ĐÁNH GIÁ ĐIỀU TRỊ GÃY CỔ PHẪU THUẬT XƯƠNG CÁNH TAY<br />
DI LỆCH BẰNG CHÙM KIM KIRSCHNER NỘI TỦY KÍN<br />
NGƯỢC DÒNG DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG<br />
Nguyễn Việt Trung*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Phương pháp điều trị gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay di lệch bằng nắn kín và xuyên chùm kim<br />
Kirschner ngược dòng dưới màn tăng sáng với vị trí xuyên kim ngay dưới chỗ bám tận của cơ đen-ta. Với<br />
vật liệu là kim Kirschner rẻ tiền, dễ tìm. Vị trí xuyên kim ngay dưới chỗ bám tận của cơ đen-ta, vị trí này<br />
xung quanh không có những cấu trúc quan trọng, gần ổ gãy dễ thao tác khi bộc lộ và luồn kim.<br />
Nghiên cứu: Mô tả tiền cứu, theo dõi trên 35 bệnh nhân gãy cổ phẫu thuật 2 phần theo Neer, nắn kín<br />
và xuyên kim thành công. Thời gian theo dõi trung bình 26,4 tháng.<br />
Kết quả: Lành xương tốt 86% (30/35 trường hợp), phục hồi chức năng tốt 83,2% (29/35 trường hợp),<br />
can lệch 4 trường hợp (11,2%), 1 trường hợp hoại tử chỏm chiếm tỷ lệ 2,8%.<br />
Bàn luận: Phương pháp điều trị gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay di lệch bằng nắn kín và xuyên<br />
chùm kim Kirschner ngược dòng dưới màn tăng sáng với vị trí xuyên kim ngay dưới chỗ bám tận của cơ<br />
đen-ta, phù hợp với điều kiện nước ta với vật liệu kim Kirschner dễ tìm, vị trí xuyên kim thuận lợi, ít biến<br />
chứng và cho kết quả tương đương với các phương pháp khác.<br />
Từ khóa: Nội tủy ngược dòng.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE DISPLACED HUMERAL SURGICAL NECK FRACTURES: CLOSED REDUCTION<br />
AND FIXATION WITH RETROGRADE INTRAMEDULLARY BUNDKE –<br />
KIRSCHNER WIRES WITH C.ARM<br />
Nguyen Viet Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 – 2009: 201- 207<br />
Background: There are two techniques of treatment of the displaced humeral surgical neck fractures:<br />
closed reduction and retrograde intramedullary bundle- Kirschner wires with C. Arm. The main material is<br />
Kirschner wires which is cheap and easy to buy. The inserted position of the wires is under the inserted Delta<br />
muscle position. This position has no important structure nearby, and is near the breaking. Therefore, it is<br />
easy to be exposed to insert Kirschner wires.<br />
Study method: This study was a clinical trials. Thirty-five patients with displaced humeral surgical<br />
neck fractures according to Neer’s classification, were followed up. The treatment with closed reduction and<br />
inserted K-wires were successfull. The average time of following is 26,4 months. There were 86% (30 of 35<br />
patients) of good results, 83,2% (29 of 35 patients) of good rehabilitations.<br />
Discussion: The treatment of displaced humeral surgical neck fractures by closed reduction and<br />
fixation with retrograde intramedullary bundke – kirschner wires with c.arm with the inserted position of<br />
the wires under the inserted Delta muscle position are suitable for Vietnam condition. Because K-wire is easy<br />
to find and the inserted position is advantageous. These techniques have less complication and can yield good<br />
results as other techniques.<br />
Keywords: retrograde intramedullary bundke,kirschner wires.<br />
*Khoa Chấn Thương Chỉnh Hình, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định<br />
Địa chỉ liên lạc: BS Nguyễn Việt Trung ĐT: 0908.357.604 Email: trungctch@yahoo.com<br />
<br />
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009<br />
<br />
201<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay, chiếm 60% trong gãy xương đầu trên xương cánh<br />
tay, 80% các trường hợp là gãy không di lệch, điều trị bảo tồn cho kết quả tốt, 20% còn lại là<br />
loại gãy di lệch, điều trị bằng phương pháp phẫu thuật.<br />
Mổ nắn và cố định xương bên trong cho phép nắn xương chính xác và cố định xương<br />
cứng nhắc, nhưng gây tổn thương mô mềm xung quanh và có nhiều nguy cơ tổn thương<br />
các mạch máu nuôi chỏm, dễ gây ra các biến chứng như nhiễm trùng, cứng khớp vai, hoại<br />
tử chỏm…<br />
Khuynh hướng hiện nay trên thế giới, quan điểm về xâm nhập tối thiểu và cố định<br />
xương vững chắc sinh học mềm dẻo đang rất được quan tâm. Nắn kín và cố định xương tối<br />
thiểu hạn chế được những nguy cơ tổn thương mô mềm của phương pháp mổ hở. Có nhiều<br />
phương pháp điều trị gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay bằng nắn kín và cố định xương<br />
mềm dẻo đã được nghiên cứu và được chấp nhận như đinh Hakethal, đinh Ender, đinh<br />
Ender ngược dòng, đinh Rush, xuyên đinh qua da, đinh nội tủy có chốt, đinh nội tủy mềm<br />
dẻo, néo ép.<br />
Tuy nhiên, các phương pháp nắn kín và cố định tối thiểu trên còn tồn tại một số những<br />
khó khăn hạn chế khi áp dụng trên thực tế tại Việt nam, cụ thể: về vật liệu sử dụng thường<br />
là những đinh chuyên dụng khó tìm như đinh Hakethal, đinh Ender…và một số loại đinh<br />
không có ở Việt Nam. Về kỹ thuật, vị trí xuyên kim sử dụng ở phía trên phải xuyên qua cơ<br />
Delta, gân cơ trên gai dễ làm tổn thương những cơ quan này đưa đến đau khi vận động và<br />
hạn chế vận động khớp vai. Ở vị trí trên hố đầu khuỷu thì bệnh nhân phải nằm sấp, khó<br />
thao tác, đồng thời vị trí xuyên kim xa ổ gãy. Đối với vị trí trên mõm trên lồi cầu và mõm<br />
trên ròng rọc, vị trí xa ổ gãy, sau xuyên kim thì kim nằm ngay sát dưới da dễ gây đau, lộ<br />
đầu đinh và nhiễm trùng chân đinh.<br />
Với phương pháp xuyên kim qua da, với kỹ thuật dễ thao tác nhưng đinh sử dụng là<br />
đinh Schanz khó tìm, và vị trí xuyên kim đi ngang qua cơ đen-ta vào vùng cổ phẫu thuật, có<br />
khả năng tổn thương các cấu trúc như mạch máu và thần kinh, đồng thời gây đau cho bệnh<br />
nhân khi vận động.<br />
Phương pháp điều trị bằng nắn kín và xuyên chùm kim Kirschner ngược dòng dưới<br />
màn tăng sáng với vị trí xuyên kim ngay dưới chỗ bám tận của cơ đen-ta. Với mục đích<br />
tìm giải pháp khắc phục một số nhược điểm của các phương pháp trên và dễ ứng dụng<br />
ở điều kiện Việt Nam. Vật liệu là kim Kirschner rẻ tiền, dễ tìm. Vị trí xuyên kim ngay<br />
dưới chỗ bám tận của cơ đen-ta, vị trí này xung quanh không có những cấu trúc quan<br />
trọng, gần ổ gãy dễ thao tác khi bộc lộ và luồn kim.<br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
Mục tiêu tổng quát<br />
Đánh giá kết quả phương pháp điều trị gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay bằng phương<br />
pháp nắn kín và xuyên chùm kim Kirschner nội tủy kín ngược dòng dưới màn tăng sáng có<br />
vị trí xuyên kim dưới chỗ bám tận cơ đen-ta.<br />
Mục tiêu chuyên biệt<br />
<br />
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009<br />
<br />
202<br />
<br />
Xác định khả năng nắn và xuyên kim thành công.<br />
Đánh giá độ vững chắc của phương pháp chùm kim: sự phục hồi giải phẫu, di lệch thứ<br />
phát, sự liền xương.<br />
Đánh giá sự phục hồi chức năng.<br />
Biến chứng của phương pháp.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Đối Tượng Nghiên Cứu<br />
Các bệnh nhân gãy kín vùng cổ phẫu thuật xương cánh tay do chấn thương được phân<br />
loại gãy 2 phần theo phân loại của NEER, có di lệch (di lệch >1cm hoặc gập góc > 45o), được<br />
điều trị tại Khoa Chấn Thương Chỉnh Hình Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 04 năm<br />
2004 đến tháng 04 năm 2008.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Bệnh nhân gãy kín vùng cổ phẫu thuật xương cánh tay loại gãy 2 phần theo phân loại<br />
của NEER do chấn thương, có di lệch (di lệch > 1 cm, gập góc > 45o) do chấn thương.<br />
- Tuổi từ 15 trở lên.<br />
- Thời gian đến sớm trước 2 tuần sau chấn thương.<br />
- Bệnh nhân đồng ý hợp tác nghiên cứu.<br />
- Bệnh nhân không có các chống chỉ định phẫu thuật như bệnh lý nội khoa (bệnh tim<br />
mạch, hô hấp, suy kiệt…).<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Bệnh nhân không tái khám và theo dõi đánh giá.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Mô tả tiền cứu cắt dọc, xử lý số liệu<br />
Tổng kết và đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá của NEER.<br />
Thống kê các số liệu theo phần mềm tin học Exel, SPSS 10.0.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Tư liệu<br />
Về tư liệu nghiên cứu, từ tháng 4 năm 2004 đến tháng 4 năm 2008 tại Khoa Chấn<br />
Thương Chỉnh Hình Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, thực hiện mổ với phương pháp nắn<br />
kín và xuyên chùm kim Kirschner nội tủy với màn tăng sáng cho 41 trường hợp. Trong đó,<br />
có 2 trường hợp nắn kín thất bại phải chuyển sang phương pháp mổ hở để nắn xương, 4<br />
trường hợp bệnh nhân ở xa không tái khám và theo dõi đúng hẹn nên loại ra khỏi nghiên<br />
cứu. Số bệnh nhân được theo dõi trong nghiên cứu là 35 trường hợp. Thời gian theo dõi dài<br />
nhất 48 tháng, ngắn nhất 6 tháng, thời gian theo dõi trung bình 26,4 tháng.<br />
<br />
Kết quả về mặt kỹ thuật<br />
Số ca mổ thất bại phải chuyển phương pháp: trong các trường hợp phẫu thuật, có 2<br />
trường hợp nắn kín thất bại, phải chuyển mổ hở để nắn xương, 1 trường hợp do gãy<br />
xương đến muộn vào 14 ngày ổ gãy đã có mô xơ dính liền các mãnh gãy, 1 trường hợp<br />
có mô mềm chèn giữa ổ gãy.<br />
<br />
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009<br />
<br />
203<br />
<br />
Bảng 1: Khả năng nắn xương kín<br />
Khả năng nắn xương kín<br />
Thành công<br />
Thất bại<br />
Tổng số<br />
<br />
Số lượng<br />
39<br />
2<br />
41<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
95,2%<br />
4,8%<br />
<br />
Biến chứng sau mổ: chúng tôi gặp 3 trường hợp di lệch thứ phát sau khi xuyên kim<br />
chiếm 8,4%, và 2 trường hợp di chuyển kim chiếm 5,6%.<br />
<br />
Kết quả về sự vững chắc của phương pháp kết hợp xương<br />
Di lệch xương trong quá trình điều trị là 4 trường hợp chiếm 11,2%. Trong đó, di lệch<br />
gập góc 1 trường hợp, di lệch sang bên 1 trường hợp, và chồng ngắn là 2 trường hợp.<br />
<br />
Kết quả liền xương<br />
Lành xương tốt 30 trường hợp (86%), can lệch 4 trường hợp (11,2%), 1 trường hợp hoại<br />
tử chỏm chiếm tỷ lệ 2,8%. Thời gian lành xương trung bình là 5,2 tuần.<br />
<br />
Kết quả phục hồi giải phẫu<br />
Kết quả phục hồi giải phẫu đánh giá tốt chiếm tỷ lệ 86% (30 trường hợp), khá 5,6% (2<br />
trường hợp), trung bình 5,6% (2 trường hợp), xấu 2,8% (1 trường hợp).<br />
- Tốt: khi lành xương tốt không can lệch.<br />
- Khá: lành xương nhưng can lệch nhỏ hơn 1cm hay 45o.<br />
- Trung bình: lành xương nhưng can lệch lớn hơn 1cm hay 45o.<br />
- Xấu: không lành xương, hoại tử chỏm.<br />
<br />
Kết quả điều trị sau cùng<br />
Kết quả sau cùng được đánh giá theo bảng thang điểm của Neer, thang điểm này với<br />
điểm 100 được đánh giá như sau: tốt > 89 điểm, khá 80 – 89 điểm, trung bình 70 – 79 điểm,<br />
xấu- thất bại < 70 điểm.<br />
- Tốt: chiếm 83,2% (29 trường hợp).<br />
- Khá 11,2% (4 trường hợp).<br />
- Trung bình 2,8% (1 trường hợp).<br />
- Xấu 2,8% (1 trường hợp).<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Khả năng nắn xương kín thành công<br />
Khả năng nắn xương kín thành công phụ thuộc vào các yếu tố sau: kỹ thuật nắn xương<br />
và thời điểm tiến hành nắn xương. Trong nhóm nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận kết quả<br />
trong 41 trường hợp nắn xương kín dưới màn tăng sáng thì có 39 trường hợp nắn thành<br />
công (95,2%), 2 trường hợp thất bại (4,8%) phải chuyển sang phương pháp mổ hở nắn<br />
xương. Từ kết quả này, chúng tôi có nhận xét: Ở những bệnh nhân đến sớm trước 1 tuần,<br />
khi ổ gãy xương còn mới không có các mô xơ dính các mãnh gãy và vùng gãy xương còn ít<br />
sưng nề thì dễ nắn thành công, những bệnh nhân đến muộn sau 10 ngày giữa ổ gãy đã hình<br />
thành các mô xơ dính liền các phần xương gãy thì nắn khó khăn hơn và có khả năng nắn<br />
xương thất bại. Trong trường hợp có mô mềm chèn giữa các mãnh gãy nắn xương kín thất<br />
<br />
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009<br />
<br />
204<br />
<br />
bại, chúng tôi chuyển phương pháp mổ hở để nắn xương, trong nghiên cứu này có 1 trường<br />
hợp (2,4%).<br />
<br />
Vị trí xuyên kim<br />
Chúng tôi chọn vị trí xuyên kim là dưới lồi củ Đen-ta, dưới chỗ bám tận của cơ Đen-ta<br />
vách gian cơ ngoài tương đương với vị trí 1/3 giữa ngoài cánh tay, với lý do:<br />
- Ở vị trí này xương nằm ngay sát dưới lớp mô mỡ dưới da, nên dễ bộc lộ<br />
- Vị trí ngay giữa vách gian cơ ngoài nên khi bộc lộ không gây tổn thương nhiều<br />
các mô mềm.<br />
- Không có nhiều cấu trúc quan trọng xung quanh.<br />
<br />
Kết quả về sự vững chắc của phương pháp kết hợp xương<br />
Để khảo sát về sự vững chắc của phương pháp kết hợp xương, sau khi xuyên kim kiểm<br />
tra dưới màn tăng sáng hình ảnh tỉnh và động, kết quả X quang sau mổ và kết quả X quang<br />
trong những lần tái khám suốt quá trình điều trị cho đến khi xương lành.<br />
Kết quả ngay sau mổ chỉ có 3 trường hợp có di lệch thứ phát (8,4%) (1 di lệch gập góc, 1<br />
chồng ngắn, 1 sang bên). Trong suốt quá trình điều trị, chỉ có 4 trường hợp có di lệch thứ<br />
phát (11,2 %) (gồm cả 3 trường hợp di lệch sau mổ), đây là những kiểu di lệch chấp nhận<br />
được.<br />
<br />
Theo dõi biến chứng của phương pháp xuyên kim<br />
Trong nhóm nghiên cứu, chúng tôi chỉ ghi nhận có 2 trường hợp là có biến chứng di<br />
chuyển kim, chiếm tỷ lệ 5,6%. Và cả 2 trường hợp này kim đều di chuyển lên phía trên,<br />
không ghi nhận trường nào gãy kim, các biến chứng khác như chảy máu vết mổ, tổn<br />
thương mạch máu và thần kinh, nhiễm trùng chân kim, đau vết mổ, sẹo xấu vết mổ.<br />
<br />
Kết quả liền xương<br />
Kết quả liền xương, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân liền xương cao. Trong đó, liền<br />
xương tốt là 31 trường hợp chiếm tỷ lệ 88,8%, 3 trường hợp lành xương nhưng can lệch tỷ<br />
lệ 8,4%, 1 trường hợp có hoại tử chỏm xương cánh tay. Thời gian lành xương từ 4 – 6 tuần,<br />
thời gian lành xương trung bình là 5,2 tuần.<br />
Nhận xét, kết quả bước đầu cho thấy phương pháp này áp dụng cho loại gãy cổ phẫu<br />
thuật xương cánh tay có di lệch cho kết quả cao. Thời gian lành xương nhanh chóng, điều<br />
này có thể giải thích vì can thiệp tối thiểu, bảo tồn các mô xung quanh giúp bảo vệ nguồn<br />
cung cấp máu nuôi.<br />
<br />
Kết quả phục hồi chức năng<br />
Về kết quả phục hồi chức năng, chúng tôi sử dụng đánh giá theo bảng thang điểm của<br />
NEER. Kết quả chúng tôi ghi nhận tốt 29 trường hợp chiếm tỷ lệ 83,2%, khá 3 trường hợp<br />
chiếm tỷ lệ 8,4%, trung bình 2 trường hợp 5,6%, xấu 1 trường hợp 2,8%.<br />
Việc tập vật lý trị liệu - phục hồi chức năng có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phục hồi<br />
chức năng của bệnh nhân. Ở nhóm nghiên cứu chúng tôi cho bệnh nhân tập ngay khi bệnh<br />
nhân hết đau sau mổ bằng cách tập gồng cơ và tập vận động thụ động sớm, tập chủ động<br />
các khớp liền kề như khớp khuỷu. Sau 2 tuần có thể cho bệnh nhân tháo đai vải Desault để<br />
tập vận động thụ động và chủ động khớp vai.<br />
<br />
Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Nhân dân Gia Định 2009<br />
<br />
205<br />
<br />