
Đề cương tiểu luận Đại cương các loại hình nghệ thuật: Hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong nghệ thuật hội họa
lượt xem 1
download

"Đề cương tiểu luận Đại cương các loại hình nghệ thuật: Hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong nghệ thuật hội họa" được thực hiện với mục tiêu giúp người học nắm được nội dung khái niệm, đối tượng, vai trò của nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật để từ đó thấy được bản chất của hình tượng nghệ thuật. Vận dụng các kiến thức để từ đó hiểu thêm về hoạt động sáng tác nghệ thuật, rút ra ý nghĩa trong công tác nghiên cứu các vấn đề về nghệ thuật ngày nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương tiểu luận Đại cương các loại hình nghệ thuật: Hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong nghệ thuật hội họa
- ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN ĐẠI CƯƠNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT HÌNH TƯỢNG BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG NGHỆ THUẬT HỘI HỌA
- MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH ẢNH .................................................................................. 2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. 3 MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4 NỘI DUNG ........................................................................................................ 6 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT ........ 6 1.1. Khái niệm ................................................................................................... 6 1.2. Khái quát hình tượng nghệ thuật .............................................................. 11 1.3. Đặc trưng vẻ đẹp hình tượng trong văn học nghệ thuật ........................... 13 Chương 2 VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG TÁC PHẨM KẾT NẠP ĐẢNG Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ.......................................................... 18 2.1. Vẻ đẹp phẩm chất của hình tượng Bộ đội Cụ Hồ qua nội dung chủ đề ......................................................................................................................... 18 2.2. Vẻ đẹp ngoại hình của Bộ đội Cụ Hồ qua ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ ............................................................. 20 2.3. Yếu tố biểu đạt nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong tác phẩm Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ .............................................. 22 2.4. Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp hình tượng Bộ đội Cụ Hồ .................. 24 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 26
- DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 1. Một số hình tượng được vẽ trên hang động. ........................................ 8 Hình 2. Ngôn ngữ của âm nhạc đó là những nốt nhạc. ..................................... 9 Hình 3. Những tiến bộ về kỹ thuật mở ra thể loại nghệ thuật mới. ................ 10 Hình 4. Tác phẩm "Tình quân dân" - họa sĩ Nguyễn Sĩ Ngọc. ....................... 20 Hình 5. Tác phẩm "Nhớ một chiều Tây Bắc" - họa sĩ Phan Kế An ............... 20 Hình 6. Tác phẩm "Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ" - họa sĩ Nguyễn Sáng. . 21 2
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NXB Nhà xuất bản 3
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Nghệ thuật hội họa có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khởi đầu có thể là những hình vẽ tự phát với có niên đại hàng chục ngàn năm như động vật, cây cối trong hang động Altamira, Tây Ban Nha hay các hoạt động săn bắn, nhảy múa trong hang Magura, Bulgaria, trong đó có những hình vẽ khá cầu kỳ. Cùng phát triển với nền văn minh của con người, hội họa đã đóng góp nhiều vai trò khác nhau, không chỉ dừng lại ở việc khắc họa thế giới xung quanh giúp chúng ta hình dung được khung cảnh trong quá khứ, mà còn thấy được những câu chuyện về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của các dân tộc. Cho đến thời đại ngày nay, hội họa đang đóng góp không nhỏ trong việc phát triển kinh tế, điển hình như những tác phẩm có giá trị cao tại bảo tàng Louvre của Pháp mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng chỉ ra rằng như nhiều loại hình nghệ thuật, hội họa có vai trò quan trọng với tâm lý của con người, sản sinh cảm xúc thư thái, thoải mái tinh thần, thôi thúc con người hành động, hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành và xuất hiện hành vi sáng tạo, cho thấy đóng góp tích cực của hội họa trong phát triển xã hội lành mạnh. Tại Việt Nam, con người từ xa xưa khắc họa những hình ảnh của cư dân Lạc Việt trên trống đồng, đến những dòng tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống mang nhiều sắc thái khác nhau, phục vụ lễ, Tết, thờ cúng. Chúng ta thấy được hội họa từ lâu đã gắn bó chặt chẽ với đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã cho nên đề tài của tranh hết sức phong phú. Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người dân cho đến những điều thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và tiếp đến là kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Những tác phẩm mỹ thuật thời kỳ này không chỉ cổ vũ nhân dân đánh thắng giặc ngoại xâm mà còn cho công chúng ngày nay hiểu hơn về từng giai đoạn của lịch sử dân tộc, khơi dậy trong mỗi người niềm tự hào dân tộc, sự trân trọng những trang sử vẻ vang và hướng tới tinh thần đoàn kết, đồng lòng vượt qua mọi thử thách của hiện tại. 4
- Là sinh viên ngành Thiết kế đồ họa em nhận thấy việc hiểu, nắm bắt được những đặc trưng của nghệ thuật là rất quan trọng, trong đó có nội dung và hình thức thông qua các hình tượng nghệ thuật hội họa. Đây sẽ là nền tảng để bản thân em phát triển kiến thức về nghệ thuật nói chung và những kỹ năng về hội họa trong con đường phát triển sự nghiệp sau này. Dưới góc độ là sinh viên năm thứ hai của trường, khi được học tập môn Đại cương các loại hình nghệ thuật, em đã chọn đề tài “hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong nghệ thuật hội họa”, để từ đó hiểu thêm về sự đóng góp của hội họa trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và chống giặc ngoại xâm. Từ đó hiểu cách nghệ thuật phản ánh thế giới thông qua ý thức con người. Hy vọng qua tiểu luận này em có thêm những kiến thức bổ trợ cho chuyên ngành học tập của mình, nhận thức rõ vai trò của hình tượng thẩm mỹ trong tác phẩm nghệ thuật, từ đó có thêm gợi ý cho các ý tưởng sáng tác chuyên ngành. 2. Mục đích nghiên cứu Nắm được nội dung khái niệm, đối tượng, vai trò của nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật để từ đó thấy được bản chất của hình tượng nghệ thuật. Vận dụng các kiến thức để từ đó hiểu thêm về hoạt động sáng tác nghệ thuật, rút ra ý nghĩa trong công tác nghiên cứu các vấn đề về nghệ thuật ngày nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Vẻ đẹp tạo hình của hình tượng Bộ đội Cụ Hồ Phạm vi nghiên cứu: Hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận. Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử, phân tích - tổng hợp, khảo sát, tổng kết thực tiễn. 5. Cấu trúc của tiểu luận Ngoài phần Mở đầu, kết luận, Tiểu luận gồm 02 chương chính: Chương 1. Khái quát chung về hình tượng nghệ thuật. Chương 2. Vẻ đẹp hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ. 5
- NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT 1.1. Khái niệm 1.1.1. Hình tượng Ý nghĩa bao trùm nhất của nghệ thuật và thường dùng nhất hiện nay là ý nghĩa nhận thức. Nghệ thuật là một trong ba hình thức nhận thức cơ bản của con người: hình thức nhận thức khoa học, hình thức nhận thức tôn giáo; và hình thức nhận thức nghệ thuật. Khác với hai hình thức nhận thức trên, nghệ thuật nhận thức bằng hình tượng. Khoa học thì nhận thức thể giới bằng khái niệm; tôn giáo nhận thức thế giới bằng biểu tượng, còn nghệ thuật nhận thức thế giới như cái nó đang tồn tại với những màu sắc, đường nét và âm thanh của cuộc sống. 1.1.2. Nghệ thuật Chúng ta thường hay đề cập đến từ nghệ thuật khi nói về sự khéo léo. Đối xử khéo léo với mọi người xung quanh thì có nghệ thuật giao tiếp, nghệ thuật sống; lao động khéo léo đến mức thành thạo như nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật làm vườn. Bên cạnh đó từ nghệ thuật còn được sử dụng để chỉ những cách thức nhất định để biểu đạt và lưu giữ tình cảm, suy nghĩ của con người. Nghệ thuật hội họa, nghệ thuật múa, nghệ thuật điện ảnh, nghệ thuật viết văn… là các hình thức, các phương tiện con người sáng tạo để lưu giữ sự phong phú về các mặt tư tưởng và tình cảm của mình. Người ta thường gọi là các loại hình, loại thể nghệ thuật. Nghệ thuật gắn liền với tư duy tình cảm của con người, nó khác với khoa học ở chỗ, khoa học thiên về phân tích các sự vật khách quan, và phân tích một cách khách quan các quan hệ của con người, nhằm đạt tới chân lý; còn nghệ thuật thì quan tâm tới tâm tư, tình cảm, các câu chuyện, sự phong phú về mọi mặt của con người. Khoa học nghiên cứu các mối quan hệ tương tác giữa các sự vật, còn nghệ thuật thì phản ánh các xúc động của con người về các sự vật. Nhờ nghệ thuật, con người đã nhân hóa tự nhiên và suy nghĩ về các đại lượng chưa biết, quy chúng thành những cái phải biết và sẽ biết trên cơ sở đã biết là con người. 6
- Nghệ thuật là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người, cộng hưởng cảm hứng sáng tạo, sự tự do của con người trong hành trình phát hiện, tìm kiếm và lưu giữ cái đẹp. Trong suốt lịch sử phát triển, con người đã sáng tạo ra những điều kỳ diệu, không chỉ là cải tạo, chinh phục thiên nhiên, mà quan trọng hơn cả là tìm thấy ý nghĩa của sự sống. Con người đã tìm hình thức biểu hiện mình qua các âm thanh, đường nét, màu sắc, hình khối, động tác. Qua sự biểu hiện mình, con người đã tìm cách phát hiện thế giới quanh con người. Con người không tự giới hạn mình trong những hoạt động ăn, ở, mặc, một cách thuần túy bản năng và vật chất mà tạo dựng nên thế giới văn hóa nghệ thuật, từ đó tìm ra quy luật vận động của cái đẹp trong đời sống xã hội. Nghệ thuật ra đời như một cách thức để đi tìm ý nghĩa của sự sống. Tuy nhiên, khác với tôn giáo, con người nương tựa, lệ thuộc nhiều vào thần thánh, thì trong nghệ thuật, con người đã biết tạo nên một thế giới cho riêng mình, phát hiện ra cái mình yêu quý, cái đẹp, cái cao cả; phát hiện ra những xúc động lo toan, cái bi, cái hài; phát hiện ra cải vui vẻ, trào lộng, sảng khoái.... Mác và Ăngghen coi nghệ thuật là một hình thái của ý thức xã hội. Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, nghệ thuật là hoạt động có tính thẩm mỹ sâu rộng. Nó mang trong bản thân mình hoạt động có tính ý thức xã hội. Và ý thức ở bất kỳ hình thức nào thì đều là tồn tại được ý thức. Nghệ thuật dù ở đâu và ở thời nào cũng chịu sự quy định của thực tại. Hơn bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, nghệ thuật mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó không chỉ phản ánh các điều kiện sinh hoạt thông thường của xã hội, mà còn phản ánh chiều sâu của tâm lý xã hội. Nghệ thuật ra đời là sản phẩm trực tiếp của các hoạt động thẩm mỹ, của chủ thể thẩm mỹ, trước các đối tượng thẩm mỹ. Nghệ thuật là biểu hiện tập trung của quan hệ thẩm mỹ. Đó là một quá trình chủ thể hóa có tính chất thẩm mỹ và khách thể hóa chủ thể một cách thẩm mỹ. Từ thời cổ đại, khi săn bắn, lúc lao động, nhu cầu đối tượng hóa tình cảm của con người và chủ thể hóa những sự biến động của hoàn cảnh đã giúp con người tìm ra các hình thức miêu tả. Hình thức miêu tả bằng đường nét, bằng âm thanh, bằng màu sắc, bằng động tác để thể hiện tư tưởng tình cảm của con người được nảy sinh từ lao động. Người ta đã tìm thấy các hình thức này rất sớm trên các hang động, trên các vật dụng của người nguyên thủy. 7
- Hình 1. Một số hình tượng được vẽ trên hang động. Nghệ thuật ra đời từ nhu cầu tổ chức xã hội của con người. Các nhà dân tộc học, các nhà khảo cổ học đã chứng mình sự ra đời của quan hệ thẩm mỹ gắn bó chặt chẽ với cách thức tổ chức xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo của nhiều dân tộc. Người ta dùng nghệ thuật làm phương tiện tác động vào thế giới nội tâm của con người, làm cho con người gắn bó với cộng đồng. Những tiếng hát, lời ru, lời thần chú, thần thoại được ra đời từ trong nhu cầu tổ chức xã hội của cộng đồng. Nghệ thuật có thể ra đời từ lòng yêu nước, lòng tự hào của mỗi dân tộc. Do nhu cầu ghi lại các hình tượng tổ chức cộng đồng mà nghệ thuật xuất hiện ngày càng nhiều và do đó sau này nghệ thuật có một chức năng quan trọng gắn liền với sự ra đời của nó là chức năng tổ chức. Nghệ thuật ra đời từ nhu cầu khẳng định sự đánh giá của con người với cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai, cái đẹp, cái xấu. Những tác phẩm thần thoại cổ của nhân loại ra đời từ các khát vọng đánh giá thế giới quan gắn con người với tự nhiên. Con người là một bộ phận hợp thành của tự nhiên. Tự nhiên là sự khuếch tán của con người. Con người là sự thu nhỏ của tự nhiên. Tự nhiên được nhân hóa bởi con người thông qua các hình tượng nghệ thuật được nhân hóa, tự nhiên như thân thể con người. Quả đổi như ngực người phụ nữ. Dòng sông, dòng suối như tóc người con gái mượt mà chảy. Mặt trăng, mặt trời, trăng sao đều là hình tượng của con người. Có thể nói, nghệ thuật là một hình thái ý thức ra đời từ lao động và chiến đấu, từ các nhu cầu miêu tả, tín ngưỡng, đánh giá và rút ra những bài học về cuộc sống. Vì thế, nghệ thuật có một vai trò và ý nghĩa xã hội sâu sắc và rộng lớn. 8
- 1.1.3. Thể loại Nghệ thuật là một hoạt động nhận thức của con người bằng các phương tiện hình tượng. Các hình tượng nghệ thuật được sáng tạo theo các loại hình, loại thể nhất định, có đặc trưng riêng, gồm kiến trúc, nhảy múa, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, ngôn ngữ - văn chương, sân khấu, điện ảnh. Không có một hình thức nghệ thuật chung, chỉ có những loại hình nghệ thuật cụ thể với đối tượng phản ánh riêng, phương thức phản ánh riêng, và những tác động phản ánh riêng. Hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo phải được thể hiện trong một tác phẩm nhất định với một loại hình, loại thể nhất định. Các loại hình nghệ thuật đều có ngôn ngữ riêng và khả năng biểu hiện riêng. Thông qua các loại hình, nghệ thuật trở nên vô cùng phong phú. Trong quá trình phát triển của mình, các loại hình lại được phân thành các loại thể tức là các loại hình nhỏ hơn. Hình 2. Ngôn ngữ của âm nhạc đó là những nốt nhạc. Các loại hình, loại thể đều là những sườn vật chất để cho tâm hồn nghệ sĩ được thể hiện ra và cho công chúng hiểu được ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ. Mỗi loại hình, loại thể đều phản ánh cuộc sống và biểu hiện tình cảm của nhà sáng tạo, nhưng nó mang tính đặc thù thẩm mỹ khác nhau. Tính khách quan của nó được biểu hiện trong mối quan hệ thẩm mỹ giữa thực tiễn sáng tạo của nghệ sĩ với sự vận động phong phú của hiện thực. Sự sử dụng các chất liệu cuộc sống khác nhau, bằng những cách thức, phương tiện khác nhau có tác dụng hình thành sự thụ cảm khác nhau của công chúng. Lịch sử phát triển của mỹ học cho thấy các loại hình và loại thể nghệ thuật xuất hiện càng phong phú và hoàn thiện do hoạt động thực tiễn sáng tạo của con 9
- người. Nhiều loại hình, loại thể nghệ thuật được xuất hiện do việc con người nhận thức và cải tạo thế giới ngày một phong phú hơn. Các loại hình, loại thể nghệ thuật mang tính thời đại rất sâu. Có những loại hình, loại thể chỉ xuất hiện ở một thời kỳ nhất định, sau đó nó không xuất hiện nữa. Hình 3. Những tiến bộ về kỹ thuật mở ra thể loại nghệ thuật mới. Theo quan điểm mỹ học Mác - Lênin, hoạt động nghệ thuật vô cùng phong phú mà các loại hình và loại thể nghệ thuật cũng rất đa dạng. Người ta có thể dựa vào hai tiêu chí lớn để phân biệt các loại hình, loại thể trong nghệ thuật: Một là, có thể dựa vào tiêu chuẩn bản thể học để chia các loại hình nghệ thuật thành những nhóm loại hình lớn: - Nhóm loại hình không gian. - Nhóm loại hình nghệ thuật thời gian. - Nhóm loại hình nghệ thuật không gian - thời gian. Các nghệ thuật không gian: có hội họa, đồ họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, kiến trúc. Các nghệ thuật thời gian: có nghệ thuật ngôn ngữ văn học, thơ ca, âm nhạc. Các nghệ thuật không gian - thời gian: có nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật múa. Hai là, người ta có thể dựa vào các tiêu chí tín hiệu để chia các loại hình nghệ thuật thành những loại hình nghệ thuật thính giác, nghệ thuật thị giác, nghệ thuật miêu tả, nghệ thuật không miêu tả, nghệ thuật tĩnh, nghệ thuật động... Mỗi 10
- loại hình nghệ thuật có một hệ tín hiệu riêng, độc đáo nói lên khả năng sáng tạo của con người. Tổng thể mặt bản thể và mặt tín hiệu có thể chia thành rất nhiều loại hình, loại thể phong phú. 1.2. Khái quát hình tượng nghệ thuật Nghệ thuật khác với các hình thái ý thức khác ở chỗ nó phản ánh thế giới bằng hình tượng. Nội dung chủ yếu của nghệ thuật thể hiện ở thế giới hình tượng được các tác giả sáng tạo nên, và khi công chúng thưởng thức nghệ thuật cũng là thưởng thức hình tượng được phản ánh trong tác phẩm. Vì thế, nói đến nghệ thuật tức là nói đến phạm trù hình tượng. Hình tượng trong lĩnh vực nghệ thuật chủ yếu được biểu hiện qua ba tư cách: Phương tiện phản ánh, sản phẩm của sáng tạo, đối tượng thưởng thức thẩm mỹ. Phương tiện hình tượng có khả năng biểu cảm, thể hiện cuộc sống như nó tồn tại. Các màu của cuộc sống, âm thanh của cuộc sống, động tác của cuộc sống, tình cảm xúc động của con người... không có hình thức nào biểu hiện tốt hơn hình tượng. Hình tượng nghệ thuật giữ lại cuộc sống phong phú hơn các công thức, các định đề khoa học. Ví dụ như một hình tượng đơn giản về chim bồ câu thể hiện thông điệp lớn lao - khát vọng hòa bình. Trí tưởng tượng nói chung tạo ra một bước chuyển từ các sự kiện có tính kinh nghiệm sang khái quát, phương tiện hình tượng có thể chứa đựng các liên tưởng, các biểu cảm của con người, giúp người nghệ sĩ liên kết một phạm vi rộng lớn trong quá trình xây dựng điển hình của nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật có khả năng đánh thức trí tưởng tượng của công chúng. Sản phẩm của sáng tạo, đó là bằng hư cấu và vượt trước những hiện tượng xảy ra trong đời sống, nghệ thuật tác động làm kích thích mọi kinh nghiệm thẩm mỹ của con người; nó biến các kinh nghiệm ấy thành những xúc động, thúc đẩy con người và đánh thức tình cảm, tâm lý trong con người. Nghệ thuật của mọi thời đại luôn luôn là một phương tiện có hiệu lực làm bộc lộ tâm lý, đời sống tinh thần của xã hội, do đó trong cấu trúc của nghệ thuật, bằng các phương tiện hình tượng, nó luôn luôn gắn với các tình huống xúc cảm đa dạng. Trong mọi điển hình nghệ thuật, xúc cảm tham dự vào khắc họa bộ mặt tinh thần của nhân vật, của thời đại. 11
- Trong nghệ thuật, các tâm trạng xã hội luôn được xuất hiện. Do những nhân tố tâm lý đóng một vai trò to lớn trong quan hệ qua lại giữa nhà sáng tạo và xã hội mà trong nghệ thuật luôn nổi lên tinh thần thời đại. Trong bản chất của mình, nghệ thuật gắn liền với tình cảm của mỗi dân tộc. Những niềm vui, nỗi buồn của thời đại đều có thể tìm thấy trong nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là một hệ thống đặc thù những yếu tố kích thích được tổ chức có ý thức và có chuẩn bị trước nhằm tạo nên một xúc cảm thẩm mỹ. Do tố chất này, nghệ thuật có một đặc trưng rất quan trọng là tính cổ vũ của nó. Rõ ràng nhất là thông qua những tác phẩm cổ vũ tinh thần đánh giặc, đề cao tinh thần độc lập dân tộc như Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi)… Hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, nghệ thuật có một ma lực đặc biệt. Những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc thường quyến rũ công chúng rất mạnh. Nó tạo ra sự đam mê có khi đến si mê. Những tác phẩm nghệ thuật lớn đều làm si mê cả những người tỉnh táo nhất, và ngay cả những nhà sáng tạo nghệ thuật. Tính chất thôi miên là đặc trưng rất điển hình của nghệ thuật. Nhiều người khi cầm đến cuốn tiểu thuyết hay, khi xem diễn một vở kịch, nghe một bản nhạc, ngắm nhìn một bức vẽ đã quên cả ăn, cả ngủ. Sự hấp dẫn của nghệ thuật đã lôi cuốn cả tâm hồn và tình cảm của con người. Nói tới nghệ thuật là phải nói tới bản chất thẩm mỹ của nó. Nghệ thuật ra đời trong quan hệ thẩm mỹ. Đối tượng của nghệ thuật là các hiện tượng thẩm mỹ khách quan, chủ thể trong hoạt động nghệ thuật cũng là chủ thể thẩm mỹ. Vì thế nghệ thuật còn có đặc trưng quan trọng nữa là một hoạt động gắn với giá trị thẩm mỹ. Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể thẩm mỹ tạo nên giá trị thẩm mỹ. Quá trình tác động qua lại đó, cái chung và cái riêng đều được biến đổi, được tái tạo, được sáng tạo, được đánh giá, được chọn lọc thông qua một chủ thể xã hội. Vì thế, giá trị thẩm mỹ được quyết định bởi ý nghĩa xã hội lớn lao của cái chung và cái riêng trong hình tượng nghệ thuật. Do vai trò biến đổi và đánh giá này, người ta còn gọi hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái chủ quan và cái khách quan, có ý nghĩa xã hội rộng lớn. 12
- 1.3. Đặc trưng vẻ đẹp hình tượng trong văn học nghệ thuật Hình tượng nghệ thuật không tồn tại đơn lẻ mà nó thường là một hệ thống được kết cấu chặt chẽ làm thành nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Vì thế, nghiên cứu đặc trưng của nghệ thuật, nghiên cứu hình tượng nghệ thuật không thể bỏ qua hệ thống của hình tượng là nội dung và hình thức nghệ thuật. Nội dung và hình thức nghệ thuật là biểu hiện khả năng sáng tạo và phản ánh đời sống của nghệ sĩ. Nội dung và hình thức nghệ thuật tạo thành giá trị của tác phẩm mà nhờ đó công chúng nghệ thuật có thể thưởng thức được nghệ thuật. Không có nghệ thuật nào không có nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức cũng như mối quan hệ giữa chúng là đặc trưng rất quan trọng của nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật tức là nói tới nội dung được phản ánh và hình thức được biểu hiện. 1.3.1. Nội dung của nghệ thuật Nội dung của tác phẩm nghệ thuật do đối tượng thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật quy định. Đó chính là quan hệ thẩm mỹ của con người với thế giới hiện thực thông qua tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật đã được người nghệ sĩ phản ánh thông qua thế giới quan, tình cảm, tư tưởng của mình trong quá trình sáng tạo. Có ý kiến cho rằng, nội dung nghệ thuật là các tư tưởng mà biểu hiện tập trung của nó là tư tưởng chính trị được thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Đây là một quan niệm đúng, cần phân tích đầy đủ để làm sáng tỏ hơn vấn đề này. Mỹ học tư sản thường nói đến “nghệ thuật vì nghệ thuật”, “nghệ thuật không làm chính trị”, “nghệ thuật không giai cấp”. Thực chất, đó là những thứ lý luận xuất phát từ một mỹ học duy lý. Theo quan điểm mỹ học Mác - Lênin, nghệ thuật phải phục vụ chính trị. Tuy nghệ thuật không phải là chính trị nhưng nghệ thuật ở trong kinh tế và chính trị. Nội dung của nghệ thuật được đo bằng tác dụng chính trị cải tạo xã hội to lớn của nó. Vì là biểu hiện của một hình thái ý thức xã hội, nội dung nghệ thuật không tách rời cơ sở giai cấp đã sản sinh ra nó. Về điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng.”. 13
- Nội dung của tác phẩm nghệ thuật bao gồm hai yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố chủ quan là ý tưởng sáng tạo của người nghệ sĩ nói lên các xem xét, đánh giá và giải quyết chủ đề theo ý đồ chủ quan của mình. Mỹ học Mác - Lênin, khi nêu lên đặc trưng về nội dung của nghệ thuật đã từng khẳng định những đóng góp lớn lao về mặt tư tưởng và tình cảm của nghệ sĩ. Lao động nghệ thuật kỳ diệu, năng lực xúc cảm lớn, trí tưởng tượng táo bạo, rung cảm mãnh liệt của nghệ sĩ đã từng góp phần làm sáng tỏ đặc trưng sáng tạo của nghệ thuật. Khi bàn đến các quy luật của sáng tạo, mỹ học Mác - Lênin đã đánh giá rất cao chủ thể thẩm mỹ. Đó là các chủ thể năng động luôn luôn có khát vọng biến cái đối tượng thẩm mỹ phong phú thành một thế giới “cho ta”, “vì ta” và nhiều khi còn “bởi ta” nữa. Vì thế, nói đến nội dung nghệ thuật cũng là nói đến chính các tư tưởng mà nghệ sĩ muốn truyền đạt tới công chúng trong tác phẩm của mình bằng hình thức hình tượng. Chẳng hạn, thông qua tác phẩm Sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh đã cho thấy quan điểm rất tiến bộ về tình yêu, khuyến khích người phụ nữ hãy làm chủ cuộc đời mình và tự tin theo đuổi hạnh phúc. Đồng thời luôn trân trọng, giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp truyền thống, đó là lòng thủy chung, son sắt, dịu dàng, thấu hiểu. Đây là một trong số rất nhiều những tư tưởng về một đề tài mà nhiều nghệ sĩ đã khai thác. Yếu tố khách quan là các thuộc tính thẩm mỹ của cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống được nghệ sĩ phản ánh vào tác phẩm theo chủ đề nhất định. Nói một cách khác, đây chính là đối tượng của nghệ thuật. Các tư tưởng, tình cảm của con người là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nói rằng tư tưởng của nghệ sĩ là một bộ phận của nội dung nghệ thuật không có nghĩa tư tưởng ấy là tư tưởng tự biểu hiện của tác giả. Tư tưởng của tác giả, lý tưởng thẩm mỹ của người sáng tác bao giờ cũng phản ánh những khía cạnh quan trọng của cuộc sống, phát hiện, khám phá tính quy luật của hiện thực. Vì thế các tư tưởng của nghệ sĩ đã được khách quan hóa khi trở thành nội dung của tác phẩm nghệ thuật. Các tư tưởng này đều nằm trong quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực. Ví dụ, tư tưởng trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố mang tính khái quát số phận của người dân, cụ thể là những người nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến, tố cáo quyết liệt chế độ thống trị đen tối, thối nát, phi nhân tính đã chà đạp tàn bạo cuộc sống của con người, cụ thể qua nhân vật chị Dậu, mang lại cho người đọc những suy nghĩ, 14
- thương cảm về số phận người dân và lòng căm thù chế độ thực dân phong kiến đương thời. Như vậy, nội dung của nghệ thuật là những hiện tượng thẩm mỹ độc đáo được phản ánh bằng hình tượng thông qua thế giới quan và tâm hồn sáng tạo của nghệ sĩ. Chiều sâu của những vấn đề xã hội trong quan hệ thẩm mỹ bắt gặp tầm rộng lớn của lý tưởng sống và lý tưởng thẩm mỹ của nghệ sĩ sẽ mang lại cho nghệ thuật những giá trị nội dung độc đáo. Có thể nói ngắn gọn rằng khi đề cập tới nội dung của nghệ thuật là nói tới đối tượng thẩm mỹ được phản ánh, nói tới thế giới quan, tư tưởng, tình cảm của người sáng tạo. 1.3.2. Hình thức của nghệ thuật Theo quan điểm của mỹ học Mác - Lênin, hình thức là hình thức của nội dung, vì thế nó là kết cấu bên trong, sự tổ chức hợp lý của nội dung. Nhiều người đã hiểu hình thức của tác phẩm nghệ thuật là ngôn ngữ, là phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Có người đã cho rằng bản thân màu sắc, đường nét trong hội họa, từ ngữ trong thơ ca, tiểu thuyết, nốt nhạc, dụng cụ trong âm nhạc... là hình thức của nghệ thuật. Cách hiểu này chưa đúng. Thật ra ngôn ngữ của nghệ thuật, các phương tiện thể hiện của nghệ thuật không phải là bản thân các hình thức nghệ thuật. Chúng chỉ là những nhân tố, các phương tiện vật chất để cấu thành hình thức. Hình thức của nghệ thuật không thể và không phải là những cái từ bên ngoài, phi bản chất, riêng lẻ đưa vào nghệ thuật. Hình thức của mỗi tác phẩm nghệ thuật là sự tổng hợp rất nhiều mặt phức tạp. Hình thức nghệ thuật tổ chức các giá trị của đời sống được phản ánh thông qua thế giới tâm hồn của nghệ sĩ. Hình thức nghệ thuật tổ chức cơ chế tình cảm, lý trí của các nhân vật nghệ thuật. Sự kết cấu bên trong hợp lý của hình thức tạo cho tác phẩm nghệ thuật phản ánh đúng hiện thực khách quan và có giá trị cải tạo thế giới một cách mạnh mẽ, lâu bền. Ví dụ, bố cục trong hội họa bị chi phối bởi đặc điểm về thị giác, về điểm nhìn khi xem tranh, tức là phụ thuộc vào yêu cầu có tính chất tâm - sinh lý. Do vậy sự sắp xếp hình và màu sắc, sắc độ đậm, nhạt trên tranh nhằm làm rõ tính tư tưởng và ý đồ sáng tạo của họa sĩ là một quy tắc thông thường của hội họa. Tuy nhiên, tùy theo những điều kiện lịch sử nhất định, từng trường phái và từng nghệ sĩ lại có lại có cách bố cục riêng, bởi một ngôn ngữ đặc thù riêng. Chẳng hạn, 15
- phép bố cục cân xứng, hài hòa của hội họa phục hưng. Lối tả thực chính xác theo thấu thị học của hội họa hiện thực, chủ nghĩa cổ điển. Sự đảo lộn những trật tự bố cục truyền thống, đi vào biểu hiện chủ quan là trào lưu hội họa hiện đại như chủ nghĩa ấn tượng, siêu thực, trừu tượng mà kết cấu, bố cục tuân theo nội tâm. Đó mới chính là nguồn gốc của nhu cầu và khả năng sáng tạo hoặc phải vẽ cái tồn tại trong tâm hồn “Tôi”. Khác với các ý kiến trên, một số nhà nghiên cứu nghệ thuật đã cho rằng hình thức của tác phẩm nghệ thuật chính là hình tượng nghệ thuật. Đây là một ý kiến được khá đông người ủng hộ. Thực tế thì hình tượng nghệ thuật, trong quan hệ với hiện thực, là hình thức phản ánh đặc thù so với các hình thái ý thức xã hội khác. Trong quan hệ với nghệ sĩ nó là sản phẩm của lao động nghệ thuật. Ở đây, cả nội dung và hình thức không tách rời. Trong quan hệ với công chúng nghệ thuật, hình tượng đưa lại cho người thụ cảm cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Vì thế, hình tượng nghệ thuật không phải chỉ duy nhất là hình thức của tác phẩm nghệ thuật, mà hình thức sử dụng những phương tiện hình tượng để kết cấu nội dung. Người ta thường coi hình thức của mỗi tác phẩm nghệ thuật trong nền nghệ thuật của chúng ta là kết cấu chặt chẽ bên trong của nội dung một cách sâu sắc và hài hòa bằng các hình tượng sinh động, thông qua các phương tiện, các thủ pháp, các kỹ xảo phù hợp. Như vậy, hình thức có một vị trí to lớn nói lên đặc trưng của nghệ thuật. Không có hình thức, dù cho nội dung có hay mấy, ý đồ tác giả có to lớn mấy cũng không được thể hiện. Nếu không có hình thức đẹp thì không thể có nội dung đẹp và hiệu quả nghệ thuật đến công chúng cũng kém tác dụng. 1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật Nói tới đặc trưng của nghệ thuật là nói tới sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm nghệ thuật. Nội dung và hình thức là hai mặt thống nhất và đều có vị trí quan trọng đối với giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Bởi chúng đều là cơ sở cho sự tồn tại trong tính hiện thực của một tác phẩm nghệ thuật. Sự thống nhất này biểu hiện ở chỗ: - Nội dung là nội dung của hình thức và hình thức là sự biểu hiện của một nội dung nhất định. 16
- - Nội dung quyết định hình thức, khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng sẽ thay đổi theo. - Hình thức có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nội dung. Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật, nội dung luôn luôn động và giữ vai trò chủ đạo. Việc ưu tiên nội dung và hoàn thiện hình thức là quy luật khách quan của nền văn nghệ cách mạng. Như trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất giữ vai trò nội dung luôn luôn thay đổi và quy định các quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức phải hoàn thiện. Lực lượng sản xuất luôn được coi là lực lượng cách mạng tiền phong, phát triển đến mức, nếu hình thức cũ kìm hãm nó, sẽ xảy ra những xung đột lớn, tạo nên sự thay đổi mới về hình thức. Trong nghệ thuật cũng có quy luật ấy, nội dung là cái thay đổi trước, nội dung luôn luôn gắn liền với các chủ đề, đề tài. Quá trình vận động của đời sống đã thúc đẩy quá trình vận động của nội dung nghệ thuật. Khi hình thức nghệ thuật biểu hiện tốt nhất nội dung thì sự thống nhất giữa hai phạm trù này được xác lập. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi nền nghệ thuật đều có những giai đoạn đứt đoạn, liên tục và giai đoạn quá độ. Các giai đoạn đó đều có sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức. Khi nội dung thay đổi sẽ đặt ra những tiền để cho sự quá độ tiến lên hình thức mới. Nội dung thay đổi đến mức độ lớn, sẽ thúc đẩy sự quá độ của hình thức. Đó là trường hợp nội dung lôi kéo hình thức và hình thức không đủ sức kìm hãm nội dung. Lúc đó có sự liên kết mới trong mâu thuẫn và vận động giữa nội dung và hình thức. Vì thế, Hêghen đã từng quan niệm rằng, nội dung là sự quá độ của hình thức trở thành nội dung và hình thức là sự quá độ của nội dung trở thành hình thức. Chính sự vận động này làm cho quan hệ giữa nội dung và hình thức không khép kín, không bảo thủ, mở các cánh cửa đón nhận những khả năng phản ánh và sáng tạo mới. Tiểu kết chương 1 Sự vận động của nội dung và hình thức quy định sự phong phú của hệ thống hình tượng của tác phẩm. Và ngược lại, hệ thống hình tượng là biểu hiện sinh động quan hệ giữa nội dung và hình thức. Vì thế mà nội dung và hình thức đã tham gia xác lập đặc trưng của nghệ thuật. Nghiên cứu bất cứ một vấn đề nào của nội dung và hình thức, nếu tách chúng khỏi đặc trưng của nghệ thuật, không coi chúng là một bộ phận xác lập đặc trưng của nghệ thuật đều là phiến diện. 17
- CHƯƠNG 2 VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG TÁC PHẨM KẾT NẠP ĐẢNG Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ 2.1. Vẻ đẹp phẩm chất của hình tượng Bộ đội Cụ Hồ qua nội dung chủ đề Hình tượng Bộ đội Cụ Hồ không thể có ngay từ đầu mà phải trải qua một quá trình cực kỳ gian khổ, muôn vàn thử thách, chiến đấu, tôi luyện và trưởng thành, phát triển và được hình thành, định hình trong quá trình đó. Bắt đầu với 34 cán bộ, chiến sĩ trong Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ngày 22/12/1944 dưới quyền chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp (sau này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội). Với những chiến công đầu tiên và phẩm chất cách mạng cao đẹp của mình, họ đã đặt nền móng vững chắc đầu tiên xây đắp nên đặc trưng, vẻ đẹp của hình tượng Bộ đội Cụ Hồ, mà đặc trưng cốt lõi được cô đúc trong lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/1964): “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, “hiếu với dân” là đặc trưng bao trùm trong toàn bộ hoạt động của bộ đội, của nhân cách và chiều sâu tình cảm của Bộ đội Cụ Hồ. Ngay từ khi mới ra đời, họ đã được nhân dân tin yêu, coi như con em ruột thịt của mình. Tình yêu đó không đơn giản chỉ vì lời thề “không lấy cái kim, sợi chỉ của nhân dân” mà sâu xa hơn, Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng xả thân “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”. Bộ đội Cụ Hồ là bộ đội của nhân dân vì lý do như vậy. Trong lịch sử 80 năm, mọi chiến công của Quân đội ta đều gắn chặt với sức mạnh của nhân dân và sự đoàn kết quân dân, vì vậy, không một thế lực thù địch nào có thể tách rời Bộ đội Cụ Hồ với nhân dân. “Hiếu với dân” luôn luôn và mãi mãi là lời thề sắt son của Bộ đội Cụ Hồ. Bộ đội Cụ Hồ là những người chiến sĩ có lòng trung thành vô hạn với Đảng Cộng sản Việt Nam. Trung thành với Đảng đồng nghĩa là trung thành với dân tộc 18

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
So sánh nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị đầu tiên vầ luận cương chính trị 10/1930
7 p |
1506 |
315
-
Tiểu luận Xã hội học Đại cương: Vận dụng khái niệm “văn hóa – xã hội học văn hóa” phân tích một số thành tố văn hóa được biểu hiện sinh động, phong phú trong đời sống hiện thực của xã hội
17 p |
2076 |
291
-
Lý luận dạy học đại học
76 p |
605 |
188
-
Bài tiểu luận giữa kì môn: Tâm lý học đại cương
8 p |
2116 |
153
-
Tiểu luận triết học P65
2 p |
434 |
100
-
ĐI lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN ở Việt Nam - 2
7 p |
215 |
38
-
BÀI GIẢNG OOAD BÀI 3: XÁC ĐỊNH YÊU CẦU
37 p |
108 |
16
-
Đề cương chi tiết học phần: Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin - Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP. HCM
21 p |
227 |
14
-
Hoạt động nhập khẩu thép tại Cty CP Tổng Bách hóa - Bộ Thương mại - 6
11 p |
79 |
11
-
Nâng cao hiệu qủa nhập khẩu thép phế liêụ tại Cty tàu thủy - 6
6 p |
89 |
9
-
PHẦN I CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN
9 p |
81 |
8
-
Nâng cao mô hình xuất nhập khẩu ủy thác - 4
7 p |
76 |
8
-
Việt Nam trong xu thế hội nhập phát triển dưới con mắt triết học - 3
7 p |
107 |
7
-
Công ty cổ phần và vận động cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - 4
7 p |
94 |
6
-
Sản xuất phù hợp với Xuất khẩu tại Cty que hàn VIWELCO - 2
6 p |
84 |
5
-
Đề án đề nghị cho phép đào tạo trình độ tiến sĩ chuyên ngành lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn – Tiếng Việt
142 p |
97 |
4
-
Đề cương ôn thi môn Chính trị học
45 p |
23 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
