intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Những vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng cộng sản

Chia sẻ: Hà Vy | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:93

113
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Những vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng cộng sản để giúp các bạn sinh để nắm kiến thức chuẩn bị cho các kì thi sắp đến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Những vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng cộng sản

  1.  TÀI LIÊU TỔ 1: MÔN những vấn đề về CN Mac – Lê Nin, Tư tưởng  HCM + Lịch sử Đảng CS (Thi sáng ngày 09/3/2017) I. KHOA LÝ LUẬN MÁC LÊ NIN – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH  Câu 1: Đồng chí hãy chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển của sự  vật? Ý nghĩa của vấn đề đối với sự phát triển của cơ quan, đơn vị. Trả lời: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy  luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ  bản của phép biện chứng duy vật.  Quy luật vạch ra nguồn gốc, động lực của sự  vận động, phát triển, theo đó  nguồn gốc của sự  phát triển chính là mâu thuẩn và việc giải quyết mâu thuẫn   nội tạng trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng. Nguyên lý về sự phát triển: Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi phát triển chỉ  là sự  tăng lên về lượng đơn thuần. Chủ  nghĩa duy tâm công nhận sự  phát triển   nhưng cho rằng ý thức, tinh thần là động lực, nguyên nhân của sự  phát triển.  Chủ nghĩa duy vật Macxit coi phát triển là quá trình vận động theo hướng đi lên  từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển không chỉ là  sự tăng lên, giảm đi về lượng mà còn là sự nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự  phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong   sự vật quy định. Phát triển là khách quan, phổ biến và có nhiều hình thức cụ thể  khác nhau.  Chẳng hạn  ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở  sự  tăng cường   khả  năng thích nghi của cơ  thể  trước môi trường;  ở  khả  năng tự  sản sinh ra   chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong xã hội,  phát triển thể  hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ con người. Trong   tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn. * Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu   thuẫn): mâu thuẫn biện chứng là sự tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Những   mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng, thuộc tính biến đổi, phát triển trái  ngược nhau trong cùng sự  vật, hiện tượng hay hệ  thống sự  vật, hiện tượng.   Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo ba nghĩa: Các mặt đối lập làm   điều kiện, tiền đề  tồn tại cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia và   ngược lại; các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau; giữa hai mặt  đối lập có điểm chung nhau, tương đồng nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là  sự phủ định nhau, bài trừ nhau hay sự triển khai của các mặt đối lập. 1
  2. Nội dung quy luật: Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có vai trò là nguồn gốc của   quá trình vận động, phát triển của sự  vật. Khi hai mặt đối lập thống nhất với   nhau thì sự vật vận động từ từ, chậm chạp, mâu thuẫn chưa gay gắt. Nhưng xu   hướng của hai mặt đối lập là đấu tranh với nhau, đi ngược nhau. Do vậy, đến   một thời điểm nhất định thì cả  hai mặt đối lập đều biến đổi, mâu thuẫn biến   đổi. Nếu mâu thuẫn được giải quyết thì mâu thuẫn cũ mất đi làm sự vật không  còn là nó. Từ  sự  vật cũ ra đời sự  vật mới, mâu thuẫn mới lại xuất hiện. Mâu   thuẫn mới này rồi lại được giải quyết. Cứ  như  vậy, sự  vật vận động, phát   triển. Như vậy, chính sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn   gốc của sự vận động, phát triển của sự vật. * Liên hệ:  Tron hoạt động tiễn cần xác định đúng mâu thuẫn. Giaỉ  quyết mâu  thuẫn không được chủ quan, thỏa hiệp. Từ nguyên lý về sự phát triển, Triết học duy vật macsxit ra ý nghĩa phương   pháp luận là phải có quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực   tiễn. Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó trong hiện  tại như  nó mà còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó  trong tương lai, trên cơ  sở  đó dự  báo những tình huống có thể  xảy ra để  chủ  động nhận thức, giải quyết. Ví dụ: Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản phải có  tính dự  báo và có tính  ổn định tương đối. Tính dự  báo thể  hiện văn bản không  chỉ có khả năng giải quyết được những vấn đề đặt ra cho xã hội mà còn có khả  năng giải quyết được những vấn đề  đó trong tương lai. Vì xã hội luôn biến  động và phát triển, nội dung VBQPPL không có tính dự báo thì sẽ lạc hậu ngay   sau khi ban hành và điều đó làm cho văn bản không có khả năng thực hiện được. Trong công cuộc đổi mới  ở  nước ta hiện nay có rất nhiều mâu thuẫn trong  mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một vấn đề  quan tâm của Đảng, Nhà  nước. Xác định rõ mâu thuẫn cơ bản là cơ sở để định ra đường lối chiến lược cho  cách mạng. Đối với mỗi cơ quan đơn vị, việc hiểu và tìm ra mâu thuẫn cơ bản là cơ sở  định ra nhiệm vụ lâu dài. Từ  đó có kế  hoạch giải quyết những mâu thuẫn chủ  yếu trước mắt để từng bước tiến tới giải quyết mâu thuẫn cơ bản. Chúng ta phải nhận thức được rằng, mâu thuẫn là hiện tượng khách quan  và phổ  biến, nên trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn, tức là  không được né tránh mâu thuẫn cũng như không được tạo ra mâu thuẫn. Vì mâu  2
  3. thuẫn là động lực của sự phát triển nên muốn thúc đẩy sự phát triển phải nhận  thức được mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu thuẫn, phải tạo ra điều kiện   thúc đẩy sự đấu tranh của các mặt đối lập theo chiều hướng phát triển. Mỗi người trong cuộc sống phải xác định được rằng, mâu thuẫn chỉ  được  giải quyết khi có đủ  điều kiện chín muồi, do đó không được nóng vội, chủ  quan, duy ý trí trong giải quyết mâu thuẫn, cũng không được để  cho việc giải  quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự  phát, mà phải tích cực chủ  động theo dõi   quá trình phát triển của mâu thuẫn để tạo ra điều kiện chín muồi để giải quyết. Câu 2: QUAN điểm duy vật macxit về mối quan hệ giữa vật chất và ý   thức ­ Khái niệm vật chất: Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại   khách quan được đem lại cho con người   trong cảm giác, được cảm giác của   chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. ­ Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc   con người. ­ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Chủ nghĩa duy vật Mac xit khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết định  ý thức, ý thức là cái phản ánh cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định. Như trên   chúng ta đã rõ, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức   cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc con người. Do vậy, không có bộ óc người thì   không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh   của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Vật chất còn là cơ sở, nguồn gốc của những nội dung mà ý thức phản ảnh.   Nghĩa là vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức. Chủ  nghĩa duy vật Macxit cũng cho rằng, mặc dù vật chất quyết định ý   thức, nhưng ý thức có tính năng động, sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động  thực tiến của con người có thể  tác động trở  lại vật chất bằng cách thúc đảy   hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến   thế giới khách quan. Tuy nhiên sự  tác động trở  lại của ý thức đối với vật chất  dù đến đâu chăng nữa vẫn phụ  thuộc vào các điều kiện vật chất. Cho nên, xét   đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức. ­ Liên hệ. Trong nhận thức phải nhận thức sự vật vốn như nó có, không “tô hồng, bôi  đen”, phản ánh không đúng sự vật, , từ phản ánh không đúng này sẽ dẫn tới sai  lầm trong hành động.  3
  4. Trong hoạt động thực tiễn luôn phải xuất phát từ  thực tế  khách quan, tôn  trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Chúng ta  không thể  lấy mong muốn chủ  quan thay cho thực tế  khách quan, không thể  hành động trước không đúng quy luật. Vì như vậy sẽ phải trả giá. Quan điểm khách quan cũng yêu cầu trong hoạt động thực tiễn phải biết   phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần trong cải tạo thế giới.  Nghĩa là phải cố  gắng, tích cực vươn lên, biết phát huy tối đa lực lượng vật   chất hiện có. Đồng thời cũng phải tránh không rơi vào chủ  nghĩa khách quan,   tức là trông chờ, thụ động, ỷ lại điều kiện khách quan, không cố gắng, tích cực  vượt khó vươn lên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cùng với việc coi trọng phát  triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân đã rất chú trọng phát  triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội. Quan điểm khách quan cũng yêu cầu phải chống bệnh chủ quan, duy ý chí,   tuyệt đối hóa ý thức, tinh thần trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn xây dựng   chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước đổi mới 1986 cho thấy, chúng ta đã mắc phải   bệnh chủ quan, duy ý chí trong xây dựng mục tiêu, bước đi xây dựng chủ nghĩa  xã hội và cải tạo xã hội chủ  nghĩa. Khắc phục những sai lầm chủ  quan này,   trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xuất phát từ thực tiễn nước ta   vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường  lối phát triển kinh tế xã hội phù hợp. Do vậy mọi mặt đời sống của nhân dân  được nâng lên, vị thế của đất nước được nâng cao. Câu 3. Đồng chí hãy chỉ ra cách thức vận động của sự vật, ý nghĩa của   sự hiểu biết vấn đề đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. ­ Nguyên lý về sự phát triển: Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi phát triển chỉ  là sự  tăng lên về lượng đơn thuần. Chủ  nghĩa duy tâm công nhận sự  phát triển   nhưng cho rằng ý thức, tinh thần là động lực, nguyên nhân của sự  phát triển.  Chủ nghĩa duy vật Macxit coi phát triển là quá trình vận động theo hướng đi lên  từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển không chỉ là  sự tăng lên, giảm đi về lượng mà còn là sự nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự  phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong   sự vật quy định. Phát triển là khách quan, phổ biến và có nhiều hình thức cụ thể  khác nhau.  Chẳng hạn  ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở  sự  tăng cường   khả  năng thích nghi của cơ  thể  trước môi trường;  ở  khả  năng tự  sản sinh ra   chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong xã hội,  phát triển thể  4
  5. hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ con người. Trong   tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn. ­ Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật của phép biện chứng chỉ ra   cách thức của sự vận động. + Khái niệm chất: chất là phạm trù triết học chỉ  tính quy định khách quan  vốn có của các sự  vật, hiện tượng; là sự  thống nhất hữu cơ  các thuộc tính làm   cho sự vật là nó mà không phải là sự vật khác. + KN Lượng: Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn   có của sự  vật, hiện tượng về  mặt quy mô, trình độ  phát triển, biểu thị  đại   lượng con số  các thuộc tính, các yếu tố,...cấu thành sự  vật. Lượng được thể  hiện thành số lượng, đại lượng về trình độ, quy mô, nhịp điệu, tốc độ, vv...của   sự vận động và phát triển của sự vật. + Nội dung quy luật chuyển hóa từ  những thay đổi về  lượng thành những  thay đổi về chất và ngược lại. Theo triết học duy vật biện chứng, mỗi sự vật đều có sự  thống nhất giữa   chất và lượng. Sự thay đổi của sự  vật bao giờ  cũng bắt đầu từ  sự  thay đổi về  lượng, nhưng không phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn đến thay đổi về chất.  Khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm cho   chất của sự  vật thay đổi được gọi là độ. Nói khác đi, độ  là phạm trù triết học   chỉ sự  thống nhất giữa lượng và chất; là khoảng giới hạn mà trong đó, sự  thay   đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm cho sự thay đổi căn bản về chất   của sự vật diễn ra.  Sự thay đổi về lượng của sự vật (tăng lên hoặc giảm đi) đến giới hạn nhất  định sẽ  làm cho chất của sự  vật thay đổi. Điểm tới hạn đó được gọi là điểm  nút. Khi có sự thay đổi về chất diễn ra do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra  được gọi là bước nhảy. Có nhiều loại bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn, bước  nhảy đột biến (chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở  tất cả các bộ  phận cơ bản, cấu thành sự vật) và bước nhảy dần dần (là quá trình thay đổi về  chất dienx ra bằng con đường tích lũy dần dần những nhân tố  của chất mới và  mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ); bước nhảy toàn bộ   (là bước nhảy  làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thanhf sự vật)   và bước nhảy cục bộ  (là bước nhảy làm thay đổi một số  mặt, một số  yếu tố,   bộ phận của sự vật đó). Trong lĩnh vực xã hội thay đổi về lượng được gọi là “,   tiến hóa” thay đổi về chất được gọi là “cách mạng”. 5
  6. Sau khi ra đời, chất mới lại tác động trở lại tới lượng mới. Sự tác động của  chất mới đến lượng mới thể hiện ở chỗ nó tác động tới quy mô, nhịp điệu, tốc  độvvv của lượng mới. Tóm lại sự  thống nhất giữa lượng và chất trong sự  vật   tạo thành độ. Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy  ra bước nhảy, chất cũ bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Như vậy, sự  vật phát triển theo cách thức: đứt đoạn trong liên tục. * Liên hệ.  Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ  nhận thức nó trong hiện   tại như nó có mà còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó  trong tương lai. Trên cơ  sở  đó dự  báo những tình huống có thể  xảy ra để  chủ  động nhận thức, giải quyết. Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ  mọi sự  vật, hiện tượng trong thế  giới luôn vận động, biến đổi và phát triển.  Phát triển là khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi tạm thời, do vậy trong hoạt động  thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai. Nhận thức sự vật phải nhận thức cả chất và lượng của nó. Muốn thay đổi  chất của sự  vật phải có sự  thay đổi về  lượng, cho nên không được chủ  quan,  nóng vội. Khi tích lũy về lượng đã đủ cần thực hiện bước nhảy, tránh bảo thủ,  trì trệ, ngại khó. Trong hoạt động thực tiễn cần chống “tả khuynh” tức là tuyệt  đối hóa bước nhảy về chất khi chưa tích lũy đủ  về lượng. Đồng thời cũng cần   tránh xu hướng “hữu khuynh”, tức là tuyệt đối hóa sự tích lũy về  lượng, không  dám thực hiện bước nhảy về chất khi tích lũy về lượng đã đủ. Muốn giữ cho sự  vật còn là nó thì phải nhận thức được giới hạn độ của nó và giữ cho sự thay đổi  về lượng không vượt quá giới hạn độ cho phép. * Liên hệ  2: Cách thức vận động phát triển của sự  vật hiện tượng có ý  nghĩa: Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta: Tránh tư tưởng nôn   nóng, đốt cháy giai đoạn (chưa đủ về lượng). Khi đã chín muồi phải thực hiện bước  nhảy. Nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được bản chất của sự  vật hiện tượng, được quy luật và những xu hướng của nó. Quan điểm phát  triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình;   đặt nó trong sự  vận động, sự  phát triển mới nắm được quy luật và những xu   hướng của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu khi xét sự  vật trong   từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai đoạn khác  mà phải liên hệ  chúng với nhau mới có thể  nắm được logic của toàn bộ  tiến   trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần lạc quan tích  cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sự trì trệ bảo thủ. 6
  7. Đối với bản thân khôg ngừng học tập nâng cao trình độ, trau dồi thêm kiến   thức, học tập kinh nghiệm của đồng ghiệp để  đat được mục tiêu ,Xuất phát từ  chức năng, nhiệm vụ, …………… ….. liên quan trực tiếp đến ………….. uy tín   của   Đảng   và   nhà   nước   cho   nên   hoạt   động   của   ……..   có   tác   dụng  ………………………………. Đòi hỏi có sự phối hợp cả trong lực lượng và ngoài xã hội. Không   dừng   lại   ở   hiện   tượng   mà   phải   hiểu   rõ   bản   chất  ………………………. Phải tăng cường công tác tuyên truyền vân động nghiên cứu nắm tình hình,  từ đó tổng kết nâng cao thành lý luận quan diểm chỉ đạo thực tiễn. Không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt. Vì thực trạng đội ngũ cán  bộ  công chức viên chức thực sự  trong sạch, vững mạnh và luôn tự  kiểm điểm  nhìn nhận kiểm điểm bản thân ……………………... Câu 4. Sinh thời Chủ tịch HCM đưa ra thực tiễn mà không có lý luận,   lý luận mà không có thực tiễn....Bằng lý luận và thực tiễn đã được học Đ/c  Hãy chứng minh luận điểm trên. Trả lời ­ KN thực tiễn: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng: thực tiễn là hoạt động  vật chất – cảm tính, mang tính lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo   tự nhiên và xã hội. ­ KN lý luận: lý luận là hệ  thống những tri thức được khái quát từ  kinh   nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ  bản chất, tất nhiên, mang tính  quy luật của các sự  vật hiện tượng trong thế  giới và được biểu đạt bằng hệ  thống nguyên lý, quy luật, phạm trù. ­ Vai trò của thực tiễn đối với lý luận Thực tiễn là cơ  sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng   hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ thuộc   tính, tính chất, quy luật. Trên cơ  sở đó con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa  là thực tiễn cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không   thể có nhận thức. Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ  đòi hỏi nhận thức phải trả  lời.   Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người. Các cơ  quan cảm  giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả h ơn, đúng   đắn hơn. Thực tiễn còn là cơ  sở  chế  tạo công cụ, máy móc hỗ  trợ  con người nhận   thức hiệu quả hơn. Nhờ những công cụ, máy móc này mà con người nhận thức  7
  8. sự  vật chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ  sở  đó thúc đẩy nhận thức phát  triển. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. ­ Vai trò của lý luận đối với thực tiễn. + Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ  đạo thực tiễn: Nhờ  những  đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn   đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt  động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế  giới khách quan và  biến đổi chính thực tiễn. + Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp   quần chúng để  tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn của con người góp  phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn. + Lý luận đóng vai trò định hướng, dự  báo cho hoạt động thực tiễn, giúp  hoạt động thực tiễn chủ  động, tự  giác, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò  mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn. ­ Liên hệ. Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát  từ thực tiễn địa phương, ngành, đất nước. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để  bổ  sung, hoàn thiện phát  triển lý luận cũng như  chủ  trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn   làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh   nghiệm (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực  tiễn, coi thường, hạ thấp lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và   hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường hạ  thấp kinh nghiệm thực tiễn  hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác,  địa phương khác,  nước khác không tính tới điều kiện thực tiễn cụ thể của mình). Trong công tác, mỗi cán bộ  phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói  đi đôi với làm”, tránh nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều làm ít, nói mà không   làm... Câu 5. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ  tầng 8
  9. ­ KN Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu   kinh tế  của một xã hội nhất định. Cơ  sở  hạ  tầng hình thành một cách khách  quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. ­ KN Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ  những quan điểm chính trị, pháp   luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế  tương ứng (nhà  nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể...) được hình thành trên một cơ  sở  hạ  tầng nhất định. CSHT quyết định KTTT , KTTT có tính độc lập tương đối tác động lại  CSHT. ­ Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT CSHT và kttt là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái KTXH. Trong sự  tác động biện chứng giữa CSHT và KTTT thì CSHT quyết định   KTTT. CSHT quy định tính chất của KTTT. Nói cách khác, tính chất xã hội, giai  cấp của KTTT phản ánh tính chất xã hội, giai cấp của cơ sở  hạ tầng. Bộ mặt  KTTT trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra một cách phong phú, phức  tạp và đôi khi dường như không trực tiếp gắn với CSHT. Đó chỉ là biểu hiện bề  ngoài, còn thực chất ngay cả  những hiện tượng lạ  lùng nhât của KTTT cũng   đều có nguyên nhân sâu xa từ cơ cấu kinh tế của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế  quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh  vực chính trị, tư tưởng. Trong XH có giai cấp , giai cấp nào chiếm địa vị thống   trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong dời sống chính trị, tinh thần. Vai trò quyết định của CSHT đối với KKTT còn thể  hiện  ở  chỗ: Sự  biến   đổi căn bản trong CSHT sớm hay muộn sẽ  dẫn đến sự  biến đổi căn bản của  KKTT. Qúa trình đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất   cách mạng của các chế  độ  xã hội, mà còn được thể  hiện ngay trong bản thân  một hình thái KTXH. KTTT cũng có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng của nó  trong sự phát triển. Sự phụ thuộc của KTTT vào CSHT không giản đơn và thụ  động. Sự  tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ  phận của KTTT cũng có  ảnh   hưởng đến sự tồn tại, vận động và phát triển của KTTT. Hơn nữa, KTTT còn có sự tác động trở lại đối với CSHT. Các bộ phận của   KTTT đều có sự  tác động trở  lại đối với CSHT. Những bộ  phận đó tác động  đến cơ sở hạ tầng ở những mức độ khác nhau bằng nhiều hình thức khác nhau,  theo những cơ  chế  khác nhau. Trong đó nhà nước giữ  vai trò đặc biệt quan   9
  10. trọng. Tuy là một bộ  phận của KTTT nhưng nhà nước là một lực lượng vật   chất có sức mạnh kinh tế. Sự tác động của KTTT đối với CSHT theo hai hướng: Một là, sự  tác động phù hợp với các quy luật kinh tế  khách quan sẽ  thúc  đẩy kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển. Hai là, ngược lại, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách  quan sẽ  kìm hãm sự  phát triển kinh tế, thậm chí đẩy nền kinh tế  rơi vào tình   trạng khủng hoảng. Như  vậy sự  tác động trở  lại của KTTT đối với cơ  sở  kinh tế  rất to lớn,  nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò của KTTT một cách chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn  đến những sai lầm gây hậu quả đối với sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ xã hội. * Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT vào công cuộc   đổi mới của nước ta. Trong thời kỳ  quá độ  lên CNXH, việc xây dựng cơ  sở  HT và KTTT phải  được tiến hành từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp. Quan hệ  giữa CSHT và KTTT thực chất là quan hệ  kinh tế  và chính trị.   Phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị  khẳng định kinh tế  quyết định chính  trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Vì vậy, khi vận dụng quan điểm  biện chứng này phải xuất phát từ kinh tế, từ những quy luật kinh tế khách quan,  đồng thời phải coi trọng vai trò của chính trị, tính năng động, sáng tạo của chính  trị trong việc vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hóa một mặt   nào đó đều dẫn đến sai lầm. Một trong những lệch lạc, sai lầm mà nhiều nước XHCN trước đây thường  mức phải  ở  những mức độ  khác nhau đó là cường điệu hóa vai trò của KTTT,  của chính trị, coi chính trị là thống soái, chính trị thuần túy dựa trên nguyện vọng  và tình cảm chủ  quan bất chấp kinh tế. Từ  đó dẫn đến sự  phát triển kinh tế  không bền vững hoặc trì trệ, khủng hoảng. Trong đổi mới, nước ta vận dụng một cách sáng tạo mối quan hệ  biện  chứng giữa CSHT và KTTT, đổi mới một cách đồng bộ với những bước đi thích   hợp giữa kinh tế và chính trị đã giành được nhiều thành tựu to lớn: chủ nghĩa xã  hội được giữ vững, kinh tế phát triển, tiến bộ XH được biểu hiện một cách rõ   rệt. Việc xây dựng CSHT và KTTT XHCN phải được tiến hành từng bước với   những hình thức, bước đi thích hợp. Khi xây dựng CSHT và KTTT XHCN phải  tuân theo quy luật, không lấy ý muons chủ  quan áp đặt, thay thế  các quy luật   10
  11. khách quan. Đồng thời phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của kiến   trúc thượng tầng trong việc vận dụng quy luật khách quan. Câu 6: Theo đồng chí, Ý thức xã hội tác động trở  lại tồn tại xã hội   như thế nào? Liên hệ thực tiễn ở địa phương? Trả lời * Khái niệm ý thức xã hội: Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống   xã hội, bao gồm toàn bộ  những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm  trạng ...  của những cộng đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản   ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định. * Khái niệm tồn tại xã hội:  Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng  toàn bộ  những  điều kiện sinh hoạt vật chất, quan hệ  vật chất của xã hội.   Những yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất bao   gồm phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân   số và mật độ dân số. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản   nhất. Trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất. Trong các quan hệ  vật chất của xã hội thì quan hệ  giữa người với tự  nhiên và quan hệ  vật chất  giữa người với nhau là cơ  bản. Ngoài những yếu tố  cơ  bản trên thì những yếu   tố  khác như  quan hệ  quốc tế, quan hệ  giai cấp, quan hệ  dân tộc, quan hệ  gia   đình… cũng đóng vai trò quan trọng trong tồn tại xã hội. * Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với sự tồn tại của xã hội: ­ Tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội: Các hình thái ý thức xã hội  không chỉ tác động lẫn nhau mà còn tác động   trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo  hai khuynh hứơng cơ  bản là tích cực và tiêu cực. Nếu ý thức xã hội phản  ảnh   đúng quy luật vận động, phát trỉên của tồn tại xã hội thì thông qua hoạt động  thực tiễn của con người nó có thể  tác động tích cực tới tồn tại xã hội. Biểu  hiện của sự tác động tích cực của ý thức XH đối với tồn tại Xh là nó thúc đẩy  phương thức sản xuất phát trỉên; góp phần cải biến điều kiện tự  nhiên, hoàn  cảnh địa lý theo hướng có lợi cho con người và sản xuất vật chất, điều chỉnh  dân số và mật độ dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế­ địa lý... trên cơ  sở  đó,   thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. ­ Tác động tiêu cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội: Nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật vận động, phát  trỉên của tồn tại xã hội, hoặc ý thức xã hội phản  ảnh tiến bộ, nhất là ý thức  chính trị  hoặc ý thức xã hội phản ánh vượt trước   tồn tại xã hội nhưng vượt   trước ảo tưởng, duy ý trí ... thì sẽ tác động tiêu cực tới tồn tại xã hội. Biểu hiện  11
  12. của sự  tác động tiêu cực của ý thức XH đối với tồn tạ Xh là nó cản trở tồn tại   xã hội phát triển. Cụ  thể là ý thức XH thông qua hoạt động thực tiễn của con   người cản trở sản xuất vật chất phát triển; hủy hoại môi trường sống tự nhiên;  làm mất cân bằng về  dân số  và mật độ  dân cư...Như  vậy là kìm hãm sự  phát  triển của XH theo hướng tiến bộ. ­ Mức độ, tính chất và hiệu quả của tác động ý thức xã hội đối với tồn tại  xã hội phụ  thuộc vào nhiều yếu tố  như: Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu,   phản động của chủ thể mang ý thức xã hội tức địa vị lịch sử của giai cấp ­ chủ  thể  mang ý thức xã hội; Tính khoa học hay không của ý thức xã hội, mức độ  thâm nhập của ý thức xã hội vào quảng đại quần chúng   nhân dân, năng lực   triển khai, hiện thực hoá ý thức xã hội vào hoạt động thực tiễn của chủ thể lãnh   đạo, quản lý. Nhận thức sâu sắc tác động to lớn   của ý thức XH đối với tồn tại Xh   trong công cuộc đổi mới hiện nay, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ,   Đảng CSVN đã đề  ra nhiệm vụ: “ Xâydựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà  bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu   sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ  và   thấm sâu vào toàn bộ đời sống XH, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức   mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. * Liên hệ:  Đảng ta đã chỉ ra rằng ý thức XH CN băt nguồn từ ý thức cách mạng của  giai cấp vô sản đươc hình thành trong cuộc đấu tranh chống CNTB  Ý thức XHCN không phải được hình thành một cách tự  phát mà chủ yếu   là kết quả tự  giác của công tác giáo dục dưới sự lãnh đạocủa đảng sự tham gia  và rèn luyện tích cực của quần chúng nhân dân. Do vậy đảng đã lãnh đạo, chỉ  đạo tuyên truyền, vận động tinh thần tự giác, rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi cá  nhân cũng như toàn thể cộng động. Bản thân đảng cũng chỉ có thể hoàn thành sứ  mệnh khi biets nâng cao tầm trí tuệ, phẩm chất đạo đức,  năng lực lãnh đạo và  gắn bó máu thịt với nhân dân. Trong quá trình đổi mới, nước ta đã kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong  lịch sử tư tưởng dân tộc và cả nhân loại đồng thời cũng đấu tranh không khoan   nhượng với những ý thức lạc hậu phản tiến bộ.  Đó là quá trình đấu tranh khắc  phục những tư  tưởng, phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu, việc tiếp thu   những tư  tưởng tiến bộ  của dân tộc nhân loại là đấu tranh chống ý thức lạc  hậu, phản tiến bộ  đồng thời đây cũng là cuộc đấu tranh bảo vệ   sự  trong sáng   của chủ  nghĩa mác ­ lê nin, tư  tưởng HCM, chủ  trương đường lối của đảng,  chính sách pháp luật của nhà nước. 12
  13. Để  hình thành đượ c ý thức XHCN về  lâu dài cơ  bản phải hình thành  đượ c tồn tại xã hội chủnghiax. Mu ốn vậy ph ải phát triển kinh tế  theo đị nh  hướ ng XHCN, phải không ngừng củng cố  quan h ệ  s ản xu ất XHCN. Hi ện   nay nướ c ta đang phát triển KT th ị  tr ườ ng định hướ ng XHCN, mở  cửa, giao   lưu, hội nhập kinh t ế  qu ốc t ế  thì chúng ta càng phải giữ  vững đị nh hướ ng   XHCN của sự phát triển kinh t ế. Cùng với phát triển kinh tế, chúng ta phải phát huy được quyền làm chủ  của nhân dân lao động,thì chúng ta mới lôi cuốn được đông đảo quần chúng  nhân dân tham gia cải tạo những tư  tưởng lạc hậu, phản tiến bộ, mới thu hút  được họ tham gia quản lý, XD,phát triển kinh tế XH, VH, GD, KHọc. Liên hệ bản thân: Bản thân tôi sau khi tìm hiểu về " ý thức xã hội" đã rút ra cho mình những   kiến thức nhất định giúp ích cho quá trình công tác cũng như cuộc sống. Là một   đảng viên sau khi tìm hiểu về ý thức XH tôi nhạn thấy được vai trò dẫn đường  của đảng dưới sự  lãnh đạo của đảng, mỗi cá nhân đã tích cực rèn luyện, học  tập, bồi dưỡng để  trau dồi kiến thức hoàn thành tốt công việc được giao. Bản  thân tôi đã có ý thức về quyền làm chủ của công dân, cũng như trách nhiệm của   người công dân trước nhà nước và pháp luật, đồng thời đó còn láy thức chống  lại tư tưởng,, tín điều tôn giáo...hoang đường, hư ảo không phản ánh hiện thực  khách quan,mê tín, di đoan, nâng cao ýthwcs tu dưỡng rèn luyện bản thân,thực  hiện nghiên túc đường lối chỉ  dạo của dảng" xây dựng nền văn háo việt nam  tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đáp  ứng yêu cầu phát triển của XH và con  người trong điều kiện đẩy mạnh CNH­H ĐH đất nước trong hội nhập kinh tế  quốc tế. Câu 7.  Tại sao nói phương thức sản xuất vật chất là yếu tố  cơ  bản  nhất có tác động to lớn đến sự   tồn tại và phát triển xã hội. Liên hệ  thực   tiễn địa phương Trả lời: * Khái niệm tồn tại XH: Tồn tại XH là đời sống vật chất cùng toàn bộ  những điều kiện sinh hoạt vật chất, quan hệ vật chất của XH. Những yếu tố cơ  bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm phương   thức sản xuất vật chất, điều kiện tự  nhiên­ hoàn cảnh địa lý, dân số  và mật độ  13
  14. dân số. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố  cơ  bản nhất. Trong  các quan hệ vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ  vật chất giữa người với nhau là cơ bản, Ngoià những yếu tố cơ bản trên, những  yếu tố  khác như  quan hệ  quốc tế, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ  gia đình... cũng đóng vai trò quan trọng trong tồn tại xã hội. Trong các yếu tố  cấu thành tồn tại và phát triển xã hội, phương thức sản   xuất vật chất là yếu tố mang tính chất quyết định. ­ Khái niệm phương thức sản xuất: Là cách thức con người thực hiện quá  trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử  nhất định. ở  một giai đoạn   lịch sử, một hình thái kinh tế  xã hội nhất định có một phương thức sản xuất  riêng. Phương thức sản xuất bao gồm 2 mặt có quan hệ mật thiết với nhau: lực   lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ­ Vai trò của sản xuất vật chất thể hiện ở những điểm sau: Một là, lao động sản xuất vật chất là một trong những nguồn gốc dẫn đến   sự xuất hiện của loài người. Hai là, hoạt động sản xuất vật chất là nguồn gốc của mọi của cải thỏa   mãn nhu cầu phong phú của con người. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra tạo  ra tư  liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự  tồn tại và phát triển của con người nói   chung, cũng như từng cá thể con người nói riêng. Ba là, con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất đã gián tiếp   sản xuất ra chính đời sống vật chất và tinh thần của XH với tất cả tính phong   phú và phức tạp của nó. Nói cách khác trong quá trình sản xuất vật chất, con  người đã tạo ra và biến đổi các quan hệ xã hội cũng như bản thân con người. Như  vậy xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ  sản xuất vật   chất. Do vậy lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của SX vật chất.   Mọi quan hệ phức tạp của đời sống XH dù trong bất kỳ  lĩnh vực nào: chính trị  hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa học...hết thảy đều  hình thành và biến đổi trên cơ sở vận động của đời sống sản xuất vật chất.  *Liên hệ phát triển LLSX ở địa phương. Lực lượng sản xuất là sự  thống nhất hữu cơ  giữa người lao động với tư  liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản xuất gồm người lao động, tư  liệu sản xuất và khoa học   công nghệ. Trong lực lượng sản xuất, chủ  nghĩa duy vật lịch sử  đánh giá cao vai trò  của người lao động và công cụ lao động. Con người với tính cách là chủ thể của  sản xuất vật chất, luôn tác động vào đối tượng lao động để  tạo ra của cải vật  chất, sáng tạo ra công cụ. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố  chủ  yếu,   hàng đầu của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạnh của  con người trong quá trình biến đổi giới tự  nhiên. Nó là yếu tố  quyết định trong   tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ vừa là thước đo trình độ chinh  phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biện sự khác nhau giữa các  thời đại kinh tế­ kỹ thuật trong lịch sử. 14
  15. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng nó luôn là yếu tố  khách  quan. Hay nói cụ thể hơn, lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn  của con người, nhưng sản xuất là kết quả  của năng lực thực tiễn của con   người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị  quyết định bởi những điều  khách quan mà con người sống  ở  trong đó, những lực lượng sản xuất đã đạt  được do thế hệ trước họ tạo ra. Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế  quan trọng   thuộc vùng trung du miền núi phía bắc và là cửa ngõ giao lưu kinh tế, xã hội   giữa trung du, miền núi phía bắc với đồng bằng bắc bộ. Có tổng diện tích tự  nhiên là 3562,82Km2 , dân số 1.131.300 người (năm 2010), có 9 đơn vị hành chính  trong đó: 02TP, 01 tx và 6 huyện. TháiNguyên là nơi tụ hội nền văn hóa của các  tỉnh miền núi phía bắc VN, tạo nên một nền văn hóa phon phú và đậm đà bản   sắc dân tộc. TN được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau  Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, là cơ  sở  đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực với gần 30   trường ĐH, CĐ, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, mỗi năm đào tạo được  khoảng gần 100.000 lao động.  Bên cạnh đó TN có khí hậu nằm trong vùng nhiệt đói, nóng ẩm và gió mùa  thuận lợi cho phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, nghiệpcó gía trị  đối với nông, lâm. Động thực vật khá đa dạng, đặc biệt có nhiều loại cây, con   làm dược liệu  quý, có thể phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Được thiên   nhiên  ưu đãi về  khí hậu, đất đai, TN có nhiều khả  năng để  phát triển nông   nghiệp,   lâm   nghiệp.   Diện   tích   rừng   tự   nhiên   02.190ha,   diện   tích   rừng   trồng  khoảng 44.450ha. Đây là một lơiị thế cho việc phát triển vùng nguyên liệu phục   vụ chế biến biến gỗ nhân tạo, làm nguyên liệu giấy. Diện tích đất nông nghiệp   toàn tỉnh chiếm 23%DT tự nhiên. Sự  phong phú về  tài nguyên khoáng sản với khoảng 34 loại hình khoáng   sản tạo cho Thái Nguyên một lợi thế  trong việc phát triển ngành công nghiệp  luyện kim và khai khoáng. TN có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ 15 đến 60 là 779.261 người  chiếm 69,4 % dân số. Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong việc bảo đảm nguồn  lao động cho việc phát triển nền kinh tế của tỉnh.  Đặc biệt TN còn là một tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu vục  ực khai  thác mỏ, thu hút nhiều dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, khai thác của các tập   đoàn kinh tế  nước ngoài cũng như  các doanh nghiệp trong nước với hàng trục  vạn người từ các địa phương khác đến học tập, nghiên cứu khoa học, lao động  làm ăn, sinh sống trên địa bàn. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt.  Với tiềm năng và cơ  hội đầu tư  còn rất lớn, điều kiện đầu tư  ngày càng  thuận lợi hơn cùng với sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh TN trong việc vận  dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về  sự  phù hợp giữa QHSX với trình độ  phát  triển của LLSX trong thời kỳ  mới đã làm cho nền kinh tế  của tỉnh có những   bước phát triển vượt bậc,tạo đà cho sự  phát triển, tốc độ  tăng trưởng kinh tế  cao. QHSX phù hợp với trình độ  phát triển của LLSX là quy luật cơ  bản của   15
  16. mọi nền kinh tế, sẽ có nhiều cơ  hội được hợp tác với các nhà đầu tư  trong và  ngoài nước, góp phần phát triển tỉnh TN thành một tnhr giàu đẹp, tương xứng  với vị trí là tỉnh cửa ngõ phí Bắc của thủ đô Hà Nội. Câu 8:  Trình bày điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa, tính hai  mặt của sản xuất hàng hóa? Liên hệ thực tiễn. Hàng hóa là một vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người   và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng  hóa là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm ra   không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất   ra nó mà là để  đáp  ứng nhu cầu tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao   đổi, mua bán. * Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa  Thứ nhất, có sự phân công lao động XH  (điều kiện cần) Phân công lao động XH là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động  XH vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Mỗi người, mỗi cơ  sở  chỉ  sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu cuộc sống   đòi hỏi họ phải tiêu dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ phải trao đổi  sản phẩm với nhau.  Nhờ có sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất mà năng  suất lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để  trao đổi  và tiêu dùng. Phân   công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở  rộng hơn, đa dạng hơn.  Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản   xuất độc lập nhất định (điều kiện đủ). Sự  tách biệt này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử  do quan hệ  sở  hữu tư  nhân về  tư  liệu sản xuất. Về  sau, do sự  đa dạng về  quan hệ  sở  hữu hoặc sự  tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử  dụng tư  liệu sản xuất quy   định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của họ, người   này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua  bán hàng hóa.  Qua đây chúng ta hiểu rõ ,cơ sở khách quan của sự hình thành và phát triển  mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Muốn đẩy  mạnh phát triển kinh tế thị trường ở một địa bàn, ngành cũng cần thúc đẩy phân  công lao động thông qua hướng nghiệp, đào tạo và tạo quyền tự chủ về quyền  sở hữu, sử dụng các yếu tố sản xuất. Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều  kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.  * Tính hai mặt của sản xuất hàng hóa. ­ Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa: +  Lao động cụ  thể:  Là lao động có ích dưới một hình thức cụ  thể  của  những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. 16
  17. Mỗi lao động cụ  thể  có mục đích, phương pháp, công cụ  lao động, đối  tượng lao động và kết quả  lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt   các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và  lao động của người thợ mộc là 2 loại lao động cụ  thể  khác nhau, lao động của   người thợ  may là lao động tạo ra quần áo, lao động của người thợ  mộc là lao  động tạo ra bàn ghế... điều đó có nghĩa là, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng   của hàng hóa. Khoa học, công nghệ  và LLSX càng phát triển , càng có nhiều hình thức   cụ thể của lao động, do đó XH càng SX ra nhiều loại hàng hóa, cơ cấu hàng hóa  ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Năng suất lao động càng tăng, trình độ  khoa học, công nghệ càng hiện đại thì số lượng hàng hóa sản xuất ra càng nhiều   với chất lượng ngày càng tốt hơn. + Lao động trừu tượng:  là lao động của người sản xuất ra hàng hóa khi  đã gạt bỏ  những hình thức cụ thể của nó,  đó chính là sự  tiêu phí sức lao động  nói chung (cả thể lực và trí lực) của người sản xuất hàng hóa.  Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Giá trị hàng hóa chính là  lao   động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Nhờ lao động trừu   tượng mà ta tìm thấy sự đồng nhất giữa những người sản xuất, do đó thấy được   cơ sở của quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu   tượng là cơ sở để người sản xuất hàng hóa trao đổi sản phẩm với nhau. Khi năng suất lao động xa hội tăng lên thì sự  hao tổn sức lực của người   sản xuất ra hàng hóa giảm xuống, do đó giá trị  của một đơn vị  hàng hóa ngày  càng giảm xuống, hàng hóa ngày càng rẻ hơn. + Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng.  Mối quan hệ này có tính hai mặt:  Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ, chúng   là 2 mặt của cùng một lao động sản xuất hàng hóa (vừa là lao động cụ thể, vừa  là lao động trừu tượng ). Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ với tư cách là lao động   cụ thể, lao động của người sản xuất hàng hóa đã tạo ra một giá trị  sử  dụng với   số  lượng và chất lượng nhất định cho xã hội. Nhưng với tư  cách là lao động   trừu tượng, sự  hao phí sức lao động cuả  người sản xuất hàng hóa có thể    ăn   khớp với mức hao phí lao động của xã hội. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất lao  động tư  nhân và tính chất lao động xã hội. Lao động tư  nhân là lao động riêng  của từng cá nhân chủ thể kinh tế, của người sản xuất hàng hóa. Họ làm gì, như  thế nào, hao phí bao nhiêu là hoạt động tư nhân của họ. Nhưng đồng thời, hoạt   động của họ  lại là một bộ  phận nằm trong sựphân công XH. LĐ xã hội là lao   động được xét dưới góc độ chung của xã hội, là sự  quy đổi chung tạo ra giá trị  hàng hóa. Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là mâu thuẫn giữa lao động tư  nhân và lao động xã hội . Mâu thuẫn đó còn được thể hiện  ở  mâu thuẫn giữa lao  17
  18. động cụ thể và lao động trừu tượng, giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa. Những   mâu thuẫn đó thúc đẩy sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả  năng khủng hoảng kinh tế. ­Thuộc tính của hàng hóa. +  Giá trị  sử  dụng của hàng hóa: Giá trị  sử  dụng của hàng hóa là công  dụng của vật phẩm có thể  thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người (Như  Gạo  để ăn, áo để mặc, xe để đi...) Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính  Gía trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát   triển của khoa học công nghệ  và của lực lượng sx nói chung. Xã hội càng tiến  bộ,  lực lượng sản xuất càng phát triển thì số  lượng giá trị  sử  dụng ngày càng   nhiều, chủng loại giá trị  sử  dụng càng phong phú, chất lượng giá trị  sử  dụng  ngày càng cao. Gía trị  SD của hàng hóa là giá trị  sd XH, vì giá trị  sd của hàng hóa không  phải là giá trị sd cho người sx trực tiếp mà là cho người khác, cho XH thông qua   trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người SX hàng hóa phải luôn quan tâm đến   nhu cầu của XH, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của XH.  Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi. + Giá trị  của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa  kết tinh trong hàng hóa. Chất của giá trị  là lao động, lượng của giá trị  là số  lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Gía trị là cơ sở của  giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Vì vậy một  hàng hóa dù giá trị sử dụng cao, nhưng nếu hao phí lao động tạo ra nó it thì giá trị  trao đổi thấp và ngược lại. + Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính: Hai thuộc tính của hàng hóa vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Thống nhất vì chúng tồn tại đồng thời trong một hàng hóa, Tức là một vật  phẩm phải có đầy đủ  2 thuộc tính này mới trở  thành hàng hóa. Nếu thiếu một  trong 2 thuộc tính trên thì vật phẩm không là hàng hóa. Mâu thuẫn thể  hiện  ở  chỗ, khi là giá trị  sử  dụng thì các hàng hóa không  đồng nhất về chất, nhưng khi là giá trị  thì chúng lại đồng nhất về  chất (đều là   kết tinh của lao đông). Việc thực hiện hai thuộc tính giá trị  sử  dụng và giá trị  thường không đồng thời về  không gian và thời gian. Đứng về  phía người sản  xuất, cái mà anh ta cần là giá trị, nhưng họ  phải tạo ra giá trị  SD. Ngược lại,   người tiêu dùng lại cần giá trị  SD, nhưng anh ta phải có giá trị, tức là phải có   tiền để  thanh toán. Nó được thể  hiện thành mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu  dùng, giữa cung và cầu. * Liên hệ sản xuất hàng hóa ở địa phương: Ưu   điểm:   Cùng   với   cả   nước,   tỉnh   Thái   Nguyên   đang   tiến   hành   công  nghiệp hóa, hiện đại hóa với những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền   18
  19. núi Đông Bắc, có nhiều dân tộc anh em, tỉnh Thái Nguyên có nhiều tiềm năng về  kinh tế, có vị  trí quan trọng về  chính trị, quốc phòng và an ninh. Do vậy, Đảng  bộ tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức đúng đắn và bước đầu vận dụng sát hợp quy  luật của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và đặc  điểm kinh tế xã hội địa phương.  Hận chế: Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc nhận  thức còn nhiều hạn chế nhất định: Kinh tế chậm phát triển, việc huy động và sử  dụng các nguồn lực của tỉnh còn kém hiệu quả; trình độ khoa học công nghệ còn  lạc hậu; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển  của tỉnh; hội nhập kinh tế  quốc tế còn hạn chế... Từ  thực trạng trên đã đặt ra  yêu cầu phải tổng kết thực tiễn, vận dụng lý luận vào cuộc sống rút ra những  bài học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng sản xuất ở Thái Nguyên trong thời  kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề  có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết  đối với cả lý luận và thực tiễn. Tóm lại:  Thực tiễn cho thấy, yêu cầu bức thiết hiện nay của tỉnh Thái  Nguyên là phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Để làm làm được điều này, Thái  Nguyên đã và đang có những cơ chế, chính sách nhằm phát huy tối đa sự gắn kết   tự  nhiên giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất   phát triển, khi mà các kyếu tố  của lực lượng sản xuất  ở  Thái Nguyên vẫn  ở  trình độ thấp so với các vùng khác trong nước và quốc tế. Một số giải pháp cơ bản ở Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa,   hiện đại hóa: 1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, tăng cường  năng lực quản lý  ủy ban nhân dân đối với sự phát triển lực lượng sản xuất  ở Thái   Nguyên. 2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với những thay  đổi của lực lượng sản cuất hiện nay. 3. Tập trung việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân  lực. 4. Phát triển khoa học công nghệ, nâng cao khả năng ứng dụng kỹ thuật mới  vào phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế  của tỉnh Thái  Nguyên. 5. Công nghiệp hóa hiện đại hóa hướng vào nông thôn, vùng sâu, vùng xa  nhằm rút ngắn khoảng cách giữa các vùng để thu hút lực lượng sản xuất. 6. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp trong nước ngoài   nước, các chuyên gia nước ngoài để phát triển sản xuất khơi dậy tiềm năng vốn   có của tỉnh. Câu 9 : Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa. Liên hệ thực tiễn  việc tác động quy luật này ở địa phương. Trả lời 19
  20. * nội dung của quy luật giá trị. Quy luật giá trị  là quy luật kinh tế  cơ  bản của sản xuất và trao đổi hàng  hóa. ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hóa thì ở đấy có sự hoạt động của quy luật  giá trị. Quy luật giá trị  yêu cầu: sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ  sở giá trị của nó tức là hao phí lao động xa hội cần thiết. Trong sản xuất, người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt của  minh nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí lao động XH cần thiết thì mới có lãi. Trong trao đổi, thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Trong trao đổi HH với nhau, 2 bên được lợi về giá trị SD còn lượng giá trị  là bằng nhau. Hai hàng hóa được trao đổi trực tiếp với nhau theo một tỷ  lệ  nào đó có  nghĩa là chúng kết tinh một lượng lao động bằng nhau. Khi có tiền xuất hiện để  mua bán thì giá cả hàng hóa phải dựa trêncơ sở giá trị của nó. * Cơ chế tác động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị hoạt động được thể  hiện  ở sự  biến đổi lên xuống của giá   cả  thông qua sự  biến đổi của quan hệ  cung ­ cầu  về hàng hóa trên thị  trường.   Sự  biến đổi giá cả  một cách tự  phát tự  do là sự  phản ánh hoạt động của quy  luật giá trị. Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và  độc quyền thì xảy ra ba trường hợp: Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị Khi cung >cầu, thì giá cả
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1