intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị và xã hội Tân La (thế kỷ V - thế kỷ VII)

Chia sẻ: Tùng Ngọc | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

87
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị và xã hội Tân La (thế kỷ V - thế kỷ VII) được tiến hành nghiên cứu với mục đích tìm hiểu quá trình tiếp nhận và bản địa hóa Phật giáo, cũng như những ảnh hưởng của đời sống chính trị, xã hội Tân La thời kỳ đầu (thế kỷ V - thế kỷ VII). Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung đề tài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị và xã hội Tân La (thế kỷ V - thế kỷ VII)

  1. LỜI MỞ ĐẦU Phật giáo ra đời tại  Ấn Độ  vào khoảng thế  kỷ  V trước công nguyên (TCN) và   được truyền bá rộng rãi ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ từ sau Đại hội kết tập kinh điển lần  thứ  ba tại Pataliputra,  Ấn Độ  (thế  kỷ  IV). Trải qua suốt hàng ngàn năm, Phật giáo đã  ghi được dấu  ấn quan trọng, có tác động mạnh mẽ  đến lịch sử  ­ văn hóa của nhiều  quốc gia dân tộc. Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia tiếp nhận Phật giáo từ  rất   sớm. Tại Việt Nam, ngay từ thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, Phật giáo đã theo chân   các thương nhân, nhà truyền giáo Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, hình thành nên trung   tâm Phật giáo Luy Lâu. Từ  cuối thế kỉ  thứ IV, từ Trung Quốc, Phật giáo đã du nhập  vào bán đảo Triều Tiên, bắt đầu từ vương triều Cao Câu Ly (năm 372, thời Tiểu Thú  Lâm vương, ???? ), Bách Tế (năm 384, thời Chẩm Lưu vương,  ??? ) và cuối cùng là Tân  La (năm 420, dưới thời vua Nột Chỉ, ????? )1. Mặc dù là một tôn giáo ngoại lai, song Phật giáo không có nhiều xung đột với   các tín ngưỡng bản địa mà còn có nhiều điểm phù hợp với văn hóa truyền thống của   các dân tộc. Do vậy, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam và Hàn Quốc tiếp nhận   một cách rộng rãi, bắt đầu tiến trình bản địa hóa sâu sắc. Được sự   ủng hộ  của nhà  nước, có những thời kỳ, Phật giáo đã được công nhận là quốc giáo có sức chi phối  mạnh mẽ  đến đời sống chính trị  ­ xã hội của quốc gia. Trên hầu khắp các phương   diện từ lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập quán, đạo đức, xã hội,… Phật giáo   đều đã để lại những dấu  ấn đậm nét cùng nhiều thành tựu rực rỡ  còn để  lại cho tới  ngày nay. Trải qua suốt hàng ngàn năm lịch sử, Phật giáo đã trở thành một phần không thể  thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam cũng như Hàn Quốc. Cùng nằm   trong khối văn minh Đông Á, nên Phật giáo tại hai nước có những điểm tương đồng   quan trọng. Do vậy, trong bối cảnh ngày nay, khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước   1 ???, ???? ?? ??????, ???????, 2013, tr.229. 1
  2. ngày càng phát triển, sự giao lưu về học thuật cũng đạt được những bước tiến không   ngừng. Phật giáo Hàn Quốc là một trong những đề tài hấp dẫn mà giới nghiên cứu có   thể tập trung khai thác, tìm hiểu. Nghiên cứu về Phật giáo cùng những tác động của nó   trong tiến trình lịch sử  góp phần làm sáng tỏ  những tương đồng về  văn hóa giữa hai   dân tộc, từ đó thắt chặt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị trên cơ sở cùng sẻ chia những   giá trị về văn hóa tinh thần giữa nhân dân hai nước.  Đề  tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị  và xã hội Tân La  (thế kỷ V ­ thế kỷ VII) được thực hiện bởi hai sinh viên Trần Tùng Ngọc và Nguyễn   Thị  Tuyết Vân, chuyên ngành Korea học, khoa Đông phương học, trường Đại học  Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện với mục đích tìm   hiểu quá trình tiếp nhận và bản địa hóa Phật giáo, cũng như những ảnh hưởng của đời   sống chính trị, xã hội Tân La thời kỳ đầu (thế kỷ V ­ thế kỷ VII).  Sử  dụng phương pháp lịch sử  và phương pháp logic, kết hợp tham khảo các   nguồn tài liệu bằng cả tiếng Việt và tiếng Hàn, đề tài của nhóm nghiên cứu thực hiện   hy vọng góp phần làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo tới chính trị xã hội như  một kích thích tố quan trọng đưa sự phát triển của vương triều Tân La đi tới đỉnh cao.   Cấu trúc của đề tài bao gồm các nội dung cụ thể với bố cục như sau: 1. Khái quát bối cảnh lịch sử thời kỳ Tam quốc 2. Quá trình du nhập của Phật giáo  3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới chính trị Tân La (thế kỉ V ­ thế kỉ VII) 4. Ảnh hưởng của Phật giáo tới xã hội Tân La (thế kỉ V ­ thế kỉ VII) Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, do sự hạn chế về tiếp cận nguồn tài liệu,   phương pháp, kinh nghiệm nghiên cứu nên đề  tài không thể  tránh khỏi những sai sót   nhất định. Nhóm nghiên cứu xin chân thành tiếp nhận và cảm  ơn những ý kiến đóng  góp từ  tất cả  các thầy cô và các bạn để  đề  tài được hoàn thiện. Kết quả  của đề  tài   nghiên cứu này sẽ  được vận dụng trong quá trình học tập và nghiên cứu về  lịch sử,   văn hóa, xã hội Hàn Quốc và phục vụ cho những báo cáo khoa học tiếp theo.  2
  3. Nhóm tác giả Trần Tùng Ngọc ­ Nguyễn Thị Tuyết Vân 3
  4. MỤC LỤC 4
  5. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI KỲ TAM QUỐC I ­ Giới thiệu quá trình hình thành Tam quốc Thời kỳ  Tam Quốc là một thời kỳ  quan trọng trong lịch sử cổ ­ trung đại của   bán đảo Triều Tiên, nó được tính bắt đầu từ  năm 57 TCN (niên đại sáng lập vương  quốc Shilla) và kết thúc năm 668 SCN với sự kiện Shilla thống nhất Tam quốc. Đây là  giai đoạn hình thành và phát triển của các nhà nước đầu tiên. Trải qua quá trình đấu  tranh, thôn tính lẫn nhau giữa các quốc gia, ba thế lực lớn nhất còn lại đã tạo nên cục  diện Tam quốc là Cao Câu Ly (??? , ???, Koguryeo), Bách Tế (?? , ??, Baekje) và Tân La (? ? , ?? , Shilla). Sự  ra đời của các nhà nước này gắn liền với màu sắc huyền thoại, truyền   miệng trong dân gian, sau đó được nhà sư Nhất Nhiên (?? , ??, 1206 ­ 1289) thời Cao Ly  ghi chép lại trong tác phẩm Tam quốc di sự  (???? ,  ???? ). Chính vì vậy, mốc thời gian  thành lập các vương quốc này chỉ  mang tính  ước lệ, còn tồn tại sự  khác biệt giữa   những nguồn sử liệu khác nhau. 1. Vài nét về sự hình thành vương quốc Cao Câu Ly (???) Nhà nước Cao Câu Ly được vua Chu Mông ( ?? ,  ??,  miếu hiệu là Đông Minh  Thánh Vương, ???? ) thành lập năm 37 TCN tại vùng Tốt Bản Phù Dư ( ???? ), phía Đông  Bắc của Bình Nhưỡng (?? ) ngày nay. Truyền thuyết kể lại, vua Chu Mông là kết quả  mối tình giữa Giải Mộ Sấu (??? , con trai của Thiên đế) và phu nhân Liễu Hoa ( ?? , con  gái của Hà Bá, sau trở  thành vương phi của vua Kim Oa  ?? , nước Đông Phù Dư  ??? ).  Chu Mông sinh ra và lớn lên với tư cách là hoàng tử của Phù Dư, sở hữu tài nghệ bắn   cung thiên bẩm, tuy nhiên, do bị các hoàng tử của vua Kim Oa ghen ghét, tìm mọi cách   hãm hại. Do đó, ông đã bỏ trốn khỏi Phù Dư, thành lập một nhà nước mới, lấy quốc  hiệu là Cao Câu Ly, đó là năm thứ 2 niên hiệu Kiến Chiếu của Hán Nguyên Đế2. 2 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.45. 5
  6. Nằm  ở  phía Bắc bán đảo Triều Tiên, Cao Câu Ly là vương quốc có lãnh thổ  rộng lớn nhất trong Tam quốc, bao gồm cả một phần Mãn Châu ngày nay. Trong quá  trình phát triển, Cao Câu Ly đã lần lượt thâu tóm lãnh thổ của Mã Hàn cũ (?? , ?? ), tiêu  diệt  Ốc Trở  (?? ), Đông Uế (?? , ?? ) và Phù Dư  (??, ?? ), đẩy Bách Tế  và Tân La ra khỏi  lưu vực sông Hán. Từ  năm 371 đến năm 491, vua Quảng Khai Thổ  ( ????? ,  ????? ) và  người kế  vị  của ông vua Trường Thọ  (??? ,  ??? ) đã liên tục củng cố  và mở  rộng lãnh  thổ, đưa Cao Câu Ly bước vào thời kỳ đỉnh cao. Tuy nhiên, những vị vua tiếp theo lại  không giữ được thành quả đó, vào thời mạt kỳ, các đại thần lấn át quyền lực của nhà   vua, cộng thêm sự  tấn công từ  cả  hai phía (quân Đột Quyết  ở  phía Bắc và liên quân  Tân La ­ Bách Tế ở phía Nam) khiến cho tiềm lực quốc gia nhanh chóng suy yếu.  Từ cuối thế kỉ thứ VI, Cao Câu Ly liên tiếp phải chống chọi và đã đẩy lui được  sự  tấn công từ  nhà Tùy và nhà Đường. Đến năm 668, vương quốc này chính thức bị  tiêu diệt trước những đòn tấn công liên tiếp từ  phía liên quân Tân La ­ Đường ( ???? ).  Sau khi diệt vong, lãnh thổ của nó bị chia cắt bởi các quốc gia Tân La thống nhất, Bột  Hải (?? , ?? ) và nhà Đường. 2. Vài nét về sự hình thành vương quốc Bách Tế (??) Sự  thành lập vương quốc Bách Tế  được ghi nhận trong Tam quốc sử  ký và  Tam quốc di sự với sự kiện vua Ôn Tộ (??? , ?? ) đem theo gia quyến và tùy tùng từ Cao  Câu Ly di cư xuống phía Nam, lập nên một nhà nước mới, định đô ở thành Úy Lễ (?? ,  thuộc Seoul ngày nay). Đó là vào năm thứ  3 niên hiệu Hồng Gia của Hán Thành Đế,   tức năm thứ  18 TCN3. Ôn Tộ  là con trai thứ  của vua Chu Mông với vương phi Triệu   Tây Nô (??? , ??? ). Tuy nhiên, sau khi tìm ra con trai cả bị lưu lạc của mình với người vợ  trước tại Phù Dư  là Lưu Ly (?? , ?? ), vua Chu Mông đã phong cho Lưu Ly làm thái tử.   3 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr. 162. 6
  7. Sợ rằng sau này sẽ không được Thái tử thu nhận, Ôn Tộ đã cùng với anh trai của mình   là Phí Lưu (?? ) rời xuống phía Nam. Trải qua 31 đời vua, Bách Tế đã thu phục lãnh thổ của Biện Hàn cũ (?? , ?? ), cùng  với Tân La và Cao Câu Ly hình thành nên cục diện Tam quốc kéo dài suốt hơn gần 700   năm lịch sử bán đảo Triều Tiên. Xét về quân sự  và sự  bành trướng về lãnh thổ, Bách   Tế  tỏ ra yếu thế hơn so với hai đối thủ  của mình là Cao Câu Ly và Tân La, song trên  phương diện văn hóa, nghệ thuật và ngoại giao, quốc gia này đã đạt được những thành  tựu vượt bậc. Thông qua Bách Tế, nhiều thành tựu văn hóa của bán đảo Triều Tiên đã   được truyền bá đến Nhật Bản và phát triển mạnh mẽ tại đây. Năm thứ 5 niên hiệu Hiển Khánh của nhà Đường (tức năm 660, năm thứ  8 đời   vua Thái Tông Vũ Liệt Vương ?? ??? , ?? ??? của Tân La), quân đội Tân La do Kim Dữu   Tín (??? , ??? ) dẫn đầu đã phối hợp cùng với quân đội nhà Đường của Tô Chính Phương  đã chinh phạt và tiêu diệt Bách Tế. Vương quốc Bách Tế chính thức sáp nhập vào lãnh   thổ Tân La. 3. Vài nét về sự hình thành vương quốc Tân La (??) Theo ghi chép của nhà sư  Nhất Nhiên trong Tam quốc di sự, nhà nước Tân La  được thành lập năm 57 TCN gắn với truyền thuyết về vua Hách Cư  Thế  ( ???? , ???? ).  Theo đó, hội nghị tù trưởng các bộ lạc  ở Thìn Hàn cũ (?? , ?? ) đã nhất trí suy tôn Hách  Cư Thế lên làm thủ lĩnh, đặt tên nước là Seorabeol ( ??? , ???  còn gọi là Kê Lâm ?? , tiền  thân của Tân La) tại đồng bằng Khánh Châu (?? ), phía Đông Nam bán đảo Triều Tiên. 4 Sau đó, ngôi vua được luân phiên kế  vị  bởi thành viên của ba thị  tộc là Kim,  Park và Seok, cho đến năm 356 thì ngôi vua hoàn toàn do họ  Kim nắm giữ  theo hình   thức cha truyền con nối. Trải qua quá trình phát triển không ngừng, từ một tiểu quốc   nhỏ bé, Tân La đã từng bước mở rộng tầm ảnh hưởng, chinh phục liên minh Già Da (? ?? ,  ?? ), liên quân với Bách Tế  (???? ) chiếm lại lưu vực sông Hán (?? , ?? ). Vương triều  4 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr. 54. 7
  8. Tân La đạt cực thịnh dưới triều vua Chân Hưng ( ??? , ???,  540 ­ 576, đời thứ  24), đặt  nền móng cho sự thống nhất Tam Hàn sau này. Từ năm 660 đến năm 668, nhận thấy thời cơ thích hợp, Tân La đã kêu gọi viện   trợ của nhà Đường để tiến hành chiến tranh tổng lực, xóa sổ vương quốc Bách Tế và   Cao Câu Ly. Sau đó, do âm mưu của nhà Đường muốn đặt An Đông đô hộ phủ (?????),  cai trị toàn bộ bán đảo Triều Tiên, Tân La một lần nữa tiến hành đấu tranh chống lại   nhà Đường, đánh đuổi họ  ra khỏi bán đảo Triều Tiên năm 676. Thời kỳ  Tam quốc   chính thức được thay thế bởi thời kỳ Tân La thống nhất (?????? ). Vương triều Tân La  thống nhất tiếp tục tồn tại cho đến năm 935 thì bị thay thế bởi Cao Ly ( ?? , ?? ), Tân La  trở thành một trong những vương triều tồn tại lâu nhất trong lịch sử thế giới (khoảng   1000 năm).  Bên cạnh ba quốc gia lớn là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La , tại vùng lưu vực  sông Lạc Đông (??? ) phía Nam bán đảo Triều Tiên, các thị tộc, bộ lạc cổ đã phát triển,   liên kết với nhau hình thành nên liên minh Già Da (??? , ?? ) bao gồm sáu nhà nước thu  nhỏ. Năm 562, với sự kiện vua Chân Hưng của Tân La đưa quân đánh chiếm Đại Già   Da (??? ), lãnh thổ  của liên minh Già Da chính thức sáp nhập vào Shilla. Mặc dù chưa  phát triển trở thành một nhà nước thống nhất, song liên minh Già Da đã để  lại những   thành tựu quan trọng đặc biệt sở hữu nền nghệ thuật và âm nhạc tiên tiến (đây là quê   hương của đàn Gayageum, một loại nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc), đồng thời,  Già Da cũng rất phát triển về các ngành nghề thủ công như dệt vải, sản xuất đồ  gốm  và hàng hóa bằng sắt với chất lượng cao.5 5 Andrew C.Nahm, Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thông tin, 2005, tr.43. 8
  9. II ­ Khái quát điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời kỳ Tam  quốc 1. Điều kiện kinh tế Nông nghiệp là trọng tâm trong sự  phát triển kinh tế  của tất cả  các quốc gia   thời kỳ  Tam quốc. Trong thời kỳ này, sở  hữu ruộng đất thuộc về  vương quyền, nhà  vua cấp ruộng đất cho các thành viên trong hoàng thất và giới quý tộc. Giới quý tộc   cấp ruộng đất của mình cho nông dân canh tác sau đó thu tô thuế  vào cuối kỳ  thu   hoạch, nộp một phần tô thuế  đó cho nhà nước. Sản xuất không ngừng gia tăng nhờ  vào cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng khai hoang đất nông nghiệp, xây dựng các hệ  thống thủy lợi,…6 Quốc gia nào sở hữu những vùng đất màu mỡ, có thể nhờ đó nâng   cao sản lượng thực phẩm, đẩy mạnh phát triển quân sự.  Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có sự phát triển  mạnh mẽ. Năm 490, hệ  thống chợ  đã được thành lập tại kinh đô của Tân La. Hoạt  động giao thương với Trung Quốc, Nhật Bản được thúc đẩy. Nhiều bằng chứng cho  thấy Tân La đã trực tiếp tham gia vào “con đường tơ lụa” (tên gọi Shilla  ‫ بایسل‬Bashilla  đã xuất hiện trong thư tịch cổ của người Ba Tư, cụ thể cuốn Kush­nama  ‫  نامه کوش‬đã  chép lại cuộc hôn nhân giữa một hoàng tử Ba Tư với công chúa của Tân La). 2. Điều kiện chính trị Các nhà nước thời kỳ Tam quốc đều được hình thành dựa trên sự liên minh giữa  các bộ lạc, trải qua quá trình phát triển, chinh phạt lẫn nhau, xã hội liên minh bộ  lạc  đã phát triển thàn xã hội quốc gia phong kiến. Đặc điểm chung về chính trị  của cả ba  quốc gia Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La là quân chủ quý tộc. Tầng lớp quý tộc có vai   trò to lớn trong việc quyết định các vấn đề  trọng đại của quốc gia, đôi khi vượt lên   trên quyết định của vua, tiêu biểu như Hội nghị Hòa Bạch (?? , ??) tại Tân La. 6 Andrew C.Nahm, Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thông tin, 2005, tr.67. 9
  10. Từ đó dẫn đến những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh giữa quân vương và giới quý  tộc, sau này, chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc đồng thời dựa vào Phật giáo và Nho giáo,   quyền lực nhà nước được chuyển dịch từ  tay quý tộc vào tay của nhà vua. Hình thức   quân chủ quý tộc dần được thay thế bằng hình thức quân chủ chuyên chế. Về  quân sự  ­ ngoại giao, tiến trình lịch sử  trải dài 700 năm của thời kỳ  Tam  quốc cũng là tiến trình mà các quốc gia không ngừng mở  rộng lãnh thổ  bằng cách  chinh phạt lẫn nhau, qua đó, các vương quốc nhỏ yếu thế bị sáp nhập vào các thế  lực   lớn hơn. Quan hệ ngoại giao bên ngoài bán đảo Triều Tiên quan trọng nhất là quan hệ  với hai quốc gia láng giềng là Trung Quốc và Nhật Bản. 3. Điều kiện xã hội Cơ cấu xã hội của các quốc gia thời kỳ Tam quốc có thể chia làm ba tầng bao   gồm có hoàng thất và giới quý tộc; bình dân (nông dân, thợ thủ công, thương nhân,…)   và nô lệ (phạm nhân hoặc người dân ở các vùng bị chinh phục).  Cơ cấu xã hội thời kỳ Tam quốc rất chặt chẽ, được quy định một cách rõ ràng   thông qua chế  độ  thân phận. Dòng máu sẽ  quyết định địa vị  xã hội của một người  ngay từ khi mới sinh ra. Chế độ Cốt phẩm (???? , ???? ) của Tân La là minh chứng rõ nét  nhất, trong đó quy định, ngôi vua chỉ thuộc về những người thuộc dòng máu Thánh cốt   (?? , ?? ), quý tộc thuộc tầng lớp Chân cốt (?? , ?? ), dưới đó là lục đầu phẩm. Việc cốt   phẩm nào được nhận đến chức quan nào cũng đều có quy định một cách nghiêm ngặt,   không có ngoại lệ. Do vậy, mới xuất hiện trường hợp hai nữ vương là Thiện Đức (??? ,  ??? , đời thứ  27) và Chân Đức (??? ,  ??? , đời thứ  28) là những người cuối cùng thuộc  tầng lớp Thánh cốt nối ngôi vua. Chế độ thân phận hà khắc đã khiến do mâu thuẫn xã   hội trong lòng các quốc gia dâng cao. 4. Điều kiện văn hóa Tôn   giáo  nguyên   thủy  của   người   dân  bán  đảo   Triều   Tiên   là   một   loại   hình   Shaman giáo, trong đó, con người thờ cúng, tôn sùng các thế lực tự nhiên. Sự phát triển  10
  11. của các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa tại các vùng khác nhau tồn tại những khác biệt   nhất định. Các tôn giáo bản địa tại Tân La có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong số các  quốc gia thời Tam quốc. Từ  thế  kỷ  thứ  IV, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được truyền bá từ  Trung   Quốc vào bán đảo Triều Tiên. Đặc biệt, Phật giáo sau đó đã trở  thành quốc giáo của   cả ba nước Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La. Trong đó, Phật giáo Tân La đạt đến trình  độ phát triển cao nhất, trở thành “Phật giáo hộ quốc”. Phật giáo cũng như các tôn giáo   mới du nhập đã có nhiều ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử của Tam quốc mà một vai  trò quan trọng có thể kể đến là thống nhất dân tộc về mặt văn hóa. 11
  12. CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CỦA PHẬT GIÁO I ­ Khái quát quá trình truyền bá của Phật giáo vào Cao Câu Ly và Bách Tế Phật giáo truyền bá vào bán đảo Triều Tiên theo con đường địa lý tự  nhiên từ  Trung Quốc đến Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La. Một số ý kiến cho rằng Phật giáo có   thể  truyền bá trực tiếp từ   Ấn Độ  vào thông qua đường thủy,  tuy nhiên, thuyết Hán  truyền của phật giáo tại bán đảo Triều Tiên vẫn được chiếm được ưu thế hơn cả. Phật giáo truyền bá vào Cao Câu Ly lần đầu tiên vào năm Nhâm Thìn (372) thời  kỳ Tiểu Thú Lâm Vương (???? , ???? , 371 ­ 384). Vua Phù Kiên nhà Tiền Tần đã cử sứ  thần và tăng lữ  Thuận Đạo mang tượng và kinh Phật tới. Đến năm 374, lại có sư  A   Đạo đến hoằng pháp. Tiểu Thú Lâm vương đối đãi với các sư trọng thể, đến năm 375   thì cho xây chùa Tiêu Môn (??? , ??? ) dành cho sư Thuận Đạo và chùa Y Phất Lan ( ? ? ?? ,  ???? ) dành cho sư A Đạo, đánh dấu khởi đầu của Phật pháp tại Cao Câu Ly. Năm 384, chín tháng sau khi vua Chẩm Lưu lên ngôi, Phật giáo được truyền bá  vào Bách Tế bởi sư Ma La Nan Đà (???? , ????  ) người Ấn Độ. Sư từ nước Tấn đến, vua  ra khỏi vương thành hơn một trăm dặm để nghinh đón mời vào cung, thành kính cúng   dường và nghe sư thuyết pháp. Trên được vua quan ưa thích, dưới nhân dân mến mộ,  nhờ  đó Phật pháp được truyền bá rộng rãi, tất cả  mọi người nghe đều khen ngợi và  phụng hành. Đồng thời, vua cho truyền tin tức đi khắp nơi. Mùa Xuân năm thứ hai đời   vua Chẩm Lưu, sư xây dựng chùa ở Hán sơn, độ mười vị tăng. Phật giáo bắt đầu hưng  thịnh tại Bách Tế.7  Như vậy, Phật giáo đã có sự khởi đầu thuận lợi trên bán đảo Triều Tiên, nhanh  chóng nhận được sự   ủng hộ  của hoàng thất và giới quý tộc, phát triển mạnh mẽ  tại   Cao Câu Ly và Bách Tế. Từ  đây, Phật giáo đóng vai trò là cầu nối giữa tam quốc với  các vương triều Trung Quốc, trở thành một nhân tố đặc biệt, có ảnh hưởng mạnh mẽ  7 Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Ma-la-nan-đà, truy cập ngày 9/2/2016. http://www.tangthuphathoc.net/vn/sutruyen/cacvicaotangtrieutien.htm 12
  13. và xuyên suốt lịch sử  và văn hóa bán đảo Triều Tiên. Nhà sư  Nhất Nhiên cũng cho  rằng, sự thành bại hay hưng vong của ba nước Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La chính  tùy thuộc vào thái độ tiếp nhận Phật giáo tại ba nước này. II ­ Phật giáo Tân La từ du nhập đến công nhận 1. Những bước chân đầu tiên của Phật giáo  Phật giáo du nhập vào Tân La là bước nối dài trong quá trình truyền bá tôn giáo   này từ Trung Quốc đến bán đảo Triều Tiên. Theo đó, các tăng sĩ theo đường bộ từ Cao   Câu Ly và Bách Tế  đã đến hoằng pháp ngay từ  đầu thế  kỷ  thứ  V. Tam quốc sử  ký,  phần Tân La bản kỷ  ghi chép lại: Từ  thời vua Nột Chỉ ( ????? , ?????  đời thứ  19, 417 ­  458), tăng Mặc Hồ Tử  (??? , ??? ) từ  Cao Câu Ly đến quận Nhất Thiện ( ??? , ???), được  người dân tên là Mao Lễ  (?? , ??) đón tiếp và đào hầm trong nhà cho  ở. Lúc đó, có sứ  thần nhà Lương đến Tân La mang theo y phục và hương. Nhà vua và quần thần đều  không biết tên và cách sử  dụng hương như  thế nào nên đã cử  người đến hỏi cho rõ.   Mặc Hồ Tử nhìn thấy và giải thích rằng:  “Thứ này là hương, khi đốt sẽ tỏa ra mùi hương rất thơm và làm cảm động đến  thánh thần. Trong các thánh thần thì không gì linh thiêng hơn Tam bảo. Tam bảo thứ  nhất là Phật bảo (?? , Buddha), thứ hai là Pháp bảo (?? , Dharma), thứ ba là Tăng bảo (?? ,  Sangha). Nếu đốt hương lên mà cầu nguyện thì chắc chắn sẽ được ứng nghiệm.” Quả  thật, khi  ấy con gái vua bị  bệnh nặng, vua cho gọi Mặc Hồ Tử đến thắp   hương cầu nguyện thì y rằng bệnh tình khỏi ngay. Nhà vua rất mừng bèn ban thưởng   lễ vật cho Mặc Hồ Tử, tuy nhiên, ông đã rời đi từ lúc nào không ai hay.  Đến đời vua Tỳ Xứ (?? tức ????? , ????, 479 ­ 500,  Triếu Chí ma lập can, đời thứ  21), hòa thượng A Đạo (?? , ?? ), cùng ba người tùy tùng đến nhà Mao Lễ, dáng vẻ của   người này rất giống với Mao Lễ. A Đạo  ở  đó mấy năm rồi qua đời, không biết do  13
  14. bệnh gì. Ba người tùy tùng tiếp tục lưu lại và giảng giải kinh luật nhà Phật, thu nhận  một số tín giả8.  Trong Tam quốc di sự, Nhất Nhiên dẫn từ Ngã Đạo bản bi ( ????), cho rằng Ngã  Đạo (?? , ??)có cha là người nước Ngụy, mẹ là người Cao Câu Ly, xuất gia từ năm năm  tuổi, đến năm mười sáu tuổi thì sang nước Ngụy tìm cầu Phật pháp. Năm mười chín  tuổi, ông trở về Cao Câu Ly thăm mẹ, nghe lời mẹ dự đoán Phật giáo sau này sẽ phát  triển rực rỡ tại Kê Lâm (?? , ??, tên gọi khác của Tân La), ông bèn đến đó và lưu lại. A   Đạo đến cung điện định truyền bá Phật pháp tuy nhiên có người nghi ngờ, còn định  giết ông cho nên ông đã trốn đến nhà Mao Lễ ở quận Nhất Thiện.  Sau này, nhờ công cứu chữa bệnh tình cho con gái vua Vị Chu ( ????? , ?? ???, 261 ­  284, vua đời thứ 13), sư Ngã Đạo được vua chấp thuận cho xây chùa và thuyết giảng   đạo Phật. Em gái của Mao Lễ nhờ vào pháp sư cũng trở thành sư nữ, đây là danh tính   của ni sư đầu tiên được ghi chép lại trong các tài liệu sử  thời kỳ  Tam quốc. Sau này,   khi vua Vị Chu băng hà, có những người vì ghen ghét Phật giáo tỏ ý muốn hãm hại sư  Ngã Đạo, chính vì vậy, sư bèn lánh đi, Phật giáo tại Tân La vì thế cũng bị mai một.9 Có thể thấy, nhân vật Mao Lễ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử truyền   bá Phật giáo tại Tân La thời kỳ đầu, song, sự ghi chép khác nhau giữa Tam quốc sử ký  và Ngã Đạo bản bi về thời gian  liên quan đến nhân vật này chênh lệch nhau đến gần  200 năm (từ thời vua Vị Chu đến thời vua Triếu Chí) cho nên sư Nhất Nhiên đã căn cứ  vào Lương Cao tăng truyện để đưa ra kết luận, đã có sự nhầm lẫn trong Ngã Đạo bản  bi, theo đó, việc Phật giáo truyền bá vào Tân La được thực hiện bởi một người, Ngã   Đạo, A Đạo hay Mặc Hồ Tử có thể chỉ là một người, và niên đại chính xác là thời vua  Nột Chỉ. 8 ???, ???? (?), ?????, 1996, tr.90 - 91. 9 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.211 - 213. 14
  15. Như  vậy, không giống như   ở  Cao Câu Ly và Bách Tế, Phật giáo truyền bá và   phát triển một cách nhanh chóng, nhận được sự ủng hộ của tầng lớp thống trị trong xã   hội, quá trình truyền bá Phật giáo tại Tân La diễn ra trong suốt một thời gian dài với  diễn biến vô cùng phức tạp. Giới quý tộc Tân La tin rằng, việc tiếp nhận Phật giáo có  thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ nên ra sức kiềm chế sự lan tỏa của Phật giáo.   Cùng với đó, các tín ngưỡng bản địa vẫn còn sức  ảnh hưởng mạnh mẽ  trong quần   chúng nhân dân, khiến cho việc tiếp nhận Phật giáo bị  hạn chế  về  nhiều mặt. Mãi  đến thời vua Pháp Hưng (??? , ???, 514 ­ 540, đời thứ 23), tức là hơn 100 năm sau, Phật   giáo mới chính thức được công nhận tại Tân La. 2. Phật giáo chính thức được công nhận và phát triển Mặc dù bị giới quý tộc từ chối một cách gay gắt, người dân vẫn còn nhiều nghi  ngờ, song Phật giáo vẫn âm thầm lưu truyền trong quần chúng. Chính vì không thể  ngăn cản được sức phát triển của đạo Phật nên cuối cùng, giới quý tộc Tân La đã đi   đến chủ trương đàn áp Phật giáo. Thời vua Pháp Hưng (??? , ???, 514 ­ 540, đời thứ 23) đánh dấu bước chuyển biến   quan trọng trong lịch sử  Phật giáo, khi mà Phật giáo chính thức được công nhận là   quốc giáo. Vua Pháp Hưng, trái ngược với quần thần, là một người rất có hảo ý với  đạo Phật, ông luôn muốn lan truyền Phật giáo một cách rộng rãi. Dù vậy, sự  phản   kháng từ  phía các đại thần vẫn không hề  xoay chuyển. Khi nhà vua triệu tập quần  thần để  bàn bạc về  vấn đề  phát triển Phật giáo, tất cả  họ  đều nhất loạt phản đối,  không thi hành mệnh lệnh của nhà vua. 10    Thấu hiểu tấm lòng của vua Pháp Hưng, Di Thứ  Đốn (??? , ??? , 501–527), một  cận thần của nhà vua đã tỏ ý muốn hy sinh vì sự phát triển của Phật giáo: "Chết vì đất   nước là đại nghĩa của kẻ  làm quan. Hy sinh mạng sống vì vua là suy nghĩ đúng đắn   10 ???, ???? ?? ??????, ???????, 2013, tr.222. 15
  16. của người làm dân chúng. Cho nên, khi tiểu thần bắt đầu xây chùa ở Thiên Kính Lâm  (??? ) thì xin hãy cho xử phạt thần vì làm sai luật." Trong cuộc triều kiến của nhà vua, Di Thứ  Đốn đã bước tới và giải thích giáo  lý sâu xa của đạo Phật trước mặt quần thần. Vì lẽ  đó, các quan đã gây sức ép buộc  nhà vua phải xử  tử  ông, cuối cùng, không còn cách nào khác, vua Pháp Hưng đã phải   nghe theo lời các quan khép Di Thứ  Đốn vào tội chết. Để  đạt được hai mục đích là   Phật giáo chính thức được công nhận là quốc đạo, đồng thời tăng cường quyền lực  vào tay nhà vua, Di Thứ Đốn đã hùng hồn tuyên bố: "Theo phép tắc của đức Phật thì đất nước được tốt đẹp, vận nước càng hưng  thịnh, vậy thì ta có tội gì?" Trước khi bị  chém đầu Di Thứ  Đốn cũng để  lại lời tiên   đoán rằng: "Nếu đức Phật có nơi đây, thì sau khi ta chết, chắc chắn sẽ có hiện tượng  kỳ lạ xảy ra." Đúng như lời tiên đoán, ngày 15 tháng 9 năm Canh Thân (tức năm 527), tại pháp   trường, ngay sau khi Di Thứ Đốn bị xử trảm, một dòng máu trắng như sữa đã tuôn lên  không trung từ cổ của ông. Sự việc này đã làm chấn động khắp Tân La, từ  đó, không  còn ai dám phỉ báng Phật giáo nữa. Phật giáo bắt đầu bén rễ vào vào Tân La, thức tỉnh   tinh thần lấy con người làm gốc, tôn trọng ý chí tự do của con người, đem lại sự phát   triển của quốc gia này và trở  thành nền tảng xây dựng một quốc gia thống nhất đầu  tiên của bán đảo Hàn Quốc. 11 Sự  hy sinh của  Di Thứ  Đốn  đã đắc được đại nguyện : “Đạt được sự  thống   nhất quốc gia trên nền tảng của Phật giáo”. Theo như  nguyện vọng của ông lúc sinh  thời, nhục thân của Di Thứ  Đốn được an táng tại núi Kim Cương (??? ). Khi an táng  ông, vua quan thề rằng: “Từ nay về sau sẽ phụng thờ Phật, quy y Tăng, nếu ai phạm  lời thề sẽ bị thiên thần, quỷ vật hại chết.” 12 Năm 528, vua Pháp Hưng chính thức công  11 Thích Vân Phong, Hàn Quốc: Thánh tử đạo Ichadon thời Phật giáo Silla, 2013, truy cập ngày 9/2/2016. http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-qt/con-nguoi-qt/14315-han-quoc-thanh-tu-dao- ichadon-thoi-phat-giao-silla.html 16
  17. nhận Phật giáo là quốc giáo, tiếp đó năm 529, nhà vua ban lệnh cấm sát sinh. Phật  pháp được truyền bá trên khắp mọi miền của đất nước. Tiếp đó, từ  đời vua Chân Hưng đến hết thời Tam quốc (540 ­ 676), Phật giáo  liên tục phát triển do nhận được sự ủng hộ nhiệt thành từ phía hoàng thất và giới quý   tộc. Chùa chiền mọc lên ở nhiều nơi từ kinh đô cho đến các miền quê, số người xuất   gia   nhiều   không   kể   xiết.   Phật   giáo   có   ảnh   hưởng   quan   trọng   đến   hầu   khắp   các   phương diện của đời sống xã hội, là nguồn nội lực to lớn, thúc đẩy tinh thần dân tộc   Tân La góp phần vào công cuộc thống nhất Tam Hàn. 12 Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Thích Pháp Không, truy cập ngày 9/2/2016. http://www.tangthuphathoc.net/vn/sutruyen/cacvicaotangtrieutien.htm 17
  18. CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN CHÍNH TRỊ TÂN LA I ­ Phật giáo Tân La: từ “Phật giáo quý tộc” đến “Phật giáo hộ quốc” 1. Phật giáo Tân La phát triển dưới sự bảo hộ của hoàng thất và quý tộc Sau khi chính thức được công nhận là quốc giáo, Phật giáo Tân La đã có những  bước phát triển nhanh chóng và trong quá trình đó phần lớn nhờ  vào sự   ủng hộ  của  hoàng thất và giới quý tộc. Do đó, Phật giáo thời kỳ  này mang diện mạo “Phật giáo   quý tộc”. Giống như ở Việt Nam thời Lý ­ Trần, hoàng thất Tân La cũng đã sản sinh ra   những Phật tử thuần thành, những vị tăng sĩ góp phần làm rạng rỡ tinh thần Phật giáo,  tiêu biểu trong đó là vua Pháp Hưng và vua Chân Hưng, những vị vua đầu tiên xuống   tóc đi tu trong lịch sử bán đảo Triều Tiên. 1.1 Chính sách hưng khởi phật giáo của Tân La Các vị  vua Tân La khi lên nắm quyền đều có những chính sách cụ  thể  nhằm   thúc đẩy sự  phát triển của Phật giáo, tăng cường xây dựng chùa chiền, đúc tượng,  chuông, giảng kinh luận  ở nhiều nơi. Khởi đầu vào tháng 2 năm thứ  5 đời vua Chân  Hưng, chùa Hưng Luân được khởi công xây dựng. Tháng 3 năm đó, vua xuống chiếu   cho phép người dân được xuất gia, thi hành Phật sự.13 Tháng 2 năm thứ  14 đời vua Chân Hưng (năm 553), chùa Hoàng Long ( ??? , ??? )  được xây dựng tại phía Đông của Nguyệt Thành (?? ), chùa xây trong vòng 13 năm thì  hoàn thành. Chùa Hoàng Long cùng với chùa Hưng Luân trở thành hai ngôi chùa quan   trọng bậc nhất tại Tân La, thường xuyên cử hành các nghi lễ mang tính chất quốc gia  như tiếp đón sứ thần, cầu phúc cho quốc vương,…  Tháng 3 năm thứ 35 đời vua Chân Hưng (năm 574), tượng Trượng Lục tôn ( ???? ,  ???? ) chùa Hoàng Long được xây dựng, bức tượng nặng hơn ba vạn năm nghìn cân,  dùng hết hơn một vạn cân vàng. Năm thứ  14 đời vua Thiện Đức (năm 645), tiếp tục   13 ???, ???? (?), ?????, 1996, tr.93. 18
  19. xây dựng tòa tháp cao 9 tầng tại chùa với mong muốn điều phục được các nước láng  giềng, cầu phúc cho thiên hạ  thái bình. Tượng Trượng lục tôn cùng tòa tháp 9 tầng  chùa Hoàng Long được xưng tụng là hai trong số ba bảo vật hộ quốc của Tân La (vật  còn lại là chiếc đai ngọc Thiên tứ  ngọc đai của vua Chân Bình). Điều đó cho thấy,  Phật giáo giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là điểm tựa về mặt tinh thần trong công  cuộc bảo vệ quốc gia của Tân La. 1.2 Vua Pháp Hưng và vua Chân Hưng thoái vị xuất gia Để  chấn hưng Phật pháp, các vị  vua Tân La cùng hoàng thất và giới quý tộc   chân cốt đã tiên phong trong việc thi hành Phật giáo. Vua Pháp Hưng là vị vua đầu tiên   cởi bỏ vương miện, mặc áo cà sa đi tu lấy pháp danh là Pháp Không ( ??, ?? ), đem tông  thất của mình làm nô bộc cho chùa, rồi trở  thành trụ  trì của chùa, trực tiếp hoằng  dương chánh pháp, giáo hóa cho chúng sinh. Về sau, người đời xưng tụng ba vị  thánh  của Phật giáo Tân La bao gồm có Thiền sư A Đạo ­ người đã truyền bá Phật giáo vào   Tân La, Di Thứ Đốn ­ thánh tử đạo đầu tiên và người còn lại chính là vua Pháp Hưng ­   vị vua vĩ đại đã có công làm hưng khởi Phật pháp.14   Theo Hải Đông cao tăng truyện ghi lại, sau khi nhà vua xuất gia, vương phi   cũng cắt tóc đi tu tại chùa Vĩnh Hưng (???,  ??? ), lấy pháp danh là Diệu Pháp (?? , ??).  Phật pháp từ  đó mà được hưng thịnh. Việc vua Pháp Hưng cùng vương phi xuất gia   nhằm thượng tôn chánh pháp đã được nhà sư Giác Huấn (? ? , ?? ) so sánh “vượt lên trên  Lương Võ Đế  mà có thể  sánh ngang với Hán Minh Đế”15, làm tiền lệ cho hoàng thất  và quý tộc Tân La xuất gia tìm cầu Phật pháp sau này. Sự kiện này cũng đã ảnh hưởng  lớn đến các vị vua đời sau, tiếp tục xiển dương Phật pháp và cai trị đất nước bằng các   giáo lý của đức Phật. 14 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.224. 15 Giác Huấn, Hải Đông cao tăng truyện, Quyển 1, Thích Pháp Không, truy cập ngày 12/2/2016. http://www.tangthuphathoc.net/vn/sutruyen/cacvicaotangtrieutien.htm 19
  20. Sau khi hoàn thành công cuộc mở mang bờ cõi, đưa Tân La bước vào giai đoạn   cực thịnh về mặt quân sự, vua Chân Hưng cũng đã từ bỏ ngôi báu để xuất gia. Sử thần   Kim Phú Thức không bàn luận nhiều về vấn đề  này, do việc nhà vua xuất gia không  đúng với tư tưởng của Nho giáo, cho nên chỉ vắn tắt trong Tam quốc sử ký: “Vua lên  ngôi từ bé, hết lòng phụng sự Phật pháp, đến khi về già thì xuống tóc đi tu, mặc tăng   phục, lấy hiệu là Pháp Vân (??, ?? ). Tháng 8 năm thứ 37 (năm 576), vua qua đời, an táng  tại phía Bắc chùa Ai Công (???, ??? ).”16 1.3 Sự ủng hộ của giới quý tộc đối với Phật giáo Cùng với hoàng thất, giới quý tộc cũng đặc biệt  ủng hộ  cho sự phát triển của  Phật giáo bằng nhiều cách khác nhau: quyên tiền xây chùa, cúng dường cho chư Tăng,  tìm hiểu giáo lý của đạo Phật. Nhà sư  Nhất Nhiên đã dùng hình  ảnh so sánh, từ  sau   đời vua Chân Hưng, “chùa mọc lên như  sao, tháp nối tiếp nhau như đàn ngỗng trời.”  Đến đời vua Thái Tông Vũ Liệt, tể  tướng Kim Lang Đồ  (??? , ??? )đã dâng hai người  con gái của mình là Hoa Bảo (?? , ?? ) và Liên Bảo (?? , ?? ) làm giúp việc cho chùa Hưng  Luân, lại bắt toàn bộ gia tộc của nghịch thần Mao Xích (?? , ?? ) làm nô tỳ cho chùa.17  Nhiều cao tăng Tân La có xuất thân từ  tầng lớp chân cốt cũng là một minh  chứng rõ ràng cho sức hút của Phật giáo đối với giới quý tộc Tân La thời kỳ  này. Có  thể  kể  đến trong số  đó tên tuổi của các vị  như  Từ  Tạng pháp sư  ( ? ? ,  ?? , 590 ­ 658)  Nguyên Hiểu pháp sư  (?? ,  ?? ,  617 ­ 686), Nghĩa Tương pháp sư  (??,  ??,  625 ­ 702),...  những người đã góp công đầu trong sự phát triển của lịch sử Phật giáo bán đảo Triều   Tiên nói chung và Phật giáo Tân La nói riêng. 16 ???, ???? (?), ?????, 1996, tr.99. 17 Nhất Nhiên, Tam quốc di sự, NXB Văn hóa - văn nghệ, 2012, tr.225. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1