intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương ôn tập môn Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Chia sẻ: Đinh Văn Huy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

1.155
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương ôn tập môn Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm 8 câu hỏi lý thuyết giúp bạn làm quen với hình thức thi của môn học, hệ thống lại kiến thức qua các câu hỏi, bài tập và tự đánh giá năng lực của mình. Mời bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương ôn tập môn Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý

  1. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 1: Phong cách lãnh đạo, các kiểu phong cách lãnh đạo? (Bài 2) Câu 2: Đặc trưng và phương hướng rèn luyện phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản  lý cấp cơ sở? (Nội dung như  câu 9, nên lấy câu 9 để làm bài) (Bài 2) Câu 3  : Quy trình và kỹ năng ra quyết định? (Bài 3) Câu 4  : Quy trình và kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định? (Bài 3) Câu 5: Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin? (Bài 5) Câu 6: Nguyên tắc và phương pháp đánh giá cán bộ. (Bài 7) (Liên hệ thực tế) Câu 7  : Nguyên tắc và quy trình bổ nhiệm cán bộ? (Bài 7) (Liên hệ thực tế) Câu 8: Phân biệt luân chuyển với điều động cán bộ? Thực trạng công tác luân chuyển cán bộ hiện nay và kiến nghị? (Bài 7) Câu 9: Phân tích những đặc trưng và phương hướng để  nâng cao phong cách lãnh đạo của cán bộ  lãnh đạo quản lý cấp cơ  sở? (Bài 2) Câu 10: Các bước xử lý điểm nóng và ý nghĩa của từng bước? (Bài 6)
  2. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 1: Phong cách lãnh đạo, các kiểu phong cách lãnh đạo? Phong cách lãnh đạo, quản lý không tự nhiên mà có, nhất là phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ. Nó được hình thành   thông qua quá trình học tập, rèn luyện của người lãnh đạo, quản lý... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ.  Theo  Người, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ có  vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà   nước thấm sâu vào "tâm lý quốc dân"và đi vào cuộc sống. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực  của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Trước khi tìm hiểu những đặc trưng của phong cách lãnh đạo, ta làm rõ các khái niệm: Khi đề cập đến phong cách lãnh đạo có nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên có thể phân chia theo một số hướng tiếp   cận sau: Phong cách lãnh đạo là tác phong lãnh đạo; là cách thức lãnh đạo; là biện pháp, phương pháp lãnh đạo; là mẫu hành  vi lãnh đạo... Trên cơ sở kế  thừa quan niệm của các nhà tâm lý học, các nhà tâm lý học Việt Nam đưa ra khái niệm phong cách như  sau: ­ Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quán lý là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động  mội cách có hiệu quả đến đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ  lãnh đạo, quản lý đã  đề ra. ­ Phong cách lãnh đạo của cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp cơ  sở  là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn   nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả đến cấp dưới và quần chúng nhân dân tại cơ  sở.  Nó được biểu hiện qua các tác  phong làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả và thiết thực, đi sâu đi sát quần chúng, tôn trọng và lắng nghe quần chúng, khiêm tốn  học hỏi và thực sự cầu thị, năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong. Phong cách lãnh đạo có các kiểu sau: 5 kiểu ­ Phong cách lãnh đạo độc đoán: Người lãnh đạo có phong cách này thường  ứng xử  lạnh nhạt, quan cách hay can thiệp vào công việc của người khác,   không tận dụng được sức sáng tạo của những người dưới quyền. Là phương pháp lãnh đạo mà người lãnh đạo không cho phép hoặc rất hạn chế cấp dưới tham gia vào việc quyết định  các chủ trương, biện pháp lănh đạo, quản lý; Lãnh đạo một máy móc cứng nhắc, máy móc, không nhân nhượng, cầm quyền  bằng “bàn tay sắc”; sử dụng quy chế, điều lệ để điều hành côn g việc là chủ yếu; khi thay đổi thẩm quyền, chức trách của   cấp dưới thường không cần trao đổi trước với cấp dưới; khi giao nhiệm vụ cho cấp dưới thường quy định nhiệm vụ, cách  thức làm việc của cấp dưới một cách chi tiết, ít dành cho cấp dưới khả năng sáng tạo. Ưu điểm của phong cách này là: giải quyết nhanh chóng vấn đề, với thái độ  rõ ràng, dứt khoát (không mập mờ, hứa  hẹn); Khi giải quyết những vấn đề cấp bách thì rất hiệu quả; Do không qua những khâu thủ tục rườm rà nên không lãng phí  thời gian. Hạn chế của phong cách này là: thường gây áp lực mạnh mẽ  đối với cấp dưới, cấp dưới tuân thủ mệnh lệnh với thái  độ  sợ  sệt chứ  chưa hẳn là thái độ  khâm phục; Ít khi cân nhắc đầy đủ  đối với tất cả  các điều kiện liên quan đến việc ra  quyết định; Khi gặp khó khăn sẽ không phát huy được ý chí của tập thể, người lãnh đạo trở nên “cô độc” nên dễ thất bại. Trường hợp áp dụng: Dùng trong lực lượng vũ trang; các tình huống x ử  lý thiên tai, dịch bệnh,  các trường hợp thành  lập mới một tổ chức để xây dựng kỷ luật, kỷ cương của đơn vị; trong tổ chức có những người ưa chống đối... ­ Phong cách lãnh đạo dân chủ: Người lãnh đạo có phong cách này thường là người sôi nổi; hoạt bát; có tình thân ái, yêu thích công việc, biết tôn trọng   mọi người; Có trách nhiệm trách nhiệm trong công việc, có sự đồng cảm với những người xung quanh; Biết cách khai thác  trí tuệ của những người xung quanh; Ít sử dụng, quyền lực để mệnh lệnh. Là phương pháp lãnh đạo mà người lãnh đạo thường tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới tham gia vào việc quyết định  các chủ trương, biện pháp quản lý;  Khi tổ chức thực hiện quyết định thường giải thích rõ cho cấp dưới hiểu ý đồ của mình;  Thường thông báo cho cấp dưới biết các thay đổi liên quan đến họ và tranh thù sự đồng tình của họ trước khi thi hành chủ  trương, biện pháp khác; Khi giao nhiệm vụ thường để cấp dưới có điều kiện phát huy tính độc lập, sáng tạo. Ưu điểm của phong cách này là: tận dụng được những đóng góp trí tuệ  của cấp dưới nên các quyết định đưa ra thường  là ý chí và nguyện vọng đông đảo của các thành viên trong tổ chức; Tạo được sự đồng tình về mặt tình cảm của cấp dưới  cũng như  những người đồng cấp; Quyết định của người lãnh đạo được nhiều người trong bộ  máy lãnh đạo cùng chia sẻ  trách nhiệm nên dễ dàng thực hiện. Hạn chế của phong cách này là: Vì phải lấy ý kiến của cấp dưới và đồng cấp nên thường rườm rà, mất thời gian;  Khó 
  3. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy ra quyết định khi ý kiến thiếu tập trung (ý kiến trái chiều nhau, có ý kiến ủng hộ, có ý kiến không ủng hộ,…); dễ bỏ lỡ thời  cơ khi cần quyết định nhanh. Trường hợp áp dụng: Nên áp dụng đối với tập thể  phát triển cao về  nhận thức và trách nhiệm;   Trong làm việc với  những người có nhiều kinh nghiệm. ­ Phong cách lãnh đạo tự do: Người lãnh đạo có  phong  cách này thường  tin tưởng vào cấp dưới trong công việc tự  chịu quyết định, tự  chịu trách  nhiệm; Muốn phát huy được khả năng của cấp dưới, sáng tạo; Thường  buông lõng cho cấp dưới trong công việc; Thường  hay làm việc một mình, không muốn giúp đỡ người khác; Có yêu cầu cao về công viêc đối với cấp dưới. Là phương pháp lãnh đạo mà người lãnh đạo buôn lỏng cho cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ được giao, để  cho cấp  dưới được tự do lựa chọn phương pháp tiến hành công việc; Cố gắng cung cấp thông tin và tạo các điều kiện cần thiết để  cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ được giao; Chỉ can thiệp vào công việc của cấp dưới khi cấp dưới mắc sai lầm hoặc gặp sự  cố nghiêm trọng. Ưu điểm của phong cách này là: Phát huy tinh thần trách nhiệm cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Hạn chế của phong cách này là: Dễ xảy ra thiếu ý thức trách nhiệm, dựa dẫm, ỷ vào cấp dưới ở người lãnh đạo; Phong   cách này làm cho kỷ cương, kỷ luật của đơn vị lõng lẽo, năng suất lao đông thấp, dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, vô chính  phủ trong tổ chức. Trường hợp áp dụng: Nên áp dụng đối với những người có trình độ cao, có ý thức trách nhiệm và kinh nghiệm trong công  tác hoặc những người tuổi tác cao. ­ Phong cách lãnh đạo định hướng mục tiêu: Trong loại phong cách lãnh đạo này, có thể chia nhỏ thành 4 phong cách lãnh đạo như sau: + Phong cách chỉ đạo trực tiếp: người lãnh đạo quy định, hướng dẫn mục tiêu, kế hoạch cách thức thực hiện một cách cụ  thể và kiểm tra chặt chẽ các hoạt động của cấp dưới. Thường áp dụng, khi cấp dưới mới vào nghề hoặc đối với những người   thực hiện công việc không tốt. + Phong cách hỗ  trợ: chỉ dẫn thì ít, hỗ trợ thì nhiều, chia sẽ ý tưởng với cấp dưới. Hướng dẫn cấp dưới đến sự  tự quyết   định và tìm ra cách thực hiện hợp lý. Thường áp dụng, khi cấp dưới có khả năng thực hiện công việc được giao nhưng còn thiếu   tự tin (người lãnh đạo chỉ hỗ trợ mà không làm thay, tăng cường tính độc lập, sự tự tin và tinh thần hợp tác của cấp dưới). + Phong cách tham gia (tham vấn): người lãnh đạo đưa ra các định hướng buộc nhân viên cùng tham gia giải quyết vấn đề và  tham gia vào quá trình ra quyết định. Thường áp dụng, thích hợp khi cấp dưới đã nắm được công việc, nhưng chưa đủ kỹ năng   hoặc sự tự tin về khả năng thực hiện công việc của mình. + Phong cách lãnh đạo theo kết quả đạt được (ủy quyền): người lãnh đạo đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ và trao quyền, trách  nhiệm thực hiên cho cấp dưới. Thường áp dụng, khi cấp dưới có khả năng làm việc độc lâp; Nhiệt tình và sẵng sàng thực hiện  nhiệm vụ. ­ Phong cách lãnh đạo lêninnít: V.I.Lênin đã đề  xuất một cách toàn diện những luận điểm quan trọng nhất về  phong cách lãnh đạo xã hội chủ  nghĩa và  được gọi là phong cách lêninnít. Cơ sở của phong cách lãnh đạo này là phương pháp biện chứng mácxít, là quan điểm cách mạng   phê phán. Theo V.I.Lênin, trong chủ nghĩa xã hội cần có những thủ thuật và phương pháp lãnh đạo mới, phù hợp với những nguyên tắc  cùa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Phong cách lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền được hình thành dưới ảnh hưởng cùa nhiều yếu tố khách quan và chủ  quan, trong đó theo V.I.Lênin, “đường lối chính trị đúng nguyên tắc là đường lối duy nhất, có hiệu lực” là những yếu tố có ảnh  hướng sâu sắc nhất đến phong cách lãnh đạo của Đảng và cá nhân người lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo lêninnít gắn 3 nhóm đặc điểm: + Nhóm những đặc điểm chính trị ­ tư tưởng: Có tính tư tưởng cộng sản chủ nghĩa (lập trường giai cấp); Tính nguyên tắc   Đảng; ý thức trách nhiệm đối với công việc; Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; Tính liên hệ  mật thiết với quần chúng;  Phát huy tinh thần tự giác tham gia quản lý xã hội của quần chúng. + Nhóm những đặc điểm đạo đức ­ tâm lý: Có tính trung thực; Tính nhất quán; Tính kiên quyết, cương nghị, độc lập, quyết   đoán, linh hoạt; Ý thức giản dị, ân cần, tế nhị trong giao tiếp. + Nhóm những đặc điểm nghiệp vụ: Có quan điểm lãnh đạo của người lãnh đạo (cá nhận hoặc tập thể); Phương pháp khoa   học (có tầm nhìn sâu, rộng); có tính hệ thống; có tính nghiệp vụ; Tính tổ chức (ý thức tổ chức và chấp hành kỷ luật); Có văn hóa   lãnh đạo; Tính hiệu quả; Tính kiểm tra, giám sát. Tóm lại, nắm vững khái niệm phong cách lãnh đạo, và các kiểu phong cách lãnh đạo, để chọn một phương pháp lãnh đạo  phù hợp có hiệu quả, vấn đề quan trọng là người lãnh đạo phải tự biết mình đang đứng trước một điều kiện, một tình huống,   một tổ chức cụ thể.
  4. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 3  : Quy trình và kỹ năng ra quyết định? Trong quá trình thực hiện lãnh đạo, quản lý có những tình huống phát sinh cần phải giải quyết nhằm đạt hiệu quả trong   việc thực hiện công việc. Người lãnh đạo cần chú ý tới việc xử lý các tình huống cản trở quá trình thực hiện công việc. Để  giải quyết tốt các tình huống trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, người lãnh đạo  cần có những quyết định lãnh đạo, quản lý  để giải quyết kịp thời. Quy trình và kỹ năng để thực hiện ra một quyết định lãnh đạo, quản lý ra sao?  Trước   hết   ta   tìm   hiểu   một   số   khái  niệm: ­ Lãnh đạo là những tác động có ý thức của chủ thể vào đối tượng lãnh đạo trên cơ sở phát huy một cách tối đa những năng lực   của cấp dưới nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất những mục tiêu của tổ chức. ­ Quản lý là m ộ t quá trình hi ệ n th ự c hóa nh ữ ng đườ ng l ố i, ch ủ trươ ng chi ế n l ượ c thông qua vi ệ c th ự c hi ện các  ch ứ c năng qu ả n lý và phù hợ p v ớ i yêu c ầ u điề u ki ệ n củ a cơ  quan, đị a phươ ng cụ  th ể . ­ Quy ết đ ịnh là vi ệ c l ự a ch ọ n m ột ph ươ ng án hành độ ng có khả  năng đạ t mụ c tiêu tố t nhấ t; Là sự  lự a ch ọ n   m ột ph ươ ng án trong nhi ề u ph ươ ng án bằ ng cách suy nghĩ cẩ n thậ n về  nh ữ ng kh ả  năng khác nhau mà nhữ ng khả  năng đó có th ể  th ự c hi ệ n đượ c. ­ Quyết định lãnh đạo, quản lý là sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội, tiến hành theo   một trình tự, thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định, nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi   hoạt động của con người theo định hướng nhất định. Để ra được một quyết định đúng đắn lãnh đạo cần phải nắm vững các quy trình và kỹ năng ra quyết định của lãnh đạo. * Quy trình ra quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, gồm các bước sau: ­ Sáng kiến ban hành quyết định: Chủ thể của bước này là lãnh đạo và các bộ phận chuyên môn. Đây là giai đoạn đầu của việc ra quyết định. Các cơ quan lãnh đạo Đảng cấp cơ sở, chính quyền cấp xã, cá nhân có thẩm   quyền ra quyết định lãnh đạo, quản lý căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, yêu cầu quản lý nhà nước để ra quyết định. Tùy theo tổ  chức, cơ quan ra quyết định các căn cứ đó là: + Thể chế hóa và cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của tổ chức Đảng cấp trên. + Thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, lệnh, nghị quyết, văn bản của cơ quan nhà nước cấp ưên. + Giải quyết những vấn đề  phát sinh từ  thực tế  để  chi đạo hoặc trực tiếp xử  lý các tình huống cụ  thể  theo đúng thẩm  quyền pháp luật quy định hoặc Điều lệ Đảng quy định. + Ra quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở còn căn cứ vào sự tham gia, đóng góp ý kiến của các đoàn thể nhân dân, tổ chức   xã hội, của cừ tri. Trong bước này, sau khi có đủ căn cứ ra quyết định, tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ra quyết định giao cho tổ chức,   cơ quan, cá nhân có trách nhiệm chủ trì soạn thảo quyết định. ­ Soạn thảo quyết định:  Chủ thể của bước này là chuyên viên chuyên môn, văn phòng. Tùy loại quyết định lãnh đạo, quản lý, việc soạn thảo dự  thảo quyết định được tiến hành theo các bước nhất định. Tuy   nhiên về cơ bản, bước soạn thảo dự thảo quyết định lãnh đạo, quản lý đề phải tiến hành các việc như sau: + Tổng kết, khảo sát, đánh giá tình hình liên quan đến nội dung dự thảo; + Xây dựng dự thảo (bao gồm cả việc nghiên cứu thông tin, tư liệu, chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo); + Tổ chức lấy ý kiến tổ chức, cơ quan, cá nhân hữu quan và các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định. Đây là  một công việc hết sức cần thiết để đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. + Đối với những quyết định lãnh đạo, quản lý quan trọng còn phải thực hiện việc thẩm định dự thảo quyết định trước khi   xem xét, thông qua. ­ Xem xét, thông qua dự thảo quyết định:  Chủ thể của bước này là lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, chuyên gia. Dự thảo quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải được xem xét, thông qua theo đúng thủ tục, trình tự pháp luật quy định   hoặc Điều lệ Đảng quy định. Quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở chủ yếu được xem xét thông qua theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, theo   pháp luật quy định. ­ Ra quyết định:  Chủ thể của bước này là chỉ có thủ trưởng đơn vị. Thực hiện bước này cần chú ý tuân thủ đúng nguyên tắc, thể thức, thủ tục ban hành văn bản. Người ký văn bản phải chịu   trách nhiệm về nội dung và hình thức văn bản.
  5. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy * Kỹ năng ra quyết định: Để ra được quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, có tính khả thi và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế cần chú ý tới một số  kỹ năng sau: ­ Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thông tin: Để ra được một quyết định lãnh đạo, quản lý phù hợp, cán bộ, công chức lãnh đạo cấp cơ  sở cần phải xác định thông tin  được thu thập từ nguồn nào? và khi có thông tin cần phải kiểm tra thông tin bàng cách đặt ra và trả lời một loạt câu hỏi: Thông   tin có hoàn toàn mới không? Thông tin dùng trong việc ra quyết định như th ế nào? Độ tin cậy và chính xác của thông tin là bao   nhiêu phần trăm? Có cần lưu trữ thông tin này không? Thông tin đến với lãnh đạo cấp cơ sở qua nhiều “kênh” đó là: + Tiếp nhận từ cấp trên chỉ đạo xuống cơ sở. Các nghị quyết, chỉ thị, thông tư, văn bản của các cấp trên trực tiếp có liên  quan. + Tự thu thập khai thác. Số liệu điều tra, tình hình thực tế tại cơ sở. Thông tin này là cần thiết, tránh  tình trạng nắm bắt  thông tin không kịp thời dẫn đến việc ra những quyết định lãnh đạo, quản lý xa rời thực tế, hiệu lực, hiệu quả không cao. + Đội ngũ tham mưu giúp việc cung cấp. Dư luận, tâm lý, tâm trạng của đối tượng. Ở cấp cơ sở có thể khai thác tốt sự  tham mưu, góp ý của các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu vì đây là những “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực mà cấp cơ sở có thể   khai thác tại chỗ. Vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ  trưởng dân phố  cũng hết sức quan trọng vì đây là đầu mối   nắm bắt thông tin ở các cụm dân cư trên địa bàn cấp xã. Trong kỹ năng này, lãnh đạo cần lưu ý: kiểm tra tính khách quan và tính chính xác của nguồn thông tin; tránh chủ quan,   định kiến; Xử lý thông tin để giải quyết cấn đề hiện tại nhưng luôn dự báo, dự đoán tương lai; Và phải phân loại thông tin. Kỹ năng này giúp lãnh đạo xác định vấn đề­phân tích vấn đề, xác định mục tiêu: + Vấn đề là sự khác biệt giữa tình trạng hiện tại và mong muốn của nhà quản lý. + Xác định đúng bản chất của vấn đề là điều kiện tiên quyết để ra một quyết định đúng. Để thực hiện tốt kỹ năng này, xác định đúng vấn đề cần phải: + Xác định nguyên nhân của vấn đề. + Nhận thức các cách thức­cơ hội. + Tính cấp thiết, tầm quan trọng của vấn đề, mâu thuẫn cần giải quyết. + Mối liên hệ các vấn đề; Hình thức biểu hiện, hiện tượng bên ngoài. + Các tác động thực tế và các giá trị tinh thần. + Xác định loại vấn đề, sự cần thiết phải giải quyết vấn đề. + Xác định mục tiêu giải quyết vấn đề là tình trạng tương lai sai khi vấn đề được giải quyết. + Chỉ ra mục tiêu trọng tâm cần đạt, xác định các cấp độ mục tiêu và kết quả mong muốn đạt được. ­ Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định: Cần chú ý tới việc thực hiện đúng quy trình ra quyết định, tránh việc làm lắt tùy tiện dẫn tới những sai sót trong quá trình ra   quyết định. Chú ý tới những ý kiến phản biện đã được thu thập. Người lãnh đạo cần có thái độ cầu thị với những ý kiến phản biện để  lựa chọn những phương án, giải pháp thích hợp nhất trong quá trình xây dựng dự thảo quyết định lãnh đạo, quản lý. Các sai lầm cần tránh trong việc soạn thảo và ra quyết định lãnh đạo, quản lý Một là, ra quyết định lãnh đạo, quản lý mà không nắm vững yêu cầu thực tế, giải quyết vấn đề  một cách chung chung,  không đủ cụ thể và hiện thực, không đủ chính xác rõ ràng, có thể hiểu và làm khác nhau. Hai là, quá tin vào tham mưu, người dự thảo, không xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng, không lắng nghe hết ý kiến người tham  gia, người phản biện, hay quá tin vào những hiểu biết chủ quan của mình đi đến ra quyết định lãnh đạo, quản lý một cách phiến   diện, chủ quan. Ba là, thể hiện ở chỗ ra quyết định lãnh đạo, quản lý mang tính chất thỏa hiệp, nể nang, dựa dẫm cấp trên một cách thụ  động, không có tính sáng tạo, không tự chịu trách nhiệm. Bốn là, ra quyết định lãnh đạo, quản lý không đúng thẩm quyền, không đủ căn cứ pháp lý, quyết định có nội dung trùng  lặp,  chồng chéo ngay trong bản thân quyết định hoặc với các quyết định đã ra trước đó. Tóm lại, ngay tại một thời điểm, có thể có một loại vấn đề không thể giải quyết cùng một lúc. Do đó, người lãnh đạo cần   phải nắm rõ quy trình và kỹ năng ra quyết định lãnh đạo, quản lý, phân loại mức độ thứ tự các vấn đề cần ưu tiên để giải quyết   các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả. Đồng thời, khi vấn đề đã được xác định, cần phân tích vấn đề định hướng rõ cho việc xây   dựng những mục đích tương ứng cần đạt để ra quyết định. Song cũng cần lưu ý đến nhu cầu lợi ích của các người tham gia. Tuy nhiên, khi đã nắm vững các bước quy trình và kỹ năng ra quyết định thì các bước nêu trên cũng chỉ có ý nghĩa tương đối,  vì ngay ở bước này cũng có thể đã có xen lồng nội dung của các bước khác và trong những tình huống đặc biệt, các bước cũng có   thể diễn ra gần như đồng thời./.
  6. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 4  : Quy trình và kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định? Kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định được hiểu là sự vận dụng tri thức về phương thức tổ chức thực hiện  quyết định  lãnh đạo, quản lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm thực hiện có kết quả các mục tiêu đặt ra của quyết định. Quyết định lãnh đạo, quản lý là sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội, tiến hành theo   một trình tự, thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định, nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi   hoạt động của con người theo định hướng nhất định. Để tổ chức thực hiện tốt các quyết định lãnh đạo, quản lý cần phải nắm vững các quy trình và kỹ năng tổ chức thực hiện   quyết định của lãnh đạo. * Quy trình tổ chức thực hiện quyết định, gồm các bước sau: ­ Triển khai quyết định. Việc triển khai quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đến đối lượng quản lý theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ   của Đảng. Nhận được quyết định, các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan phải thực hiện triệt để bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng,   đề ra kế hoạch, biện pháp thực hiện cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị, địa phương mình, đảm bảo việc triển khai  thực hiện không được trái với quyết định lãnh đạo, quản lý đã được ban hành. Công bố công khai các quyết định lãnh đạo, quản lý; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biển về  ý nghĩa, nội dung một cách rộng rãi với những hình thức phù hợp với điều kiện của địa phương để  tạo sự  tự giác chấp hành,   công tác này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy đảng cơ sở, chính quyền với các tổ chức đoàn thể ở cơ sở. ­ Tổ chức lực lượng thực hiện quyết định. Cần bố trí, tổ chức lực lượng cán bộ phù hợp để thực hiện quyết định, đồng thời bảo đảm những phương tiện cần thiết về  vật chất, về tài chính cho việc thực hiện quyết định. Tuỳ thuộc vào từng loại quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Các biện pháp có thể lựa chọn là: + Quyết định được thực hiện đối với toàn bộ phạm vi đối lượng, lĩnh vực cần thiết điều chỉnh, tác động. + Quyết định được thực hiện thí điểm (làm thử đối với một số đối tượng, ở một số nơi để rút kinh nghiệm, sau đó mới sơ  kết, tổng kết để rút kinh nghiệm. Ra quyết định chính thức để triển khai rộng rãi. + Quyết định được triển khai thực hiện rộng, nhưng cần có sự chỉ đạo điểm để  nhanh chóng rút kinh nghiệm để  chỉ  đạo   thực hiện tiếp tục. ­ Kiểm tra việc thực hiện quyết định. Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý là bước bảo đảm sự thành công, hiệu quả của quyết định và   thực hiện quyết định. Việc ra quyết định lãnh đạo, quản lý phải gắn liền với việc kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra có nhiệm vụ nắm tình hình và kết quả một cách có hệ thống, có kế hoạch. Việc kiểm tra phải chú ý tới cả   hai mặt của việc thực hiện quyết định. Việc kiểm tra thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ  sở  phải được xây dựng thành kế  hoạch ngay từ  giai đoạn  nghiên cứu dự thảo quyết định. Các hình thức kiểm tra có thể áp dụng là: + Kiểm tra thường xuyên và toàn diện trong suốt quá trình diễn biến thực hiện quyết định. + Kiểm tra đột xuất có trọng điểm, nhằm vào một số khâu nhất định. + Kiểm tra tổng kết việc thực hiện quyết định. Qua công tác kiểm tra, căn cứ vào kết quả kiểm tra, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải xử lý kết quả kiểm tra. ­ Đôn đốc việc thực hiện, bổ sung quyết định cần thiết. ­ Khen thưởng người tốt, việc tốt. ­ Xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân sai phạm. ­ Sơ kết. ­ Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định. Sau khi thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sờ phải tiến hành tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định. Việc   tổng kết, đánh giá phải dựa trên việc xử lý các số liệu thể hiện kết quả thực hiện, xử lý các thông tin phản hồi, xử lý kết quả  kiểm tra việc thực hiện quyết định... Làm tốt công tác này góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý   cấp cơ sở. * Kỹ năng tồ chức thực hiện quyết định: ­ Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý Lập kế hoạch là một khâu trong chu trình lãnh đạo, quản lý. Trong quy trình tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý  
  7. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy cấp cơ sở, lập kế hoạch là bước đầu tiên trong quy trình tổ chức thực hiện quyết định và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo  hiệu quả thực hiện quyết định trên thực tế. Người lãnh đạo có kỹ năng lập kế hoạch thể hiện: + Việc tư duy có hệ thống tiên liệu được các tình huống trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. + Biết phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức một cách hữu hiệu hơn. + Biết tập trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức. + Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức để phổi hợp vói các nhà lãnh đạo, quản lý khác. sẵn sàng ứng phó và và giải quyết nhanh chóng với các tình huống đặt ra trong quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo, quán lý. Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra. Trình tự lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý như sau: + Bước một: Xác định mục tiêu yêu cầu của việc thực hiện quyết định. + Bước hai: Xác định nội dung việc thực hiện quyết định. + Bước ba: Xác định địa bàn, đối tượng, thời gian thực hiện quyết định. + Bước bốn: Xác định phương pháp thực hiện quyết định. + Bước năm: Xác định phương pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định. ­ Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý Khi kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý đã được đặt ra bất cứ đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đều phải   thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế dưới sự chi đạo, điều hành của người lãnh đạo. Đ ể điều hành được việc thực hiện quyết   đinh trên thực tế một cách có hiệu quả người lãnh đạo phải có khả năng nắm bắt các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện   quyết đinh, bên cạnh đó chú ý tới một số vấn đề mang tính nguyên tắc sau: + Thường xuyên giám sát tình hình thực hiện cũng như tinh thần thái độ làm việc của cán bộ, công chức dưới quyền. + Đưa ra các chỉ đạo rõ ràng hợp lý. + Sẵn sàng có những phương án hỗ trợ khi cần thiết. + Nhanh chóng chỉ đạo tháo gỡ  khó khăn mắc phải, hướng dẫn cấp dưới cách tự  giải quyết vấn đề  trong quá trình thực  hiện quyết định. ­ Kỹ năng xử lý tình huống trong lãnh đạo, quản lý Trong quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý có những tình huống phát sinh cần phải giải quyết nhằm đạt hiệu   quả trong việc thực hiện quyết định. Người lãnh đạo cần chú ý tới việc xử lý các tình huống cản trở quá trình thực hiện quyết   định, cần chú ý những vấn đề sau: + Chỉ đạo triển khai giải quyết một cách chủ động theo kế hoạch đã xây dựng trước. + Những phát sinh mới nằm ngoài dự liệu cần có những phương án kịp th ời giải quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời   những sai phạm phát sinh trong quá trình thực hiện quyết định. + Thực hiện đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của Đảng. ­ Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo Khiếu nại, tố cáo là sự phản ánh về những hành vi vi phạm pháp luật nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của   tổ chức, cá nhân đã bị xâm hại và yêu cầu có hình thức xử lý đối với tổ chức, cá nhân đã vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà   nước. Để thực hiện tốt công tác này người lãnh đạo thực hiện đúng yêu cầu sau: + Nắm được các quy định pháp luật của nhà nước, quy định của Đảng về  giải quyết khiếu nại, tố  cáo kể  cả  về  thẩm  quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. ­ Nắm được các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc thù gắn với thực tế địa phương. Những kỹ năng cần trau dồi và thực hiện tốt đó là: + Kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo. + Kỹ năng giao tiếp của cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ  nói chung và tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nói   riêng. + Kỹ năng phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo. + Kỹ năng xác minh, xem xét và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Tóm lại, trong hoạt động lãnh đạo, quản lý việc ra quyết định của người lãnh đạo đặc biệt quan trọng, song quyết định đó  chỉ có ý nghĩa khi được đối tượng quản lý triển khai trong thực tiễn và mang lại kết quả mong đợi. Do đó, hoạt động quản lý chỉ   thực sự đạt hiệu quả khi nhà quản lý và đối tượng quản lý có sự tương hợp tâm lý, có nhu cầu phối hợp hành động để đạt mục   đích chung của tập thể, vì lợi ích của cả cộng đồng.  Kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý trong mỗi lĩnh  vực sẽ có những đặc thù, song, chúng vẫn có những nét chung./.
  8. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 5  : Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin? Từ  trước đến nay, thông tin đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động của đời sống con người. Đặc biệt   trong xã hội thông tin như hiện nay, mọi hoạt động của con người đều cần đến sự giao lưu thông tin, vì vậy thông tin được coi là   nguồn lực có giá trị nhiều hơn nguồn lực vật chất, đem lại hiệu quả của mọi cơ quan. Thông tin là sự truyền tin, chuyển tin từ nơi này đến nơi khác. Thông tin lãnh đạo, quản lý là sự truyền đạt các thông điệp, tin tức có liên quan đến hệ  thống quản lý, được người nhận   hiểu rõ ý nghĩa của thông điệp mà người gửi muốn truyền đạt, có tác dụng giúp thực hiện các mục tiêu lãnh đạo, quản lý. Vậy thông tin và thông tin trong lãnh đạo, quản lý đều là thông tin, truyền tin. Tuy nhiên, thông tin thì ai nghe, hay   không nghe cũng được, có phạm vi rộng; còn thông tin trong lãnh đạo, quản lý thì phải có người gửi, người nhận, và thực   hiện, có phạm vi hẹp. Thông tin trong lãnh đạo, quản lý có vai trò: ­ Thông tin là đối tượng, nguyên liệu đầu vào, hình thức thể hiện sản phẩm của lao động lãnh đạo, quản lý. ­ Thông tin gắn liền với quyền lực trong lãnh đạo, quán lý.  Và được hiểu là quyền lực thứ 4 sau 3 quyền lực: lập pháp, hành   pháp, và tư pháp. ­ Thông tin có giá trị ngày càng cao, đóng góp ngày càng nhiều vào giá trị của tổ chức. * Kỹ năng thu thập thông tin: có 5 kỹ năng ­ Một là, Kỹ năng xác định loại thông tin cần thiết Để xác định được loại thông tin cần thiết cần phải rèn luyện kỹ năng như: + Kỹ năng nắm chắc mục đích, yêu cầu: cần thông tin để làm gì, về điều gì. + Kỹ năng phân loại thông tin: cần trả lời câu hỏi đã có những thông tin gì, còn thiếu những thông tin gì. + Kỹ năng phân loại hình thức thông tin định lượng ví dụ các số liệu và thông tin định tính. + Kỹ năng xác định loại thông tin theo mức độ rất cần thiết, cần thiết, bình thường có cũng được chưa có cũng được, chưa   cần thiết và rất không cần thiết. Việc thu thập thông tin chủ yếu tập trung vào loại thông tin rất cần thiết và cần thiết. ­ Hai là, Kỹ năng xác định nguồn thông tin Để thu thập thông tin cần xác định rõ thông tin đó từ đâu, tức là nguồn tin. Kỹ năng xác định nguồn thông tin đòi hỏi phải làm rõ loại thông tin cần thiết và rất cần thiết đó ở đâu, cụ thể là kỹ năng trả  lời những câu hỏi như: + Ai nắm giữ, sở hữu thông tin? + Ai có thể cung cấp thông tin? + Ai có quyền đưa ra thông tin? Kỹ năng xác định nguồn thông tin còn liên quan tới kỹ năng đặt và  trả lời những câu hỏi khác về nguồn tin liên quan tới địa   điểm, thời gian, cách tiếp cận nguồn tin. ­ Ba là, Kỹ năng lựa chọn phương pháp thu thập thông tin Lựa chọn các phương pháp thu thập thông tin là yếu tố quan trọng đảm bảo thông tin thu được có kịp thời, chính xác, đảm   bảo tính khách quan hay không. Có thể lựa chọn các phương pháp thu thập thông tin cơ bản như sau: + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:  Đây là phương pháp sử dụng khá phổ biến trong việc thu thập thông tin quản lý. Để  sử dụng phương pháp này cần phải xây dựng một bộ câu hỏi theo một trật tự lôgíc nhất định, phù hợp với nội dung thông tin   cần thu thập. Thông tin thu được từ phương pháp này thường là những thông tin mang tính định lượng. + Phương pháp phỏng vấn sâu cả nhân: Đây là phương pháp thu thập thông tin bằng việc phỏng vấn trực tiếp các cá nhân,  tập trung đi sâu vào một số khía cạnh cần quan tâm, phục vụ cho việc thu thập thông tin quản lý. + Phương pháp thảo luận nhóm tập trung: Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua phỏng vấn một nhóm người có   cùng hoàn cảnh, hay cùng kinh nghiệm về nội dung cần thu thập thông tin. + Phương pháp phân tích tài liệu sẵn có: Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc phân tích các tài liệu đã có về  nội dung cần quan tâm. Phân tích nội dung tài liệu là cách thức sử dụng các kỹ thuật, thao tác khoa học, hệ thống, khách quan để  vạch ra những đặc điểm và tính chất của nội dung tài liệu. ­ Bốn là, Kỹ năng quan sát trực tiếp bằng các giác quan Quan sát là một trong những phương pháp thu thập thông tin trong quản lý. Trong nghiên cứu khoa học phương pháp quan sát  được hiểu là “quá trình tri giác và ghi chép mọi yếu tố có liên quan tới đối tượng nghiên cứu phù hợp với đề  tài và mục tiêu   nghiên cứu”. Trong lãnh đạo, quản lý, quan sát là hoạt động thu thập thông tin thông qua việc sử dụng các giác quan và phương   tiện hỗ trợ để thu được những thông tin quản lý. Có nhiều cách phân loại khác nhau, phổ biến nhất là việc phân chia phương pháp quan sát thành hai loại là phương pháp   quan sát tham dự và quan sát không tham dự.
  9. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Để thu thập được đầy đủ các thông tin thông qua phương pháp quan sát, người quan sát có thể sừ dụng các phương tiện kỹ   thuật hiện đại để hỗ trợ như máy quay phim, máy ảnh, máy ghi âm... ­ Năm là, Kỹ năng tìm đọc thông tin Tìm đọc thông tin từ báo. Tìm đọc thông tin từ tạp chí. Tìm đọc thông tin từ sách. Tìm đọc thông tin từ mạng Internet. Tìm đọc thông tin từ các báo cáo của các cơ quan chức năng. Tìm đọc thông tin từ các báo cáo kết quả nghiên cứu đã được công bố công khai. * Kỹ năng xử lý thông tin: ­ Kỹ năng ghi chép thông tin Ghi chép là một kỹ năng quan trọng trong việc thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin. Nhiều cách ghi chép khác nhau đã được   sử dụng như ghi chép theo danh mục nội dung (list), ghi chép theo bản đồ tư duy (mind maps). ­ Kỹ năng mô tả, kể chuyện Mô tả, kể chuyện là việc chọn lọc, trình bày thông tin về một điều gì đó sao cho có thể hình dung và hiểu được chi tiết, cụ   thể về đối tượng nhất định. Kỹ năng mô tả, kể chuyện là kỹ năng lựa chọn từ ngữ, sắp xếp sự kiện theo một trật tự nhất định   vừa đảm bao hấp dẫn vừa đảm bảo đầy đủ, chính xác. ­ Kỹ năng phân loại thông tin Hiện nay có nhiều cách phân loại thông tin, tài liệu khác nhau. Nếu phân loại dựa trên hình thức cố định của thông tin thì thông tin, tài liệu trong nghiên cứu định tính bao gồm hai loại cơ  bản là: tài liệu dưới dạng văn tự và tài liệu dưới dạng phi văn tự. Nếu dựa vào nội dung phản ánh của thông tin, tài liệu thì có: Tài liệu cá nhân và tài liệu xã hội. Nếu xét theo mức độ xử lý, phân tích, công bố thông tin, tài liệu được phân loại gồm: Các tài liệu đã được in  ấn và các tài  liệu chưa được công bố. ­ Kỹ năng sắp xếp, kết cấu thông tin Kỹ năng sắp xếp, két cấu thông tin là kỹ năng chọn lọc và sắp đặt thông tin vào những vị trí phù hợp, gọi là chọn đúng từ,  đúng chữ, đúng bối cảnh. Kỹ năng rõ nhất là sắp xếp, kết cấu theo thời gian: thông tin nào trước thì trình bày trước, thông tin nào   sau thì trình bày sau. ­ Kỹ năng giải nghĩa thông tin Kỹ năng giải nghĩa thông tin chủ yếu s ử dụng trong việc phân tích các thông tin định tính. Đó là những thông tin được thu   thập thông qua các cuộc phỏng vấn cá nhân, thảo luận nhóm, hoặc dựa vào các tài liệu sẵn có... Đối với những thông tin dạng   này, nhà lãnh đạo, quản lý cần giải nghĩa thông tin theo các phương pháp, kỹ năng sau:  Phương pháp gần đúng liên tục, Phương   pháp minh họa, Phương pháp so sánh phân tích. ­ Kỹ năng xử lý thống kê thông tin: sử dụng các phép tính để tính trung bình, số cực đại, cực tiểu, tỷ lệ phần trăm Phân tích đơn biến: Thực chất phân tích đơn biến là việc xem xét việc phân bổ của các biến như thế nào, để làm cơ sở cho   việc phân tích nhiều biến số hơn. Gồm: Phân bố tần suất và tỷ lệ phần trăm, Đo lường xu hướng trung tâm. Phân tích hai biến: Phân tích hai biến là bước tiếp theo của phân tích đ ơn biến, nhằm thiết lập mối quan hệ giữa hai bi ến  số; kiểm định xem 2 biến số độc lập và phụ thuộc có mối liên hệ với nhau hay không; xác định mức độ và hướng của mối liên   hệ đó. Gồm: Phân tích bảng tần suất hai chiều, Phân tích bảng hai chiều phần trăm. ­ Kỹ năng xây dựng biểu đồ Biểu đồ là hình thức trình bày mô tả sự khác biệt giữa các giá trị. Việc lựa chọn các biểu đồ nào để trình bày rất quan trọng,   bởi vì nó sẽ liên quan tới hiệu quả của việc trình bày. Gồm: Biểu đồ hình tròn và Biểu đồ thanh. ­ Kỹ năng kiểm chứng thống kê Kiểm chứng trong thống kê (hay còn gọi là kiểm định) dữ liệu là một kỹ năng quan trọng trong xử lý và trình bày dữ liệu.  Bản chất của kỹ năng kiểm chứng thống kê là kiểm tra tính “chân thực” trong mối quan hệ giữa các đại lượng hay giữa các biến   số. ­ Kỹ năng trích dẫn thông tin Trích dẫn thông tin (hay còn gọi là trích dẫn tài liệu) là phương pháp được chuẩn hóa trong việc ghi nhận những nguồn tin   và ý tưởng được trình bày trong các báo cáo, kết quả xừ lý thông tin quản lý, theo đó người đọc có thể xác định rõ từng thông tin   được trích dẫn, tham khảo. ­ Kỹ năng trình bày thông tin Cần căn cứ vào mục đích để trình bày thông tin một cách phù hợp. Kỹ năng trình bày thông tin bao gồm kỹ năng lựa chọn  thông tin, sắp xếp và kết cấu thông tin và trình bày dưới nhiều hình thức như viết, nói hoặc sơ đồ hóa bằng hình ảnh, hình vẽ.  
  10. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Có thể trình bày thông tin tóm tắt hoặc đầy đủ, chi tiết. Tóm lại, có thể nói, chỉ có những người trực tiếp thu thập thông tin, tóm lược thông tin, phân tích thông tin và tổng hợp  thông tin mới có những nhìn nhận thấu đáo, chính xác và tham mưu hiệu quả  cho việc giải quyết thông tin. Đó là những  thông tin có giá trị về nội dung và phù hợp với yêu cầu của người cần tin; thông tin có tính mới; thông tin có độ tin cậy cao;   thông tin tiêu biểu ­ điển hình và có tính khái quát cao. Trên cơ  sở  đó người thu thập thông tin có những ý kiến tham mưu   giải quyết tin để  đảm bảo việc sử  dụng thông tin có hiệu quả. Cuối cùng, cũng cần lưu ý đến việc lưu trữ  thông tin theo   quy định. Đặc biệt, lưu trữ các thông tin phải mất nhiều công thu thập, tổng hợp hoặc các số liệu quan trọng vì nó sẽ giúp   cho người thu thập, xử lý thông tin có hiệu quả và nhanh chóng ở những lần sau./.
  11. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 6: Nguyên tắc và phương pháp đánh giá cán bộ Quản lý nguồn nhân lực nói chung và quản lý cán bộ nói riêng là một hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung: tuyển   dụng, tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách; bố trí, phân công, điều động, thuyên chuyển công tác; đánh giá; khen thưởng, kỷ  luật …Mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, có ý  nghĩa quan trọng và là cơ sở của các khâu khác. Đánh giá cán bộ là hoạt động của chủ thể quản lý cán bộ tiến hành phân tích, xem xét ưu, khuyết điểm của cán bộ từ đó rút   ra kết luận về phẩm chất và năng lực, đưa ra dự báo chiều hướng phát triển và định hướng sử dụng cán bộ. * Vị trí, ý nghĩa của công tác đánh giá cán bộ: ­ Vị trí, vai trò của công tác đánh giá cán bộ: là khâu mở đầu (tiền đề), là khâu có ý nghĩa quyết định, và là khâu chuyển tiếp,   kết nối đến kết thúc các khâu trong quy trình công tác cán bộ. Hay nói cách khác công tác đánh giá cán bộ  có vai trò là khâu   chuyển tiếp, kết nối giữa vị trí mở đầu và vị trí kết thúc trong quá trình công tác cán bộ. ­ Ý nghĩa của công tác bộ là: + Đánh giá đúng cán bộ dẫn đến bố trí cán bộ đúng vị trí, phát huy được tiềm năng của từng cán bộ và cả đội ngũ cán bộ; + Xây dựng được đội ngũ cán bộ phát triển vững mạnh toàn diện; + Ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, ngăn chặn các phần tử cơ hội; + Giữ gìn an ninh chính trị nội bộ, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch. * Các nguyên tắc đánh giá cán bộ ở cơ sở: Để đánh giá đúng cán bộ, công tác đánh giá cán bộ phải đảm bảo những nguyên  tắc sau đây: Một là, các cấp ủy đảng mà thường xuyên và trực tiếp là ban thường vụ  huyện ủy, thành ủy, ban thường vụ  đảng ủy cấp  cơ sở thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác đánh giá cán bộ trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Đây còn gọi là nguyên  tắc Đảng lãnh đạo. Nguyên tắc này chỉ rõ: Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc  về cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo cơ quan, đơn vị nơi cán bộ  sinh hoạt; cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá. Dù ở cấp nào, ngành nào và đơn vị nào thì công tác quản lý (lánh giá cán bộ cũng thuộc về các cấp ủy và tổ chức đảng đã   được Bộ Chính trị và cấp trên phân cấp quản lý. Tập thể lãnh đạo cấp trên trực tiếp quản lý cán bộ phân tích, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ trong việc thực   hiện nhiệm vụ được giao để kết luận: Hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành ở mức thấp, không hoàn thành, hoặc có nhiều thiếu   sót khuyết điểm. Hai là, đánh giá cán bộ phải lấy tiêu chuẩn  cán bộ, hiệu quả công tác và mức độ tín nhiệm làm thước đo, bảo đảm nguyên  tác tập trung dân chủ, tập thể quyết định và thực hiện theo đúng quy trình. Tiêu chuẩn cán bộ là sự cụ thể hóa những yêu cầu khách quan của đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng thành những tiêu  chí đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước phải vươn lên đáp ứng; là thước đo tin cậy để đánh giá đúng phẩm chất, năng  lực đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đánh giá cán bộ phải bảo đảm dân chủ rộng rãi, tập trung cao, thể hiện trên những yêu cầu sau: Bản thân  người cán bộ phải tự phê bình, tự đánh giá ưu khuyết điểm của mình. Đồng thời tổ chức cho cán bộ đảng viên, quần chúng trong   cơ quan, đơn vị tham gia đánh giá cán bộ b ằng góp ý trực tiếp hoặc ghi phiếu nhận xét sau đó cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp và   cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên trực tiếp quản lý cán bộ nhận xét đánh giá cán bộ. Sau khi có đánh giá, kết luận của cấp ủy có   thẩm quyền, cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét về bản thân mình, được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên   cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền. Ba là, đánh giá cán bộ phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Nguyên tắc trên đòi hỏi việc đánh giá cán bộ cần tránh: + Đánh giá chủ quan, định kiến; + Nể nang, tình cảm; + Đánh giá phiến diện, hời hợt, chủ quan cảm tính; + Lấy cái không cơ bản thành cái cơ bản; + Dàn trải bình quân, cần có trọng tâm, trọng điểm. Kết họp theo dõi, đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ về cán bộ để phản ánh liên tục và kịp thời sự phát triển của   cán bộ. Chỉ có thể trên cơ sở kết hợp đánh giá định kỳ và đánh giá thường xuyên mới có thể phản ánh chân thực, khách quan sự  phát triển của người cán bộ. Trong quá trình xem xét đánh giá cán bộ nhất thiết phải điều tra tìm hiểu rất kỹ các nguồn thông tin   và các ý kiến khác nhau về người cán bộ cần đánh giá, từ đó phân lích, chọn  lọc rút ra kết luận khách quan,... Sự phát triển của   người cán bộ dù có khác biệt thế nào thì sự phát triển của người cán bộ đều phải tuân theo quy luật khách quan như: sự  phát   triển tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai, do đó xem xét đánh giá cán bộ phải đặt họ trong cả một quá  
  12. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy trình công tác, học tập, rèn luyện lâu dài. * Phương pháp đánh giá cán bộ: Khi đánh giá cán bộ phải bảo đảm và làm rõ những nội dung chủ yếu sau: Một là, đánh giá về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ cơ sở. Đánh giá phải kết luận được ưu điểm, khuyết   điểm của cán bộ trên từng mặt nói trên, về phẩm chất chính trị, cán bộ cơ sở phải thể hiện ở ý thức, thái độ hành vi của cán bộ   với đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,  về đạo đức, phải thể hiện trong các mối quan hệ công tác với   đồng nghiệp, với người thân, với nhân dân địa phương. Cán bộ cơ sở có đạo đức tốt, phải là người không quan liêu, tham nhũng;   có lối sống lành mạnh, về tác phong, phải gần gũi nhân dân, biết quan tâm đến tâm trạng của quần chúng, sống giản dị. Hai là, đánh giá về năng lực công tác, gồm năng lực của người lãnh đạo và năng lực chuyên môn nghiệp vụ công tác được  giao. Ba là, đánh giá phải rút ra kết luận về triển vọng phát triển và hướng bố trí sử dụng cán bộ. Quy trình, phương pháp đánh giá cán bộ: ­ Phương pháp: Đánh giá cán bộ  định kỳ  hàng năm đối với cán bộ  ở các đơn vị cơ  sở hành chính, sự  nghiệp,  doanh nghiệp + Đối với cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ ở cơ sở: Bước 1 : Cán bộ tự nhận xét, đánh giá (bằng văn bản) theo nội dung  quy định tại Điều 6: Nội dung đánh giá của Quy chế  đánh giá cán bộ (Quyết định số 286­QĐ/TW ngày 08/2/2010 của Bộ chính trị), như: Mức độ  thực hiện chức trách, nhiệm vụ  được giao; Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Chiều hướng và triển vọng phát triển. Bước 2: Tập thể cán bộ cùng làm việc trong đơn vị cơ sở tham gia ý kiến. Bước 3: Các cơ quan tham mưu thẩm định tổng họp ý kiến của cấp dưới và đoàn thể nhân dân về đánh giá cán bộ để trình   ban thường vụ cấp ủy. + Đối với cán bộ lãnh đạo của đơn vị cơ sở: Bước 1 : Cán bộ tự nhận xét, đánh giá (bằng văn bản) theo nội dung ở Điều 7 : Thời hạn đánh giá, và Điều 8: Đánh giá cán  bộ theo định kỳ hàng năm của Quy chế đánh giá cán bộ (Quyết định số 286­QĐ/TW ngày 08/2/2010 của Bộ chính trị). Bước 2: Tập thể cán bộ cùng làm việc trong đơn vị cơ sở và cấp ủy nơi cán bộ công tác, sinh hoạt tham gia ý kiến. Bước 3: Thủ trưởng cấp trên trực tiếp nhận xét, đánh giá. Bước 4: Ban thường vụ đảng ủy cơ  sở, Ban thường vụ huyện  ủy và tương đương quyết định việc đánh giá cán bộ  theo   phân cấp quản lý. ­ Phương pháp: Đánh giá cán bộ đảm nhiệm chức vụ do bầu cử trước khi hết nhiệm kỳ Bước 1 : Cán bộ tự nhận xét đánh giá theo nội dung Điều 6 của Quy chế đánh giá cán bộ của Bộ Chính trị. Bước 2: Các thành viên của tổ chức được bầu nhận xét góp ý. Bước 3: Người đứng đầu tổ chức được bầu nhận xét, đánh giá; tập thể lãnh đạo thảo luận, thông qua. Bước 4: cấp ủy nơi công tác và cấp ủy nơi cư trú nhận xét. Bước 5: Cơ quan tham mưu về công tác cán bộ của cấp có thẩm quyền tổng hợp các ý kiến nhận xét và đề xuất nội dung   nhận xét, đánh giá cán bộ. Bước 6: cấp có thẩm quyền đánh giá nhận xét, đánh giá, kết luận, phân loại cán bộ theo Điều 11 của Quy chế đánh giá của  Bộ Chính trị. ­ Phương pháp: Đánh giá cán bộ cơ sở trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử Bước 1 : Cán bộ tự nhận xét đánh giá bằng văn bản theo nội dung quy định tại Điều 6 của Quy chế. Bước 2: Người đứng đầu cấp ủy cơ sở, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cơ sở nhận xét đánh giá. Bước 3: Lấy ý kiến nhận xét của đại diện chi bộ đảng hoặc chính quyền thôn, bàn và tương đương nơi cán bộ cư trú về tư  cách công dân của bản thân và gia đình cán bộ. Bước 4: Cơ quan tham mưu về công tác cán bộ của cấp có thẩm quyền tổng hợp các ý kiến nhận xét và đề xuất nội dung   nhận xét, đánh giá cán bộ. Bước 5: Tập thể cấp ủy hoặc ban thường vụ cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thảo luận và thống nhất nhận xét, đánh giá  cán bộ trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. ­ Thực hiện các bước sau đánh giá cán bộ Bước 1: Đại diện cấp ủy, tổ chức đảng hoặc người đứng đầu cơ  quan, đơn vị thông báo đến cán bộ được đánh giá những  kiến của cấp ủy, tổ chức đảng về những ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ, bằng văn bản và gặp trực tiếp. Đối với những cán  bộ thuộc diện cấp trên quản lý, cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ  quan đơn vị báo cáo bằng văn bản lên cấp trên những nội  dung đánh giá cán bộ. Bước 2: Cán bộ có quyền được trình bày ý kiến, bảo lưu và báo cáo lên cấp trên những vấn đề không tán thành về nhận xét   đánh giá đối với bản thân mình, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
  13. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Bước 3: Khi có khiếu nại về đánh giá cán bộ, người đứng đầu của tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý cán bộ có trách   nhiệm xem xét, kết luận và thông báo bằng văn bản đến người khiếu nại. Bước 4: Lập bản nhận xét đánh giá cán bộ. Tất cả các văn bản về nhận xét, đánh giá cán bộ; kết luận của cơ quan kiểm tra, thanh tra (nếu có) phải gửi cho cơ  quan   quản lý cán bộ để lưu hồ sơ theo quy định phân cấp quản lý. Tóm lại, đánh giá cán bộ là việc cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng cán bộ tiến hành đánh giá, phân loại, làm rõ phẩm chất  chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của từng  cán bộ. Đánh giá  cán bộ là việc làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác trong công tác cán bộ. Kết quả đánh giá  cán bộ  là căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách đối với  cán bộ,  cũng như giúp cán bộ phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, góp phần nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,   năng lực và hiệu quả công tác chuyên môn của cán bộ tại cơ quan, đơn vị.   Đây là khâu quan trọng, nếu cơ quan quản lý, sử dụng   đánh giá sai sẽ dẫn tới dùng người không đúng, dùng người năng lực kém, bỏ sót người tài, gây ảnh hưởng không tốt trong nội   bộ cơ quan, đơn vị, làm giảm lòng tin đối với toàn đội ngũ cán bộ.
  14. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 7  : Nguyên tắc và quy trình bổ nhiệm cán bộ? Đảng ta xác định “Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong   công tác xây dựng Đảng”. Và trong công tác cán bộ thì bổ  nhiệm cán bộ  là một nội dung quan trọng. Do đó, để  thực hiện   đúng, khoa học, hiệu quả công tác này thì việc bổ nhiệm cán bộ cần tuân theo các nguyên tắc và quy trình nhất định. ­ Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan   của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện trong biên chế  và   hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Là người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể trong hệ thống chính trị. Là người   làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, tổ chức. ­ Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch chức vụ, chức danh trong cơ quan Đảng Cộng  sản Việt Nam, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện trong cơ quan đơn vị thuộc quân đội   nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân dân chuyên nghiệp và trong bộ máy quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập, trong biên   chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. ­ Viên chức là người được tuyển dụng hợp đồng theo vị trí việc làm, có thể có chức vụ (về chuyên môn)  và làm việc trong  các đơn vị sự nghiệp công lập. Đảng ta xác định: “Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng là khâu then chốt trong công  tác xây dựng Đảng và trong công tác cán bộ thì bổ nhiệm cán bộ là một nội dung quan trọng” Do đó để thực hiện đúng khoa học   và hiệu quả công tác này thì việc bổ nhiệm cán bộ cần tuân theo các nguyên tắc và quy trình nhất định. ­ Bổ nhiệm cán bộ: là việc chủ thẻ quản lý cán bộ có thẩm quyền tiến hành theo quy trình, thủ tục quy định, quyết định cử  cán bộ, công chức giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý có thời hạn trong cơ quan, đơn vị. Thực chất là giao trách nhiệm quyền  hạn cho cán bộ lãnh đạo một ban, một bộ, một ngành, một cơ quan, đơn vị … đây là khâu quyết định trong công tác cán bộ. *Các nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ: Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản  lý đội ngũ cán bộ (được hình thành trong Nghị quyết của Đại hội   VII). Đảng là người đề ra chủ trương đường lối chính sách tiêu chuẩn, quy chế quy định về  công tác cán bộ  cho cả hệ  thống   chính trị và thông qua các cấp ủy tổ chức đảng, đảng viên trong cơ quan nhà nước, mặt trận, đoàn thể doanh nghiệp, đơn vị sự  nghiệp nhà nước để lãnh đạo các cấp, các ngành, tổ chức thực hiện các quyểt định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Đánh   giá cán bộ phải lấy tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công tác, mức độ tín nhiệm làm thước đo, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân   chủ, tập thể quyết định, thực hiện theo đúng quy trình. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp. Đảng phân công phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và tổ chức đảng đồng th ời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện  công tác của các cấp các ngành. Các tổ chức đảng từ Trung Ương đến các đơn vị cơ sở tùy theo phân cấp quản lý cán bộ tiến hành bổ nhiệm sử dụng cán   bộ cho hệ thống tổ chức của mình theo đúng quan điểm của Đảng theo đúng quy chế, quy định tiêu chuẩn cán bộ do Đảng và   nhà nước quy định. Hai là, cấp ủy tổ chức Đảng và tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định một cách dân chủ trên cơ   sở phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên nhất là của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Đây còn gọi là nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số, phát huy trách nhiệm cá nhân. Những vấn đề về đường lối chủ trương chính sách, đánh giá lựa chọn bổ nhiệm luân chuyển khen thưởng kỷ luật cán bộ  phải do tập thể cấp ủy và tổ chức đảng có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số trường hợp có ý kiến khác   nhau giữa người đứng đầu tổ chức đảng và lãnh đạo cơ quan đơn vị thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. Người đứng đầu cấp ủy tổ chức đảng cơ quan đơn vị có trách nhiệm phát hiện đề xuất bổ nhiệm và tổ chức thực hiện các   quyết định của tập thể về cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách. Cá nhân đề xuất bổ nhiệm cơ quan tham mưu thẩm định tập thể Đảng ủy quyết định và phải chịu trách nhiệm về đề xuất   thẩm định quyết định của mình. Ba là, phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan đom vị phải căn cứ vào phẩm chất đạo đức năng lực và sở trường  của cán bộ. Phải xuất phát từ công việc từ chức năng của từng tổ chức, chức trách nhiệm vụ và tiêu chuẩn đối với từng chức danh và   kết qua đánh giá cán bộ mà bổ  nhiệm cán bộ  đủng chỗ, đúng lúc đúng sở  trường thực hiện : “vì việc đặt người” , “có lên có  xuống”, “ có vào có ra” Tránh bổ nhiệm cán bộ vào vị trí mà bản thân cán bộ chưa được học chưa từng làm hoặc chưa am hiểu. Nhất thiết không điều động những cán bộ bị kỷ luật, không hoàn thành nhiệm vụ ở đơn vị cơ quan này sang nhận chức vụ 
  15. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy tương đương hoặc cao hơn ở nơi khác. Ở những nơi trì trệ yếu kém phải thay thế cán bộ chủ chốt. Mạnh dạn bổ nhiệm những cán bộ trẻ đã được rèn luyện, thử thách được đào tạo và có đủ tiêu chuẩn vào các chức vụ lãnh  đạo quản lý thích hợp. Bốn là, đảm bảo sự ổn định kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của tổ   chức cơ quan đơn vị. Cần bảo đảm tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ lãnh dạo và mối tương quan giữa trước mắt và lâu dài, bảo đảm tính liên tục   kế thừa vững chắc trong cả đội ngũ mỗi cấp, hình thành ba độ tuổi kế tiếp nhau, kết hợp hài hòa cán bộ lớn tuổi dày dặn kinh   nghiệm với cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản đã qua rèn luyện thực tế. * Quy trình, thủ tục bổ nhiệm cán bộ Trong quy chế bổ  nhiệm cán bộ, Bộ chính trị  quy định giao cho các Bộ  ngành, địa phương xây dựng trình tự  thủ  tục bổ  nhiệm cán bộ của địa phương mình. ­ Đối với quy trình bổ nhiệm, nguồn nhân sự tại chỗ: Bước 1, người đứng đầu và các thành viên lãnh đạo đề xuất phương án nhân sự. Bước 2, Tập thể lãnh đạo thỏa thuận, lựa chọn nhân sự và thông qua nhận xét đánh giá. Bước 3, Tổ chức hội nghị cán bộ, công chức cơ quan, đơn vị để lấy ý kiến và lấy phiếu tín nhiệm. Bước 4, Tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt (hoặc liên tịch) lấy ý kiến và phiếu tín nhiệm. ­ Đối với quy trình bổ nhiệm, nguồn nhân sự từ nơi khác: Bước 1, người đứng đầu, các thành viên lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự, thảo luận thống nhất, hoặc cấp có thẩm   quyền giới thiệu. Bước 2, Gặp cán bộ được đề nghị bổ nhiệm để trao đổi ý kiến về yêu cầu, nhiệm vụ công tác. Bước 3, Trao đổi ý kiến với tập thể lãnh đạo và cấp ủy cơ quan nơi cán bộ đang công tác. Bước 4, Tập thể lãnh đạo và cấp ủy nơi tiếp nhận cán bộ thảo luận, nhận xét, đánh giá và biểu quyết nhân sự (bằng phiếu  kín). Bước 5, Cơ quan có yêu cầu tiếp nhận cán bộ làm tờ trình đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. Ngoài các bước trên, trong quy trình, thủ tục bổ nhiệm cán bộ cần lưu ý: nêu mục đích, yêu cầu đánh giá tín nhiệm của quần  chúng về nhân sự dự kiến bổ nhiệm. Công bố tiêu chuẩn cán bộ cần bổ nhiệm. Phiếu tín nhiệm không có giá trị như phiếu bầu  cử nhưng có giá trị tham khảo quan trọng cần được chuẩn bị công phu thể hiện đầy đủ các nội dung quan trọng nhất cần đánh   giá về người cán bộ. Trường hợp có những ý kiến trái ngược nhau về nhân sự dự kiến bổ nhiệm giữa người đứng đầu tổ  chức đảng và người   đứng đầu cơ quan, đơn vị, thì báo cáo lên cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ cấp trên xem xét quyết định. Quy trình bổ nhiệm cán bộ nói trên được áp dụng chung cho các đới tượng cán bộ, tuy nhiên đối với những cán bộ thuộc   quyền quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư được quy định riêng. Tóm lại, công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của cơ  quan, đơn vị  và địa phương. Thực tế cho thấy nơi nào coi trọng công tác quy hoạch, bổ nhiệm đúng người, đúng việc nơi đấy có sự  phát  triển ổn định. Trong quy hoạch cũng cần phải căn cứ vào tình hình cụ  thể để  có phương án đề bạt, xem xét nếu không quy  hoạch sẽ trở thành rào cản, không bổ nhiệm được người tài vào các vị trí quan lý. Ngược lại, trong kiểm tra, giám sát cần có   cơ quan độc lập, kịp thời xử lý những trường hợp bổ nhiệm sai quy trình, không đảm bảo nguyên tắc./.
  16. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 8  :  Phân biệt luân chuyển với điều động cán bộ? Thực trạng công tác luân chuyển cán bộ  hiện nay và kiến   nghị? Công tác cán bộ có nhiều khâu, từ nhận xét, đánh giá đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán   bộ, thực hiện chính sách cán bộ… đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất là công tác cán bộ của Đảng. Điều đó có nghĩa là   giữa luân chuyển với điều động và tăng cường cán bộ có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng lại   không đồng nhất với nhau. ­ Luân chuyển cán bộ là việc cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý được cử  hoặc bổ nhiệm giữ một chức danh lãnh đạo,   quản lý khác trong một thời gian nhất định, để tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ. Hay hiểu   một cách khác đó là hoạt động chuyển đổi lần lượt vị trí công tác của cán bộ trong cơ cấu tổ chức theo những vòng khâu, có tính   lặp lại nhằm đạt tới những mục tiêu về lãnh đạo, quản lý của cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ. ­ Điều động cán bộ là hoạt động của cơ quan quản lý cán bộ làm thay đổi vị trí công tác của một hoặc nhiều cán bộ từ cơ   quan, đơn vị này đến cơ quan, đơn vị khác nhằm thực hiện những mục tiêu về tổ chức và cán bộ. Như vậy, giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ có một số điểm chung và những điểm riêng, khác nhau  như  sau:  ­ Điểm giống nhau: + Về chủ thể: đều là quản lý cán bộ thực hiện. + Đều là sự dịch chuyển vị trí công tác, xuất phát từ yêu cầu công tác, nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành từ Trung   ương đến địa phương và cơ sở. + Về tiêu chuẩn: đều có lập trường chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng và con đường XHCN. + Về nguyên tắc: tất cả các quyết định về luân chuyển cán bộ, điều động hay tăng cường cán bộ đều phải tuân thủ nguyên   tắc tập trung dân chủ. Những cán bộ được quyết định luân chuyển hay điều động đều phải đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, sẵn   sàng chấp hành sự phân công của Đảng. ­ Điểm khác nhau: + Về mục đích: Luân chuyển nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ có triển vọng;  còn điều động nhằm điều chỉnh  sắp xếp bộ máy, tổ chức cán bộ, thành lập mới, sát nhập, chia tách. + Về đối tượng: Luân chuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; còn điều động đối với cán bộ, công chức. + Về  phương pháp thực hiện: Luân chuyển dựa trên quy hoạch, kế  hoạch tổng thể, khoa học có cán giải pháp; còn điều  động dựa trên cơ sở đề án, kế hoạch. + Về  thời gian: Luân chuyển có thời gian từ  3 năm trở  lên; còn điều động thì không có thời hạn (có kế  hoạch đi, nhưng  không có kế hoạch về). + Về chế độ, chính sách: Luân chuyển có ưu đãi nhất định; còn điều động thì có thể cao hơn, giữ nguyên hoặc thấp hơn (về  chức vụ, lương). * Thực trạng công tác luân chuyển cán bộ hiện nay. Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ, coi đó là vấn đề trọng yếu liên quan đến sự vững mạnh của Đảng, sự thành bại   của cách mạng. Thực tiễn sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ đã chứng minh   điều đó. Luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý là một chủ trương rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng nhằm bảo đảm   thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ  trẻ, có  triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện  trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước; tăng cường cán bộ  cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng ngành, từng địa  phương và từng đơn vị. Luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý là một trong những khâu đột phá của công tác cán bộ, có ý nghĩa đặc biệt quan   trọng trong tình hình hiện nay. Luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý không phải là một vấn đề mới, mà là sự kế thừa, phát   triển truyền thống của dân tộc ta và những quan điểm, tư  tưởng của Đảng, Bác Hồ  về  công tác cán bộ  qua các thời kỳ  cách   mạng. Sau khi có Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy manh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất   nước", công tác luân chuyển cán bộ được nhiều cấp ủy quan tâm, ch ú ý hơn và đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên,  trong thực  hiện vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong các cấp ủy; còn lẫn lộn giữa  điều động và luân chuyển; luân chuyển cán bộ chưa dựa trên cơ sở quy hoạch nên chất lượng, hiệu quả còn hạn chế. Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót và chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ   mới, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 11­NQ/TW ngày 25­1­2002 về "Luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý", nhằm tạo điều  kiện để những cán bộ trẻ, trong quy hoạch có triển vọng phát triển được rèn luyện, thử thách  trong thực tiễn cuộc sống, giúp 
  17. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy cho cán bộ trưởng thành, phát triển nhanh và toàn diện hơn. Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Luân chuyển cán bộ lãnh   đạo và quản lý là một trong những khâu đột phá của công tác cán bộ, bởi vì nếu làm tốt công tác luân chuyển cán bộ sẽ có tác   dụng thúc đẩy công tác đánh giá cán bộ, xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Mặt khác, thực hiện tốt công   tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý sẽ có tác dụng hạn chế và từng bước khắc phục tư tưởng  cục bộ địa phương, tình  trạng khép kín trong công tác cán bộ, tạo nên động lực và nguôn sáng tạo mới trong đội ngũ cán bộ, góp ph ần chuẩn bị đội ngũ  cán bộ cho lâu dài, bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Công tác luân chuyển cán bộ   chỉ có thể phát huy được tác dụng và trở thành khâu đột phá khi nó được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ với các khâu của công tác   cán bộ vì: Đánh giá cán bộ là tiền đề, quy hoạch cán bộ là nền tảng, luân chuyển cán bộ là đột phá và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ   là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Các khâu trên có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, làm tiền đề cho nhau và thúc  đẩy nhau cùng phát triển. Nghị quyết 11­NQ/TW của Bộ Chính trị đã đáp ứng yêu cầu của thực tiễn được các địa phương, các ngành thực hiện khá   nghiêm túc nên đã đạt đươc kết quả bước đầu quan trọng. Việc luân chuyển cán bộ  vừa giúp cán bộ  có triển vọng được rèn   luyện, trưởng thành, vừa tạo điều kiện để cán bộ tại chỗ phát triên. Bước đâu việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đã thúc   đẩy công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, góp phần khắc phục một bước những biểu hiện trì trệ, cục bộ,   khép kín. Thực tế ở địa bàn thành phố Quy Nhơn đã thực hiện luân chuyển một số đồng chí thường vụ, Uỷ viên Ban Chấp hành   đảng bộ, trưởng, phó phòng và tương đương về làm Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch HĐND, UBND xã, phường và ngược lại. Một   số địa phương đã chủ động có biện pháp hỗ trợ khắc phục khó khăn cho cán bộ được luân chuyển về cơ sở... Bước đầu, công tác luân chuyển cán bộ đã tạo nên động lực ừong đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; tạo được không khí   làm việc mới trong lãnh đạo của cấp  ủy cũng như trong các phong trào ở địa phương, đơn vị; tạo môi trường để  cán bộ  rèn  luyện, thử thách; làm cho cán bộ sát dân, sát thực tiễn cuộc sống, giúp cho cán bộ có điêu kiện trưởng thành, phát triển nhanh và  toàn diện hơn­ tạo điều kiện để cấp quản lý cán bộ đánh giá, quy hoạch cán bộ sát hơn; góp ph ần khắc phục tình trạng khép kín,  tư tưởng cục bộ và những hạn chế, tiêu cực trong công tác cán bộ. Các đồng chí được luân chuyển đã nêu cao tinh thần trách   nhiệm, chấp hành nghiêm túc quyết định của cấp trên, được cấp ủy, chính quyên, cán bộ, đảng viên và nhân dân tạo điều kiện  giúp đỡ, tâm huyết, gắn bó với địa phương và cơ quan, đơn vị nơi mình được luân chuyển đến khắc phục khó khăn và quyết tâm  phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị còn một số hạn chế. Một số cấp   ủy và tổ chức đảng chưa tạo được sự thống nhất về nhận thức, quyết tâm thực hiện chưa cao nên việc triển khai còn chậm và  không đồng đêu; một số nơi chưa tích cực xây dựng quy hoạch  cán bộ nên chưa có cơ sở để luân chuyển hoặc luân chuyển cán   bộ không dựa trên cơ sở quy hoạch; còn lẫn lộn luân chuyển cán bộ theo quy hoạch với điều động, bố trí cán bộ theo yêu cầu   nhiệm vụ; việc luân chuyển cán bộ mới chủ yếu thực hiện từ cấp huyện trở lên, luân chuyển cán bộ về cơ sở còn ít. * Một số kiến nghị: Để đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau: ­ Các Tỉnh ủy, Thành ủy cần tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm về thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về luân chuyển cán   bộ lãnh đạo và quản lý ở địa phương mình trong Ban Thường vụ hoặc trong hội nghị cán bộ chủ chốt để đánh giá những việc đã   làm được, những việc chưa làm được, xác định rõ nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, rút   ra kinh nghiệm ở địa phương mình, đồng thời tiếp thu được những kinh nghiệm tốt của các địa phương khác. ­ Các Tỉnh ủy, Thành ủy cần tiến hành việc nhận xét, đánh giá cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ diện cấp ủy quản lý để   làm cơ sở cho xây dựng quy hoạch cán bộ. Trên cơ sở đánh giá cán bộ cần xây dựng quy hoạch cán bộ. Những nơi đã xây dựng   quy hoạch cán bộ thì tiến hành rà soát lại để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nhân tố mới cho phù hợp. Chú ý phát hiện, lựa   chọn và tạo nguồn quy hoạch từ những cán bộ trẻ, đã được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển, những người xuất thân từ   thành phần công, nông, là con em các gia đình có truyền thống cách mạng, người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ... ­ Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, các cấp, các ngành cần tiến hành xây dựng kế hoạch đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng và kế  hoạch luân chuyển cán bộ. Phải tiến hành đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa các khâu của công tác cán bộ ; kết hợp chặt chẽ  giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức; phải căn cứ vào năng lực, sở trường của từng cán bộ và yêu cầu nhiệm vụ của mỗi   địa phương để xác định nơi luân chuyển cán bộ cho phù hợp; làm tốt công tác chuẩn bị, tạo sự thống nhất trong cấp ủy nơi cán   bộ đi cũng như nơi cán bộ luân chuyển đến; kết h ợp việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý để đào tạo, bồi dưỡng phục   vụ cho lâu dài với việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn và chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực. ­ Quá trình tiến hành luân chuyển cán bộ phải chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, mở rộng dân chủ  và có bước đi thích hợp.   Trong thời gian cán bộ luân chuyển về địa phương, cấp ủy phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi và giúp đỡ để cán bộ kịp thời   phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm, đồng thời có những tiêu thức cụ thể để đánh giá cán bộ sau khi thực hiện   luân chuyển; định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm, từng bước đưa việc luân chuyển cán bộ  lãnh đạo và quản lý trở thành thường  xuyên, nền nếp, tạo sự chuyển biến về chất trong công tác cán bộ./. Như phân tích trên, luân chuyển, và điều động cán bộ có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau. Trong mối quan hệ  đó thì luân chuyển cán bộ là khâu đột phá, tăng cường cán bộ mang tính đột xuất, điều động, bố trí, sắp xếp cán bộ có tính  
  18. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy thường xuyên. Tâm điểm và tiền đề để thực hiện việc luân chuyển, điều động  cán bộ là đánh giá cán bộ. Bởi đánh giá cán   bộ đúng thì luân chuyển, điều động cán bộ sẽ phát huy được tác dụng, công việc sẽ hiệu quả. Tuy nhiên, việc phân định tính   chất, nhiệm vụ của từng loại cán bộ cũng chỉ là tương đối. Do vậy, không tuyệt đối hóa khâu nào và không được tách riêng  lẻ, độc lập từng khâu. Nếu không, sẽ cắt khúc công tác cán bộ, dẫn đến chỉ đạo công tác cán bộ thiếu tập trung, thống nhất. *  Liên hệ thực tế:
  19. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Câu 9: Phân tích những đặc trưng và phương hướng để nâng cao phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo quản lý  cấp cơ sở? Phong cách lãnh đạo, quản lý không tự nhiên mà có, nhất là phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ. Nó được hình thành   thông qua quá trình học tập, rèn luyện của người lãnh đạo, quản lý... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ.  Theo  Người, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ có  vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà   nước thấm sâu vào "tâm lý quốc dân"và đi vào cuộc sống. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực  của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Trước khi tìm hiểu những đặc trưng của phong cách lãnh đạo, ta làm rõ các khái niệm: Khi đề cập đến phong cách lãnh đạo có nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên có thể phân chia theo một số hướng tiếp   cận sau: Phong cách lãnh đạo là tác phong lãnh đạo; là cách thức lãnh đạo; là biện pháp, phương pháp lãnh đạo; là mẫu hành  vi lãnh đạo... Trên cơ sở kế  thừa quan niệm của các nhà tâm lý học, các nhà tâm lý học Việt Nam đưa ra khái niệm phong cách như  sau: ­ Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quán lý là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động  mội cách có hiệu quả đến đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ  lãnh đạo, quản lý đã  đề ra. ­ Phong cách lãnh đạo của cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp cơ  sở  là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn   nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả đến cấp dưới và quần chúng nhân dân tại cơ  sở.  Nó được biểu hiện qua các tác  phong làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả và thiết thực, đi sâu đi sát quần chúng, tôn trọng và lắng nghe quần chúng, khiêm tốn  học hỏi và thực sự cầu thị, năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong. Phong cách lãnh đạo được phân loại như sau: ­ Phong cách lãnh đạo độc đoán ­ Phong cách lãnh đạo dân chủ ­ Phong cách lãnh đạo tự do ­ Phong cách lãnh đạo định hướng mục tiêu ­ Phong cách lãnh đạo lênlnnít Những biểu hiện đặc trưng của phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở ­ Có tác phong làm việc dân chủ Người lãnh đạo phải: + Thực hiên tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là những vấn đề “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” + Tạo điều kiện cho quần chúng tham gia thảo luận các vấn đề về chủ trương nhiệm vụ của đơn vị Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo ở cấp xã, nó sẽ khơi dậy được mọi 'Sự tham  gia nhiệt tình và những đóng góp sáng tạo của quần chúng trong việc tạo ra các quyết định, chỉ thị, trong việc tổ chức thực hiện  những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở cơ sở có hiệu quả. ­ Có tác phong làm việc khoa học Người lãnh đạo phải: + Am hiểu công việc + Có năng lực tổ chức + Có kỹ năng giao tiếp + Có khả năng nắm bắt các đặc điểm, phẩm chất, tâm lý của cấp dưới để sử dụng đúng người, đúng việc. Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của phong cách lãnh đạo cấp cơ sở. Lãnh đạo, quản  lý cấp cơ sở hiện nay khác hẳn với thời kỳ bao cấp. Người lãnh đạo, quản lý không chỉ có nhiệt tình cách mạng, có đạo đức mà   cần thiết phải có trình độ chuyên môn, trí tuệ. Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải có năng lực tổ chức, kỹ năng giao tiếp, am  hiểu con người và sử dụng con người đúng việc, đúng chỗ. ­ Có tác phong làm việc hiệu quả, thiết thực Người lãnh đạo phải: + Khi ban hành các quyết định phải xem xét tính hiệu quả của quyết định. + Khi tổ chức thực hiện cần tránh phô trương, hình thức.
  20. Đề cương ôn tập Môn: Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý – Đinh  Huy Tính hiệu quả thiết thực là tiêu chí đánh giá tài ­ đức của cán bộ lãnh đạo, đánh giá sự phù họp hay không của phong cách   lãnh đạo. Cấp cơ sở là nơi hiện thực hóa, đưa đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống,  vì vậy đòi hỏi tác phong làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực khi đưa ra  các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện. ­ Có tác phong đi sâu đi sát quần chúng Người lãnh đạo phải: + Đi sâu, đi sát nắm được tình hình của đơn vị, hiểu được tâm tư  nguyện vọng của quần chúng, tôn trọng và bảo vệ  quyền lợi chính đáng của quần chúng. + Không được quan liêu, hống hách, ức hiếp quần chúng. Tác phong đi sâu đi sát quần chủng là đặc trưng riêng biệt của phong cách lãnh đạo cấp cơ sở. Có đi sâu đi sát quần chúng   mới có được tác phong khoa học, dân chủ, tác phong hiệu quả và thiết thực. ­ Có tác phong tôn trọng và lắng nghe ỷ kiến quần chúng, khiêm tốn học hỏi quần chúng và thực sự cầu thị Người lãnh đạo phải: + Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, biết tiếp thu những ý kiến hay của quần chúng. + Không được tự cao, tự đại với quần chúng. Dân là gốc nước, dân là chủ, mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ, sáng tạo đều từ nhân dân mà ra. Chính vì thế  tác phong tôn   trọng và lắng nghe quần chúng không chỉ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo cấp cơ sở mà còn là nguyên tắc làm việc,   nguyên tắc ứng xử của người lãnh đạo. Khiêm tốn học hỏi sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ  sở  tiến bộ, có thêm kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng để   hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ  sở  có phong cách khiêm tốn học hỏi và thực sự  cầu thị  sẽ  dễ  gần được quần chúng,   chiếm được sự cảm tình, tôn trọng của quần chúng. ­ Có tác phong làm việc năng động và sáng tạo Người lãnh đạo phải: + Có tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm + Phải chủ động, sáng tạo, nhạy bén trong công việc, không được trông chờ ỷ lại cấp trên. Người lãnh đạo năng động, sáng tạo phải là người nhạy bén trong việc phát hiện cái mới, ủng hộ những cái mới tích cực,  nhân nó lên thành diện rộng, thành phong trào để đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở cơ sở ngày càng được cải thiện,   đổi mới, văn minh hơn. ­ Có tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong Người lãnh đạo phải: + Thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh. + Gương mẫu trong công việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghĩa vụ của công   dân. + Kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực. Tính gương mẫu, tiên phong của cán bộ, đảng viên là yếu tố đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, tạo được   sự tín nhiệm, niềm tin của nhân dân. Đe tạo ra một bước chuyển biến mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v. rất cần   đến phong cách, tác phong gương mẫu, tiên phong của những người cán bộ lãnh đạo, quản lý để qua đó người dân mến phục,   noi theo và tin tường. Phương hướng xây dựng, rèn luyện để nâng cao phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở Một số yếu tố hình thành phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở: ­ Các phẩm chất tâm lý cá nhân như: phẩm chất chính trị, đạo đức; Năng lực (trí lực); Tính cách; Tính khí. ­ Các yếu tố môi trường như: Điều kiện làm việc; Cơ chế, chính sách. Để nâng cao phong cách lãnh đạo cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, cán bộ lãnh đạo cần: (Theo giáo trình từ trang 42 đến trang 47, có thể lược bớt một số ý) ­ Rèn luyện phong cách lãnh đạo lêninnít Phong cách lãnh đạo lêninnít là phong cách lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Người cán bộ lãnh đạo cơ sở cần rèn   luyện phong cách lãnh đạo lêninnít là thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; tính tư tưởng cao, tính nguyên tắc Đảng; mối liên hệ   thường xuyên với quần chúng; chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tính thiết thực, hiệu quả, thông thạo công việc. ­ Khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của quần  chúng; đảng viên, lãnh đạo đều “từ trong quần chúng ra, trờ lại noi quần chúng”. Người lãnh đạo theo quan điểm Hồ Chí Minh là  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2