intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề bài " Tìm hiểu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000 – 2006 "

Chia sẻ: Vu Thanh Tam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:0

187
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa bình. Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn sống lâu và khỏe. Chúng ta muốn có các trường đại học, cao đẳng và phổ thông chất lượng cao. Chúng ta muốn sống trong các căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta muốn có thời gian để thưởng thức âm nhạc, điện ảnh, chơi thể...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề bài " Tìm hiểu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000 – 2006 "

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM KHOA KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN Bộ môn Kinh Tế ********o0o******** BÀI TẬP LỚN Môn kinh tế vĩ mô 1 Đề bài: Tìm hiểu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000 – 2006 Ngày giao đề: 09/11/2009 Ngày hoàn thành: 23/11/2009 Sinh viên: Phùng Công Hưng Lớp : KTB49-ĐH2 Trưởng bộ môn Giáo viên hướng dẫn Nguyễn Lan Hương Nguyễn Kim Loan Hải Phòng 2009
  2. 1.Lời mở đầu ................................................ 3 2. Nội dung chính ........................................... 4 Chương 1: Cán cân thanh toán quốc tế . và các nhân tố ảnh hưởng 4 A. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học. .................................................... 4 B. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế và các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế ....................... 10 Chương 2: Đánh giá cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000-2006 .......................................... 17 A.Nhận xét chung tình hình kinh tế Việt Nam ................ 17 B. Thu thập số liệu về các khoản mục trong cán cân thanh toán quốc tế thời kì 2000-2006. ................................. 21 D. Trình bày quan điểm về thực trạng cán cân thanh toán quốc tế cảu Việt Nam thời kì 2000-2006 và những năm tiếp theo. .. 31
  3. 1.Lời mở đầu Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa bình. Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn sống lâu và khỏe. Chúng ta muốn có các trường đại học, cao đẳng và phổ thông chất lượng cao. Chúng ta muốn sống trong các căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta muốn có thời gian để thưởng thức âm nhạc, điện ảnh, chơi thể thao, đọc truyện, đi du lịch, giao lưu với bạn bè, … Việc quản lí nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới hạn của chúng ta một cách tốt nhất có thể. Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu về cách ứng xử nói chung của mọi thành phần kinh tế, cùng với kết quả cộng hưởng của các quyết định cá nhân trong nền kinh tế đó. Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, lạm phát, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế….. Việt Nam tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa từ một đất nước nghèo vừa thoát khỏi chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn. Đã có giai đoạn vấp phải những sai lầm do chủ quan nóng vội đ ưa kinh tế đất nước xuống mức suy yếu và trì trệ nghiêm trọng. Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhận ra những khuyết điểm sai lầm, tìm con đường đổi mới để khôi phục kinh tế. Thực tế đã khẳng định Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành quả do đổi mới mang lại thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế và quan trọng hơn sự phát triển đó là vì mục tiêu con người. Tuy nhiên làm thế nào để giữ cho sự phát triển đó được nhanh, bền vững, ổn định? Đó là câu hỏi được đặt ra không phải chỉ đối với các nhà hoạch định kinh tế mà đó là trách nhiệm của mỗi công dân, đặc biệt hơn là với sinh viên - thế hệ trẻ và là tương lai của đất nước. Việc học tập nghiên cứu kinh tế học là việc cần thiết quan trọng trang bị cho sinh viên những lý thuyết cơ bản về tình hình kinh tế của đất nước nói riêng và thế giới nói chung. Kinh tế học vĩ mô là bộ phận quan trọng trong phân ngành kinh tế học với những lý thuyết về các chính sách thu nhập, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ… mà đất nước đã học tập và áp dụng trong thời kỳ xây dựng kinh tế những năm qua. Thế hệ trẻ, đặc biệt là một sinh viên khoa kinh tế cần nhận thức rõ được tình hình kinh tế của đất nước, học tập và nắm vững những kiến thức cơ bản để tương lai trở thành một nhà hoạch định kinh tế có tầm nhìn và kiến thức sâu rộng để góp phần xây dựng đất nước
  4. 2. Nội dung chính Chương 1: Cán cân thanh toán quốc tế và các nhân tố ảnh hưởng A. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học. A1. Giới thiệu môn học • Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô - Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của cá nhân và toàn xã hội - Kinh tế học vã mô - một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Phương pháp nghiên cứu kinh tế học vĩ mô gồm: + Phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp + Tư duy trừu tượng + Phân tích thống kê số lớn + Mô hình hoá kinh tế •Hệ thống kinh tế vĩ mô Có nhiều cách mô tả hoạt động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống - gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô hệ thống này được đặc trưng bởi ba yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô Các yếu tố đầu vào bao gồm: - Những tác động từ bên ngoài bao gồm chủ yếu các biến tố phi kinh tế: thời tiết, dân số, chiến tranh…
  5. - Những tác động chính sách bao gồm các công cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới cscs mục tiêu đã định trước. Các yếu tố đầu ra bao gồm: sản lượng, việc làm, giá cả, xuất-nhập khẩu. Đó là các biến do hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra. Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh tế vĩ mô. Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu + Tổng cung bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho. Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố của sản xuất, đặc biệt là lao động. + Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ ( tổng sản phẩm quốc dân ) mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với mức giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế khác đã cho • Mục tiêu và công cụ trong kinh tế vĩ mô: + Mục tiêu - Mục tiêu sản lượng: Đạt đựoc sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng Tốc độ tăng trưởng cao và bền vững - Mục tiêu việc làm Tạo đựoc nhiều việc làm tốt Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp - Mục tiêu ổn định giá cả
  6. Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do. - Mục tiêu kinh tế đối ngoại: Ổn định tỷ giá hối đoái Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế - Phân phối công bằng: Dây là một trong những mục tiêu quan trọng Lưu ý: Những mục tiêu trên thể hiện trạng thái lý tưởng và các chính - sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch thực tế so với các trạng thái lý tưởng Các mục tiêu trên thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực - chúng hướng vào đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Song trong từng trường hợp có thể xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ Về mặt dài hạn thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu trên cũng - khác nhau giữa các nước. Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng thường có vị trí ưu tiên số 1. + Công cụ Để đạt được những mục tiêu trên kinh tế vĩ mô trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có công cụ riêng biệt. Dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường sử dụng trong lịch sử lâu dài và đa dạng của họ. * Chính sách tài khoá: Là việc chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng để tác động đến nền kinh tế hướng nền kinh tế tới mức sản lượng và việc làm mong muốn Công cụ: chi tiêu của chính phủ (G) thuế (T) Đối tượng: Quy mô của chi tiêu công cộng
  7. Chi tiêu của khu vực tư nhân Sản lượng Mục tiêu: Ngắn hạn: ổn định nền kinh tế Dài hạn : hướng nền kinh tế đến sự phát triển lâu dài * Chính sách tiền tệ: tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế tới mức sản lượng và việc làm mong muốn Công cụ: Mức cung tiền (MS) Lãi suất (i) Đối tượng: Tác động đến đầu tư (I) Chi tiêu của hộ gia đình (C) Tiết kiệm (S) Tỷ giá hối đoái (e) Mục tiêu (giống chính sách tài khoá) * Chính sách thu nhập: bao gồm các biện pháp mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả và để kiềm chế lạm phát Công cụ: Tiền lương danh nghĩa (Wn) Đối tượng: Chi tiêu của các hộ gia đình (C) Tổng cung ngắn hạn Mục tiêu: Kiềm chế lạm phát * Chính sách kinh tế đối ngoại: Nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ở mức có thể chấp nhận được Công cụ: Thuế quan Hạn ngạch Tỷ giá hối đoái Đối tượng Hoạt động xuất-nhập khẩu và đầu tư nước ngoài Mục tiêu: Chống suy thoái, lạm phát Ổn định tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế • Một số khái niệm và mối quan hệ giữa các biến số kinh té vĩ mô cơ bản - Tổng sản phẩm quốc dân và sự tăng trưởng kinh tế
  8. Tổng sản phẩm quuốc dân (GNP) là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định Tổng sản phẩm quốc dân là thước đo cơ bản hoạt động của nền kinh tế Tổng sản phẩm tính theo giá hiện hành gọi là tổng sản phẩm danh nghĩa Tổng sản phẩm tính theo giá cố định gọi là tổng sản phẩm thực tế - Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát. Chu kỳ kinh tế là sự giao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng Thiếu hụt sản lượng = Sản lượng tiềm năng - Sản lượng thực tế -Tăng trưởng và thất nghiệp Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm đi - Tăng trưởng và lạm phát Sự kiện lịch sử của nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả? Vấn đề này kinh tế vĩ mô chưa có câu trả lời rõ ràng. - Lạm phát và thất nghiệp Các nhà kinh tế cho rằng, trong thời kỳ ngắn thì lạm phát càng cao, thất nghiệp càng giảm. Trong thời kỳ dài chưa có cơ sở nói rằng lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ “ trao đổi”. Trong thời kỳ dài tỷ lệ thất nghiệp phụ thuộc một cách cơ bản vào tỷ lẹ lạm phát trong suốt thời gian đó
  9. Trong điều kiện nước ta, quá trình chuyển đổi kinh tế chưa hoàn tất, các yếu tố thị trường còn non yếu và chưa phát triển đồng bộ, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết nền kinh tế. Vì vậy khi nghiên cứu những mối quan hệ này trong điều kiện nước ta cần chú ý những đặc điểm trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tránh rập khuôn máy móc. A2. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học Kinh tế học vĩ mô là một trong hai bộ phạn hợp thành kinh tế học Trong chương trình học đại học kinh tế học vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc tiếp tục bổ sung cho kinh tế học vi mô, đồng thời trang bị cho sinh viên tầm nhìn kinh tế sâu rộng hơn trên phạm vi kinh tế quốc gia với vai trò của một nhà hoạch định kinh tế cho đất nước. Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu kinh tế vĩ mô là cần thiết với tất cả sinh viên nói chung, đặc biệt hơn là với sinh viên học kinh tế, để có một kiến thức và tầm nhin tổng quát về kinh tế trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay. Kinh tế học vĩ mô là một trong những chủ đề quan trọng nhất đối với sinh viên vì tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của sinh viên. Mức việc làm và mức thất nghiệp chung sẽ quyết định khả năng t ìm kiếm việc làm sau của chúng ta sau khi tốt nghiệp, khả năng thay đổi công việc và khả năng thăng tiến trong tương lai. Mức lạm phát sẽ ảnh hưởng đến lãi suất mà chúng ta có thể nhận được từ khoản tiết kiệm của chúng ta trong tương lai. Kinh tế vĩ mô sẽ giúp cung cấp cho chúng ta những nguyên lý cần thiết để hiểu rõ tình hình kinh tế của đất nước, đánh giá các chính sách kinh tế mà Chính phủ đang thực hiện và dự đoán các tác động của những chính sách đó tới đời sống của chúng ta như thế nào? Trong bối cảnh nền kinh tế Viêt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó tất cả hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển qua biên giới các quốc gia.Lần đàu tiên mọi người đều chơi theo một luật chơi chung “ Luật chơi của kinh tế thị trường toàn cầu “ Đây là một thách thức rất lớn. Người thắng sẽ có lợi nhuận ,thu nhập cao, thành đạt trong cuộc sống và kẻ thua cuộc sẽ tụt lại đằng sau nhiều khi còn dẫn đến phá sản. Vì vậy , vị trí bộ môn kinh tế trong các trường đại học có một ý nghĩa vô c ùng quan trọng. Nó trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về kinh tế học. về kinh tế vi mô hay kinh tế vĩ mô. Nó giúp cho sinh viên làm quen với các khái niệm kinh tế .
  10. B. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế và các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có. Các yếu tố ảnh hưởng đến CCTTQT đó là: cán cân thương mại, lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái, sự ổn định chính trị của đất nước, khả năng trình độ quản lý kinh tế của chính phủ. Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm 1993, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau. * Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ và một số chuyển khoản. Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm: 1. Cán cân thương mại hàng hóa
  11. 1. Xuất khẩu 2. Nhập khẩu 2. Cán cân thương mại phi hàng hóa 1. Cán cân dịch vụ 1. Vận tải 2. Du lịch 3. Các dịch vụ khác 2. Cán cân thu nhập 1. Kiều hối 2. Thu nhập từ đầu tư 3. Các chuyển khoản Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn. Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này. Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại -Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá
  12. thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng. -Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. -Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh toán.
  13. Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh *Tài khoản vốn: Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài chính. Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai. Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính. -Tài khoản vốn và lãi suất Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r', tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất. Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn,
  14. nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện. -Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia. Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên. Dự trữ ngoại hối nhà nước Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia. -Hình thức dự trữ Ngoại hối có thể được dự trữ dưới hình thức: Tiền mặt  Số dư của tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài  Hối phiếu, trái phiếu hoặc các giấy tờ ghi nợ khác của chính phủ nước  ngoài, ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
  15. Vàng  Các loại ngoại hối khác  -Tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ Có ba tiêu chí chính: -Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và giá trị một tuần nhập khẩu trong năm tiếp theo Nói cách khác, quy mô dự trữ ngoại hối được tính bằng số tuần nhập khẩu. Tiêu chí này cho thấy mức độ hỗ trợ thanh toán quốc tế của dự trữ ngoại hối. Theo đánh giá của IMF, dự trữ ngoại hối có quy mô tương đương 12 đến 14 tuần nhập khẩu thì quốc gia sẽ được coi là đủ dự trữ ngoại hối. Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài Tiêu chí này cho thấy khả năng đối phó của quốc gia khi có hiện tượng tấn công ngoại tệ hoặc rút tiền ra nước ngoài. Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và mức cung tiền rộng Tiêu chí này cho thấy khả năng can thiệp tỷ giá hối đoái của ngân hàng trung ương. Tỷ lệ từ 10% đến 20% được coi là đủ dự trữ ngoại hối. *Mục sai số Do khó có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân thanh toán như là mục sai số. **Các nước thường sử dụng các biện pháp sau đây để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế khi bi thâm hụt: Vay nợ nước ngoài: Đây là biện pháp truyền thống và phổ biến. Biện pháp này thông qua các nghiệp vụ qua lại với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài để vay ngoại tệ cần thiết nhằm bổ sung thêm lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Ngày nay việc vay nợ không còn giới hạn bởi quan hệ giữa ngân hàng nước này với nước kia, mà nó đã được mở rộng ra nhiều ngân hàng khác, đặc biệt là với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trên cơ sở các hiệp định đã được ký giữa các bên. Thu hút tư bản ngắn hạn từ nước ngoài: Ngân hàng Trung ương của các nước thường áp dụng những chính sách tiền tệ, tín dụng cần thiết thích hợp để thu hút được nhiều tư bản ngắn hạn từ các thị trường nước ngoài di chuyển đến nước mình, làm tăng thêm phần thu nhập ngoại tệ của cán
  16. cân thanh toán, thu hẹp khoản cách về sự thiếu hụt giữa thu và chi trong cán cân thanh toán đó. Trong số những chính sách tiền tệ tín dụng được sử dụng để thu hút tư bản vào, thì chính sách chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn. Để thu hút được một lượng tư bản từ thị trường nước ngoài vào nước mình thì Ngân hàng Trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu, dẫn đến lãi suất tín dụng trên thị trường tăng lên làm kích thích tư bản nước ngoài dịch chuyển vào. Thế nhưng biện pháp này chỉ góp phần tạo ra sự cân bằng cho cán cân thanh toán trong trường hợp bội chi không lớn lắm và cũng chỉ giải quyết nhu cầu tạm thời. Cần lưu ý rằng, biện pháp nâng lãi suất chiết khấu chỉ có hiệu quả khi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội...của quốc gia đó tương đối ổn định, tức là ít rủi ro trong đầu tư tín dụng. Phá giá tiền tệ: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, một số nước tư bản đã sử dụng chính sách phá giá tiền tệ như là một công cụ hữu hiệu, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và bình ổn tổng giá hối đoái. Phá giá tiền tệ là sự công bố của Nhà nước về sự giảm giá đồng tiền của nước mình so với vàng hay so với một hoặc nhiều đồng tiền nước khác. Phá giá tiền tệ để tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện điều kiện cán cân thanh toán. Nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng, phá giá tiền tệ chỉ là một trong những yếu tố có tính chất tiền đề cho việc đẩy mạnh xuất khẩu mà thôi. Còn kết quả hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh... trên thị trường quốc tế. Như vậy, có nhiều biện pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, song việc lựa chọn phương pháp nào thì phải xuất phát từ kết quả phận tích những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thiếu hụt của cán cân, phải xem xét tình hình cụ thể, toàn diện của quốc gia đó cũng như tình hình quốc tế có liên quan để lựa chọn và sử dụng biện pháp thích hợp và hữu hiệu
  17. Chương 2: Đánh giá cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000-2006 A.Nhận xét chung tình hình kinh tế Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc,nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém, đã trải qua hầu hết các loại lạm phát như lạm phát phi mã trong thời kỳ 1986-1988 với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát cao trong thời kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ lạm phát bình quân năm tương ứng là 46,7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ 1996 - 1999 và 2001 - 2003 với tỷ lệ lạm phát tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm 2000 (-0,6%). Năm 2000 là năm đầu tiên Hiệp định Thương mại Song phương Việt- Mỹ vừa mới được ký kết (tháng 7/2000), cho nên được hy vọng là sẽ tạo ra “cú hích” đẩy nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc nhờ hai nguồn động lực. Đó trước hết là xuất khẩu sẽ tăng đột biến nhờ thị trường nhập khẩu có thể ví như “chiếc thùng không đáy” so với năng lực xuất khẩu cực kỳ nhỏ của nước ta (kim ngạch xuất khẩu của nước ta ở thời điều này chỉ bằng 1,12% kim ngạch xuất khẩu của Mỹ). Tiếp theo, đó là chỉ cần một phần rất nhỏ trong nguồn vốn đầu tư cũng cực kỳ lớn của “người khổng lồ” này cũng có thể khiến nền kinh tế nước ta tăng tốc. Mục tiêu tăng trưởng vượt bậc 7,5% năm 2001 của các nhà quản lý sau khi nền kinh tế thoát khỏi tình trạng liên tục “tụt dốc” do những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đạt được tốc độ phát triển ngoạn mục 6,79% năm 2000 có lẽ không ngoài ý tưởng nắm bắt thời cơ này để “thừa thắng xông lên”. Tuy nhiên, trên thực tế, sự kiện ngày 11/9 đúng
  18. vào lúc nền kinh tế thế giới đang trên đà giảm tốc chính là “thủ phạm chính” khiến cho mục tiêu này đã không trở thành hiện thực. Trước hết, các số liệu thống kê xuất khẩu hàng hoá của nước ta cho thấy, tính đến hết tháng 8/2001, tốc độ tăng của đầu ra này vẫn còn đạt 11,5% và với “tập quán đủng đỉnh” trong những tháng đầu năm, để rồi tăng tốc vào những tháng cuối năm, chúng ta có thể hy vọng đạt được mục tiêu tăng 16% cả năm, nhưng ngay trong tháng 9, tốc độ tăng xuất khẩu đã bắt đầu “rơi tự do” và cứ sau mỗi tháng lại “tụt dốc” thêm một bậc. Hiển nhiên, tuy thị trường Mỹ khổng lồ nhất thế giới, nhưng ở thời điểm này, tác động trực tiếp của nó đối với việc xuất khẩu của nước ta “rơi tự do” như vậy là rất nhỏ, bởi hai lẽ. Trước hết, xét về quy mô, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ năm 2001 chỉ mới đạt 1,065 tỷ USD và chỉ chiếm 7,09% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những điều đó có nghĩa là, những tác động gián tiếp của sự kiện 11/9 đến sự “tụt dốc” của “đoàn tàu xuất khẩu” nước ta mới là chủ yếu. Bởi lẽ, trong khi kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ tăng phi mã như vậy, thì xuất khẩu sang hầu như tất cả các thị trường khác, trước hết là các thị trường chủ yếu ở khu vực châu Á, hoặc là giảm, hoặc “giậm chân tại chỗ hoặc chỉ giảm nhẹ. Sở dĩ như vậy là do xuất khẩu của hầu hết các quốc gia này cũng có “đích đến” rất quan trọng là thị trường Mỹ, và một khi “đích đến” này bị thu nhỏ, tất yếu sẽ gây ra tình trạng trì trệ dây chuyền. Việc tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm 2000 tăng phi mã 13,28%, nhưng năm 2001 đột ngột giảm 3,86%, còn thị trường Mỹ chiếm tới 19- 19,5%, “rổ hàng hoá nhập khẩu” này thì cặp số liệu tương ứng là 18,74% và -6,15% cho thấy rất rõ điều đó. Bên cạnh đó, khoảng thời gian hơn một năm cũng là quá ngắn để các nhà đầu tư Mỹ có thể tăng vốn đầu tư vào thị trường nước ta.
  19. Bằng chứng là, sau khi sự kiện 11/9 khiến cả thế giới rung chuyển đã diễn ra được gần 3 tuần lễ, nhưng dựa trên tốc độ xuất khẩu ước thực hiện 10,5% của 9 tháng, Tổng cục Thống kê vẫn cho rằng sẽ không diễn ra các bước “tụt dốc” nói trên, cho nên đã dự báo cả năm 2001 đạt 16 tỷ USD, tương ứng với tốc độ tăng “không tưởng” 10,7%, nhưng thực tế chỉ đạt xấp xỉ 3,8% và đây cũng là một căn cứ rất quan trọng để đưa ra một dự báo “không tưởng” khác là tốc độ tăng GDP cả năm sẽ đạt 7,1% (thực tế chỉ đạt 6,89%), bởi khoản kim ngạch xuất khẩu bị “hụt” so với dự báo gần 1 tỷ USD, tương ứng với 3,05% GDP của năm này. Trong khi đó, cảnh báo về tác động dây chuyền khiến tốc độ xuất khẩu của nước ta “rơi tự do” dẫn đến sự giảm tốc của nền kinh tế thì bị coi là “lạc lõng”, là dự báo bi quan. Ước tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001-2004 (tính theo giá 2000) khoảng 731.000 tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của nhà nước chiếm 14,7%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%. Trong 4 năm 2001-2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5tỷ USD; giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ USD. Các quan sát viên kinh tế thế giới đã nhìn thấy những dấu hiệu từ cuối năm 2000 về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu, mà chủ yếu là do kinh tế Mỹ tăng chậm lại đáng kể, những quan ngại về sự phục hồi trong kinh tế Nhật Bản, viễn cảnh tăng trưởng ở mức vừa phải của châu Âu, và khả năng suy giảm tăng trưởng ở một số nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là những nền kinh tế có mối liên hệ mật thiết với công nghệ và viễn thông toàn cầu, sau cuộc sụt giá nặng nề của các cổ phiếu trong ngành công nghệ thông tin và viễn thông từ tháng 3-2000, nhất là sau biến cố khủng bố tại Mỹ vào ngày
  20. 11-9-2001. Do đó, mức tăng trưởng cho nền kinh tế thế giới năm 2001 đã liên tục được ước lượng thấp đi, từ 3,4% (ước lượng tháng 4-2001 bởi IMF) xuống chỉ còn 2,4% vì ảnh hưởng của khủng bố, theo tính toán sau c ùng (tháng 12-2001) của IMF, so với mức tăng của năm 2000 là 5%, và năm 1998 với khủng hoảng tài chính châu Á là 6%. Trong nước, vấn đề ngoại thương còn nhiều yếu kém:quy mô còn nhỏ bé, cơ cấu xuất khẩu lạc hậu, thị trường bấp bênh, nhiều doanh nghiệp chưa giữ được chữ tín với doanh nghiệp nước ngoài, công tác quản lí còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó phải nói đến chất lượng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém . Về tình hình thiên tai; lũ lụt đặc biệt ở các tỉnh miền Trung năm nào cũng gây ra những mất mát rất lớn về tính mạng và tài sản cho nhân dân nơi đây. Các đợt nắng nóng ở miền Bắc làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa, ảnh hưởng đến đới sống nông dân. Tóm lại: nền kinh tế việt nam trong giai đoạn này tuy có nhiều điều kiện thuận lợi hơn các giai đoạn trước nhưng cũng có nhiều khó khăn cần khắc phục. Lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn còn ảnh hưởng đén nền kinh tế, Hơn nữa đây là giai đoạn chịu nhiều ảnh hưởng của tình hình thế giới, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế ngoại thương thì càng chịu nhiều ảnh hưởng do các đối tác nước ngoài của chúng ta rơi vào khó khăn. Vì có những bất ổn về kinh tế như vậy, CP Việt Nam phải kịp thời đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt chính sách kinh tế đối ngoại trong giai đoạn này là rất cần thiết để vừa giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tăng trưởng, vừa hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế vừa bảo vệ nền kinh tế nước nhà trước những cơn biến động của thế giới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2