm về XKLĐ cũng đã được thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định trong một hội nghị về XKLĐ quy tụ hơn 350 đại biểu của các bộ, các ngành trên cả nước và 5 đại sứ tại các nước có người Việt Nam ,rằng “XKLĐ và chuyên gia là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài”. Qua những quan điểm như trên cho thấy rằng, mặc dù đây là một hoạt động còn rất non trẻ, nhưng trong tương lai với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng các cấp chính quyền ,hoạt động này sẽ mang lại nhiều thành tựu to lớn, góp phần đáng kể trong công cuộc công nghiệp hóa của đất nước. 2.Chính sách XKLĐ: Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đã sử dụng rất nhiều công cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động XKLĐ những con đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP, Chính phủ đã có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ trợ XKLĐ, theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi phí cho việc phát triển thị trường lao động mới, cho việc đào tạo người lao động , việc hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho các cơ quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động XKLĐ. Như vậy, quỹ này ra đời sẽ góp 7
- phần phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp trong hoạt động này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã có chính sách hỗ trợ cho vay đối với người lao động đi xuất khẩu, theo đó người lao động đi XKLĐ không thuộc diện chính sách được vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu cầu thế chấp tài sản, điều này đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho người lao động, nhất là đối với những lao động nghèo ở nông thôn – lực lượng chính của XKLĐ, mà trước đây không có tiền để đóng góp chi phí XKLĐ hoặc không có tài sản để thế chấp. Đồng thời với chính sách này, hồ sơ thủ tục xin đi XKLĐ cũng đã được giảm bớt và trở nên đơn giản thuận lợi hơn. Mặc dù chủ trương chính sách đã được ban hành tương đối đồng bộ và từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn chậm để triển khai vào cuộc sống, vẫn còn tình trạng một số ngành, địa phương đứng ngoài hoạt động XKLĐ hoặc có tham gia nhưng thiếu triệt để. Ở một số địa phương, cán bộ còn quan liêu, cửa quyền và sách nhiễu dân trong việc giải quyết thủ tục đi XKLĐ. Bên cạnh đó, còn nhiều khoản mục khác cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng vẫn còn vắng bóng. Ví dụ như chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với vấn đề tạo lập , giữ vững và phát triển thị trường XKLĐ, vấn đề tư pháp quốc tế, vấn đề bảo hộ họat động XKLĐ khi tham gia vào thị trường mới … 3.Quản lý hoạt động XKLĐ: Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ quản lý hoạt động XKLĐ. Tùy từng trường hợp mà một số cơ quan khác như Bộ tài chính, Bộ công an, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại, Ngân hang Nhà nước, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như các đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới trong việc quản lý hoạt động này. 8
- Nhằm thực hiện một cách có hiệu quả nhất, công tác quản lý đã được tăng cường nhằm hạn chế những vi phạm của các doanh nghiệp XKLĐ cũng như góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức cá nhân ngoài xã hội. Trên thực tế, các cơ quan chức năng đã tiến hành 140 cuộc kiểm tra và 37 cuộc thanh tra đối với các doanh nghiệp XKLĐ trong đó thu hồi giấy phép của 8 doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, đình chỉ có thời hạn 10 doanh nghiệp do có vi phạm đặc biệt là vi phạm trong buông lỏng quản lý hoặc có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao , buộc ngưng hoạt động vô thời hạn đối với 7 đơn vị đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Việc xử lý các hành vi vi phạm của doanh nghiệp và cá nhân người lao động đã từng bước góp phần lập lại kỷ cương trong hoạt động XKLĐ, ổn định và giữ vững uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. Mặc dù vậy, công tác quản lý lao động xuất khẩu vẫn còn nhiều yếu kém, đội ngữ cán bộ mỏng, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh phát triển thị trường XKLĐ, không thể bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường XKLĐ cũng như xử phạt nghiêm minh những hành vi vi phạm của doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay mới chỉ có 6 ban quản lý lao động ở nước ngoài trong khi thị trường XKLĐ Việt Nam đã trải rộng trên hơn 40 nước, dẫn đến tình trạng quá tải trong công tác điều hành, nhất là điều hành từng thị trường. Mặt khác, đối với từng doanh nghiệp , việc quản lý lao động xuất khẩu chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp ở các vấn đề như: quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động khi ký kết hợp đồng XKLĐ, giữa người lao động Việt Nam với chủ sử dụng lao động ở nước ngoài hoặc người môi giới, còn những quan hệ khác thì không thể quản lý nổi. IV.Chất lượng của các doanh nghiệp và các trung tâm làm công tác XKLĐ: 9
- Bước đầu phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển thị trường XKLĐ, trên thị trường đã hình thành được đội ngũ doanh nghiệp và các trung tâm làm công tác XKLĐ tương đối mạnh mẽ về cơ sở vật chất, về cán bộ, năng lực đào tạo lao động. Đã hình thành được 154 doanh nghiệp có giấy phép XKLĐ trong đó chiếm gần 90% là doanh nghiệp được bổ sung chức năng XKLĐ. Nhiều doanh nghiệp đã tích cực, chủ động trong việc tìm kiếm thị trường ngoài nước , phối kết hợp với các cơ quan chức năng, co sở đào tạo nghề để trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, phong tục tập quán, ngoại ngữ cho người lao động. Xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có uy tín đối với đối tác nước ngoài, rất thuận lợi cho việc phát triển thị trường lao động. Kết quả trong 3 năm từ 2001 – 2003 đã có: 1 doanh nghiệp xuất khẩu 10.000 lao động; 4 doanh nghiệp xuất khẩu trên 5.000 lao động; 37 doanh nghiệp xuất khẩu trên 1.000 lao động Bên cạnh những kết quả này, chất lượng của các doanh nghiệp XKLĐ vẫn còn nhiều bất cập. Trên thực tế, đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực này vẫn còn mỏng, yếu về kinh nghiệm, thiếu về cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính , vì vậy khả năng khai thác và phát triển thị trường còn hạn chế . Đã có nhiều doanh nghiệp, thậm chí cả bản thân người lao động tích cực khai thác thông tin, tìm hiểu thị trường lao động ngoài nước, song như vậy vẫn là chưa đủ để đảm bảo khả năng phát triển thị trường. Song song với những khó khăn này, chất lượng của các trung tâm dạy nghề cũng có nhiều vấn đề đáng bàn, các cơ sở đào tạo nghề đã hiếm, lại nghèo nàn và lạc hậu về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên mỏng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, phần lớn những nghề mà trường đào tạo cho học viên là những nghề trường có khả năng đào tạo chứ chưa dựa vào nhu cầu 10
- thực tiễn của từng thị trường lao động ngoài nước . Mặt khác, việc đào tạo nghề chỉ nặng về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ mà chưa đi sâu, đi sát dể lồng ghép tốt giữa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động. Như vậy, vấn đề cần quan tâm của các doanh nghiệp cũng như của các trung tâm làm công tác XKLĐ là không chỉ nâng cao số lượng lao động xuất khẩu , mà còn phải làm thế nào để cung lao động xuất khẩu vượt ra khỏi tầm lao động giản đơn, không có nghề, vươn tới lao động xuất khẩu có trình độ tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu, chất lượng nghề đào tạo trên thị trường lao động quốc tế. Chương 2: Thực trạng XKLĐ tỉnh Nam Định I.Tình hình XKLĐ Việt Nam những năm qua: Từ năm 1991 đến nay, nước ta thực hiện việc XKLĐ và chuyên gia theo cơ chế thị trường, đã từng bước chuyển hướng đưa lao động chủ yếu sang các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sang các thị trường mới, và đến nay đã có chỗ đứng vững chắc tại các thị trường lao động chủ yếu trên thế giới Hiện nay đã có 340.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc tại khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ, hàng năm gửi về nước khoảng 1,5 tỷ USD Biểu 2: Số lượng lao động xuất khẩu giai đoạn 1998 – nay Năm Số LĐ xuất khẩu So với kế So với năm trước (người) hoạch(%) (%) 11
- 1998 12240 89 66,2 1999 20700 125 169,12 1 2000 25210 110 121,7 2001 31186 100,5 123,7 2002 46122 115 147,87 1 2003 75000 150 162,61 1 10 tháng/200 04 67000 134 131,37 1 Ta có thể biểu diễn số liệ trên bằn biểu đồ s ệu ng sau: 80000 70000 60000 50000 40000 30000 20000 10000 0 1998 199 2000 2001 2002 2003 2004 99 Đặc biệt là từ năm 20 đến na hoạt độ XKLĐ và chuyên gia đã có t 001 ay, ộng Đ nhữn bước tiế vượt bậ Trong 3 năm qua, ta đã đưa đi được tr 157.000 ng ến ậc. , rên lao đ động và ch huyên gia đ làm việc ở nước ng đi c goài, gấp 1 lần số l động v 1,3 lao và chuy gia đưa đi được trong 10 nă trước đó ( 121.752 người) yên a ăm Bê cạnh đó chất lượ nguồn lao động đ ên ó, ợng được xuất khẩu cũng từng bướ g ớc được nâng lên, ngày càn có thêm nhiều lao động đượ đào tạo sâu hơn v c ng m o ợc về chuy môn, ngoại ngữ, kiến thức luật pháp phong t tập quá trong v yên n , c p, tục án và ngoà nước. Do vậy, hiệ nay thị trường XK ài D ện KLĐ của n hông chỉ bó nước ta kh hẹp trong các nước SNG châu Ph mà đượ mở rộng sang các nước khá G, hi, ợc g ác chế độ chính trị - xã hội Lao độn xuất khẩu của nướ ta đã v đang làm t i. ng ớc và m việc ở 40 nướ vùng lã thổ, v thị phầ ngày cà tăng, t rộng từ ớc, ãnh với ần àng trải ừ 12
- Đông Bắc Á, Đông Nam Á, khu vực Trung Đông tới nam Thái Bình Dương với ngày càng nhiều các hình thức XKLĐ đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động Việt Nam thâm nhập thị trường mới và giữ vững thị trường truyền thống. II.Giới thiệu chung về Nam Định: 1.Điều kiện tự nhiên: Nam Định là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng ven biển, ở phía nam châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Thái Bình và Hà Nam, phía Tây và Tây Nam giáp Ninh Bình, phía Đông và Nam giáp biển Đông. Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh là thành phố Nam Định, cách Hà Nội 90 km. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 1669,36 km2, dân số (2004) là 1916405 người, mật độ dân số của tỉnh là 1148 người/km2. Nam Định là tỉnh có bờ biển dài 72 km, nối tiếp với 2 cửa biển và hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, vì vậy Nam Định có tầm quan trọng về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa và du lịch. Về địa hình, chủ yếu là vùng đồng bằng chiêm trũng, vùng đồng bằng ven biển, bãi bồi cát lượn sóng. Ngoài ra còn có vùng đồi núi và nửa đồi núi. Tỉnh có 3 hệ thống sông lớn là sông Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ và nhiều sông nhỏ khác giúp cho giao thông đường thủy rất thuận lợi. Bên cạnh đó, giao thông đường bộ, đường sắt cũng tương đối phát triển. Nam Định có khí hậu nhiệt đới chia thành hai mùa: mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230 C. Đất đai ở đây có độ phì nhiêu cao thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhất là việc trồng cây lương thực. Dọc bờ biển có tới 5 cửa sông, có rất nhiều bãi cá lớn, có 2 cảng lớn là cảng sông Nam Định và cảng biển Hải 13
- Thịnh vừa thuận lợi cho kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt hải sản, đồng thời có giá trị du lịch lớn. Về quy mô hành chính, Nam Định có 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 9 huyện bao gồm 229 xã, 15 phường và 9 thị trấn. 2.Thực trạng lao động ở Nam Định: 2.1.Quy mô lực lượng lao động: Kết quả điều tra lao động việc làm giai đoạn 1997- 2000 phản ánh rõ xu hướng tăng về số tuyệt đối của lực lượng lao động ở tỉnh Nam Định cũng như khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước. Biểu 3: Quy mô và tỷ trọng của lực lượng lao động 1997 1999 NĐ ĐBSH Cả NĐ ĐBSH Cả nước nước -Lực lượng lao động 982 7.432 36.296 1.006 7.735 37.783 (1000 người) -Tỷ lệ trong tổng DS từ 74,74 73,3 72,31 73,1 72,39 71,21 15 tuổi trở lên (%) Mặc dù tăng về số tuyệt đối nhưng tỷ lệ lực lượng lao động trong tổng dân số từ đủ 15 tuổi trở lên lại có xu hướng giảm, bình quân mỗi năm giảm khoảng 1%. So với vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước thì mức giảm trên là khá cao, song tỷ lệ trên của tỉnh vẫn là lớn hơn cả. Điều này cho thấy hiện nay Nam Định vẫn còn duy trì được một lực lượng lao động rất dồi dào, sẵn sàng phuc vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh nhà. 2.2.Cơ cấu của lực lượng lao động: Trước hết ta xét cơ cấu của toàn bộ dân số từ đủ 15 tuổi trở lên. Theo điều tra cho thấy, dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tăng dần, điều này có nghĩa là 14
- hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động vẫn đang tăng lên ( xem biểu 4). Với tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 2,57% thì hàng năm có gần 40 nghìn người bước vào độ tuổi lao động, trong đó tốc độ tăng của nữ lớn hơn nam chia theo giới, và nông thôn lớn hơn thành thị nếu chia theo khu vực. Điều này gây nên nhều khó khăn trong việc giải quyêt việc làm cho đội ngũ mới này. Về lực lượng lao động , nếu chia theo giới thì lực lượng lao động nữ của Nam Định tương đối ổn định ở mức 523 ngàn năm 1997 đến 525 ngàn năm 2000 và tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động cũng đang dao động ở mức 52% đến 52,5% tương ứng với tỷ lệ nữ của khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước; nếu chia theo khu vực thì quy mô lực lượng lao động ở khu vực thành thị của Nam Định còn rất nhỏ và dao động ở mức 130 ngàn người, qua 4 năm 1997-2000 chỉ tăng them 2400 người, tỷ lệ lực lượng lao động khu vực thành thị chiếm trong tổng lực lượng lao động của cả tỉnh lại có xu hướng giảm nhẹ, xu hướng biến động này là ngược lại so với xu thế chung của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước: lực lượng lao động khu vực thành thị đang gia tăng cả về quy mô và tỷ lệ chiếm trong tổng số. Tuy nhiên so với các tỉnh lân cận như Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam thì lực lượng lao động thành thị của Nam Định vẫn cao hơn. 15
- Biểu 4: Cơ cấu của bộ phận dân số từ 15 tuổi trở lên tỉnh Nam Định Các năm (người) Tốc độ phát triển (%) 1997 1998 1999 2000 98/97 99/98 2000/99 BQ mỗi năm 1.NKTT 1850850 1869520 1888405 1915600 101,01 101,01 101,44 105,15 -BQ NKH 3,81 3,73 3,68 3,6 97,90 98,66 97,83 98,13 2.DS từ 1314868 1352874 1377276 1419038 102,89 101,8 103,03 102,57 15 tuổi trở lên -Theo giới tính +Nam 616866 637738 651055 676404 103,38 102,69 103,89 103,12 +Nữ 698002 715136 726221 742634 102,45 101,55 102,26 102,09 -Theo khu vực +TThị 167150 172491 173042 179513 103,2 100,09 103,74 102,41 +NT 1147718 1180383 1204234 1239525 102,85 102,02 102,93 102,60 -Theo nhóm Chú thích: - NKTT : Nhân khẩu thường trú -BQNKH : Bình quân nhân khẩu hộ 16
- Nếu chia lực lượng lao động theo nhóm tuổi, ta có thể có được thống kê như sau: Biểu 5: Lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi tỉnh Nam Định Chú thích: Tuổi trẻ : từ 15 – 34 tuổi; Trung niên : 35 – 54 tuổi; Cao tuổi : > 55 tuổi; 1997 2000 Trẻ Trung Cao Trẻ Trung Cao niên tuổi niên tuổi -LLLĐ (ngàn người) 447 433,5 101 434 544 82 -Tỷ lệ trong tổng số(%) 45,7 44 10,3 40,9 51,3 7,8 Xét về cơ cấu của lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi đã diễn ra theo xu hướng là lực lượng lao động trong nhóm tuổi trung niên có xu hướng tăng nhanh cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, nhóm tuổi trẻ và nhóm cao tuổi có xu hướng giảm, trong đó nhóm cao tuổi có xu hướng giảm nhanh hơn cả về quy mô và tốc độ. Tình trạng này trùng hợp với xu hướng biến động lực lượng lao động chung của cả nước trong cùng thời kỳ. 2.3.Chất lượng của lực lượng lao động: Tình độ học vấn của lực lượng lao động tỉnh Nam Định ngày càng được nâng cao. Biểu hiện cụ thể là: số lượng người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm liên tuc cả về số tuyệt đối và tỷ lệ trong tổng số qua các năm. Chỉ tiêu này năm 1997 là 111 ngàn người, chiếm 11,34%, đến năm 2000 là 88,6 ngàn người chiếm 8,4%, ngược lại số người đã tốt nghiệp cấp II 17
- và cấp III không ngừng tăng, trong đó tăng nhanh nhất cả về quy mô và tốc độ là số người tốt nghiệp cấp III. Theo kết quả điều tra năm 1997 số người tốt nghiệp cấp III của Nam Định là 172,6 ngàn người, chiếm 17,6% trong tổng số, năm 2000 là 201,1 ngàn người chiếm 18,9% trong tổng số. Bình quân mỗi năm số người tốt nghiệp cấp III của tỉnh tăng khoảng 9,5 ngàn người. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động cũng có những tiến bộ rõ rệt. Tại thời điểm điều tra năm 1997, số người thuộc lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (gồm công nhân, sơ cấp, trung cấp, đại học và trên đại học) của tỉnh Nam Định là 139.347 người, chiếm 14,18% so với tổng số. Đến năm 2000 chỉ tiêu này là 183.168 người, chiếm 17,28% so với tổng số, tăng 31% so với năm 1997, trong đó tăng mạnh nhất là số lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học (36%). Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Nam Định như trên phản ánh tổng hợp những cố gắng và kết quả của công tác giáo dục đào tạo dạy nghề của tỉnh những năm qua. Tuy vậy cơ cấu lao động kỹ thuật của Nam Định cũng như cả nước vẫn chưa ra khỏi tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Theo kinh nghiệm của các nước thành công trong công nghiệp hóa thì cơ cấu lao động kỹ thuật phổ biến phải có cơ cấu là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học/ 10 công nhân kỹ thuật, nhưng ở Nam Định cơ cấu này là 1/ 2,2 /2,5, của cả nước là 1/ 1,5/ 1,7. Tình trạng bất hợp lí này ngày càng tăng lên, hiện nay cơ cấu này ở Nam Định là 1/ 1,9/ 2,1. Để khắc phục tình trạng bất hợp lí này, Nam Định cần chủ trương thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo theo hướng giảm quy mô đào tạo cao đẳng, đại học một cách hợp lí, mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật và thực hiện tốt việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. 18
- 3.Thực trạng việc làm tỉnh Nam Định: Trong thời gian qua tỉnh Nam Định đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết việc làm, song song với việc thực hiện các giải pháp về đầu tư phát triển sản xuất tỉnh còn thực hiên tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người lao động…kết quả là mỗi năm tỉnh đã giải quyết việc làm cho từ 50 đến 52 ngàn lượt người. Tuy nhiên, tình trạng việc làm nói chung ở Nam Định vẫn còn rất nhiều khó khăn cần quan tâm giải quyết: tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn lớn, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao, số người không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn lớn… Để thuận lợi trong việc phân tích, lực lượng lao động có thể được phân thành 2 loại: lực lượng lao động có việc làm thường xuyên và lực lượng lao động không có việc làm thường xuyên. 3.1.Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên: Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định cũng như của đồng bằng sông Hồng và cả nước luôn tăng lên về số tuyệt đối, nhưng về tỷ lệ chiếm trong tổng số lực lượng lao động lại có xu hướng giảm , tốc độ giảm của Nam Định là chậm hơn cả, mặc dù vậy, tỷ lệ này của Nam Định vẫn luôn thấp hơn khu vực đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước Biểu 6 : Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên . 1997 2001 NĐ ĐBSH Cả NĐ ĐBSH Cả nước nước 19
- -LLLĐ có VL thường 891 6.945 34.716 912 7.222 35.736 xuyên (ngàn người) -So với tổng số LLLĐ 90,7 93,4 95,6 90,1 93,1 94,4 (%) Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên trong tổng lực lượng lao động của Nam Định luôn thấp hơn tỷ lệ chung của khu vực và cả nước như trên phản ánh mọt thực tế là lực lượng lao động của Nam Định có nhu cầu làm thêm lớn hơn bình quân chung của khu vực và cả nước. Trong lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định, số người trong độ tuổi lao động chiếm chủ yếu và có xu hướng tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỷ lệ so với tổng số. Chỉ số này năm 1997 là 819 ngàn người, chiếm 91,9% , đến năm 2000 đã có 907 ngàn người, chiếm 92,6%. Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định nằm ở khu vực nông thôn là chính, chiếm từ 87 đến 90% tổng số: Biểu 7: Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo khu vực Số lượng (người) Tốc độ phát triển (%) Cơ cấu (%) BQ 1998 1999 2000 99/98 2000/99 1998 1999 2000 năm Có việc làm TX 924.617 907.320 978.804 98,13 107,88 103,16 100 100 100 - Thành thị 117.320 107.553 118.337 91,67 110,03 100,86 12,69 11,85 12,09 - Nông thôn 807.297 799.767 860.467 99,07 107,59 103,50 87,31 88,15 87,91 Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên có thể chia theo nhóm ngành kinh tế, theo đó tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm, lao động làm việc trong nhóm ngành công nghiệp- xây 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề Tài: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
104 p | 1717 | 315
-
Tiểu luận triết học - Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Na
18 p | 612 | 193
-
Tiểu luận về 'Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ'
21 p | 302 | 68
-
Tiểu luận KTCT: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
19 p | 184 | 35
-
LUẬN VĂN: Những cơ sở lý luận của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam
40 p | 142 | 24
-
LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận cho việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
18 p | 120 | 23
-
Tiểu luận Triết học số 13 - Cơ sở lý luận về chuyển đổi về nền kinh tế thị trường
17 p | 236 | 20
-
Đề tài: Cơ sở lý luận cho việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
18 p | 135 | 15
-
Luận văn tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phòng, chống người chưa thành niên phạm tội của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
181 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công: Cơ sở lý luận và thực tiễn về định biên đối với cơ quan bộ ở Việt Nam hiện nay
27 p | 63 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Cơ sở lý luận và thực tiễn về định biên đối với cơ quan Bộ ở Việt Nam hiện nay
230 p | 47 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất những nội dung cơ bản của phương án quy hoạch quản lý sử dụng bền vững tài nguyên rừng tại Công ty Lâm nghiệp Mai Sơn Bắc Giang
121 p | 18 | 5
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phòng, chống người chưa thành niên phạm tội của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
27 p | 72 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất quy hoạch phát triển lâm nghiệp thành phố Sơn La tỉnh Sơn La
139 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp huyện Đoan Hùng - tỉnh Phú Thọ
80 p | 21 | 3
-
Luận án tiến sĩ: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
192 p | 55 | 3
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
27 p | 47 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn