intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế hiện nay đến Việt Nam và một số nước đang phát triển

Chia sẻ: Gdfb Gdfb | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

137
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế hiện nay đến Việt Nam và một số nước đang phát triển nghiên cứu tổng quan và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ảnh hưởng của nó tới Việt Nam và một số nước đang phát triển . Từ đó đưa ra những giải pháp ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế hiện nay đến Việt Nam và một số nước đang phát triển

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI  KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HIỆN NAY ĐẾN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Họ và tên sinh viên : NguyÔn ThÞ Hoµng YÕn Lớp : NhËt 6 Khoá : 44 H Giáo viên hướng dẫn : ThS. TrÇn Minh NguyÖt Hà Nội, tháng 5 năm 2009
  2. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H LỜI NÓI ĐẦU Nếu năm 2007 đƣợc gọi là năm của những bất ổn, thì năm 2008 sẽ có tên năm của những cuộc khủng hoảng. Khủng hoảng từ nguồn lƣơng thực đến nhiên liệu, từ tài chính đến chính trị, từ môi trƣờng đến an ninh, ảnh hƣởng trực tiếp đến sự sống còn của nhân loại. Trong các cuộc khủng hoảng thì có lẽ cụm từ đƣợc thế giới nhắc đến nhiều nhất là “khủng hoảng tài chính”. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ và nó nhanh chóng lan ra toàn thế giới. Không chỉ dừng lại ở một lĩnh vực là tài chính, mà nó còn ảnh hƣởng sâu sắc đến các lĩnh vực khác. Nhiều nhà phân tích tài chính, kinh tế nổi tiếng thế giới đã ví nó là cuộc khủng hoảng lớn nhất từ trƣớc đến nay, hơn cả cuộc khủng hoảng những năm 30 của thế kỉ trƣớc. Điều này cũng hoàn toàn đúng, vì thế giới đã thay đổi rất nhiều, nhiều ngành nghề mới, lĩnh vực mới xuất hiện, nhiều quốc gia trên thế giới đã ra nhập vào thị trƣờng toàn cầu và khi khủng hoảng xảy ra thì nền kinh tế thế giới sẽ càng bị ảnh hƣởng theo cả chiều sâu và chiều rộng hơn. Các nƣớc phát triển bị ảnh hƣởng nghiêm trọng – đó là một điều tất yếu, vậy các nƣớc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng bị ảnh hƣởng nhƣ thế nào? Có nghiêm trọng hay không? Và những lĩnh vực nào là chịu ảnh hƣởng nhất. Chính vì vậy, em xin chọn nghiên cứu đề tài “ ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đến Việt Nam và một số nƣớc đang phát triển” để có thể phân tích rõ hơn những ảnh hƣởng này, và từ đó có thể đƣa ra các giải pháp để ứng phó với khủng hoảng, giúp Việt Nam nói riêng, và một số nƣớc đang phát triển nói chung nhanh chóng thoát ra khỏi vòng xoáy của cuộc khủng hoảng này. Trong thời gian viết do trình độ hiểu biết còn hạn chế nên không thể tránh đƣợc các sơ xuất, vì vậy mong các thầy cô đóng góp ý kiến và giúp đỡ cho em. Em xin chân thành cảm ơn!
  3. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H CHƢƠNG I: CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HIỆN NAY VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN Khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, vì vậy để nghiên cứu về ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng kinh tế đến Việt Nam và một số nƣớc đang phát triển thì em xin nghiên cứu về ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến Việt Nam và các một số nƣớc đang phát triển để từ đó có cái nhìn toàn diện và bao quát hơn về cuộc khủng hoảng này. I. Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và những nguyên nhân: 1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay: “Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009” là cụm từ đƣợc giới báo chí sử dụng để chỉ tình trạng bất ổn định tài chính nhƣ đói tín dụng và thu hồi nợ, mất giá tiền tệ, sụt giá chứng khoán diễn ra đồng thời nhiều nơi trên thế giới từ tháng 8 năm 2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến năm 2009, và không biết bao giờ nó mới thực sự kết thúc. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hƣởng tiêu cực đến nền kinh tế các nƣớc, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trƣởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nƣớc. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể đƣợc nêu rõ qua các mốc thời gian sau: Tháng 3-4/2007: Tập đoàn tài chính New Century(1) ngừng cho vay vốn sau thời gian dài thực hiện chính sách cho vay bằng tài sản thế chấp với độ rủi ro cao đối dành cho những khách hàng vay vốn nhiều và thƣờng xuyên từ ngân hàng.
  4. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Trong thời gian này, quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đã phải lên tiếng cảnh báo về mức độ rủi ro đối với thị trƣờng tài chính toàn cầu khi nhận thấy những dấu hiệu suy yếu từ thị trƣờng cầm cố bất động sản Mỹ. Tháng 6-2007: Hồi chuông cảnh báo của phố Wall vang lên khi hai quỹ bảo đảm tại ngân hàng đầu tƣ Bear Stearns(2) của New York đang trên bờ vực phá sản vì lƣợng tiền đầu tƣ vào chứng khoán có thể chấp là quá lớn. Tháng 7-8/2007: Các ngân hàng tại Đức với những khoản đầu tƣ không sinh lợi tại thị trƣờng bất động sản Mỹ cũng bị cuốn vào cuộc khủng hoảng này, bao gồm: Ngân hàng công nghiệp Đức IKB(3), Ngân hàng bang Saxony (Sachsen LB) và ngân hàng bang Bavaria (Bayern LB). Với phát biểu "Thị trƣờng phải tự vận động để cứu mình", Tổng thống Mỹ George Bush vẫn kiên quyết từ chối những yêu cầu hỗ trợ từ Chính phủ nƣớc này nhằm xoa dịu tình hình thị trƣờng cầm cố nhà đang khủng hoảng nghiêm trọng. Nhƣng sau đó, khi không có đƣợc những dấu hiệu khả quan hơn, tổng thống Mỹ đã hứa sẽ giúp đỡ các chủ bất động sản đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng để xoa dịu tình hình. Tính tới thời điểm tháng 7/2007: Số lƣợng tài sản thế chấp bị tịch thu tại Mỹ đã lên tới 180,000 bất động sản, tăng 93% so với thời điểm cách đó một năm. Tháng 9/2007: Ngân hàng Northern Rock của Anh(4) bị bao vây bởi nỗi lo lắng của các khách hàng đang gửi tiết kiệm tại đây. Trƣớc tình hình đó, Chính phủ cũng nhƣ Ngân hàng Anh buộc phải đứng ra bảo lãnh cho các khoản tiền gửi của khách hàng bằng cách quốc hữu hóa Northern Rock. Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu áp dụng một loạt mức giảm lãi suất để xoa dịu ảnh hƣởng từ cuộc khủng hoảng cầm cố tài sản và thị trƣờng bất động sản đang rớt giá mạnh.
  5. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Tháng 10/2007: Lợi nhuận của "Ngƣời khổng lồ Mỹ" Citigroup(5) cũng giảm rõ rệt. Qũy tiền tệ quốc tế IMF đã phải đánh giá lại dự đoán mức tăng trƣởng của đồng euro trong năm 2008 từ 2,5% xuống còn 2,1%(6), nguyên nhân một phần là do ảnh hƣởng kéo theo từ cuộc khủng hoảng nợ dƣới chuẩn tại Mỹ và thị trƣờng tín dụng nƣớc này. Tháng 12/2007: Tổng thống Mỹ George Bush tuyên bố kế hoạch giúp đỡ cho thêm 1,2 triệu chủ sở hữu bất động sản trong việc thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng. Tháng 1/2008: Ngân hàng khổng lồ của Thụy Sỹ UBS(7) thông báo cắt giảm 18 tỉ USD vào thị trƣờng bất động sản Mỹ. Còn tại Mỹ, ngân hàng Mỹ (Bank of American) tiến hành mua lại Countrywide Financial, ngân hàng cho vay có thế chấp lớn nhất nƣớc này. Trong 3 quý liên tiếp, Cục dự trữ liên bang (Fed) đã phải giảm mức lãi suất điểm % lên tới 3,5% theo xu hƣớng bán hạ giá của thị trƣờng thế giới. Tháng 2/2008: Fannie Mae(8), nguồn tiền lớn nhất rót vào các khoản vay bất động sản Mỹ thông báo chỉ trong quý 4 của năm 2007, hãng đã thua lỗ 3,35(9) tỉ USD, khoản thua lỗ cao gấp 3 so với dự đoán, cho thị trƣờng này. Tháng 3/2008: Trên bờ vực phá sản cùng sức ép từ Cục dự trữ liên bang (Fed), Bear Stearns buộc phải chấp nhận bị mua lại bởi ngân hàng đầu tƣ Mỹ JP Morgan Chase(10). Số tiền dành cho thƣơng vụ này lên tới 30 tỉ USD sẽ dùng để chi trả cho các khoản nợ mà ngân hàng này đã vay của Fed. Tại Đức, Ngân hàng Đức thông báo thua lỗ 141 triệu euro (11) trong quý 1 năm 2008, trong 5 năm liên tiếp đây là lần đầu tiên ngân hàng này làm ăn thua lỗ. Fed nhắm tới sự hợp tác giữa các ngân hàng trung tâm thế giới nhằm bình ổn nền kinh tế toàn cầu bằng cách thông báo rót 200 tỉ USD tiền mặt vào các thị trƣờng đang khủng hoảng.
  6. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Carlyle Capital(12) trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ với khoản nợ lên tới 16,6 tỉ USD(13). Nƣớc Mỹ cũng phải rót 200 tỉ USD nhằm cứu vãn Fannie Mae và Freddie Mac(14) thoát khỏi khó khăn. Tháng 4/2008: IMF thông báo đã chịu thua lỗ 945 tỉ USD cho cuộc khủng hoảng tài chính(15). Bộ trƣởng các nƣớc G7 tán thành đề xuất đƣa ra các điều chỉnh tài chính mới để chống lại cuộc khủng hoảng đang ngày càng lan rộng. Tháng 6/2008: Một điều đáng nói là trong khi thị trƣờng bất động sản Mỹ ngày càng khủng hoảng nghiêm trọng hơn thì số lƣợng ngƣời đƣợc nhận lại các ngôi nhà đã thế chấp lại tăng gấp đôi. Góp công sức cho hiện tƣợng lạ lùng này, Bear Stearns đã liên hiệp thành công trong 400 vụ bị buộc tội lừa đảo bằng các văn tự thế chấp. Tháng 7/2008: Ngân hàng cho vay thế chấp tại bang California (Mỹ) tuyên bố phá sản. Những khó khăn của Fannie Mae và Freddie Mac ngày càng nhiều. Kho bạc và Cục dự trữ liên bang Mỹ buộc phải đứng ra đảm bảo cho các khoản nợ của Fannie và Freddie. Tổng thống Mỹ George Bush sau khi phê chuẩn quyết định bảo đảm này đã trấn án ngƣời dân Mỹ: "Mọi ngƣời phải bình tĩnh và có niềm tin vào thị trƣờng". Cơ quan lập pháp Hoa Kỳ đã thông qua chƣơng trình rót hàng tỉ USD cuối cùng để cứu vãn cuộc khủng hoảng tịch thu tài sản để thế nợ và khủng hoảng văn tự thế chấp. Martina-Fadesa, hãng đầu tƣ tài sản lớn nhất của Tây Ban Nha tuyên bố phá sản. Ngày 7/9/2008: Chính phủ Mỹ nắm quyền kiểm soát Fannie và Freddie sau khi chi 200 tỉ USD để cứu 2 ngân hàng thoát khỏi tình trạng phá sản.
  7. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Ngày 15/9/2008: Ngân hàng đầu tƣ Lehman Brothers(16) tuyên bố phá sản với khoản nợ lên tới 600 tỉ USD(17). Merrill Lynch bị mua lại bởi ngân hàng Mỹ (Bank of America). Ngày 17/9/2008: Mỹ rót 85 tỉ USD giúp hãng bảo hiểm khổng lồ AIG (18) thoát khỏi khó khăn. Ngày 19/9/2008: Nhà Trắng yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ thông qua kế hoạch chi 700 tỉ USD giúp đỡ tất cả các công ty tài chính chìm nghỉm trong những mã chứng khoán có thế chấp đang mất giá nhanh chóng(19). Ngày 22/9/2008: Morgan Stanley(20) và Goldman Sachs(21), hai ngân hàng đầu tƣ danh tiếng cuối cùng, chuyển đổi sang mô hình tập đoàn ngân hàng. Ngày 26/9/2008: Cục dự trữ liên bang tuyên bố ngân hàng Washington Mutual phá sản, đây đƣợc coi là một trong những vụ sụp đổ ngân hàng lớn nhất nƣớc Mỹ. Ngày 29/9/2008: Đại diện nhà Trắng bác bỏ kế hoạch chi 700 tỉ USD để xoa dịu thị trƣờng. Ngày 29/9/2008: Kế hoạch hỗ trợ từ Chính phủ đối với các ngân hàng chủ chốt tại Anh (ngân hàng Benelux) và tại Đức, cũng nhƣ tiếp quản một ngân hàng tại Aixơlen. Chính phủ Anh quyết định can thiệp để giữ lại nhà cho vay thế chấp quan trọng Bradford & Bingley(22). Chính phủ Hà Lan, Bỉ và Luxembourg quyết định tiếp quản phần lớn ngân hàng Belgian -Dutsch và công ty bảo hiểm Fortis. Bộ Tài chính Đức thông báo Chính phủ và các ngân hàng hàng đầu đã bơm hàng tỉ euro vào nhà cho vay thế chấp Hypo Real Estate (23) để cứu vãn khó khăn. Chính phủ Aixơlen cùng ngân hàng Glinir(24) chính thức tuyên bố chính phủ sẽ nắm quyền kiểm soát 75 % cổ phiếu của ngân hàng này.
  8. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Ngày 30/9/2008: Ngân hàng Wachovia(25) chao đảo bên bờ vực phá sản bắt đầu tiến hành đàm phán với Citigroup để trao quyền kiểm soát lại cho Citigroup. Ngày 1/10/2008: Thƣợng nghị viện Mỹ thông qua kế hoạch rót tiền cho thị trƣờng tài chính đang khủng hoảng. Ngày 2/10/2008: Tổng thống Bush đã ký đạo luật giải cứu thị trƣờng tài chính lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nƣớc Mỹ chao đảo và thế giới sửng sốt trƣớc sự suy sụp của hàng loạt tên tuổi lớn trong hệ thống tài chính Mỹ và không ít ngƣời đã ví cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay với cuộc Đại khủng hoảng 1929 – 1933(26), hoặc chí ít đang đặt nƣớc Mỹ và thế giới trƣớc các chấn động lớn vƣợt ra ngoài các chấn động chu kỳ thông thƣờng. Trên đây là những mốc quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và cho đến bây giờ cuộc khủng khoảng tài chính vẫn tác động mạnh mẽ đến các mặt của thế giới. 2. Ảnh hƣởng chung của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đến thế giới: Nhiều quốc gia đã phải bơm vào nền kinh tế hàng trăm cho đến hàng nghìn tỉ USD để cứu vãn tình hình và ổn định kinh tế. Đó là chƣa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không tăng trƣởng, rối loạn đang chờ phía trƣớc. Cho đến nay, tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Sự sụp đổ của những ngân hàng lớn đã gây nên những lo ngại và mất niềm tin của dân chúng. Ngay cả các quỹ đầu tƣ tiền tệ, vốn đƣợc coi là góc an toàn bậc nhất trong hệ thống tài chính Mỹ, là nền tảng cho hoạt động đầu tƣ của nƣớc này, cũng gặp khó khăn khi ngƣời dân ồ ạt rút tiền do những quan ngại về sự đổ vỡ tiếp theo.
  9. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H 2.1. Ảnh hƣởng đến tốc độ tăng trƣởng: Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải giảm bớt các dự đoán đƣa ra về tốc độ tăng trƣởng của nƣớc mình đã đƣa ra trƣớc đây, một số quốc gia không những giảm mà còn đƣa ra con số âm. Điều này cũng thật dễ hiểu vì ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến thế giới ngày càng trở nên sâu sắc. - Ngày 8-3-2009, Ngân hàng Thế giới (WB) đƣa ra báo cáo nhận định về cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu hiện nay khẳng định "GDP toàn cầu trong năm 2009 sẽ giảm mạnh nhất trong vòng 60 năm qua". Theo WB, sản lƣợng công nghiệp toàn cầu sáu tháng đầu năm 2009 sẽ ít hơn 15% so với cùng kỳ năm 2008. Giá trị trao đổi thƣơng mại toàn cầu ở mức thấp nhất trong 80 năm qua. Cuộc khủng hoảng lần này gây thiệt hại cho cả các nƣớc phát triển và đang phát triển. Giá trị thƣơng mại của khu vực Ðông Á(27), nơi có nhiều nền kinh tế có xuất khẩu lớn, bị suy giảm mạnh nhất. Thí dụ, Chính phủ Nhật Bản thông báo, kim ngạch xuất khẩu của nƣớc này trong tháng 1-2009 giảm 46,3% so với cùng kỳ năm 2008 và là mức thâm hụt thƣơng mại đầu tiên trong 13 năm qua(28). Nền kinh tế Nhật Bản đang ở trong một chu kỳ suy thoái kéo dài nhất kể từ cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới đầu những năm 30 của thế kỷ 20. - Uỷ ban châu Âu (EC) công bố những dự báo kinh tế bi quan, theo đó năm 2009, kinh tế của châu Âu sẽ suy thoái nặng nề song hành với tình trạng thất nghiệp tăng mạnh. Theo dự đoán của EC, năm 2009, tăng trƣởng của các nƣớc Liên hiệp châu Âu (EU) trung bình sẽ là âm 1,8%, trong đó các nƣớc thuộc khu vực đồng Euro sẽ tồi tệ hơn là âm 1,9% và tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực này là 9,25%. EC cho rằng tình trạng suy thoái trên mang tính toàn cầu. Dự đoán năm 2009, tổng sản phẩm quốc nội của các nƣớc trên thế giới sẽ tiếp tục giảm, chỉ còn 0,5%, so với 3,3% của năm 2008 (tỷ lệ này là 5%
  10. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H năm 2004 và 2007). Kinh tế đi xuống kéo theo các hoạt động kinh doanh của nhiều tập đoàn trì trệ. Nhiều công ty và hãng lớn trên thế giới đã phải công bố cắt giảm việc làm để tiết kiệm chi tiêu. Viện nghiên cứu Kinh tế và Xã hội quốc gia Anh cho biết, sức tiêu dùng của ngƣời dân Anh năm 2009 sẽ giảm 3,8%, gấp hai lần mức giảm đƣợc cho là kỷ lục 1,6% hồi năm 1991, một mức thấp chƣa từng thấy trong nhiều thập niên qua tại nƣớc này(29). Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Trung ƣơng Anh (BoE), nền kinh tế Anh đang trong giai đoạn "suy thoái sâu", trầm trọng nhất trong 60 năm qua. Với đánh giá ảm đạm nhất từ trƣớc đến nay, BoE cho rằng, kinh tế Anh sẽ suy yếu nghiêm trọng trong nửa đầu năm nay và suy thoái có nguy cơ kéo dài hơn và trầm trọng hơn dự kiến. Theo BoE, mức giảm của kinh tế Anh năm 2009 sẽ là 3%. Phó Thủ tƣớng kiêm Bộ trƣởng Tài chính Nga Alexei Kudrin đánh giá năm 2009 sẽ là năm khó khăn nhất đối với Nga và thừa nhận ban lãnh đạo Nga đã không lƣờng đƣợc cuộc khủng hoảng hiện nay lại trầm trọng đến vậy. Theo báo Diễn đàn thông tin quốc tế, nền kinh tế Ðức, nhà xuất khẩu đứng đầu thế giới và là đầu tàu kinh tế của EU, đang nghiêng ngả trong cơn suy thoái tồi tệ nhất từ năm 1990. Chủ tịch Hội đồng Mỹ và Ðức Uy-liêm Ðrô- dơ-đi-ắc cho rằng, trong ba hoặc sáu tháng nữa, ảnh hƣởng của "cơn bão" tài chính sẽ nặng nề hơn. Sự sa sút của nền kinh tế Ðức có thể làm cho EU gồm 27 nƣớc thành viên bị "tan rã thành từng mảng". Theo ông, những khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế có thể làm cho Ðức và các nƣớc EU khác khó có thể cộng tác chặt chẽ với Mỹ trong việc triển khai chiến lƣợc mới của NATO ở Afghanistan và Trung Ðông. Báo cáo của Bộ Thƣơng mại Mỹ cho biết, nền kinh tế nƣớc này tiếp tục lún sâu vào suy thoái do GDP trong quý IV-2008 giảm 3,8%, mức giảm lớn nhất kể từ quý I-1982. Trong cuộc họp báo đầu tiên trên cƣơng vị đƣợc truyền
  11. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H hình trực tiếp trên toàn nƣớc Mỹ, Tổng thống Obama đã nhấn mạnh thực trạng nền kinh tế đang "ở mùa đông của sự khó khăn". Tại Mỹ, chính quyền đảng Dân chủ của Tổng thống B.Obama đã triển khai gói kích cầu kinh tế thứ hai trị giá 787 tỷ USD, song dƣờng nhƣ cuộc suy thoái kinh tế vẫn diễn ra nghiêm trọng hơn. Hàng loạt các đại gia tài chính, công nghiệp chƣa có cách thoát ra khỏi cơn lốc. Sản xuất phải thu hẹp. Công nhân bị sa thải. Tỷ lệ thất nghiệp đến tháng 2-2009 đã chiếm 8,1% lực lƣợng lao động(30). - Theo nhận định của Giáo sƣ Xti-glít, ngƣời từng đoạt giải Nobel kinh tế 2001, nguyên Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB), thế giới có nguy cơ lâm vào tình trạng đình đốn kéo dài tƣơng tự nhƣ ở Nhật Bản hồi những năm 1990 của thế kỷ trƣớc(31). Mô hình kinh tế hiện nay dẫn đến tình trạng bất công quá lớn, không thể bảo đảm cho phát triển bền vững lâu dài. Theo ông Xti-glít, khủng hoảng tài chính thế giới ngày nay là hậu quả của sự không lành mạnh của các định chế ngân hàng Mỹ. Ðại diện tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) cho rằng, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang cản trở những thành quả của công cuộc xóa đói, giảm nghèo và ảnh hƣởng việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs). - Dự đoán của ADB, kinh tế châu Á sẽ tăng trƣởng chậm lại còn 5,8% năm 2009, so với mức ƣớc tính 6,9% năm 2008. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) còn cho biết cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay đã làm mất 50.000 tỷ USD giá trị tài sản tài chính năm 2008. Trong đó, mức thiệt hại của các nƣớc đang phát triển ở châu Á ƣớc khoảng 9.600 tỷ USD (32). Thế giới hy vọng Trung Quốc, với tiềm năng lớn của một nền kinh tế phát triển nhanh nhất toàn cầu trong nhiều năm liền, sẽ trở thành động lực thúc đẩy khôi phục kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo Báo Asahi ra ngày 23/2/2009, Nhật Bản, tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế thực của Trung Quốc đã giảm mạnh, chỉ còn 6,8% trong quý IV-2008, khiến nƣớc này khó đạt mục tiêu
  12. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H tăng trƣởng 8% trong năm nay. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đƣa ra dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ chỉ đạt tốc độ tăng trƣởng 6,7% trong năm 2009. Theo tờ báo, trong những năm gần đây, tăng trƣởng kinh tế ngoạn mục của Trung Quốc chủ yếu dựa vào xuất khẩu tăng mạnh và nguồn vốn đầu tƣ khổng lồ để xây dựng nhà xƣởng, mua sắm thiết bị phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong năm nay, những thị trƣờng xuất khẩu chủ chốt của Trung Quốc nhƣ Mỹ, Nhật Bản và châu Âu, đƣợc dự báo sẽ suy thoái đồng loạt. 2.2. Ảnh hƣởng đến thị trƣờng lao động và việc làm: Khủng hoảng tài chính kéo theo là sự suy yếu hay sụp đổ của nhiều công ty. Những ngƣời lao động(LĐ) - ngƣời mà sống dựa vào tiền lƣơng đƣợc chi trả bởi các công ty này - cũng hết sức lo lắng. Họ lo rằng không biết đến ngày nào mình bị sa thải đây? Do đó, thị trƣờng lao động - việc làm bị ảnh hƣởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Hàng chục triệu ngƣời lao động đã bị mất việc. Bộ Lao động Mỹ cho biết chỉ trong năm 2008 đã có thêm hơn 1,2 triệu ngƣời Mỹ mất việc làm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã và đang ảnh hƣởng đến cuộc sống của đại đa số ngƣời dân nƣớc này, ngày càng nhiều ngƣời đi đến phá sản. Theo một cuộc điều tra xã hội do AP/GFK(33) công bố đầu tháng 10, khoảng 80% ngƣời Mỹ đƣợc hỏi bày tỏ lo ngại cuộc khủng hoảng sẽ tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ. Châu Âu cũng bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính. Ở Nga, nhiều công ty đã và đang lên kế hoạch sa thải nhân viên. Theo thống kê của Chính phủ Italia tháng 12/2008, số ngƣời nghèo tại Italia chiếm tới 13% trong tổng số 58 triệu dân, với mức thu nhập chỉ 500 - 600 euro/tháng (chƣa
  13. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H bằng phân nửa mức lƣơng trung bình). Tỷ lệ thất nghiệp hiện nay ở Italia là 6,8%. Tại Bỉ, riêng trong tháng 9/2008, đã có 927 doanh nghiệp phá sản, tăng 18% so với tháng 8/2008. Hãng sản xuất xe hơi nƣớc Đức BMW cho biết, lợi nhuận trong quý III đã giảm mạnh và không thể đạt đƣợc mục tiêu kinh doanh năm 2008, vì ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính. Hãng sản xuất ôtô Pháp Renault vừa tuyên bố cắt giảm 6.000 nhân công (4.900 vị trí tại Pháp và 1.100 ở các quốc gia khác trên toàn châu Âu) nhƣ là động thái đối phó với sự suy giảm của thị trƣờng xe hơi toàn cầu(34). Tại châu Á, hàng ngàn ngƣời LĐ nhập cƣ làm nghề giúp việc gia đình, bồi bàn... tại các thành phố giàu có nhƣ Singapore, Hồng Kông đang lo lắng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến túi tiền của chủ họ bị hẹp lại và họ sẽ bị đuổi việc. Những ngƣời LĐ nhập cƣ mất việc cũng có nghĩa là quốc gia của họ sẽ mất đi một phần kiều hối gửi về. Từ khi cuộc khủng hoảng tài chính tấn công Mỹ và một số nƣớc phƣơng Tây, sức tiêu thụ của ngƣời dân tại các nƣớc này giảm làm ngành xuất khẩu ( XK) ở Trung Quốc bị chậm lại. Theo thống kê của Chính phủ Trung Quốc, trong 6 tháng đầu năm 2008, ít nhất 67.000 nhà máy trên toàn quốc phải đóng cửa, trong đó hơn 50% là các nhà máy sản xuất đồ chơi. Ở châu Phi, đảo quốc Cộng hòa Seychelles là quốc gia đầu tiên bị ảnh hƣởng. Chính phủ đã buộc 2.000 công chức (tức 1/10 tổng số công chức cả nƣớc) phải nghỉ việc để giảm bớt chi tiêu của Chính phủ, nhằm cứu đất nƣớc khỏi phá sản. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến Seychelles không thể trả đƣợc khoản nợ tới 800 triệu USD. Thế giới bƣớc vào năm 2009 với tâm trạng bất an và tháng Ba kết thúc quý I vẫn chƣa thấy xuất hiện tia sáng nào. Những thông tin chẳng lành về cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu vẫn tràn ngập các phƣơng tiện thông
  14. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H tin đại chúng, tiếp tục là chủ đề bàn thảo, tranh cãi trên chính trƣờng nhiều nƣớc và tại tất cả các diễn đàn quốc tế. Hầu hết các nƣớc, trƣớc hết là các nƣớc công nghiệp phát triển(CNPT) vốn là đầu tầu của nền kinh tế thế giới đều rơi vào tình trạng tăng trƣởng âm, thƣơng mại toàn cầu sụt giảm sâu nhất trong mấy chục năm, nạn thất nghiệp lan nhanh nhƣ bệnh dịch, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy, chủ thuyết của phái “tân tự do” bị đem ra mổ xẻ và thiên hạ đang tìm kiếm học thuyết kinh tế mới. II. Những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 1. Nguyên nhân khách quan: 1.1. Do tính chu kì của nền kinh tế: Khủng hoảng kinh tế đƣợc coi là căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tƣ bản và diễn ra có tính chất chu kì, trải qua những giai đoạn có liên quan kế tiếp nhau: khủng hoảng - tiêu điều - phục hồi - hƣng thịnh. Giai đoạn của chu kì tƣ bản chủ nghĩa, đƣợc biểu hiện bằng hàng hoá sản xuất thừa so với nhu cầu có khả năng thanh toán, sản xuất giảm sút, vốn đầu tƣ cơ bản bị rút bớt, thất nghiệp và lam phát tăng lên, những tỉ lệ chủ yếu của tái sản xuất bị rối loạn. Nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tƣ bản; từ đó nảy sinh một loạt mâu thuẫn phái sinh: mâu thuẫn giữa tƣ bản và lao động, mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, mâu thuẫn giữa tính có tổ chức trong các xí nghiệp riêng biệt và tình trạng sản xuất vô chính phủ trong toàn xã hội. Những mâu thuẫn đó đƣa nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu kì kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Nền kinh tế toàn cầu đã rất hƣng thịnh trƣớc năm 2007, và một số tháng đầu năm 2007, do đó, khủng hoảng là điều rất dễ xảy ra.
  15. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H 1.2. Mất cân đối toàn cầu (global imbalances): Một lƣợng tiền dƣ thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao, nhƣ Trung Quốc và các nƣớc xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nƣớc Mỹ. Những dòng tiền này khiến lãi suất tại Mỹ đƣợc duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản nhƣ nhà đất và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo . 1.3. Tỉ lệ cấp vốn quá cao: Với mỗi một mức độ phát triển kinh tế đặc biệt thì có một mức cấp vốn vào thị trƣờng chứng khoán tƣơng ứng. Nhƣng hiện tai thì tỷ lệ cấp vốn vào thị trƣờng so với GDP vƣợt quá giá trị mà có thể đảm bảo một sự phát triển ổn định trong tƣơng lai. Nó đƣợc tính bằng việc chia toàn bộ giá trị thị trƣờng chứng khoán của tất cả các công ty giao dịch công khai trong 1 nƣớc theo GDP của họ. Tỷ lệ cấp vốn vào thị trƣờng so với GDP ở mức 40-60% trong thế kỷ 20. Mức tăng trƣởng chóng mặt của những năm 1990 đã đẩy tốc độ đó lên mức kỷ lục 118% vào năm 1999, theo sau là một cuộc suy thoái vĩ mô toàn cầu khi bắt đầu bƣớc sang thế kỷ 21. Sau đó đến năm 2002, tỷ lệ này lại sụt giảm xuống 73%, rồi tăng lại lên 122% vào năm 2007- mức tăng trên 100% trƣớc khi bắt đầu cuộc suy thoái(35). 2. Nguyên nhân chủ quan: 2.1. Do những phát minh tài chính: Phát minh tài chính vừa qua là gì? Đó là việc tập trung tiền cho vay mua nhà, lấy tiền hoa hồng, rồi chia nhỏ hợp đồng vay nợ này thành các chứng khoán (một loại giấy nợ), rồi bán cho
  16. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H ngƣời có tiền (các công ty đầu tƣ tài chính chấp nhận rủi ro cao, quỹ bảo hiểm, quỹ hƣu trí và dân chúng), qua đó họ lại nhận thêm hoa hồng. Tiền bán chứng khoán họ đem trả nợ ngắn hạn dùng lúc đầu để cho vay mua nhà. Mọi rủi ro về nợ sau khi bán chứng khoán thuộc về ngƣời mua chứng khoán, chứ không phải công ty tài chính. Cái mới là ở chỗ: các công ty tài chính nhận đƣợc nhiều tiền nhƣng mọi rủi ro thì đẩy cho ngƣời khác. Bất ổn tài chính từ những “phát minh” về tài chính trong thời gian qua, qua đó thế đứng của ngân hàng đã dần dần bị các công ty kinh doanh tài chính đánh đổ dần, trong lúc Cục dự trữ liên bang Mỹ(Fed) chỉ đƣợc giao nhiệm vụ kiểm sát hệ thống ngân hàng. Fed đã cứu công ty tài chính Bear Stearns. Dù không thuộc nhiệm vụ của Fed, Fed vẫn vào cuộc với hy vọng là chặn đứng đƣợc tình hình hoảng loạn tài chính. Tình hình khủng hoảng tiếp tục mở rộng và Fed không thể đứng ra cứu tiếp, vì đây không phải là nhiệm vụ của Fed, và về mặt chính trị cũng nhƣ khả năng vốn, Fed không thể tiếp tục cứu. Các công ty tƣ nhân này đã đòi quyền tự do kinh doanh tài chính làm giầu, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của Fed, thì Fed không thể lấy thuế của dân để cứu các công ty này. Bơm tiền cứu sẽ đẩy mạnh thêm lạm phát. 2.2. Do sự “mua bán chịu” giữa các ngân hàng: Mặc dù ngân hàng có tài sản dƣới dạng - bất động sản, kim loại quý hay tiền mặt, nhƣng tổng giá trị của nó so với số tiền cho vay vẫn ít hơn nhiều. Phần lớn tiền cho vay xuất phát từ nguồn của những ngƣời gởi tiết kiệm. Ðây là tiền kinh doanh lấy lãi của ngân hàng, ngoài ra ngân hàng cổ phần còn vay tiền từ ngân hàng trung ƣơng hay từ các ngân hàng cổ phần khác để điều chỉnh nhu cầu chi thu tiền tệ. Nhƣ vậy hệ thống ngân hàng trên thực tế là một dạng "mua bán chịu". Ðiều này có nghĩa, các hoạt động của ngân hàng đều dựa vào sự tin tƣởng lẫn
  17. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H nhau: ngân hàng này cho ngân hàng khác mƣợn tiền, vì biết chắc là khi cần họ sẽ nhận lại cả vốn lẫn lời. Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu giám đốc của một ngân hàng một lần đánh giá sai lầm về đối tác của mình nhƣ trƣờng hợp ngân hàng KfW (36) của Ðức? KfW chuyển 300 triệu euro cho ngân hàng đầu tƣ Lehman Brothers ở New York, đúng lúc khi Lehman Brothers bị phá sản và số tiền này coi nhƣ bị mất và hậu quả là KfW gặp khó khăn trong việc chi trả với khách hàng. Qua sự kiện này nhiều ngân hàng lo ngại sẽ gặp phải trƣờng hợp nhƣ KfW, nên thận trọng. Kết quả là việc trao đổi tiền giữa các ngân hàng trƣớc đây rất dễ dàng thì bây giờ trở nên khó khăn và dần đƣa đến tình trạng không ngân hàng nào tin ngân hàng nào.Các ngân hàng cổ phần vay tiền từ Ngân hàng trung ƣơng Mỹ Fed (Federal Reserve System) với một lãi suất thấp, vì vậy họ cho khách hàng vay tiền dễ dàng dĩ nhiên với lãi suất cao hơn lãi suất mà họ phải trả cho Fed. 2.3. Do ngƣời vay không có khả năng trả nợ: Khác với nhiều nƣớc ở châu Âu, ngân hàng cổ phần Mỹ cho vay tiền mua bất động sản, nhƣng không kiểm tra khả năng chi trả của khách. Ngay cả những ngƣời đang thất nghiệp vẫn có thể vay tiền mua nhà dễ dàng theo một lãi suất lƣu động. Lãi suất này thƣờng thấp vào thời điểm mƣợn, nhƣng do tình hình kinh tế có thể tăng lên cao vào bất cứ lúc nào. Sự kiện này đã làm nhiều ngƣời bị phá sản, mất cả vốn lẫn lời. Trƣớc đây, để tăng mức độ trú ngụ của ngƣời dân, Chính phủ Mỹ khuyến khích ngân hàng cho vay vốn xây nhà. Trong thời gian đầu mọi việc xảy ra có vẻ hoàn hảo: dân có nhà ở, ngƣời kinh doanh nhà có lời, nhiều ngƣời có công ăn việc làm, ngân hàng thu lãi và giá nhà đất tăng. Lãi suất vẫn còn thấp, đẩy nhu cầu mua nhà lên cao và qua đó giá nhà đất liên tục tăng lên.
  18. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Nếu có khách hàng nào không đủ sức trả tiền thì ngân hàng có thể lấy nhà (lúc này giá còn cao) bán đấu giá để trừ nợ, vì vậy ngân hàng vẫn có lời và tiếp tục cho vay. Một con vít xoắn giá cả bắt đầu xuất hiện. Giá nhà đất tiếp tục tăng, ngày càng cao, số ngƣời vay tiền ngày càng nhiều. Trong thời gian này nhiều ngân hàng cổ phần dùng giấy nợ làm thành một loại chứng khoán phái sinh (derivative) và buôn bán với nhau. Lo rằng đồng đô la bị mất giá và kinh tế Mỹ có thể bị ảnh hƣởng nên Ngân hàng trung ƣơng Mỹ quyết định cho tăng lãi suất. Qua đó lãi suất cho vay của ngân hàng cổ phần cũng tăng theo tƣơng ứng. Số khách không tiền trả và bất động sản bị bán đấu giá, cũng tăng lên. Trong thời gian này nhu cầu nhà đất đã gần nhƣ bão hòa, giá không còn tăng và bắt đầu đi xuống. Do giá nhà đất giảm nên số tiền ngân hàng thu lại (qua bán đấu giá) không đủ. Họ bắt đầu lo lắng về số chứng khoán mua trƣớc đây, bây giờ mất giá và không bán đƣợc. Vì không biết rõ ai trong đối tác của mình còn khả năng trả nợ hay không nên các ngân hàng không dễ dàng cho vay tiền với nhau nhƣ trƣớc đây. Một tâm lý nghi ngờ bắt đầu xuất hiện. Qua đó, mạch tiền tệ lƣu chuyển giữa các ngân hàng để nuôi và điều hòa hệ thống tiền tệ trên thị trƣờng bị trì trệ. Trƣớc tiên giữa các ngân hàng với nhau và sau đó dần đến doanh nhân và ngân hàng không dám cho doanh nghiệp vay tiền. Nhƣng doanh nghiệp thì vẫn cần vốn để làm ăn. Không có vốn thì không sản xuất và qua đó hệ thống kinh tế sẽ không phát triển, cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ mất giá trị và thị trƣờng chứng khoán sẽ bị ảnh hƣởng xấu. Ðó là nguyên nhân tại sao trong thời gian qua, thị trƣờng chứng khoán bị tuột xuống, lúc đầu ở Mỹ sau lan rộng ra khắp nơi trên thế giới. Bây giờ từ một cuộc khủng hoảng tài chính lôi theo cuộc khủng hoảng kinh tế
  19. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H Vậy một trong những nguyên nhân khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay không chỉ do giới tƣ bản tài phiệt gây nên mà còn xuất phát từ lỗi của chính những ngƣời đi vay mua nhà không đủ khả năng thanh toán. 2.4. Sự lỏng lẻo trong kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nƣớc: Những yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nƣớc đã không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trƣờng trong hơn hai mƣơi năm qua. Kể từ thập niên 1980, thị trƣờng tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát triển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ và đầu tƣ. Chứng khoán phái sinh và chứng khoán hóa, mặc dù giúp tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro, đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm. Không một cơ quan nhà nƣớc, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tƣ và tài sản nằm trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng. Thêm vào đó nhiều thao tác này lại đƣợc che đậy qua hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tƣ (hedge funds), một loại hình quỹ đầu tƣ nắm giữ tới gần 3000 tỉ đô la giá trị tài sản nhƣng không hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần nhƣ không chịu sự giám sát của bất kì một cơ quan nhà nƣớc nào. 2.5. Sự thay thế Đạo luật bức tƣờng lửa Glass-Steagall(37) bởi Đạo luật Glamm-Leach-Bliley(38): Sự thay thế này đã cho phép các ngân hàng thƣơng mại đƣợc tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm nhƣ nghiệp vụ chứng khoán hóa và bán
  20. Nguyễn Thị Hoàng Yến Nhật 6 K44 H các khoản vay bất động sản (BĐS) khiến nhiều ngân hàng đẩy mạnh cho vay BĐS dƣới chuẩn, nhằm thu về những khoản lợi lớn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn nắm giữ một lƣợng khá lớn các khoản chứng khoán phái sinh này, một phần do không bán đƣợc, một phần do mua của ngân hàng khác nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tƣ. Các ngân hàng cho vay BĐS thua lỗ khi thị trƣờng BĐS bị vỡ bong bóng và nhiều khoản cho vay không thu hồi đƣợc, cộng với các khoản chứng khoán BĐS bị giảm giá không phanh. 2.6. Đòn bẩy tài chính quá cao: Đòn bẩy tài chính là quá trình công ty sử dụng vốn vay để tài trợ cho tăng trƣởng tài sản, đƣợc tính bằng tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Ở các ngân hàng thƣơng mại, tỷ lệ này thƣờng bị khống chế ở mức 12%, nhƣng ở các ngân hàng đầu tƣ, tỷ lệ này cao hơn rất nhiều và thƣờng trên 20%. Từ năm 1975, các ngân hàng đầu tƣ không đƣợc phép có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn 15%. Tuy nhiên, từ năm 2004, Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) đã bãi bỏ quy định này đối với 5 "đại gia" phố Wall (Goldman Sachs, Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bear Stearns và Morgan Stanley). Tính đến đầu năm 2008, cả 5 ngân hàng này đều có tỷ lệ đòn bẩy tài chính rất cao, xấp xỉ hoặc hơn 30%. Chính vì vậy, không ngạc nhiên khi 2 "đại gia" bất động sản Freddie Mac và Fannie Mae với đòn bẩy tài chính hơn 60% là những nạn nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Đòn bẩy tài chính quá cao là nguyên nhân chính cho sự ra đi của Bear Stearns, Freddie Mac và Fannie Mae, Lehman Brothers và Merrill Lynch. Sự sụp đổ của các định chế tài chính này là ngòi nổ của cuộc khủng hoảng, dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin của thị trƣờng, dẫn đến sự hạ thấp tín nhiệm và sự ra đi của AIG, dẫn đến làn sóng rút tiền, gây ra khủng hoảng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0