Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ: Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM VN
lượt xem 155
download
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta dần được cải thiện, Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực, cùng với đó là các chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ: Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM VN
- BẢN QUYỀN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG LỚP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 45 C www.TCDN45C.net.tf www.TCDN45C.vze.com TCDN45C@yahoo.com TCDN45C@gmail.com Tài liệu chỉ được sử dụng vì mục đích nghiên cứu khoa học. Nghiêm cấm sử dụng với mục đích thương mại. Xin liên hệ trực tiếp tác giả để biết thêm chi tiết.
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐỀ ÁN MÔN HỌC LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : Th.S Trần Thị Thanh Tú Sinh viên thực hiện : Phạm Quang Hải Lớp : Tài Chính Doanh Nghiệp 45C Hà Nội - 2006
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1.................................................................................................................................................. 4 CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................................................................................4 1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM............................................................................ 4 1.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM................................................................... 4 1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM.............................................................................................8 2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM................................................................................................. 9 2.1. Tiền gửi không kỳ hạn..............................................................................................................9 2.2. Tiền gửi có kỳ hạn.................................................................................................................. 13 2.3. Tiền gửi tiết kiệm................................................................................................................... 16 3. Chi phí đối với các loại tiền gửi..................................................................................................... 17 3.1. Chi phí huy động tiền gửi....................................................................................................... 17 3.2. Các phương pháp định giá tiền gửi.........................................................................................18 4. Cơ cấu tiền gửi trong một NHTM..................................................................................................25 4.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong một NHTM.......................................................25 4.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM................................................................................................. 25 5. Quản lý nguồn tiền gửi...................................................................................................................29 5.1. Quản lý lãi suất:......................................................................................................................30 5.2. Quản lý quy mô và cơ cấu...................................................................................................... 35 5.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................36 5.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn.............................................................................40 CHƯƠNG 2................................................................................................................................................ 49 LIÊN HỆ THỰC TIỄN........................................................................................................................... 49 1. Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam.................................................49 1.1. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM Việt Nam........................................................ 50 1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam............................................................56 2. Khả năng ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại NHTM Việt Nam....................................... 56 2.1. Quản lý lãi suất ...................................................................................................................... 57 2.2. Quản lý quy mô và cơ cấu...................................................................................................... 58 2.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................60 2.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn ............................................................................60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................63
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN LỜI MỞ ĐẦU Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta dần được cải thiện, Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực, cùng với đó là các chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nên ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập và mở rộng kinh doanh, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đã tăng lên. Hiện nay ở nước ta, thị trường tài chính chưa phải là kênh phân bổ vốn một cách có hiệu quả, do đó vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với vai trò là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào đâu? Cũng như để hoàn thành tốt vai trò là cầu nối, là “người” cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, cho nền kinh tế, các NHTM phải dựa trên cơ sở nào. Câu trả lời đó chính là Tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng (NH). Xuất phát từ vai trò quan trọng của Tiền gửi đối với mỗi NH nói riêng, cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, nên em chọn đề tài “Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam” để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Trên cơ sở kiến thức đã học ở trường, các tài liệu tham khảo, một số kiến thức có được từ thực tế và qua sách báo em đã thực hiện đề án này. Kết cấu của đề án gồm hai phần chính: SVTH: Phạm Quang Hải 2
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Chương 1: Cơ sở lý luận về tiên gửi và quản lý nguồn tiền gửi Chương 2: Liên hệ thực tiễn hoạt động huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NH là rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cận của bản thân có hạn, vì thế em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của NH, nên phạm vi đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản lý tiền gửi của NH. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nghiên cứu nên đề án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của cô. Em xin chân thành cảm ơn cô. SVTH: Phạm Quang Hải 3
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM. 1.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM 1.1.1. Khái niệm Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu của nghiệp vụ tiền gửi là việc nhờ bảo quản những đồng tiền vàng. Người chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhân bảo quản đó, và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi tiền. Dần dần xã hội phát triển đã tạo điều kiện mà người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng dựa vào vốn tự có, thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời phải chú ý tới những điều kiện gửi tiền. Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn nghĩa + Đối với người gửi tiền, ý nghĩa của tiền gửi phụ thuộc vào mục đích sử dụng của người gửi tiền, có thể tập hợp vào hai trường hợp: (1) Khách SVTH: Phạm Quang Hải 4
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN hàng gửi tiền xin mở tài khoản để hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng cung cấp cho họ. Tiền gửi ở đây là số tiền được gửi vào để sử dụng cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc do các nghiệp vụ phát sinh từ trước còn lại. (2) Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn. + Đối với Ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau, nhưng nó chú trọng nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu: Tiền gửi của doanh nhân & Tiền gửi của dân cư. Qua những điều trình bày ở trên, người ta nhận thấy có khó khăn trong việc định nghĩa “tiền gửi”. ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền gửi” trong một bản luật: “Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng nhận được của khách hàng bất luận dưới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không trả lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và với bổn phận làm nghiệp vụ ngân quỹ cho người ký gửi, nhất là phải trả trong giới hạn số tiền nhận được, tất cả những lệnh phải trả tiền của người tiền gửi bằng séc, lệnh chuyển khoản, thư tín dụng… hay bất cứ bằng cách nào khác; cũng thâu nhập vào khoản tiền tiền gửi mọi số tiền mà ngân hàng thu hộ cho người gửi”. “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”1. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NH. 1 Luật các TCTD 1997: điều 20, khoản 9. SVTH: Phạm Quang Hải 5
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Như vậy, về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các loại tiền gửi theo yêu cầu và được hưởng các dịch vụ ngân quỹ do ngân hàng cung ứng hoặc được hưởng lãi suất, đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng tuỳ nghi sử dụng các số tiền gửi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào thời điểm mà người gửi yêu cầu (đối với loại tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào ngày đáo hạn đối với loại tiền gửi có kỳ hạn. Các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu trên có mối liên quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Ngày nay người gửi có nhiều hình thức gửi tiền và có thể làm cho tài sản bằng tiền sản sinh ra lãi theo các dự đoán của mình. 1.1.2. Đặc điểm Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách hàng, ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Hoạt động nhận tiền gửi được nhìn nhận như là một nghiệp vụ kinh doanh của NHTM, với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng thông qua mở cho khách hàng một tài khoản như tài khoản gửi định kì (tiền gửi có kỳ hạn), tài khoản tiền gửi hoạt kỳ (tiền gửi không kỳ hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Giao dịch nhận tiền gửi của NH được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản, theo đó NH đóng vai trò là bên nhận gửi giữ để được nhận thù lao. Về sau, do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa NH và khách hàng có thêm thoả thuận NH có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lợi, với điều kiện là phải hoàn trả cho người sử dụng tòan bộ số vốn đã sử dụng kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ thuộc vào thời gian mà NH giữ khoản tiền đó. Giao dÞch nhËn tiÒn göi ®· ®îc nh×n nhËn lµ hµnh vi vay tiÒn tõ c«ng chóng víi cam kÕt ®¶m b¶o an toµn cho sè tiÒn göi ®ã cïng víi nghÜa vô hoµn tr¶ c¶ gèc lÉn l·i. Việc NH giữ các khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sản SVTH: Phạm Quang Hải 6
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao (như giai đoạn khởi thuỷ) mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh tế. Do đó khi người gửi tiền yêu cầu thanh toán thì NH buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. “Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng”2. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn trả lãi cho tiền gửi. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Hiện nay, hầu hết các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay. ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. NH là một tổ chức có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực, ngành kinh tế khác rất chặt chẽ, hơn nữa các NHTM cũng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Do đặc tính 2 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 459, NXB Tài chính. SVTH: Phạm Quang Hải 7
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN phải thanh toán khi có yêu cầu của khách hàng nên các NHTM luôn luôn phải đảm bảo khả năng thanh toán của mình. Khi một NHTM có nguy cơ sụp đổ rất có thể sẽ dẫn đến hiệu ứng Đôminô đối với các NHTM khác. Vì vậy một số nước yêu cầu NHTM phải mua bảo hiểm tiền gửi, là để tránh rủi ro cho khách hàng gửi tiền, tạo tâm lý an toàn hơn cho khách hàng. Như vậy sẽ đảm bảo an toàn cho cả hệ thống NHTM của quốc gia đó. 1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM Các khách hàng doanh nhân thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Những nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm trách sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian. Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ này, cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài khoản và một lệ phí nhất định. Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để thuận tiện chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, một công dân muốn tích luỹ vốn trước hết có hai khả năng lựa chọn: hoặc giữ đồng tiền tích luỹ được của mình trong két sắt, hoặc mua cổ phần (của các công ty cổ phần) hay mua trái phiếu (của nhà nước và của công ty). Cả hai khả năng này đều có rủi ro hoặc ít khả năng thanh toán. Do đó, họ phải có cách lựa chọn thứ ba: gửi tiền vào ngân hàng để vừa gữ được vốn tích lũy của mình tương đối an toàn, vừa thu được một khoản lợi tức nhất định. Đối với các NHTM, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản cho vay của NHTM, là nguồn gốc xâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng SVTH: Phạm Quang Hải 8
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN phải duy trì sự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả năng huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn thu được một khoản lệ phí nhất định. 2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM. 2.1. Tiền gửi không kỳ hạn. Là các loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ sắp xếp loại tiền gửi này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Nếu không có nhu cầu sử dụng, anh ta có thể một thời gian sau mới rút ra. Tính bất định về thời gian gửi, cùng với địa điểm có thể rút ra bất cư lúc nào đã làm cho loại tiền gửi này có tên gọi theo tiếng Anh là tiền gửi theo yêu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn vào mỗi thời điểm trong các tài khoản không kỳ hạn của các NHTM tạo khả năng có thể viết séc để chi tiền hoặc chuyển nhượng khi cần. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong tài khoản séc (checking accounts). Khách hàng không có ý định để dành và cũng không chú trọng đến tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này bằng một hình thức tiền tệ khác và thích thanh toán bằng séc hơn là bằng tiền mặt. Khả năng tiện lợi của tiền gửi không kỳ hạn trong thanh toán phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát hành ra nó. Nếu gửi tiền vào tài khoản này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì séc do chủ tài khoản viết ra có hiệu lực thanh toán và được chấp nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem là loại hình gần tiền mặt nhất SVTH: Phạm Quang Hải 9
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN trong tất cả các loại tiền của NHTM. Khả năng chuyển đổi từ nó sang tiền mặt là nhanh nhất vào bất cứ lúc nào và vì thế ở các nước phát triển, người ta xem nó như là một loại tiền mạnh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mà chúng ta gửi tiền vào có quá ít chi nhánh hoặc không quan hệ tốt với các ngân hàng khác, séc của nó do chúng ta viết ra được chấp nhận trong thanh toán ở vùng này, nhưng chưa chắc đã được chấp nhận ở các vùng khác. Có lẽ vì lý do này mà ở các nước mới phát triển, tiền séc vẫn chưa được xem là tiền mạnh. Tiền gửi loại này có thể phát xuất từ khách hàng là một thương nhân hay từ một công dân bình thường. Việc phân biệt giữa các tài khoản vãng lai (current account) mở cho thương nhân và các tài khoản sec (checking account) mở cho công dân rất cần thiết cho ngân hàng không những về mặt pháp lý mà cả về mặt kỹ thuật. Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là một khoản khách hàng cho ngân hàng vay. Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng nó là một khoản nợ, khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi. Xã hội càng phát triển càng có tính đa dạng. Và vì thế, ở các nước phát triển, sự tồn tại nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn để thỏa mãn tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội, của cá nhân là điều tất nhiên. ở các nước này, tiền gửi không kỳ hạn bao gồm: a) Tiền gửi dùng séc (đã được trình bày ở trên) (checking deposits). b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng (ordinary deposits) thực hiện qua máy rút tiền (canh dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền tự động (automated teller machine... máy ATM). c) Tài khoản ATS (automatic transfer service account) tài khoản phối hợp tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc ở Mỹ. d) Tiền gửi có thông tri (deposits at notice), tiền gửi hẹn rút (deposits at call) hay tiền gửi có báo trước (dépôts à préavis): là loại tiền gửi không có SVTH: Phạm Quang Hải 10
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN qui định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có thỏa thuận việc thông báo trước (từ 8 đến 5 ngày). Xuất hiện câu hỏi là việc thông báo trước, có làm biến mất tính chất khả dụng, nghĩa là làm cho khoản tiền gửi mất tính chất pháp lý cơ bản của nó chăng ? - Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục đích giúp cho ngân hàng có thời gian gom đủ số tiền cần thiết cho việc thanh toán, thì tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi. - Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép khách hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó tiền gửi có báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có báo trước thường cũng được trả lãi; nhưng thấp hơn so với các tiền gửi có kỳ hạn. Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước. Khách hàng lúc gửi tiền ấn định một kỳ hạn, nhưng gặp khi cần tiền có thể rút tiền trước kỳ hạn miễn là báo trước mấy ngày hoặc một tuần, tùy theo số tiền lớn hay nhỏ. đ) Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20, sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hường lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW - negotiable order of withdrawal - tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW được sừ dụng như là một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Từ năm 1981, NOW được chấp nhận rộng rãi trên toàn nước Mỹ theo Luật về Phi quản lý hoá. Các tổ chức nhận tiền gửi (Depository Institutions Deregulation Act of 1980). Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp nhận trên toàn nước SVTH: Phạm Quang Hải 11
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Mỹ, chính phủ Mỹ cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển vốn tự động, trong đó khách hàng uỷ quyền trước (preauthorize) cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản séc đền bù đắp thấu chi (overdraft). Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm. e) Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua Đạo luật về các tổ chức nhận tiền gửi Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch hưởng lãi quan trọng được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm phi Ngân hàng có thể đưa ra một loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với tài khoản đầu tư chứng khoán có lãi suất cao hơn, được cung cấp bởi các quỹ trên thị trường tiền tệ và được bảo đảm bằng không danh mục đầu tư chứng khoán có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời của tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW”3. Hai loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh toán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước (preauthorised draft). MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay vài tháng và Ngân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thu hút và nắm giữ tiền gửi của khách hàng. Có tới sáu hối phiếu uỷ quyền trước được phép thực hiện trong một tháng nhưng số lượng séc phát hành chỉ được giới hạn là 3 lần. Đối với lệnh rút tiền cá nhân thì không có hạn chế (mặc dù ngân hàng có quyền đặt mức tối đa cho quy mô tiền rút và cho số lượng lệnh rút tiền cá nhân). Không như NOW, MMDA có thể được nắm giữ bởi cả doanh nghiệp và cá nhân. g) Tài khoản Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với MMDA. nhưng tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Không có quy định nào hạn chế số lượng séc người gửi tiền có thể phát hành. Tuy nhiên, Ngân hàng áp dụng một mức lãi đối 3 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 461, NXB Tài chính. SVTH: Phạm Quang Hải 12
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi vì SNOW có thể được phát séc thường xuyên hơn. Do dó, các nhà quản lý trung ương xếp MMDA vào nhóm tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy, chúng ta xếp lài khoản loại này vào phần tài khoản giao dịch vì chúng có đặc quyền phát séc. đ) Tiền gửi đặc biệt. Nhằm phát triển tiền gửi, một số ngân hàng áp dụng loại tiền gửi đặc biệt với các nội dung sau: - Các bên có thể thỏa thuận về số tiền gửi sẽ được phong tỏa. Thông thường thì các vụ rút tiền được quì định trong phạm vì một phần số tiền gửi, người gửi cam kết không sử dụng vào phần tối thiểu qui định. Đối với các số tiền phong tỏa, người ta sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Nếu khách hàng rút tiền ra trước ngày đã dự định, thì hoặc không được hưởng lãi suất hoặc hưởng một lãi suất thấp. - Có khi khách hàng ký gửi một số tiền vào ngân hàng để chuẩn bị cho một doanh vụ đã có dự định trước. Cũng có khi dùng loại tiền gửi này để tạo một bảo đảm cho chính ngân hàng hay một bên thứ ba, hoặc tiền gửi được dùng để tạo một khoản dự phòng để trả lãi công trái, hoặc là các khoản tiền đã được gửi nhằm dể mua các chứng khoán, để dự đính vào vốn của một công ty dang thành lập hoặc tăng vốn hay là để thanh toán một hối phiếu. Qua các giả thuyết trên đây chỉ kể ra một số mà thôi..., có thể thấy tiền gửi ngân hàng phụ thuộc cho một nghiệp vụ pháp lý khác. 2.2. Tiền gửi có kỳ hạn. Là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, về nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra, khi đến hạn đã thỏa thuận. SVTH: Phạm Quang Hải 13
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là những tiền gửi theo nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng nhưng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy tắc khả dụng, bởi vì ngân hàng chỉ phải hoàn lại số tiền tiền gửi vào ngày đáo hạn ghi trên hợp đồng. Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau: + Tên gọi "có kỳ hạn" có nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian gửi tối thiểu theo thỏa thuận giữa ngân hàng và thân chủ, và không được rút ra trước hạn kỳ đã định nói trên. Nếu vì lý do đặc biệt phải rút tiền ra trước hạn kỳ, NHTM có một trong ba cách xử lý: 1) Từ chối. Họ đã từng có quyền làm như vậy trước đây, bởi vì việc gửi tiền của khách hàng là một hợp đồng cho vay với thời hạn đã thống nhất. Khi khách hàng đòi lại trước thời hạn, điều đó sẽ gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thông thường ngân hàng áp dụng hai cách mềm dẻo hơn, là 2) yêu cầu khách hàng phải báo trước, ít nhất một khoảng thời gian nào đó về ý định rút tiền và 3) với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ rất thấp, do khách hàng phải chịu lãi suất phạt vì đã lâm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay do áp lực của cạnh tranh, ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với điều kiện hàng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, hoặc ngân hàng có thể cho vay bằng cách mở một tài khoản đặc biệt cho việc này trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi định kỳ của khách hàng. + Xuất phát từ loại hình tiền gửi có kỳ hạn, một khái niệm được hình thành đó là "thời gian đáo hạn" hay "đến hạn (maturity) thanh toán" của các loại chứng thư tiền gửi. Khi khách hàng gửi tiền vào một ngân hàng tại tài khoản có kỳ hạn 3 tháng rồi nhận một cuốn passbook (quyển sổ) do ngân hàng cấp, hoặc dùng tiền, mua một trái phiếu tiết kiệm (savings bong) cũng của chính ngân hàng đó phát ra với thời hạn thanh toán sau ba tháng. Hai việc làm này tính chất không khác nhau, ngoại trừ một điểm là trái phiếu SVTH: Phạm Quang Hải 14
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN không được đổi lại thành tiền mặt nửa chừng như passbook: Vấn đề cơ bản ở đây là cả hai loại chứng thư này đều có thời hạn thanh toán tiền mặt về nguyên tắc là đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Đúng hơn, khách hàng chỉ có thể và chỉ có quyền (theo hợp đồng) dùng các loại chứng thư nói trên để đổi trở lại thành tiền mặt vào ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Ngày nói trên là ngày đáo hạn. Khoảng thời gian hay kỳ hạn ba tháng của chứng thư được gọi là "thời gian đến hạn" kể từ ngày chứng thư được phát ra. Thời gian đến hạn của các khoản gửi có kỳ hạn như tiền tiết kiệm passbook và các loại trái phiếu khác là tiêu chuẩn hay cơ sở để đánh giá khả năng thanh tiêu của các loại tài sản nói trên. Khả năng thanh tiêu là khả năng chuyển đổi trở lại thành tiền mặt của các loại tài sản mà chúng ta sở hữu. Với cách xác định như thế, một khoản gửi có kỳ hạn hoặc một trái phiếu tiết kiệm ba tháng có khả năng thanh tiêu cao hơn rất nhiều lần so với một khoản gửi hoặc một trái phiếu cố thời gian đến hạn 10 năm. + Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng lớn bởi vì ngân hàng hoàn toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất có tính lâu dài hơn, lợi tức cao và ổn định hơn; Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Lý do ở đây là, ngân hàng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay với thời hạn ổn định và sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Vì thế tiền thù lao nó trả cho khách hàng cũng phải cao hơn để kích thích sự gửi tiền nhiều nữa. Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi định kỳ là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Tiền gửi có kỳ hạn thường phụ thuộc vào ba thông số chính: 1) Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp, 2) lãi suất của các loại hình đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu... SVTH: Phạm Quang Hải 15
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN và 3) thu nhập của nhân dân. Thông số đầu tiên là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất như thể nào để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kỹ trị của các NHTM. Tiền gửi có kỳ hạn thường dưới các dạng: a) các chứng chỉ tiền gửi (Certificate of depoits – CD). b) Chứng thư tiết kiệm (savings certificates). c)Trái phiếu tiết kiệm. 2.3. Tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) hay tài khoản dùng sổ (passbook account). Một khoản ký thác dưới hình thức tiết kiệm rất đa dạng và phổ biến trong nền kinh tế được NHTM huy động là các khoản tiền tiết kiệm trong xã hội, Loại ký thác này có dặc điểm: người gửi tham gia gửi tiền vào ngân hàng rất dông, nhưng số tiền gửi từng lần thường ít, về số lượng tuyệt đối lại rất lớn, chiếm tỷ trọng rất quan trọng trong cơ cấu vốn ký thác huy động được. Thông thường có hai loại tiền gửi tiết kiệm sau: a) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn b) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Nguồn vốn từ loại tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp, làm cho lãi suất đầu vào của ngân hàng rất thấp và rất có lợi khi cho vay. Việc điều hành các tài khoản này, tại phần lớn các nước được qui định như sau: Các sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân và chỉ mở một sổ cho mỗi người. Người gửi tiền, khi mở sổ tiết kiệm, phải cam đoan chưa mở một tài khoản tiết kiệm nào ở một ngân hàng khác. - Số dư tối đa của sổ tiết kiệm cũng được qui định cụ thể cho từng thời kỳ. SVTH: Phạm Quang Hải 16
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Các nghiệp vụ cho phép thực hiện được hạn chế tối đa: chỉ có thể gửi tiền mặt và chỉ có chủ tài khoản mới được rút tiền, không cấp tập sec. - Các nghiệp vụ thực hiện phải chẵn số, nghĩa là phải là bội số của l00đ hay l000đ chẳng hạn. 3. Chi phí đối với các loại tiền gửi. 3.1. Chi phí huy động tiền gửi. Mỗi loại tiền gửi mà chúng ta đã nghiên cứu đều mang một mức lãi suất khác nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí, và chi phí cho các nguồn tiền gửi khác nhau có sự khác nhau. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng của cổ đông. Nhưng đâu là nguồn tiền gửi có chi phí tháp nhất? Và loại tiền gửi nào tạo ra thu nhập ròng cao nhất? Khoản chi phí lớn nhất cho đến nay là lãi tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm. Khoản chi phí này năm 1986 chiếm hơn 50% tổng chi phí của các NHTM năm đó Nói chung, theo lý thuyết giá trị của tiền theo thời gian và theo mối quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh toán càng dài sẽ tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ. tài khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và do đó khách hàng được hưởng mức lãi thấp nhất trong số tất cả các loại tiền. Ngược lại ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cao nhất cho chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài hơn. SVTH: Phạm Quang Hải 17
- Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân hàng ở New York, Lon don hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất được thông báo tại các ngân hàng khác thường cao hơn. Những yếu tố quan trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào quyết định chọn mục tiêu là cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại khi ngân hàng muốn hạn chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào đó, ngân hàng sẽ hạ lãi suất công bố thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ cạnh tranh đưa ra. 3.2. Các phương pháp định giá tiền gửi. 3.2.1. Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập Trong hoạt động ngân hàng ngày nay, các nhà quản lý nhìn chung không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải chịu toàn bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận điểm "khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi" được xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính hiệu quả của chiến lược Marketing mới này bởi vì nó làm gia tăng số lượng các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và do đó buộc ngân hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động. Sự phát triển của tiền gửi thanh toán hưởng lãi, đặc biệt là tiền gửi trong tài khoản NOW đã tạo cơ hội cho các ngân hàng xem xét lại phương pháp định giá đối với các dịch vụ về tiền gửi. Thật không may, nhiều ngân hàng mới tham gia thị trường đã liều lĩnh chấp nhận định giá dưới mức chi phí nhằm mở rộng nguồn vốn tiền gửi. Khách hàng chỉ phải trả một khoản lệ SVTH: Phạm Quang Hải 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ: Vốn của ngân hàng thương mại và các giải pháp tạo lập vốn cho ngân hàng thương mại ở VN
55 p | 1126 | 539
-
Đề án môn học:Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam
61 p | 1830 | 464
-
Đề án môn học: Luật Kinh doanh
26 p | 1712 | 403
-
Đề án môn học: Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
37 p | 2298 | 379
-
Đồ án chi tết máy " Thiết kế hộp giảm tốc hai cấp, có cấp nhanh phân đôi "
52 p | 1121 | 276
-
Đề tài “Vận dụng phương pháp chỉ số trong phân tích kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty Sơn tổng hợp”
30 p | 368 | 123
-
Đề án môn học Ứng Dụng Thuật Phong Thuỷ Trong Quản Lý
20 p | 273 | 88
-
Đồ án môn học 1 - Đồng hồ số
44 p | 282 | 69
-
Đồ án môn học: Lý thuyết điều khiền tự động- Nguyễn Trọng Dung
41 p | 200 | 50
-
Đồ án môn học: Nhà máy nhiệt điện
74 p | 372 | 48
-
Đề tài : Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
40 p | 199 | 46
-
TIỂU LUẬN: Lý thuyết học tập
16 p | 160 | 37
-
Đề án: Vận dụng phương pháp chỉ số trong phân tích kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty Sơn tổng hợp
29 p | 153 | 34
-
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ Anh
61 p | 189 | 28
-
Đồ án môn học: Chưng cất dầu thô nhiều phần nhẹ
55 p | 188 | 22
-
Luận văn:Nghiên cứu lý thuyết tạo hinh, ăn khớp và công nghệ gia công bộ truyền bánh răng chốt
13 p | 107 | 17
-
Khoá luận tốt nghiệp: Ứng dụng sơ đồ tư duy và các phương pháp ghi nhớ vào dạy học lý thuyết Hóa học hữu cơ lớp 11 THPT ban nâng cao
137 p | 34 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn