ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ VĂN MINH
Câu 1: Vai trò của con người và môi trường trong việc hình thành nền văn minh
Đầu tiên ta phải hiểu khái niệm văn minh. Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần của
xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trạng thái phát triển cao của nền văn hóa ở đây
chính là giai đoạn có nhà nước. Thông thường vào thời kì thành lập nhà nước thì chữ viết cũng xuất hiện, do đó văn
hóa có một bước phát triển nhảy vọt. Song do hoàn cảnh cụ thể, có một số nơi, khi mà nhà nước ra đời vẫn chưa có
chữ viết, nhưng đó là những trường hợp không điển hình. Và văn minh chỉ là những giá trị mà loài người sáng tạo
trong giai đoạn phát triển cao của xã hội. Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo
ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Những mãi đến thế kỉ IV TCN, xã hội nguyên thy bắt đầu tan rã ở Ai
Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, tđó loài ngƣời mới bắt đầu bƣớc vào thời kì văn minh.
Vai trò của môi trường
Trong thời cổ đại (cuối TNK IV - đầu TNK III TCN) đến những thế kỷ SCN, ở phương Đông
tức là châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có 4 trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc.
Điểm chung nổi bật là cả 4 trung tâm văn minh này đều nằm trên vùng chảy qua của một con sông lớn. Đó là sông
Nile Ai Cập, sông Ơ-phrat và Tiprơ ở Tây Á (Indu) và sông Hằng (Gauge) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang
ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn này nên đất đai ở những nơi này trở nên màu m,
nông nghiệp có điều kiện phát triển trong hoàn cảnh nông cụ đang còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà
nước, do đó, cư dân ở đây sớm bước vào xã hội n minh và hơn thế nữa sáng tạo nên những văn minh vô cùng rực
rỡ. Ví dụ ở Ai Cập tiếp giáp với sông Nin. Sông Nile là một trong những con sông lớn nhất thế giới (6.700km), phần
chảy qua Ai Cập là 700km. Sông Nile có nguồn nước giàu phù sa, bồi đắp nên những vùng đất màu mỡ... Lưu vực
sông còn có một quần thể thc vật phong phú, đặc biệt là cây Papyrut. Sông Nile còn cung cấp một lượng
thủy sản phong phú và là huyết mạch giao thông quan trọng. Vì vy có thể coi Ai Cập chính là “tặng vật của sông
Nile”... Chính vì những điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy đã giúp Ai Cập sớm hình thành nhà nước và bước vào
một thời kỳ văn minh sớm. Vì hầu hết các nền văn minh đều hình thành ở lưu vực sông nên nước là yếu tố quyết
định của sự sống, có vai trò đối với sản xuất nông nghiệp, cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản dồi dào. Sông có chức
năng giao thông. Chính vì những điều như trên ta có thể thấy vai trò quan trọng của môi trường trong việc hình thành
các nền văn minh. Môi trường còn là nơi cung cấp tài nguyên để con người xây dựng nên những nền văn minh của
mình như Kim tự tháp keeop được xây dựng với 230 vạn tảng đá vôi vàng.
Môi trường còn tạo điều kiện để con người xây dựng nền văn minh của mình Ví dụ như việc xây dựng Kim
tự tháp. Sông Nin có vai trò rất quan trọng. Hằng năm từ trung tuần tháng 7, nước sông bắt đầu dâng cao làm tràn
ngập đồng ruộng lớn, bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ thuận lợi để gieo trồng các loại ngũ cốc và cây ăn
quả, cung cấp lương thực và thủy sản dồi dào cho cư dân và công nhân xây dựng kim tự tháp.Nhờ sự lên xuống của
thủy triều, của những trận lũ, người Ai Cập đã lợi dụng hệ thống nước ấy để di chuyển khối đá lên cao dễ dàng hơn.
Nguyên vật liệu khi đá chính là nguồn tài nguyên thiên nhiên nhiều và quan trọng nhất. Trên những dãy núi phía
đông và tây dọc theo thung lũng sông nile có nhiều loại đá như: đá vôi, đá huyền vũ, đá xà vân, đá trắng… Phần
trung tâm các kim tự tháp thường được xây dựng từ đá vôi có chất lượng tốt, những đá vôi này được dùng để xây lớp
ngoài của kim tự tháp giúp chúng có một màu trắng lấp lánh có thể nhìn được từ xa hàng dặm
Vai trò của con người
Điều kiện tự nhiên là nền tảng để con người phát triển một nền văn minh cổ đại. Xong từ điều kiện môi
trường thuận lợi con người đã sáng tạo, xây dựng và phát triển một nền văn minh rực rỡ của mình. Để xây dựng một
nền văn minh thì con người phải nhà nước phát triển được nền kinh tế. thế trong quá trình hình thành các
nền văn minh con người luôn chú trọng xây dựng nhà nước và phát triển kinh tế. Ví dụ như ở nhà nước Ai Cập cổ đại
Nhà nước Ai Cập cổ đại theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua (Pharaon) được thần thánh hóa, đứng đầu
nhà nước và tôn giáo, nắm cả vương quyền và thần quyền. Xã hội:Tầng lớp thống trị là giai cấp chủ nô (vua, quý tộc,
tăng lữ) nắm quyền lực kinh tế, chính trị địa vị ưu đãi, quyền sở hữu nhiều ruộng đất lệ
.Những người bị trị bao gm: nông dân, thợ thủ công, nô lệ.Về phát triển kinh tế con người đã biết làm nông nghiệp:
trồng trọt ngũ cốc, nho cây ăn quả, chăn nuôi.Sáng tạo ra những công cụ sản xut bằng kim loại, dùngđể kéo
cày. Mở rộng củng cố các công trình thy lợi. Thủ công nghiệp sớm phát triển thành các nghề làm đồ da, đồ
gốm, dệt, thuộc da, chế tạo thủy tinh, đóng thuyền, ướp xác, rèn đồ kim loại, chế tạo khí. Từ việc con người xây
dựng nhà nước và phát triển kinh đã tạo điều kiện cho con người sáng tạo ra những thành tựu văn minh vĩ đại rực rỡ.
dụ như Kim tự tháp Ai Cập,Vườn treo Babylon. Con người còn ý chí ham học hỏi khám phá nên đã xây dựng
được nhiều những thành tựu khoa học tự nhiên như : thời trung vương quốc, người Ai Cập đã tìm ra hệ số đếm cơ số
1
10, cách giải phương trình bậc nhất, người Lưỡng Do nhu cầu của việc đo đạc ruộng bậc thang, đào đắp kênh
tƣới, xây dựng cung điện, dân Lưỡng đã biết đến nhng con số đưa ra công thức tính diện tích các hình.
Họ lấy số 5 làm số trung gian để đếm số hạng thấp hoặc cao hơn 5. Dùng cơ số 60 (nay vẫn dùng trong h thống đo
thời gian: giờ, phút, giây) phép khai căn, lấy dấu tròn để chỉ độ. Khi đo đạc người ta biết dùng số ~3 để tính diện
tích chu vi hình tròn, biết tính hình tròn của tam giác vuông. con người vai trò phát triển, xây dựng nền văn
minh, sáng tạo cải tiến nó để trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những thành tựu lớn của văn hóa Lưỡng sự
sáng tạo ra chữ viết từ giữa thiên niên kỉ IV TCN, những mâm mầm mống của chữ viết đã xuất hiện trong hội
Sume, chữ tiết hình của người Sume sau đó được người Áccast, người Babylon và người Átxiri tiếp nhận và bổ sung
thêm, làm cho trở thành một thứ chữ viết thể ghi chép được những ngôn ngữ phức tạp. Người Êlam, Hítti,
Mỉani và uracstu cũng đã tiếp thu và sử dụng chữ tiết hình, nhưng có sự cải tiến cho phù hợp với ngôn ngữ của mình.
Hay do yêu cầu của việc đo đạc ruộng đất, xây dựng nhà cửa, đền miếu, lăng mộ và tính toán về thu nhập sản vật của
nhà nước nhân mà toán học Ai Cập được hình thành. vậy thể thấy với tri thức của con người đóng một
vai trò quan trọng trong việc hình thành một nền văn minh, chính con người đã dần hoàn thiện xây dựng trở
nên hoàn thiện phù hợp với nhu cầu của họ, những đóng góp của những nền văn minh vượt thời gian vai trò
quan trọng cho sự phát triển ngày nay.
Câu 2: Phật giáo và Nho giáo ảnh hưởng đến Đông Nam Á
Phật giáo :
- Phật giáo vào Đông Nam Á khá sớm. thâm nhập vào từng quốc gia trong những thời gian không giống nhau,
bằng những con đường khác nhau và ảnh hưởng của nó cũng không đều nhau. Người ta dự đoán Phật giáo vào Đông
Nam á quãng những thế kỉ I-II đầu công nguyên. Với đặc điểm là dễ thích nghi với các môi trường khác nhau mà
xâm nhập vào và có khả năng tự điều chỉnh cho thích hợp với điều kiện mới, đó là biểu hiện của sự bao dung đặc thù
của đạo Phật và nó ảnh hưởng rất lớn đến tâm thức con người các quốc gia Đông Nam Á theo Phật giáo.
Việt Nam: Phật giáo du nhập vào những năm 194-195 và trung tâm Phật giáo lớn nhất thời đó là Luy Lâu.
Indonexia: Phật giáo Đại thừa mặt từ rất sớm, quãng thế kỉ II. Phật giáo phát triển rực rỡ thời kỳ quốc gia
Srivijaya và ngôi chùa Borobudur là biểu tượng của kiến trúc Phật giáo nổi tiếng của cả khu vực thời đó. Đến thế kỉ
XIII, Phật giáo tiểu thừa xuất hiện thay thế Đại thừa.
Thái Lan: quốc gia Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á, Phật giáo Tiểu thừa mặt quãng thế kỉ I sau công
nguyên.
Campuchia: xâm nhập quãng thế kỉ V và chính thức trở thành quốc giáo từ thời vua Jayavarman VII(1181-1219)
Lào: Phật giáo truyền vào Lào từ khoảng thế kỉ XVII-XIII nhưng chỉ đến thời Pha Ngừm mới chính thức trở
thành quốc giáo của vương quốc Lanxang.
Phật giáo là trở thành tư tưởng chính thống của nhiều quốc gia và là quốc giáo ở một số nước Đông Nam Á.
Phật giáo sở đi vào cắm rễ sâu chắc trong hội, lại ảnh hưởng to lớn vào đời sống tinh thần của người dân
trong vùng bởi nó đã phải bản địa hóa, đã biết đồng hòa với các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã biết dung nạp các
yếu tố của tôn giáo ngoại lai khác. Có thể nói, những học thuyết có tính chất tự biện, các tín đều khô khan, các suy tư
huyền đã phần nào bị rơi rụng, giản lược đi để hòa quyện vào các tín ngưỡng dân gian bản địa khác đơn giản.
Một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo ở ĐNA là tính chất đơn giản tượng trưng của lễ nghi. Khác với nghi
lễ trong chùa chiền Bắc tông thường linh thiêng ồn ào, trọng tâm của người xuất gia đến chùa chiền Nam tông
sự hòa quyện giữa Đạo và Đời, sự nỗ lực của con người không phải về lễ bái mà là tọa thiền, suy tư về nguyên lý của
Phật.
Phật giáo giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân ĐNA, một số nước như Lào,
Thái, Myanma,... người ta đều khẳng định Phật giáo đã có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng một nền văn
hóa thống nhất, trong nền văn hóa dân tộc đều mang màu sắc Phật giáo, Phật giáo đều gắn liền với tổ quốc dân
tộc.
Nhìn chung, Phật giáo ĐNA nằm trong một phức hợp văn hóa tôn giáo vừa đa dạng lại vừa hòa hợp vào nhau.
Trong đó những tín ngưỡng dân gian chất phác tràn ngập trong kinh kệ thiêng liêng đến mức thể che lấp hoặc
giản nhẹ tính chất biện, cao siêu của giáo lý. Phật giáo cũng không tồn tại một cách thuần khiết bởi đượm
những yếu tố tín người bản địa tàn văn hóa tôn giáo trước nó. Sự đan xen hòa hợp dung nạp giữa các yếu tố
văn hóa tôn giáo trên đây đã tạo một gương mặt đặc biệt cho Phật giáo Đông Nam Á. Cũng chính vậy Phật
giáo tồn tại và phát triển, trở thành tôn giáo chính có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hóa xã hội ĐNA.
GIÁO LÝ PHẬT GIÁO
2
Phật giáo vừa một tôn giáo, vừa một trào lưu triết học, trong đó triết học Phật giáo sở cho những giáo
lý đạo Phật. Triết học Phật giáo là một hệ thống phức tạp, nó đề cập đến nhiều vấn đề của giới tự nhiên, xã hội và
duy. Trong triết học Phật giáo chứa đựng cả những quan niệm duy vật duy tâm, đặc biệt đã xây dụng được
phương pháp biện chứng sâu sắc. Theo đánh giá của Ăng ghen: duy biện chứng duy vật rất sớm các nhà
triết học duy vật Hy Lạp cổ đại những tín đồ của Phật giáo kỳ. Nếu xem Phật giáo là một tôn giáo của sự giải
thoát và việc giải thoát gắn với vai trò của con người thì giáobản của Phật giáo là “Tứ diệu đế” và “Niết bàn”.
Vì tứ diệu đế lý giải vấn đề khổ và sự diệt khổ là để đến thế giới niết bàn.
2.1 Tứ diệu đế
Tứ diệu đế được Phật giáo xem là 4 chân lý hay là 4 nền tảng, gồm: khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế. Khổ đế: là chân
lí về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Đó là trạng thái buồn phiền phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi
nguyện vọng không được thỏa mãn. Nhân đế: là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ. Đó là do ái dục (ham muốn) và
minh (kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động gọi Nghiệp (karma); hành động xấu khiến con
người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được. Diệt
đế: chân về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt
khổ đau gọi niết bàn (nirvana, nghĩa đen “không ham muốn, dập tắt”). Đó thế giới của sự giác ngộ giải
thoát. Đạo đế: là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện
đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí tuệ (tuệ). Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm bát chính
đạo (tám nẻo đường chân chính). Đó là: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng (thuộc lĩnh vực rèn luyện đạo đức-
GIỚI); chánh niệm, chánh định (thuộc lĩnh vực rèn luyện tưởng- ĐỊNH); chánh kiến, chánh duy, chánh tinh
thần (thuộc về lĩnh vực khai sáng trí tuệ- TUỆ)
2.2 Niết bàn
Niết bàn: Niết bàn được được Phật giáo xem trạng thái vắng lặng, tịch diệt, nếu con người đạt tới thì sẽ sống an
nhiên tự tại, vô ngã vị tha. Đây là một trạng thái lý tưởng. Về cơ bản có hai cách giải thích về sự tồn tại của niết bàn.
Cách thứ nhất cho rằng, niết bàn tồn tại ở nơi mà sau khi con người ta chết nếu tu hành đắc đạo linh hồn sẽ được siêu
thoát về giới Niết bàn. Niết bàn ở đây cũng có nhiều bậc khác nhau. Theo cách hiểu thông thường của các tín đồ theo
đạo Phật thì cho rằng đó tây phương cực lạc. Cách thứ hai cho rằng: Niết bàn thể tồn tại ngay tại thế giới trần
tục (sinh tử niết bàn, niết bàn sinh tử). Con người thể đạt tới trạng thái Niết bàn này khi con người đã loại
đượctham, sân, si” khi con người đã loại thoát khỏi minh sống an nhiên tự tại, ngã vị tha…, như vậy
cách giải thích thứ nhất chủ yếu hướng con người đến với thế giới siêu nhiên, cách hiểu thứ hai chủ yếu
hướng con người vào đời sống trần tục trên quan niệm Phật giáo. Đối với Niết bàn là địa ngục, việc giải thích về địa
ngục cũng giống như sự giải thích về sự tồn tại của Niết bàn. Vậy xét đến cùng thì theo cách nói của Phật giáo là “rốt
ráo” thì chẳng địa ngục hay Niết bàn. Do vậy thuyết về Niết bàn địa ngục chủ yếu giá trị về mặt hướng
thiện.
III. Phật giáo mang tính khoa học mạnh mẽ:
Tuy Phật giáo chưa hoàn toàn khoa học nhưng ta không thể phủ nhận hoàn toàn rằng Phật giáo không có tính khoa
học. Bởi vì trên nhiều phương diện, tư tưởng Phật giáo đã mang tính khoa học mạnh mẽ. Phật giáo là một tôn giáo
nhưng tư tưởng của nó lại mang tính khoa học hợp lí rất cao, tính khoa học đó phù hợp với tinh thần khoa học hiện
đại trên cả mặt lí thuyết và thực hành.
1. Điều kiện để nói Phật giao mang tính khoa học mạnh mẽ: Để khẳng định một giả thuyết khoa học được
chấp nhận rộng rãi thường phải hội tụ đủ ba điều kiện:
- Thứ nhất, hệ thống thuyết của phải nhất quán, nghĩa phải tự giải thích không tự mâu thuẫn, bài trừ
lẫn nhau.
- Thứ hai, phải khả năng tả chính xác những phát hiện đã có, đó giả thuyết thể tự hoàn thiện phù
hợp với các thực nghiệm khoa học hiện có.
- Thứ ba, theo giả thuyết này, một số suy luận và dự ngôn có thể được rút ra, và những dự đoán này có thể được xác
minh bằng các thí nghiệm và quan sát trong tương lai. Khi ngày càng có nhiều suy luận và dự đoán được đưa ra, giả
thuyết khoa học này được các nhà khoa học chấp nhận rộng rãi, giả thuyết khoa học này được gọi thuyết khoa
học.
2.Minh chứng Phật giáo mang tính khoa học mạnh mẽ:
2.1. Về mặt giáo lí lý thuyết Phật giáo là tự nhất quán và hài hòa
- Phật giáo nhiều học thuyết sự nhất quán hài hoà nhưng trọng tâm của giáo Phật giáo thuyết Tứ Diệu
đế (4 chân lí cao cả):
3
+ “Khổ đế” là chân lí về sự khổ. Theo đạo Phật, trong thế giới này bất kì loài hữu tình hay tình đều trong chân
tướng khổ não. Con người ta 8 nỗi khổ: Sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, xa người mình yêu khổ, sống gần
người mình ghét là sự khổ, cầu mong mà không được là sự khổ, chấp trước ngũ uẩn là sự khổ.
+ “ Tập đế”chân về nguyên nhân sự khổ. Theo đạo Phật, khổdo dục vọng, biểu hiện ở nhiều hình thức khác
nhau như: tham lam, giận dữ, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ, thân kiến (tưởng thân thể trường tồn), biên kiến ( hiểu
biết phiến diện), … Trong đó, tham lam, giận dữ, si mê là tam độc-3 nguyên nhân chính của sự khổ.
+ “Diệt đế” là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Đây là lí tưởng luận của Phật giáo, Đây là phương pháp để diệt trừ
nỗi khổ, đưa chúng sinh đến sự giải thoát. Để giải thoát được đau khổ con người ta phải diệt trừ được nguyên nhân
chính gây ra đau khổ, đó chính là dục vọng cũng như phải chấm dứt được nghiệp.
+ “Đạo đế” chân về con đường diệt khổ, pháp môn thực tiễn tu hành để chúng sinh đạt được sự giải thoát ra
khỏi liên hồi, sinh tử. Đức Phật đã đề ra Pháp môn trung đạo hay còn gọi Bát chính đạo, bao gồm: Chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ , chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định=> đây là con đường giản
dị và thực tiễn về con đường diệt khổ.
Như vậy, giáo Phật giáo không phải một giáo sở, viết một cách chừng chừng những giáo ấy đều
được dựa trên những sở thực tiễn giáo này cũng đã đưa ra được một hệ thống kiến thức khoa học bao gồm
nguyên nhân, biểu hiện để từ đó đưa ra giải pháp. Đây chính một phương diện cho thấy giáo Phật giáo mang
tính liên kết, logic và khoa học mạnh mẽ.
2.2. Về mặt thế giới quan
- Phật giáo đã đề xướng những đạo bản của trụ nhân sinh, giải thích nhiều hiện tượng hội nhân
sinh, quan trọng hơn nhiều người lắng nghe lời dạy của Đức Phật để tu tập, rất nhiều người đã trải
nghiệm nhiều cảnh giới khác nhau như Phật học đã chỉ ra. Cho nên Phật giáo đã dành được sự ủng hộ của nhiều
người và đã có sự ảnh hưởng rất rộng lớn.
- Phật giáo đã đề ra thuyết nhân duyên hoà hợp, cho rằng trong vũ trụ sự vật sinh ra là do nhân duyên hoà hợp, sự vật
diệt vong do nhân duyên tan rã. Phật giáo cũng cho rằng nhân duyên-sự việc-điều kiện mối liên hệ giúp nhân tạo
quả. Trong thuyết nhân duyên hoà hợp, Phật giáo đã đề cao cái tâm, cho rằng tâm tạo nên duyên khởi, tâm là nguồn
gốc của vạn vật. Từ đề cao cái tâm Phật giáo đề cao con người và xem con người là trung tâm vũ trụ.
- Từ quan niệm sự vật trong vũ trụ do nhân duyên hoà hợp Đức phật chủ trương “vô tạo hoá”, tức không vị
thần tối cao; vạn vật, con người không phải do vị thần tối cao sinh ra mà nó luôn tồn tại độc lập với thần thánh.
- Phật giáo đã đề ra thuyết hai thuyết quan trọng là “vô thường” và thuyết “vô ngã”:
“Vô thường” thuyết nói về sbiết đổi liên tục không ngừng nghỉ của sự vật hiện tượng và chính sự biến
đổi này nó luôn chi phối vạn vật, con người trong vũ trụ.
“Vô ngã” n không cái ta, sự trôi chảy không ngừng tạo ra một sinh mạng tướng tục, không cố
định mà luôn biến đổi của vạn vật, con người, vũ trụ.
- Phật giáo đã giải thích dự đoán được những hiện tượng tự nhiên do sự quan sát thực tế ( hiện nay những
dự đoán này được xem dự đoán mang tính khoa học thực tế). dụ: Đức Phật đã nói hơn 2.500 năm về trước
rằng, có 84.000 con vi trùng trong một bát nước, và có 3000 đại thiên thế giới trong cấu trúc của vũ trụ. Hiện nay dự
đoán này được các nhà vi sinh học và thiên văn học của khoa học hiện đại xác nhận là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
2.3. Về phương diện xã hội Phật giáo đã có những tư tưởng tiến bộ
- Phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp chủ trương mọi người bình đẳng. Đức Phật đã từng nói: “ người ta khác
nhau chỉ là khác tên gọi, chứ xương thịt thì ai cũng như nhau” hay “không có đẳng cấp nào trong dòng máu cùng đỏ
như nhau, không có đẳng cấp nào trong giọt nước mắt cùng mặn”.
=> Chính nhờ những tưởng tiến bộ ấy nên Phật giáo đã thu nhập tất cả mọi người các đẳng cấp khác nhau,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn=> Từ đó góp phần làm cho tưởng Phật giáo được lan rộng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhiều người, đây chính là cơ sở để chứng minh trên thực tiễn Phật giáo đúng đắn và khoa học.
2.4.Về phương diện chính trị:
- Chủ trương một quốc gia thống nhất, một xã hội trong đó vua phải có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để cai trị,
còn nhân dân thì được sống trong thái bình.
- Sau khi đức Phật tịch diệt, đại hội Phật giáo lần thứ nhất được tổ chức ở Radagha. Trong đại hội người ta đã kết tập
các bài kinh giảng cùng các điều luật và sắp xếp lại thành hai bộ kinh : Luật tạng và Kinh tạng
- Năm 138 TCN Đại hội Phật giáo lần thứ hai được tổ chức ở Vesali đã kết tập các giới luật và một số luật kinh chưa
được kết tập vào bổ sung cho Luật tạng và Kinh tạng.
4
- Năm 261 TCN, hoàng đế Asoca ( người đặc biệt đề cao Phật giáo) đã triệu tập Đại hội 3 => Phật giáo bắt đầu phát
triển như 1 trào lưu tôn giáo thống nhất về tư tưởng và nội dung
- Từ Tk I TCN-> không thuần nhất và chia làm hai phái: Tiểu thừa và đại thừa.
Như vậy ta thấy tưởng Phật giáo đã trải qua một quá trình hình thành phát triển lâu dài, trải qua nhiều những
thăng trầm của văn hoá xã hội. Nhưng trong hoàn cảnh nào thì Phật giáo vẫn vượt lênphát triển mạnh mẽ với
sự thống nhất cao về nội dung, tư tưởng. Đó là tính tự thích ứng, tính phù hợp, khoa học của tư tưởng Phật giáo.
VI. Kết luận:
1. Kết luận tính khoa học mạnh mẽ của tư tưởng Phật giáo:
- thuyết Phật giáo tự nhất quán hài hòa. Tứ Thánh đế tóm tắt hiện tượng nhiều đau khổ trong cuộc sống
nhân sinh, chỉ ra nguyên nhân gây đau khổ, và đưa ra cơ sở lý thuyết cùng với phương pháp tu tập để điều phục thân
tâm.
- Thứ hai, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đã đề xướng những đạo bản của trụ nhân sinh, giải thích
nhiều hiện tượng xã hội và nhân sinh, và quan trọng hơn là nhiều người lắng nghe lời dạy của Đức Phật để tu tập, và
có rất nhiều người đã trải nghiệm nhiều cảnh giới khác nhau như Phật học đã chỉ ra. Cho nên Phật giáo đã dành được
sự ủng hộ của nhiều người và đã có sự ảnh hưởng rất rộng lớn.
- Những lí thuyết của Phật giáo trên thực tế đã được chứng nghiệm.
- Nói về Phật giáo nhà bác học Albert Einstein đã cho rằng:”Tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo vềtrụ. Nó phải
vượt trên một nhân đấng thượng đế tránh bỏ giáo điều thần học. Bao trùm cả hai mặt tự nhiên tâm
linh, nó phải được dựa trên ý nghĩa tôn giáo có được từ kinh nghiệm về mọi sự vật tự nhiên và tâm linh như là cách
kết hợp đúng nghĩa nhất. Phật giáo sẽ trả lời được ý nghĩa này. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với những
nhu cầu của khoa học hiện đại thì có lẽ đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật
hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo
khoa học, bởi vì Phật giáo bao trùm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”.
=> Trên nhiều phương diện tư tưởng Phật giáo mang tính khoa học mạnh mẽ.
2. Kết luận về tính chưa hoàn toàn khoa học
Phật Giáo chưa hoàn toàn khoa hoạc bởi trong giáo của Phật Giáo hướng con người ta thoát tục, việc này
điểm tích cực tiêu cực. Điểm tích cực giúp con người ta trở nên hoàn thiện tốt đẹp hơn, tiêu cực làm cho
con người hướng tới thoát khổ quên đi mọi thứ xung quanh không còn ham muốn tham vọng. Điều đó dẫn đến
triệt tiêu đi sự ham muốn, sự vươn lên và phát triển của con người.
Nho giáo:
Giai đoạn phát triển của Nho giáo:
GĐ1, Nho giáo có giai đoạn phát triển từ Nho giáo nguyên thủy
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên dưới thời Xuân thu. Những sở của được hình
thành từ đời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán. Đến lượt mình Khổng tử phát triển tưởng
Chu Công, hệ thống hóa lại và tích cực truyền bá, vì vậy Ông được xem là người sáng lập Nho giáo. Khổng tử (551-
479TCN), là con một gia đình quí tộc nước Lỗ. Khổng tử muốn đem tài sức của mình ra giúp vua, chủ trương lập lại
trật tự, lễ nghĩa nhà Chu nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng. Ông đi đến các nước chư hầu khác mong được
mang tưởng cải tạo hội ra giúp nước trị dân, cứu đời, nhưng đến đâu cũng không thành công. Cuối đời, nhận
thấy thực sbất lực trong công việc chính trị, Khổng tử về nước mở trường dạy học viết sách. Ông hệ thống hóa
những tri thức, tưởng đời trước quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị nổi tiếng, gọi Nho
Giáo. Sau khi Khổng tử chết, nho gia chia làm tám phái nhưng quan trọng nhất là hai phái : Mạnh tử (327-289TCN)
và Tuân tử (313-238TCN). Tuân tử phát triển mặt duy vật của Khổng tư, tư trưởng triết học mang đặc sắc chủ nghĩa
duy vật thô sơ, không luận cứ khoa học nên không đứng vững được. Mạnh tử, người học trò bảo vệ xuất sắc
nhất tưởng của Khổng tử. Ông đã khai thác, phát triển quan điểm duy tâm của Khổng tử những cống hiến
riêng của mình. Tư tưởng Khổng Mạnh là cốt lõi của tư tưởng Nho gia. Mạnh tử đã khép lại một gia đoạn quan trọng
– giai đoạn hình thành Nho giáo, Đó là Nho giáo nguyên thủy hay còn gọi là tư tưởng Khổng - Mạnh.
GĐ2, Nho giáo phát triển dưới thời Hán
Vào thời kỳ nhà Hán (140-87TCN), nhà nho Đổng Trọng Thư đã nhìn thấy khả năng to lớn của Nho giáo trong việc
bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị nên đã tìm cách vẽ cho nho giáo theo chiều hướng có lợi cho giai
5