intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề án Chính sách thương mại: Hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt nam

Chia sẻ: Hanh Duong | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:54

134
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của đề án Chính sách thương mại: Hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt nam trình bày về tổng quan về chính sách phát triển logistics ở Việt Nam; thực trạng chính sách phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay; giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển logistics ở Việt Nam. Mời các bạn tham khảo đề án để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề án Chính sách thương mại: Hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt nam

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS   Ở VIỆT NAM Giảng viên hướng  : GS­TS Đặng Đình Đào dẫn Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Linh Mã số sinh viên : CQ532224 Lớp : QTKDTM53B  
  2. 2    Hà Nội, tháng 8 năm 2014 Mục lục LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, phát triển dịch vụ Logistics một cách hiệu quả  sẽ  góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế  và quốc gia.Trong xu   thế toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế  giới ngày càng trở  nên gay gắt, khốc liệt hơn.Điều này đã làm cho dịch vụ  Logistics trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Những nước  
  3. 3 kết nối tốt với mạng lưới dịch vụ Logistics toàn cầu thì có thể tiếp cận được  nhiều thị trường và người tiêu dùng từ các nước trên thế giới.Chẳng hạn như:  Chi lê ­ một nước mặc dù ở  cách xa hầu hết các thị  trường lớn, nhưng lại có  vai trò rất lớn trong thị  trường lương thực thế giới, cung cấp cá tươi và hoa   quả  khó bảo quản cho người tiêu dùng  ở  Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Đối  với những nước không có khả năng kết nối này, chi phí Logistics sẽ rất cao và   ngày càng gia tăng, khả  năng mất cơ  hội cũng rất lớn, nhất là những nước   nghèo nằm sâu trong đất liền, mà phần lớn là ở Châu Phi. Phát triển dịch vụ Logistics sẽ đem lại nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh  tế.Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả  của   quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công  nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như  Mỹ  và Nhật Logistics đóng góp khoảng 10% GDP.Đối với những nước kém phát  triển thì tỷ  lệ  này có thể  cao hơn 30%.Sự  phát triển dịch vụ  Logistics có ý   nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được  đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ  mang lại khả  năng giảm được chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Với quy mô 20­22 tỷ  USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước, những   năm gần đây, ngành dịch vụ  Logistics đang đóng vai trò quan trọng trong quá   trình hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam.Theo Hiệp hội Doanh nghiệp   dịch vụ Logistics, cả nước hiện có khoảng 1.200 doanh nghiệp cung cấp dịch   vụ logistis, chủ yếu về dịch vụ giao nhận vận tải, kho bãi, bốc dỡ, đại lý vận  tải,... tập trung  ở khu vực Thành phố  Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ngoại trừ  các  doanh nghiệp Nhà nước đang được cổ  phần hóa, hầu hết các doanh nghiệp   này có quy mô vừa và nhỏ, vốn điều lệ bình quân từ 4­6 tỷ đồng, tỷ lệ nguồn   nhân lực được đào tạo bài bản về Logistics còn chiếm khá thấp, chỉ từ 5­7%. Với quy mô và tiềm năng phát triển thị  trường như  vậy, tuy nhiên hệ  thống chính sách phát triển Logistics của nước ta vẫn chưa được quan tâm  thích đáng. Do vậy, việc nghiên cứu chính sách từ  đó rút ra những điểm còn   bất cập để  đưa ra các biện pháp hoàn thiện chính sách phát triển Logistics là  
  4. 4 điều rất cần thiết. Để đảm bảo sự phát triển bên vững Logistics Việt Nam nói  riêng cũng nhưng toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung.
  5. 5 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS   Ở VIỆT NAM I. Logistics và chính sách phát triển Logistics tích ở Việt Nam 1. Bản chất,tiềm năng của Logistics ở Việt Nam 1.1 Khái quát quá trình phát triển: Logistics hoàn toàn không phải là khái niệm quá xa lạ cho dù một thực tế  là cũng không phải nhiều người am hiểu sâu sắc về  vấn đề  này. Logistics đã  xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Cho đến nay ở nước ta  vẫn chưa tìm được thuật ngữ  thống nhất, phù hợp để  dịch từ  Logistics sang  tiếng Việt. Có tài liệu dịch là hậu cần, có tài liệu dịch là tiếp vận hoặc tổ  chức cung ứng, đảm bảo,thậm chí là giao nhận… Tuy nhiên, có thể thấy rằng  tất cả các dịch vụ đó đều chưa thỏa đáng, chưa phản ánh đúng đắn và đầy đủ  bản chất của Logistics. Vì vậy, giữa nguyên thuật ngữ Logistics như trong luật  Thương mại 2005 là cần thiết, không dịch sang tiếng Việt và bổ  sung thuật  ngữ này vào vốn từ tiếng Việt của chúng ta. Ngày nay, Logistics đã hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của  nền kinh tế,nhanh chóng phát triển và mang lại thành công cho rất nhiều công  ty và tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế  giới như:APL, Mitsui OSK, Maersk   Logistics, NYK Logistics….Tuy nhiên một điều thực tế là Logistics được phát  minh và  ứng dụng đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là   trong lĩnh vực quân sự. Napoleon đã từng định nghĩa: “ Logistics là hoạt động  để duy trì lực lượng quân đội”. Logisticsđược các quốc gia ứng dụng rất rộng  rãi trong hai cuộc đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với  một   khối   lượng   lớn   vũ   khí   và   đảm   bảo   hậu   cần   cho   lực   lượng   tham   chiến.Hiệu quả  của hoạt  động Logistics là yếu tố  có tác động rất lớn tới   thành bại trên chiến trường.Cuộc đổ  bộ  thành công của quân đồng minh vào  rừng Normandie tháng 6/1944 chính là nhờ  vào sự  nỗ  lực của khâu chuẩn bị  hậu cần và quy mô của các phương tiện hậu cần được triển khai.
  6. 6 Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, các chuyên gia Logistics   trong quân dội đã áp dụng các kỹ  năng Logistics của họ  trong hoạt động tái  thiết kinh tế thời hậu chiến.Đây cũng là lúc hoạt động Logistics trong thương  mại lần  đầu tiên được  ứng dụng và triển khai.trước  năm 1950, công việc  Logistics chỉ  đơn thuần là một hoạt động chưacs năng đơn lẻ. trong khi các   lĩnh vực Marketing, quản trị  sản xuất đã có những chuyển biến lớn thì vẫn  chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị Logistics một cách hiệu  quả. Sự  phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ  và quản lý cuối thế  kỷ  XX đã tạo cho  Logistics bước phát triển mới, có thể  nói đó là giai đoạn   phục hưng của Logistics( Logistics renaissance). Trong lịch sử  Việt Nam hai   người đầu tiên  ứng dụng thành công Logistics trong hoạt động quân sự  chính  là Vua Quang Trung­ Nguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc   đại  phá  quân Thanh{1789)  vÀ  sau đó  là  Đại  tướng  Võ  Nguyên Giáp trong  chiến dịch Điện Biên Phủ(1954) và chiến dịch giải phóng Miền Nam thống   nhất đất nước­ Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh(1975) Trong lịch sử phát triển, Logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh  vực Kinh doanh, nếu giữa thế kỉ XX rất hiếm công ty hiểu được Logistics là  gì thì đến cuối thế kỉ, Logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ  yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong   khu vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ. Theo Ủy ban Kinh tế và xã hội Châu Á­Thái Bình Dương( Economic and   social commission for Asia and the Pacific – ESCAP), Logistics phát triển qua 3  gia đoạn­ Phân phối vật chất, Hệ thống Logistics và Quản trị Logistics. - Giai đoạn phát triển hệ  thống phân phối sản phẩm vật chất(Phisycal  distribution) và những năm 60­70 của thế  kỷ  XX, Logisticslà hoạt động cung  ứng sản phẩm vật chất hay còn gọi là Logistics đầu ra.Logistics đầu ra là   quản lý một cách có hệ  thống các hoạt động liên quan đến nhau để  đảm bảo   cung cấp sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng một các hiệu quả. - Giai đoạn phát triển hệ  thống Logistics( Logistics System): Vào những  năm 80­ 90 của thế kỷ XX, Hoạt động Logistics là sự  kết hợp cả  2 khâu đầu 
  7. 7 vào( Cung  ứng vật tư) và đầu ra( Tiêu thụ  sản phẩm) để  tiết kiệm chi phí,  tăng hiệu quả. Đây gọi là “quá trình Logistics”. - Giai đoạn quản trị quá trình cung ứng ­ Quản trị Logistics( Supply chain   manangement): Đây là giai đoạn phát triển của Logistics vào những năm cuối  thế  kỷ  XX. Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về  quản trị  chuỗi   cung   ứng(Council   of   Supply   Chain   Manangement   Professionals   –   CSCMP):” Quản trị  Logistics là một phần của quản trị  chuỗi cung  ứng bao   gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự  trữ  hiệu   quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ  nơi sản xuất đến   nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Hoạt động quản trị Logistics   cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho   bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế  mạng lưới Logistics, quản   trị tồn kho,hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một   số  mức độ  khác nhau, các chức năng của Logistics cũng bao gồm việc tìm  nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ  khách hang. Quản trị  Logistics là chức năng kết hợp và tối  ưu hóa tất cả  các hoạt động Logistics  cũng như phối hợp hoạt động Logistics với các chức năng như Marketing, kinh   doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin”. Ngoài ra, người ta có thể  chia quá trình phát triển Logistics thành 5 giai  đoạn:   Logistics   tại   chỗ   (Workplace   Logistics);   Logistics   cơ   s ở   s ản   xuất   (Facility Logistics);  Logistics  công ty (  Corporate   Logistics);  Logistics  chuỗi   cung ứng (Supply chain Logistics); Logistics toàn cầu (Global Logistics) ( xem   sơ đồ 1)
  8. 8 Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về giai đoạn tiếp theo của Logistics.  Nhiều nhà kinh tế  cho rằng, Logistics hợp tác (collaborative Logistics) sẽ  là   giai đoạn tiếp theo và nó được kết hợp trên hai khía cạnh­ không ngừng tối ưu   hóa thời gian thực hiện với công việc liên kết tất cả  các thành phần tham gia  chuỗi cung ứng. 1.2 Khái niệm Tuy thuật ngữ Logistics đã được thế giới sử dụng phổ biến trong suốt thời  gian dài, nhưng tại Việt Nam thì thuật ngữ này còn khá mới mẻ. Trên thế giới   hiện nay, Logistics  được biết đến với những khái niệm chủ yếu: - Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: “Logistics là hoạt  động quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất   thành phẩm xử lý các thông tin liên quan v.v... từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ  cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.” - Theo Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình lập   kếhoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di  chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với   nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương   ứng từ  giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng   cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.”
  9. 9 - Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ  Logistics (CLM) quốc tế  (Hội đồng   này thiết lập các nguyên tắc, thể lệ, nội dung mà các doanh nghiệp cung cấp  dịch vụ  Logistics các nước thường áp dụng và chịu quy chế  của Hội đồng   này): “Logistics là một phần của quá trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập   kế  hoạch, tổ  chức thực hiện, kiểm soát hiệu quả, lưu thông hiệu quả  và lưu   giữ các loại hàng hoá, dịch vụ và có liên quan đến thông tin từ điểm cung cấp   cơ bản đến các điểm tiêu thụ để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng”. - Theo Ngân hàng thế  giới (WB): “Logistics liên quan đến việc quản lý  dây chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải  nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các  phương thức vận tải và các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại .” - Pháp luật Việt Nam Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 (thay thế  cho khái niệm “dịch vụ giao nhận hàng hóa” của Luật Thương mại năm 1997)   định nghĩa: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân  tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển,   lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách  hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên   quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ  Logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ Logistics”. Qua các định nghĩa trên cho thấy, Logistics không phải là một dịch vụ  đơn lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ  về  giao nhận hàng hóa như:   làm các thủ  tục giấy tờ, tổ  chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu   kho, lưu bãi, phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ  khác nhau. Chính vì vậy, nói tới Logistics người ta bao giờ  cũng nói tới một   chuỗi hệ thống dịch vụ (Logistics system chain).Logistics chính là quá trình tối  ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và  tiêu dùng. Cho đến nay, Logistics chưa được dịch sang tiếng việt. Nên thuật ngữ  này được dùng như  một từ  mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm  
  10. 10 chung thống nhất và nó bao gồm nhiều loại hình dịch vụ  các cách dịch đều  chưa thỏa đáng, chưa thể hiện được đầy đủ nhất nội dung của nó. 1.3 Vai trò của Logistics Nghành Logistics có vị  trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế  hiện   đại và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn  cầu. Phần giá trị gia tăng do nghành Logistics tạo ra ngày càng lớn và tác động  của nó thể hiện rõ dứoi những khía cạnh dưới đây: - Logistics là công cụ  liên kết các hoạt động kinh tế  trong một quốc gia   và toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối, mở  rộng thị trường sự phân phối sản phẩm từ các nguồn ban đầu đến nơi tiêu thụ  trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng trong GDP ở mỗi quốc gia. - Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu   vào đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng hỗ trợ sự di chuyển   và dòng chảy của nhiều hoạt động quản lý hiệu quả, tó tạo thuận lợi trong   việc bán hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. - Tiết kiệm và giảm chi phí trong lưu thông phân phối: tiết kiệm tối đa về  thời gian tiền bạc các quá trình lưu thông phân phối trong nền kinh tế . - Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn  thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và  vận tải quốc tế giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận lợi, suôn   sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung  ứng kịp thời, phân phối  chính xác, chứng từ tiêu chuân, thông tin rõ ràng.. - Logistics nâng cao hiệu quả  quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình   sản xuất, tăng cường cạnh tranh cho doanh nghiệp giúp phối hợp các biến số  marketing­mix, gia tăng sự  hài lòng của khách hàng,trực tiếp làm giảm chi  phí, gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn. - Logistics tạo ra giá trị  gia tăng về  thời gian và địa điểm góp phần tạo ra  tính hữu ích về thời gian và địa điểm cho sản phẩm, nhờ đó mà sản phẩm có  thể đến đúng vị trí cần thiết vào thời điểm thích hợp.
  11. 11 - Logistics cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả  đến khách hàng sẽ  tạo điều kiện để  đưa hàng hóa đến nơi khách hàng yêu  cầu  nhanh nhất với  chi  phí  thấp,   cho  phép doanh nghiệp  thực   hiện  hiệu  quảcác hoạt động của mình. - Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt  động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp có   thể   giúp   cho   việc   bán   hàng   ở   mức   chi   phí   thấp   hơn   nhờ   vào   hệ   thống  Logistics hiệu quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do   dó tạo ra uy tín. 1.4 Tiềm năng vủa Logistics ở Việt Nam Sự  phát triển của các ngành kinh tế  trong những năm qua, trong đó tăng  trưởng của ngành xuất nhập khẩu (XNK)  đang tạo ra  những  động lực  và  thuận lợi rất lớn cho ngành Logistics Việt Nam. Đó là ý kiến của đa số các chuyên gia tại "Diễn đàn Logistics Việt Nam"  lần thứ  nhất năm 2013 với chủ  đề  “Nâng cao năng lực cạnh tranh từ  liên kết   các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với Logistics” do Bộ  Công Thương phối  hợp với Bộ  Giao thông vận tải tổ  chức ngày 15/11 tại Thành phố  Hồ  Chí   Minh.   Ông   Đỗ   Xuân   Quang,   Chủ   tịch   Hiệp   hội   các   doanh   nghiệpdịch   vụ  Logistics   Việt   Nam   cho   biết,   hiện   nay   trên   cả   nước   có   hơn   1.200   doanh  nghiệpLogistics, tăng 20% so với năm 2010, tương đương với các nước Thái  Lan, Singapore và Indonesia. Trong số các công ty nội địa có khoảng 800 công  ty đang hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải và 70% là doanh nghiệptư  nhân đã thể  hiện những bước phát triển về  chất lẫn về  lượng. Ngoài ra, vài   năm gần đây, các doanh nghiệpLogistics nội địa đã tiến hành điều tư  chiều  sâu, triển khai các dịch vụ  Logistics trọn gói 3PL (intergrated Logistics), tham   gia   hầu   hết   vào   các   công   đoạn   Logistics   trong   chuỗi   cung   ứng   của   chủ  hàng.Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành dịch vụ và xác lập được uy   tín của các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước. Theo đánh giá Ngân hàng   Thế  giới (WB), tốc độ  phát triển Logistics của Việt Nam đạt 16­20%/năm so  với mức 12­15%/năm những năm 2010,2011. Theo ông Lê Xuân Sang, Viện 
  12. 12 Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương, ngành logistic Việt Nam có rất nhiều  lợi thế về địa lí và điều kiện tự nhiên. Với 3.260 km đường bờ biển, 4.639 km  đường biên giới nằm trong vùng chiến lược của Đông Nam Á sẽ là những đầu  tư  sẵn có của tự  nhiên cho các doanh nghiệpLogistics Việt Nam. Đặc biệt,  Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, 6 trung tâm Logistics tại 3 miền của đất  nước   như   Cái   Lân­   VOSA   (Quảng   ninh)   ,   Đình   Vũ   (Hải   Phòng),   Cát   Lái  (Thành phố Hồ Chí Minh), Cái Mép ­ Thị Vải (Vũng Tàu), trung tâm tiếp vận  Gemadept Sóng Thần, trung tâm kho vận đa năng DAMCO (Bình Dương). Bên  cạnh đó, Logistics của Việt Nam đang trong thời kỳ  đầu của quá trình phát  triển,   chính   vì   vậy   đây   cũng   là   điều   kiện   thuận   lợi   để   các   doanh   nghiệpLogistics Việt Nam thực hiện ngay từ đầu việc áp dụng các công nghệ  mới, các quy trình tiên tiến của thế giới trong việc xây dựng và phát triển dịch  vụ  của doanh nghiệpmình. Theo ôngTrần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục   Xuất Nhập khẩu ­ Bộ Công Thương, sự tăng trưởng của ngành XNK đang tạo   ra những tiềm năng to lớn cho ngành Logistics phát triển. Có tới 90% hàng   XNK của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển với khoảng 500­600   triệu   tấn/năm   vào   năm   2015   và   đạt   1.100   tấn   vào   năm   2020.   Lượng   hàng  container qua cảng biển Việt Nam đạt từ 4,2 – 5 triệu TEU, dự kiến đến năm  2020 con số  này lên đến 7,7 triệu TEU. Việc Việt Nam tham gia rrất nhiều   hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương sẽ tạo ra nhiều  tiềm năng to lớn và tăng vị  thế  của ngành Logistics trong khu vực và trên thế  giới. Tuy nhiên, theo ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương năng  lực cạnh tranh của ngành dịch vụ Logistics còn thấp, chi phí Logistics còn rất  cao. Các doanh nghiệpLogistics phần lớn có quy mô nhỏ  và vừa, vốn điều lệ  bình   quân   hiện   nay   khoảng   4­6   tỷ   đồng.Nguồn   nhân   lực   đào   tạo   bài   bản  chuyên ngành Logistics chỉ chiếm 5­7%. Vì vậy, trong thời gian tới, để  ngành  Logistics phát triển mạnh hơn nữa, các doanh nghiệpViệt phải nắm bắt và tận  dụng tối đa những tiềm năng của nền kinh tế  đang phát triển để  làm mạnh  ngành dịch vụ của mình. Trong quy hoạch mạng lưới phát triển Logistics thời  gian tới, tại miền Bắc sẽ hình thành 7 trung tâm Logistics hạng 1 và hạng 2 tại  
  13. 13 các vùng, tiểu vùng, hành lang kinh tế. Tại miền Trung ­Tây Nguyên hình  thành 6 trung tâm Logistics và miền Nam là 5 trung tâm Logistics. Thứ trưởng   Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, năm 2014 sẽ bắt đầu là thời kì mới   cho doanh nghiệpXuất nhập khẩu và ngành Logistics Việt Nam do sự  cạnh   tranh cao hơn, sàng lọc thị  trường nghiệt ngã hơn. Chính vì thế, bên cạnh sự  hỗ   trợ   của   Nhà   nước   và   các   cơ   quan   chứ   năng   hữu   quan,   các   doanh   nghiệpLogistics phải chủ  động nâng cao năng lực bản thân đồng thời nỗ  lực   vươn lên khẳng định vị  trí của mình  ở  thị  trường trong nước cũng như  thị  trường quốc tế. 2. Chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam 2.1 Khái quát Chính sách, môi trường pháp lý: Những năm qua, nước ta đang trong quá  trình hoàn thiện hệ  thống pháp luật và các bộ  luật. Dịch vụ  Logistics được  pháp  lý  hóa   lần   đầu   tiên   trong   Luật  Thương   mại   2005,   có   hiệu  lực   ngày   1/1/2006. Ngày 5/9/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 140/2007/NĐ­CP, quy   định  chi  tiết thi  hành Luật  Thương mại về   điều kiện  kinh  doanh dịch vụ  Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ  Logistics. Ngoài ra còn có Luật Hàng Hải, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh… Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 175/QĐ­TTg ngày 27/1/2011 về  việc phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam   đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ  chủ  yếu giai đoạn 2016­2020 có nhiệm  vụ  đó là:” Các lĩnh vực tiếp tục được tập trung phát triển gồm: công nghệ  thông tin và truyền thông, tài chính, lo­gi­stic, hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc   cao, chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và dịch vụ”. Ngoài ra còn có một số quyết định khác như  quyết định của Thủ  tướng  Chính phủ  số  35/2009/QĐ­TTg ngày 3/3/2009 về  việc phê duyệt điều chính  chiến lược phát triển Giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác  định một số mục tiêu phát triển đến năm 2020 về vận tải như:” đường biển:   chú trọng phát triển các loại tàu chuyên dụng như tàu container, tàu hàng rời cỡ  lớn, tàu dầu, tàu khí hóa lỏng, tàu Lash… trẻ hóa đội tàu biển đạt độ tuổi trung 
  14. 14 bình 12 năm vào năm 2020. Nghiên cứu phát triển tàu trở  khách cao cấp ven   biển và tàu khách du lịch.Đến năm 2020 đội tàu quốc gia có tổng trọng tải là  12÷14 triệu DWT.” Hay “Đường thủy nội địa: khu vực đồng bằng song Hồng,  sử dụng đoàn tàu kéo đẩy từ 1.200 ÷ 1.600T, tàu tự  hành đến 500T, tàu khách  50 ÷ 120 ghế; khu vực đồng bằng song Cửu Long, sử dụng tàu đẩy kéo 600 ÷  1.200T.tàu tự hành loại đến 500T và tàu 30 ÷ 100 ghế. Đối với các tuyến  ven   biển ngắn, sử dụng tàu tự  hành 500÷ 1.200T. Phát triển các phương tiện vận   tải chuyên dung (container, xi măng rời, xăng dầu…). Đến năm 2020, đội tàu  thủy nội địa có tổng trọng tải 10 ÷ 12 triệu tấn, tổng sức kéo 12 ÷ 13 triệu CV,  tổng sức chở 0,8 ÷ 1 triệu ghế khách”… Hay quyết định số 169/QĐ­TTg ngày   22/1/2014  của Thủ  tướng Chính phủ  “ Quyếtđịnh phê duyệt Đềán phát triển  dịch vụ  Logistics trong lĩnh vực giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020,   định hướng 2030” đã cóđưa nội dung và các giải pháp thực hiện về: kết cấu   hạ  tầng giao thông vận tải, phát triển các trung tâmphân phối hang hóa, nâng  cao năng lực doanh nghiệp dịch vụ  Logistics trong lĩnh vực giao thông vận   tải,phát triển nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế  và cuối cùng là xây dựng cơ  chế, chính sách hỗ trợ. Và   một   số   các   văn   bản   điều   chính   liên   quan   như:  Quyết   định   245/2005/QĐ­TTg ngày 6/10/2005”Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển  công nghệ  thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng   2020” trong đó có phần phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông liên quan  đến Logistics. Quyết định 2190/QĐ­TTg ngày 24/12/2009”Quyết định về việc  phê duyệt qui hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020,  định hướng đến năm 2030”  Quyết định 448/QĐ­TTg ngày 25/3/2011”Quyết  định về việc phê duyệt chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020”. Quyết   định 70/2013/QĐ­TTg ngày 19/11/2013”Quyết định về việc công bố danh mục  phân loại cảng biển Việt Nam” và mới nhất là  Quyết định 1037/QĐ­TTg   ngày 24/6/2014 quyết định về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển  hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020,định hướng đến năm 2030….
  15. 15 Hệ   thống   cơ   quan   quản   lý:   hiện   nay   đã   có   quy   định   giao   Bộ   Công  Thương chịu trách nhiệm chung trước Chính phủ  thực hiện việc quản lý nhà  nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics. Các Bộ: Giao thông vận  tải, Công Thương, Thông tin và Truyền thong trong phạm vi nhiệm vụ, quyền  hạn của mình có trách nhiệm kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh dịch  vụ Logistics liên quan, bao gồm kiểm tra, giám sát việc bảo đảm các điều kiện  kinh doanh và tuân thủ  theo quy định pháp luật của thương nhân kinh doanh  dịch vụ Logistics trong lĩnh vực được phân công. Bộ Kế Hoạch và Đầu tư  có  trách nhiệm hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh dịch vụ  Logisticstheo quy   định hiện hành của pháp luật. các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính   phủ  có trách nhiệm phối hợp với các bộ  trong công tác quản lý nhà nước về  kinh doanh Logistics. 2.2 Vai trò của chính sách phát triểnLogistics ở Việt Nam Logisics là loại hình dịch vụ  tuy còn mới mẻ  đối với Việt Nam nhưng  lại có vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất – kinh doanh của ngành  cũng như  đối với toàn bộ  nền kinh tế  quốc dân.Loại hình dịch vụ  được xem   như tâm điểm của sự phát triển kinh tế thương mại này được coi là nguồn lợi   lớn cho nước ta.Vì vậy, trong những năm qua, ý thức được tầm quan trọng và  hiệu quả to lớn từ dịch vụ Logistics, Việt Nam đã chú trọng vào việc xây dựng   và phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam.Vai trò của chính sách phát triển   Logistics thể hiệnở các mặt sau đây: Một là, Các chính sách tạo lập môi trường vàđiều kiện cho Logistics   phát triển.Việc thực thi các chính sách để hạn chế tình trạng thiếu cầu, giảm  lạm phát, khuyến khích sản xuất, tiêu dung. Giúp tập trung xây dựng kết cấu   cơ sở hạ tầng, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, môi trườngvĩ mô phù   hợp với xu hướng phát triển của Logistics. Hai là, các chính cách này định hướng cho sự  phát triển của Logistics.   Sự  định hướng này thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ  chức thực hiện   các chiến lược kinh tế xã hội, các trương trình mục tiêu, các kế  hoạch ngắn   hạn, dài hạn.Định hướng dẫn dắt sự  phát triển của Logistics không những  
  16. 16 được đảm bảo của hệ  thốngchính sách mà còn sự  tác động của hệ  thống tổ  chức quản lý Logistics từ trung ương đến địa phương. Ba   là,   các   chính   sáchđiều   tiết   và   can   thiệp   vào   quá   trình   hoạtđộng   Logistics của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho nên fkinh tế hoạt động nhịp  nhàng và phát triển với nhịp độ cao.Các chính sáchđảm bảo sự công bằng, dân  chủ cho mọi thành phần Logistics hoạt động trên thị trường. II. Tại sao phải cần chính sách phát triển Logisticsở Việt Nam? 1. Tăng trưởng thương mại và xu hướng toàn cầu hóa Một xu hướng tất yếu của thờiđại ngày nay là toàn cầu hóa nền kinh tế  thế  giới. Bất kỳ  một quốc gia hay ngành nghề  nào, không phân biệt lớn hay  nhỏ, mới hay cũ, muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực   tham gia vào xu thế mới này. Toàn cầu hóa làm cho giao thương giữa các quốc   gia,các khu vực trên thế  giớiphát triển mạnh mẽ  vàđương nhiên sẽ  kéo theo  những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ… Xu thế mới của   thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu tiếp theo của Logistics – Logistics   toàncầu (Global Logistics). Logistics giữ vai trò cầu nối, là động lực thúc đẩy   lưu chuyển hàng hóa từ  nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ  trên phạmvi toàn cầu.  Vì vậy, khi nền kinh tế Việt Nam tang trưởng với tốc độ  cao theo xu hướng  hội nhập thì Logistics Việt Nam lại có them nhiều cơ  hộiđể  khẳngđịnh mình  trên thương trường quốc tế, nhưng đây cũng là một thách thức gay go, khốc   kiệt trong thời kỳ  hậuWTO của Logistics Việt Nam. Vì vậy, các chính sách  phát triển Logistics của Việt Nam cũng có những sựđiều chỉnh để phù hợp với  xu hướng, sự phát triển của nên kinh tế thế giới. 2. Triển vọng phát triển kinh tế trong nước Hội nhập kinh tê quốc tế tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, vừa tạora  nhiều cơ hội lớn đồng thờicũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với sự  phát triển các dịch vụ  Logistics của nước ta. Nghiên cứu của các nhà kinh tế  học cho thấy, chi phí về Logistics chiếm 10% giá trị buôn bán của hàng hóa lưu  thông trong nước và chiếm 40% đối với hàng hóa mua bán trên thị trường quốc 
  17. 17 tế. Trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều lợi thế   để  phát triển ngành công   nghiệp Logistics, làm tăng GDP cho đất nước.Việc dịch chuyển cơ  sở  sản   xuất của nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ nới khác đến Việt Nam đã tạo cơ  hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động   hiệu quả. Thời gian qua, một số doanh nghiệp Logistics Việt Nam đã cung cấp dịch  vụ Logisticsở các nước láng giềng như Lào, Campuchia vàđã phối hợp với bạn  hàng nước ngoài để thắng thầu cung cấpdịch vụ Logistics từ nước thứ ba quá   cảnh Việt Nam đi Trung Quốc, Lào hay Campuchia. Đây thực sự là những sản  phẩm dịch vụ  xuất khẩu.Tiếp cận, hợp tác, liên kết với các bạn hàng nước   ngoài một cách bình đẳng, đặc biệt là những bạn hàng các nước có lĩnh vực  Logistics phát triểncao.Đòi hỏi kinh nghiệm về tổ chức quản lý nghề  nghiệp,  doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ  hội để  tiếp cận trực tieép khách hàng   nước ngoài ngay tại Việt Nam. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Kinh tế  và Phát triển Trường Đại  học Kinh tế  quốc dân, kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm  2020 sẽ tăng khoảng 2 lần so với năm 2010, trong đó thị phần của Logistics sẽ  chiếm từ 18% ­ 22%. Nếu lấy năm 2020 là 282 tỷ USD thì Logistics sẽ cókim   ngạch là 50 – 60 tỷUSD, đây quả thực là một số khổng lồ. Song hành cùng sự  phát triển kinh tế  là tăng trưởng xuất nhập khẩu.  Điềuđó cho thấy, ngành   Logistics lại có thêm nhiều cơ hội phát triển. 3. Xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài ngày càng gia tăng Thuê ngoài (outsourcing) đơn giản được hiểu là việc di chuyển các quá   trình kinh doanh trong tổ  chức sang các nhà cung cấp dịch vụ  bên ngoài. Về  bản chất đây là chiến lược loại trừ  các chức năng kinh doanh không cốt lõi   (none core competency) để tập trung nguồn lực vào các kinh doanh chính yếu  của doanh nghiệp. Thuê ngoài logistics là việc sử dụng các nhà cung cấp dịch   vụ  logistics bên ngoài (3PL’s, 4PL’s) thay mặt doanh nghiệp  để  tổ  chức và   triển khai hoạt động logistics.
  18. 18 Thuê ngoài Logistics mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Trước  tiên là   giúp giảm  vốn  đầu tư  và  giảm  chi phí,  do  nhà  kinh  doanh  dịch vụ  logistics có cơ  sở  vật chất kĩ thuật và công nghệ  tốt, khả  năng đáp  ứng nhu   cầu khách hàng đa dạng với quy mô lớn nên đạt được lợi thế nhờ qui mô, nhờ  đó có thể cung cấp cùng một dịch vụ với chi phí thấp hơn so với doanh nghiệp  tự làm. Giúp nâng cao chất lượng dịch vụ  khách hàng và tăng nhanh tốc độ  vận  động hàng hóa, do các nhà cung cấp dịch vụ logistics là các tổ chức kinh doanh  logistics chuyên nghiệp nên có khả  năng chuyên môn cao, có thể  đáp  ứng tốt  nhất nhu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng cho doanh nghiệp. Phát   triển   các   mối   quan   hệ   kinh   doanh   và   tăng   cường kĩ   năng   quản  lí, thuê ngoài đòi hỏi phải phát triển các kỹ năng giao tiếp và quá trình hợp tác   với nhiều tổ  chức cung cấp dịch vụ  logistics và các doanh nghiệp khác cùng  tham gia kinh doanh. Tăng khả  năng tiếp cận thông tin với môi trường luôn biến động, thuê  ngoài không chỉ  đòi hỏi phải chia sẻ thông tin với nhà cung cấp mà còn phải  nắm bắt và phân tích tốt các thông tin môi trường bên ngoài, giúp thúc đẩy   doanh nghiệp thích nghi tốt hơn. Trong những lợi ích kể  trên, khả  năng giảm   chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ là những lợi ích được các doanh nghiệp   quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, thuê ngoài cũng có những rủi ro như khả năng mất kiểm soát  đối với hoạt động logistics do qui trình nghiệp vụ  bị  gián đoạn, trong trường  hợp này chất lượng dịch vụ bị  ảnh hưởng nghiêm trọng, dự  trữ  cao hơn mức   cần   thiết   hoặc   thời   gian   đáp   ứng   đơn   hàng   kéo   dài. Chi   phí   hợp   tác   quá  cao cũng là lỗi thường gặp khi doanh nghiệp đánh giá quá thấp những nỗ lực  và chi phí cần thiết để  phối hợp hoạt động giữa các bên như  chi phí về  tích   hợp hệ thống thông tin, chi phí giao tiếp và chi phí thiết kế qui trình. Việc phát  sinh những chi phí không đáng có như chi phí sửa chữa các sự cố cũng làm tăng  đáng kể  tổng chi phí logistics. Dò rỉ  dữ  liệu và thông tin nhạy cảm do doanh  nghiệp phải chia sẻ  thông tin về  nhu cầu và khách hàng với các nguồn cung  
  19. 19 ứng.Các nhà cung cấp phục vụ  rất nhiều khách hàng nên nguy cơ  rò rỉ  thông   tin có thể  xảy ra. Việc sử  dụng tường lửa (firewalls) giữa doanh nghiệp với   3PLs giúp giảm bớt nguy cơ này nhưng lại giảm khả năng thích ứng giữa hai  bên. Theo công bố  của Frost Sullivan tốc độ  tăng trưởng bình quân của thị  trường thuê ngoài dịch vụ logistics thế giới đạt 10­20%/ năm. Phần lớn các tập  đoàn lớn trên thế giới như Dell, Walmart, Nortel, GAP, Nike đều sử dụng nhà  cung cấp dịch vụ  thứ  ba hoặc thứ tư, chính xu hướng này đã giúp thị  trường  logistics thế giới tăng trưởng ở mức hai con số. Báo cáo thường niên về “Thực trạng thuê ngoài hoạt động logistics toàn   cầu” của Trường Đại học Georgia Tech (Mỹ) một trong những trường đại   học danh tiếng nhất trong đào tạo ngành logistics và supply chain, phối hợp   với Capgemini, DHL và Oracle cho thấy khá rõ xu hướng này tại 4 khu vực   logistics lớn nhất hiện nay là Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á ­ Thái Bình Dương và  châu Mỹ latinh. Các quốc gia châu Á cũng là một thị trường thuê ngoài logistics sôi động,   trong đó Việt Nam và các nước ASEAN được đánh giá là khu vực thị  trường   trẻ nhưng có tiềm năng tăng trưởng lớn. Nghiên cứu về sử dụng dịch vụ logistics của công ty SCM năm 2008, cho   thấy tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam thuê ngoài logistics khá lớn, đứng đầu  là các doanh nghiệp kinh doanh hàng tiêu dùng đóng gói (40%) và thủy sản  (23%). Các dịch vụ  logistics được thuê ngoài nhiều nhất là vận tải nội địa  (100%),   giao   nhận,   kho   bãi   (73­77%),   khai   quan   (68%),   vận   tải   quốc   tế  (59%).Nghiên cứu cũng cho thấy các kết quả dịch vụ logistics thuê ngoài mang  lại cho doanh nghiệp, đứng đầu là lợi ích về  giảm chi phí, giảm đầu tư  và  tăng tốc độ vận động hàng hóa. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều phàn nàn của doanh nghiệp không hài  lòng với kết quả thuê ngoài logistics, như chất lượng dịch vụ không đúng như  cam kết và chưa có sự  cải tiến liên tục (55%), chi phí không giảm như  mong   đợi (50%), hệ  thống IT còn kém (45%), vấn đề  nhân sự  yếu (36%) và thiếu 
  20. 20 kinh  nghiệm về  logistics  (27%).  Tuy  nhiên những  hạn  chế  trên  không  làm  giảm nhu cầu đối với hoạt động thuê ngoài dịch vụ logistics cả về quy mô và   loại hình trong thời gian tới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2