intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không

Chia sẻ: Quang Huy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

150
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không" gồm các nội dung chính được trình bày như sau: Những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập, quan điểm về sự độc lập của các kiểm toán viên, minh chứng về kiểm toán viên bên ngoài không độc lập,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không

  1. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU                                                                                                    ...................................................................................................2 1.1. Định nghĩa và chức năng của kiểm toán                                                                                                         ........................................................................................................3 1.1.1. Khái niệm                                                                                                                                                      .....................................................................................................................................................3 1.1.2. Quá trình hình thành phát triển kiểm toán độc lập trên thế giới                                                                ...............................................................3 CHƯƠNG II                                                                                                     ....................................................................................................11 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU    Hiện nay, Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế  thị  trường có sự  quản lý của  Nhà nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa, với  một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được mở  rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế  của đất  nước. Trong điều kiện kinh tế như vậy thông tin tài chính của doanh nghiệp  không chỉ  báo cáo cho các cơ  quan quản lý nhà nước để  kiểm tra và xét  duyệt.  Để  đáp  ứng yêu cầu đó của nền kinh tế  theo cơ chế  thị trường, hoạt  động kiểm toán độc lập ra đời, trở  thành bộ  phận cần thiết và quan trọng  không thể  thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán ra đời và  đặc biệt là sự ra đời của kiểm toán độc lập có ý nghĩa rất quan trọng đối với   các doanh nghiệp, các Nhà đầu tư trong mọi thành phần kinh tế của nền kinh   tế  quốc dân và đặc biệt là sự  phát triển của nền kinh tế  đất nước. Để  tìm  hiểu kỹ hơn về  kiểm toán độc lập em xin chọn đề  tài:" Các kiểm toán viên   bên ngoài có thực sự  độc lập không?" để  nghiên cứu, phân tích những vấn  đề lý luận về kiểm toán độc lập. 2
  3. CHƯƠNG I NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 1.1. Định nghĩa và chức năng của kiểm toán 1.1.1. Khái niệm Trên thế  giớ  thuật ngữ  kiểm toán đã có từ  lâu, theo tiếng Latinh là  Auditus. Có rất nhiều khái niềm về kiêm toán. Theo định nghĩa của Liên đoàn  quốc tế  các nhà kế  toán thì “ kiểm toán là việc các nhà kiểm toán viên đôc   lập kiểm tra và trình  bày ý kiền của mình về  các bản báo cáo tài chính”.   Trong   giáo   trình  kiểm   toán   của   các   tác   giả   Alvin   A.Rens   và   James  K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập  và có thẩm quyền thu nhập và đánh giá các bằng chứng về  các thông tin có  thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo  cáo về  mức độ  phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được  thiết lập”... Theo qui chế  về  kiểm toán độc lập trong nền kinh tế  quốc dân ban   hành   kèm   theo   Nghị   định   số   07/CP   của   Chính   phủ   ngày   29/1/94   có   nêu:  “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và   doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu  kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn   vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này.” 1.1.2. Quá trình hình thành phát triển kiểm toán độc lập trên thế giới Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế  giới đã xuất hiện trên 100 năm.  Kiểm toán đã hình thành và phát triển từ thế kỷ XV,  ở châu Âu và ngày càng  phát triển mạnh mẽ. tuy nhiên hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở  các nước không hoàn toàn giống nhau,nó xuất hiện và phát triển theo nhu cầu tự  thân của doanh nghiệp và nhà đầu tư, sau đó được Nhà nước thừa nhận do hiệu   quả và tính chất xã hội của nó. Ngày nay, hoạt động kiểm toán độc lập đã được  quốc tế hóa, thể hiện ở chỗ có tổ chức Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), có   chuẩn mực kiểm toán quốc tế, có chứng chỉ  hành nghề  kiểm toán được hầu  hết các nước thừa nhận; có nhiều tập đoàn kiểm toán toàn cầu  (Big 4) mà mỗi  tập đoàn có hàng trăm nghìn nhân viên, có hàng trăm văn phòng trên khắp thế  giới. Tất cả các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada, cộng đồng châu Âu  đều có luật hoặc các điều khoản luật về  kiểm toán độc lập hoặc luật kế  toán viên công chứng. 3
  4. Tại Anh, Mỹ, việc quy định về  báo cáo tài chính và kiểm toán được  quy định cụ  thể  trong 1 chương của Luật Công ty. Tại Liên bang Nga có  Luật Kiểm toán được Hội đồng Liên bang phê duyệt từ  năm 2001. Ở  Nhật,  Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore đều có Luật Kế  toán viên công chứng  được ban hành từ nhiều năm qua trong đó đều có các qui định chung về  các  qui tắc hoạt động của các kế toán viên công chứng. Luật   Kiểm   toán   viên   công   chứng   của   Trung   Quốc   được   ban   hành  nhằm qui định vai trò của kế  toán viên công chứng (CPA)" các kiểm toán  viên độc lập ­ trong nền kinh tế và xã hội, tăng cường quản lý hoạt động của   kiểm toán độc lập, qua đó bảo vệ lợi ích của cộng đồng cũng như quyền lợi  hợp pháp của các nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh  tế. Còn Luật Kiểm toán viên Công chứng của Hàn Quốc được ban hành  nhằm xây dựng vững chắc một hệ  thống cho các kế  toán viên công chứng  nhằm góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, quản lý tốt  các doanh nghiệp, và phát triển nền kinh tế quốc gia. 1.1.3. Bản chất và chức năng của kiểm toán. 1.1.3.1. Kiểm tra, kiểm soát ­ một chức năng của quản lý Nói một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ  chức thực hiện các định hướng đã định trên cơ sơ  những nguồn lực xác định  nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng  và có  thể chia thành nhiều giai đoạn, ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo  về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới,  kiểm tra lại các thông tin về  nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các trương trình, kế  hoạch. . .  Sau đó có  thể  đưa ra các quyết định cụ  thể để  tổ  chức thực hiện.  Trong giai đoạn tổ  chức thực hiện,   cần   kết hợp các nguồn lực   theo các phương án tối  ưu,  đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để  điều hoà các mối quan hệ,  điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan   điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động.  Nhưng kiểm tra không phải  là một giai  đoạn của quản lý  mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình  này,  bởi vậy cần phải quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý.  Tuy nhiên  chức năng này được thể hiện  rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế  kinh tế  và cấp quản lý,  vào loại hình hoạt động cụ  thể,  vào truyền thống  văn hoá  và những điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.         Về phân cấp quản lý,  có nhiều mô hình khác nhau nhưng thường là phân   thành  quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô  của các đơn vị cơ sở.   Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián   4
  5. tiếp. Nhà nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình, kế hoạch, kiểm tra  các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các  đơn vị, kiểm tra tính trung thực của các thông tin và tính pháp lý của việc  thực hiện các nghiệp vụ. Mặt khác Nhà nước có thể  sử dụng kết quả kiểm  tra của các chuyên gia hoặc  các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều  tiết vĩ mô qua  các chính sách của mình hoặc tham gia đầu tư hay với cương   vị  là khách hàng của đơn vị.  Đối với các đơn vị    cơ  sơ để  đảm bảo  hiệu  quả hoạt động thì cơ sở đều phải tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong  tất cả các khâu: Rà soát các tiềm lực,  xem xét lại các dự báo,  các mục tiêu  và định mức,  đối chiếu và truy tìm các thông số  về  sự kết hợp soát xét lại   các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu  năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng  cuả các hoạt động.     Như vậy :  ­  Kiểm tra gắn liền  với quản lý,  đồng thời gắn liền với mọi hoạt động  ở  đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra   ­ Quản lý gắn với cơ chế kinh tế,  với điều kiện xã hội cụ thể . . .  Khi các  điều kiện tiền đề thay đổi  thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi theo ­  Kiểm tra nảy sinh  và phát triển từ  chính nhu cầu quản lý.  Khi nhu cầu  kiểm tra chưa nhiều,  chưa phức tạp,  kiểm tra được thực hiện đồng thời với   các chức năng quản lý  khác trên cùng một bộ  máy thống nhất  và khi nhu  cầu thay đổi tới mức độ cao,  kiểm tra cũng cần được tách ra thành một hoạt   động độc lập và  được thực hiện  bằng một hệ thống chuyên môn độc lập  1.1.3.2. Bản chất của kiểm  toán.  Kiểm toán đó là một lĩnh vực còn mới mẻ  do vây việc nêu ra kiểm  toán   là gì còn là một vấn đề  phải bàn luận.   Đã có nhiều quan điểm   về  kiểm toán  chẳng hạn  có 3 quan điểm sau:      Quan điểm 1:  Quan điểm về kiểm toán của Vương Quốc Anh.  “ Kiểm toán đó là một sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về  những   bản khai tài chính của một xí nghiệp  do một kiểm toán viên được bổ nhiệm  để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có  liên quan ”  Với nội dung trên,  định nghĩa đã nêu khá đầy đủ  các mặt đặc trưng cơ bản   của kiểm toán. Tuy nhiên,   quan niệm này chỉ  phù hợp với kiểm toán tài   chính  có đối tượng là bản khai tài chính,  do kiểm toán viên độc lập hoặc   được bổ nhiệm  tiến hành trên cơ sở các chuẩn mực chung. Quan điểm  2:  kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán,  một chức   năng của bản thân kế toán,  một thuộc tính cố hữu của kế toán, nội dung của  5
  6. hoạt động này là rà soát  các thông tin kế  toán  từ  chứng từ  kế  toán,   định  khoản và ghi sổ kế toán,  tính giá các đối tượng kế toán và tổng hợp cân đối  kế toán.  Quan điểm này mang tính truyền thống  trong điều kiện kiểm toán chưa  phát   triển  và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.  Trong cơ chế này Nhà nước  vừa là chủ sở hữu,  vừa lãnh đạo trực tiếp  nền kinh tế.   Do đó,  chức năng   kiểm tra của Nhà nước  được thực hiện trực tiếp  với mọi thực thể kinh tế  xã hội thông qua nhiều khâu  kể  cả  kiểm tra kế  hoạch,  kiểm tra tài chính  thường xuyên qua giám sát viên của  Nhà nước đặt tại xí nghiệp,  đó là kế  toán trưởng,  đến việc quyết toán  và  thanh tra các nghiệp vụ  cụ  thể. Tuy  nhiên quan điểm này mâu thuẫn  với việc công nhận kiểm toán là một hoạt   động độc lập có phương pháp riêng và được thực hiện bởi một bộ máy riêng   biệt.   Quan điểm 3 :   Quan điểm hiện đại.  Ta thấy trong quá trình phát triển  kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán  bảng khai tài  chính hay tài liệu kế  toán  mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh  vực khác  như hiệu quả của  hoạt động kinh tế,  hiệu năng quản lý,  hiệu lực   của hệ thống pháp lý  trong từng loại hoạt động. . .         Vì vậy,  theo quan   điểm hiện đại  thì phạm vi của kiểm toán rất rộng gồm những lĩnh vực chủ  yếu sau :       Lĩnh vực 1: Kiểm toán thông tin  hướng vào việc đánh giá tính trung thực  và hợp pháp của các tài liệu  là cơ  sở  pháp lý cho việc giải quyết các mối   quan hệ  về kinh tế,  tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu đó.       Lĩnh vực 2: Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình  thực   hiện các thể lệ,  chế độ, luật pháp  ở đơn vị được kiểm toán trong quá trình   hoạt động.           Lĩnh vực 3: Kiểm toán hiệu quả  có đối tượng trực tiếp là sự  kết hợp  giữa các yếu tố,  các nguồn lực  trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh : mua,   bán, sản xuất hay dịch vụ. . .  Giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính  sách  và phương hướng,  giải pháp cho việc hoàn thiện hay cải tổ hoạt động  kinh doanh của đơn vị  được kiểm toán.    Như vậy  quan điểm hiện đại đã khắc phục được các yếu điểm của 2 quan   điểm trên  đó là không chỉ  giới hạn ở các bản khai Tài chính,  các Tài liệu kế  toán  mà còn đi sâu vào các lĩnh vực khác  1.1.3.3. Chức năng của kiểm toán.             Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng xác minh và chức   năng bày tỏ ý kiến,  đây là 2 chức năng quan trọng  để  đưa ra những ý kiến  6
  7. thuyết phục,   tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận   của kiểm toán  cho dù là kiểm toán hướng vào lĩnh vực nào trong 4 lĩnh vực  chủ yếu trên. Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu  và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ  hay việc lập các bản khai  tài chính. .  .  xem có tuân thủ theo chế độ tài chính hiện hành hay không .  Theo thông lệ Quốc tế thì chức năng xác minh được cụ thể hoá  thành  các mục tiêu  và tuỳ thuộc vào đối tượng hay loại hình kiểm toán  mà mục  tiêu có thể khác nhau :  VD có 6 mục tiêu về kiểm toán bản khai tài chính : ­ Xác minh tính hiệu lực  ­ Xác minh tính trọn vẹn  ­ Xác minh việc phân loại và trình bày  ­ Xác minh  về nguyên tắc  tính giá  ­ Xác minh  về  quyền và nghĩa vụ  ­ Xác minh về tính chính xác,  máy móc.      Và 7 mục tiêu về kiểm toán nội bộ : ­ Xác minh tính hiệu lực  ­ Xác minh tính trọn  vẹn  ­ Xác minh về việc phân loại  ­ Xác minh về việc tính giá  ­ Xác minh về tính cho phép hay được phép  ­ Xác minh về việc ghi sổ và cộng sổ kịp thời so với thời gian quy định  ­ Xác minh về việc đảm bảo các nghiệp vụ đều hợp lý.  Chức năng bày tỏ ý kiến  được thể hiện dưới 2 góc độ.            Góc độ tư vấn đưa ra các lời khuyên trong thư quản lý về  vấn đề thực   hiện  các quy tắc kế toán  về hoạch định các chính sách,  thực thi các chế độ,  pháp luật,  về hiệu quả kinh tế và hiệu năng quản lý  bày tỏ ý kiến được thể  hiện qua việc phán xử   như một quan  toà  hoặc kết hợp với xử lý  tại chỗ  như công việc của thanh tra.           Như  vậy có thể  nói :   “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ  ý kiến về  thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ  thống các phương pháp  kỹ  thuật của kiểm toán chứng từ  và ngoài chứng từ  do các kiểm toán viên có  nghiệp vụ tương xứng trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực : 1.2. Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập là một loại hình kiểm toán được phân theo chủ thể  kiểm toán (ngoài ra còn có kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ).Kiểm  7
  8. toán độc lập là một tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu  cầu của khách hàng .Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền kinh   tế   thị   trường.Đây   là   loại   hình   dịch   vụ   được   pháp   luật   thừa   nhận   và   bo  hộ,được qun lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kế toán.Quan hệ  giữa chủ thể và khách thể kiểm toán là quan hệ  mua bán dịch vụ,đn vị  kinh  tế được kiểm toán phi tr phí dịch vụ cho kiểm toán viên theo hoạt động kiểm  toán ­ đây là điểm khác biệt giữa kiểm toán độc lập với kiểm toán nhà nước  và kiểm toán nội bộ. Các kiểm toán viên độc lập là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp có kĩ  năng nghề nghiệp và đạo đức và phi tri qua kì thi quốc gia để đạt chứng chỉ  kiểm toán viên độc lập theo qui định.Khách thể  của kiểm toán độc lập bao   gồm: các doanh nghiệp và xí nghiệp tư,các doanh nghiệp có 100% vốn đầu  tư nước ngoài,các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần,các chưng trình dự án  có   vốn   đầu   tư   ngoài   ngân   sách   nhà   nước.Ngoài   ra   có   một   khách   thể   tự  nguyện với số  lượng ngày càng tăng  ở  nước ta:đó là các doanh nghiệp nhà  nước.Kiểm toán độc lập hoạt động chủ  yếu trong lĩnh vực kiểm toán báo  cáo tài chính.Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng,kiểm toán độc lập còn có  thể  kiểm toán hoạt động,kiểm toán tuân thủ  hoặc tiến hành các dịch vụ  tư  vấn tài chính kế  toán như  tư  vấn về  thuế,tư  vấn về  đầu tư,lập báo cáo tài   chính,cung cấp các phần mềm kế toán... Cũng như  kiểm toán nói chung kiểm toán độc lập có hai chức năng.Chức  năng xác minh tính trung thực hợp lý,hợp pháp của các nghiệp vụ hoặc việc   lập các bng khai tài chính.Sn phẩm của chức năng này là "báo cáo kiểm   toán".Chức năng thứ  hai là bày tỏ  ý kiến,được hiểu rộng với ý nghĩa c về  khối lượng và chất lượng th"ng tin.Chức năng này thể  hiện cũng khác nhau  giữa các khách thể  kiểm toán,các c sở  pháp lý,kinh tế  khác nhau.Sn phẩm   của chức năng này là "thư  qun lý".Với bn chất và chức năng này kiểm toán  độc lập phi thực hiện mọi hoạt động kiểm tra,kiểm soát những vấn đề  liên  quan đến thực trạng tài sn,các nghiệp vụ tài chính và sự phn ánh của nó trên  sổ sách kế toán cùng hiệu qu đạt được.Nói cách khác doanh nghiệp chính là   các khách thể chủ yếu của kiểm toán độc lập và kiểm toán độc lập cung cấp  dịch vụ kiểm tra tình hình hoạt động của các doanh nghiệp theo nhu cầu tự  nguyện của các doanh nghiệp đó. Ngày nay trên thế  giới  quy mô và chất lượng của các tổ  chức kiểm  toán độc lập  ngày càng lớn mạnh,  điều đó được thể  hiện qua các tổ  chức   kiểm toán độc lập điển hình sau. Công ty kiểm toán Deloitte Touche Tohmastu (DTTI) 8
  9. Đây là một công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất Thế giới, hiện   có  khoảng 600 văn phòng trên thế giới,  cung cấp các  dịch vụ kế toán,  kiểm  toán và tư vấn Tài chính, thuế,  cổ phần hoá, đầu tư,  quản lý doanh nghiệp. Từ năm 1992,  DTTI đã vào Việt nam  từ văn phòng DTT quốc tế  khu   vực Châu á ­ Thái Bình Dương. DTTI đã giúp Bộ  tài chính và công ty kiểm  toán VACO  tổ chức các khoá đào tạo kế  toán,  kiểm toán quốc tế  tại Việt   nam,  trợ giúp cho các chuyên gia của Việt nam tiếp cận  với thị trường thế  giới và các nguyên tắc chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cung cấp các thông tin   chuyên nghành cho Bộ  tài chính nhằm truyền bá các kiến thức quốc tế  vào  Việt nam. Cùng với công ty VACO triển khai các dịch vụ  tư  vấn và kiểm  toán ở Việt nam   Đến tháng 12/1993 DTT được phép đặt văn phòng đại diện tại Việt  nam và tháng 04/1995 DTT đã được phép thành lập công ty liên doanh  với   công ty kiểm toán Việt nam (VACO) tại Việt nam  đây là một kết quả,  một  lỗ lực quan trọng nhằm hiểu rõ các phong tục tập quán,  các chính sách pháp  luật và nhiều các lĩnh vực khác   để  các cuộc kiểm toán đạt được kết quả  cao. Công ty Price Waterhouse (PW)        Đây cũng là 1 trong   6 công ty kiểm toán quốc tế  lớn nhất thế  giới,   hiện công ty có khoảng trên 450 văn phòng nhằm cung cấp các dịch vụ  kế  toán, kiểm toán và tư vấn trên khắp thế giới.        PW vào Việt nam từ  chi nhánh Hồng Kông năm  1992 đã giúp Bộ  tài   chính và công ty VACO tổ  chức hội thảo về  thuế, kế  toán, kiểm toán, trợ  giúp các chuyên gia Việt nam tiếp cận thị  trường thế  giới trong lĩnh vực   chuyên   ngành,   tổ   chức   các   khoá   đào   tạo   tại   Việt   nam   cùng   với   công   ty   VACO, PW đã cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp cho các khách hàng ở Việt  nam.         Hiện nay PW đã có chi nhánh ở Hà nội và TPHCM với tên gọi : Công   ty trách nhiệm hữu hạn Price Waterhouse Việt nam. Công ty Arthur Andersen (AA).    Cũng là 1 công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất thế  giới   với   khoảng 300 văn phòng trên thế giới. AA cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm   toán, tư vấn như mọi công ty kiểm toán quốc tế lớn khác.      AA vào Việt nam từ  tháng 05/1991 thông qua chi nhánh Philippin và  Thái lan,  công ty giúp Việt nam đào tạo  các khoá về đào tạo  kiểm toán và   kế  toán. Kết hợp với thực hiện một số  dịch vụ  chuyên ngành  ở  Việt nam.   9
  10. Tháng 08/1995 AA được phép thành lập chi nhánh ở Việt nam có tên Công ty  trách nhiệm hữu hạn Arthur Andersen Việt nam.            Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC). IFAC được thành lập từ  năm 1977 có khoảng 100 tổ  chức thành viên  với mục tiêu là phát triển và tăng cường sự phối hợp  nghiệp vụ kế toán và  kiểm toán độc lập trên phạm vi toàn thế giới với những nguyên tắc và chuẩn  mực phổ biến,  tiến dần thành thông lệ của hầu hết các nước trên thế  giới,  đáp  ứng được yêu cầu của các chính phủ, các doanh nghiệp,   các Nhà tín  dụng, các cổ đông cũng như  đáp ứng mối quan tâm của công chúng trên thế  giới. Mục tiêu của IFAC là thúc đẩy các nước trên thế giới tiến dần đến sự  thống nhất và hoà hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới  với   các tập đoàn xuyên quốc gia,  toàn cầu.         Ngày 13/05/1991 công ty kiểm  toán Việt nam (VACO) chính thức  được thành lập và một loạt các tổ chức kiểm toán độc lập khác như  : Công  ty dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn Tài chính (AASC), công ty tư vấn và   kiểm toán (A and C),  công ty kiểm toán đà nẵng (ĐAC), công ty kiểm toán  và dịch vụ tin học (ATSC), công ty kiểm toán Hạ long (HAACO).  Các công  ty 100% vốn nước ngoài gồm :Cong ty Ernst and Young (E and Y), KPMG   Peat Marwick Việt nam,  Price waterhouse Việt nam (PW), Arthur Andersen   Việt nam (AA), các công ty liên doanh như VACO­DTTI, và công ty  Coopers  and  Lybrand AISE.        10
  11. CHƯƠNG II QUAN ĐIỂM VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN 2.1. Khái niệm và vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với  kiểm toán viên.      Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho   kiểm toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho lợi ích  chung của nghề  nghiệp và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề  nghiệp là  những chỉ dẫn để các thành viên luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn. Chuẩn mực đạo đức nghề  nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất   quan trọng. Nó  là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm   toán. Một kiểm toán viên cần phải có đạo đức và một công ty kiểm toán cần   phải là một cộng đồng các kiểm toán viên có đạo đức. Đặc biệt, trong nền   kinh tế  thị trường thì nhu cầu đối với nghề  kiểm toán đáng tin cậy và được  công nhận trở  nên lớn hơn bao giờ  hết. Hơn nữa, những người chịu trách  nhiệm lập báo cáo tài chính nếu không có đạo đức thì dễ  có thể  làm cho  thông tin báo cáo kiểm toán tài chính không tin tưởng dẫn đến hậu quả là sự  mất lòng tin trong công chúng. Trong bối cảnh đó, nếu không có hoạt động  kiểm toán để xác định tính tin cậy của các hệ thống thông tin tài chính thì sẽ  gây cản trở  lớn. Do vậy, những đòi hỏi về  đạo đức nghề  nghiệp đối với   kiểm toán viên phải được xác định rõ ràng và được công bố  để  cho công  chúng nói chung biết, qua đó họ có thể đòi hỏi các hành vi đạo đức của kiểm  toán viên cũng như đánh giá các cam kết của ngành này.   Như  vậy chuẩn mực đạo đức nghề  nghiệp có vai trò rất quan trọng  trong các cuộc kiểm toán nên nó phải được xây dựng một cách chặt chẽ, hợp  lý để làm sao cho kiểm toán viên áp dụng một cách thuận lợi mà không phạm  sai lầm hay bị chồng chéo bởi các điều lệ khác. 2.2. Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.  Yêu cầu về nhân cách đạo đức của bất cứ tổ chức kiểm toán nào cũng   phải dựa trên các nguyên tắc cơ  bản sau. Các nguyên tắc này chỉ  đạo kiểm  toán viên trong quá trình hành nghề và quan hệ với người khác. 2.2.1. Tính độc lập  Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có  tính độc lập thì chức năng kiểm toán không có giá trị trong xã hội.  Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định rằng trong quá trình kiểm toán,  kiểm toán viên phải thực sự không bị  chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi  11
  12. ích vật chất hoặc tinh thần nào làm  ảnh hưởng đến sự  trung thực, khách  quan và độc lập nghề nghiệp của mình.  Tính độc lập trong kiểm toán có nghĩa là việc có một quan điểm vô tư  khi thực hiện các cuộc kiểm toán, đánh giá các kết quả  và công bố  báo cáo   kiểm toán. Nếu kiểm toán viên là một luật sư của khách hàng, một chủ ngân   hàng cá biệt hoặc bất kỳ ai khác có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp về mặt tài   chính, có quan hệ họ hàng thân thuộc với những người trong bộ máy quản lý  của đơn vị được kiểm toán thì anh ta sẽ  không thể được xem là độc lập. Ví   dụ trước đây đã có lần chấp nhận cho kiểm toán viên sở hữu một số lượng   cổ  phần giới hạn trong công ty khách hàng. Nhưng ngày nay điều đó được  xem  như khả năng tiềm ẩn tác động xấu đến tích độc lập của công ty kiểm  toán và chắc chắn có khả  năng  ảnh hưởng đến nhận thức của người sử  dụng về tính độc lập của kiểm toán viên. Việc trực tiếp hay gián tiếp sở hữu   cổ phần của một công ty thì theo nguyên tắc 101 công ty kiểm toán đó sẽ  bị  cấm trình bày quan điểm về các báo cáo tài chính của công ty này. Hoặc nếu  kiểm toán viên là một thành viên của hội đồng quản trị  hay một viên chức  của công ty khách hàng, khả năng để thực hiện những đánh giá độc lập của  anh ta về  sự  trình bày trung thực  ở các báo cáo tài chính sẽ  dễ  dàng bị   ảnh  hưởng. Ngay cả khi việc các chức vụ này không thực tế làm ảnh hưởng đến  tính độc lập của kiểm toán viên thì sự dính líu thường xuyên với ban quản trị  và các quyết định mà ban quản trị  lập sẽ  có khả  năng ảnh hưởng đến cách  nhìn nhận tính độc lập của kiểm toán viên từ những người sử dụng báo cáo.  Để loại trừ khả năng này, nguyên tắc 101 nghiêm cấm kiểm toán viên có tư  cách là giám đốc hoặc viên chức của công ty khách hàng. Tính độc lập có thể coi là cơ sở quan trọng để hoạt động kiểm toán có  hiệu quả. Tuy nhiên chúng ta hoàn toàn nhận thức được rằng tính độc lập  không bao giờ  là đủ  vì luôn có những điều kiện hạn chế  ít nhiều tính độc  lập. Ví dụ hội đồng quản trị bắt buộc phải giải trình với chính quyền và xã  hội, giám đốc điều hành cũng chịu sự  bắt buộc như  vậy cộng thêm sự  bắt   buộc của hội đồng quản trị. Tất cả những điều đó có nghĩa là không người  nào tự  cho mình là một  ốc đảo cô lập và tính độc lập bao giờ  cũng là một   thuật ngữ  tương đối ­   độc lập nhiều hay độc lập ít ­ chứ  không bao giờ  tuyệt đối. Điều này không làm giảm giá trị của tính độc lập hoặc coi thường  những cố  gắng mở  rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cuả  tính độc lập  mong muốn. Đối với kiểm toán viên, sự cố gắng không ngừng của chúng ta  là củng cố tính độc lập cần thiết mặc dù có và luôn luôn có những giới hạn  thực sự đối với tính độc lập đó.  12
  13. 2.2.2. Tính liêm chính và tính khách quan. Kiểm toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành   vi như: phải trung thực và thẳng thắn trong quá trình làm việc và trong quan   hệ của họ với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán. Để có sự tin cậy từ  phía công chúng, các kiểm toán viên không được để  bị  nghi ngờ  và không   được để  bị  chỉ  trích, phẩm chất liêm chính được đánh giá theo nghĩa đúng  đắn và công bằng. Phẩm chất này đòi hỏi kiểm toán viên phải tuân thủ cả về  hình thức và tinh thần các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về kiểm   toán.  Kiểm toán viên phải là người có tính khách quan và công bằng trong   tất cả các công việc bao gồm việc lập các báo cáo trung thực và chính xác.  Do đó các kết luận trong báo cáo và ý kiến chỉ  nên bị   ảnh hưởng bởi các  bằng chứng được thu thập theo các chuẩn mực kiểm toán của cơ quan kiểm   toán tối cao. Các kiểm toán viên nên sử  dụng các thông tin cũng như  các ý  kiến do đối tượng kiểm toán hoặc các đơn vị khác cung cấp.  2.2.3. Các chuẩn mực về nghiệp vụ và năng lực Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ  thuật và những chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm   toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế  được Việt Nam chấp  nhận và các quy định pháp luật hiện hành. Các chuẩn mực kiểm toán này quy  định các nguyên tắc, thủ  tục cơ  bản và hướng dẫn thể  thức áp dụng các   nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ  năng  lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc  chuyên cần. Kiểm toán viên có nghĩa vụ  duy trì cập nhật và nâng cao kiến   thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ  kỹ  thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Kiểm toán viên cần phải có thái độ hoài  nghi mang tính nghề  nghiệp trong quá trình lập kế  hoạch, thực hiện kiểm   toán và luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai   sót trọng yếu của báo cáo tài chính như khi nhận được bản giải trình đó đã là   đúng, mà phải tìm được những bằng chứng cần thiết để  chứng minh cho  những giải trình đó.  2.2.4. Trách nhiệm đối với khách hàng ­ tính bảo mật.  Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình  kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép  của người có thẩm quyền, trừ  khi có nghĩa vụ  phải công khai theo yêu cầu   của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình. 13
  14. Trong tiến trình kiểm tra, các kiểm toán viên thu được một số  lượng   lớn thông tin bảo mật, gồm cả  lương của các viên chức, quá trình định giá  sản phẩm, các kế  hoặch quảng cáo, số liệu chi phí sản phẩm. Nếu những  thông tin này bị  tiết lộ  ra ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách  hàng biết thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên với Ban quản trị sẽ trở nên   căng thẳng nghiêm trọng, thậm chí còn có thể  là nguyên nhân làm hại đến  công ty khách hàng. Kiểm toán viên chỉ  có thể  cung cấp tư  liệu cho người khác khi được  phép của công ty khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp các tư  liệu đó  được toà án triệu đòi hoặc được sử dụng như một bộ phận của chương trình  xem xét chất lượng tự  nguyện với các công ty kiểm toán khác thì sẽ  không  cần có sự cho phép.  2.2.5. Trách nhiệm đối với khách hàng – Thù lao phụ thuộc.  Theo nguyên tắc 302­ thù lao phụ  thuộc, các dịch vụ  về  nghiệp vụ  không được bán hoặc cung cấp theo một sự  thu xếp mà theo đó không có  khoản thù lao nào được tính trừ phi đạt được một phát hiện cụ  thể, hoặc ở  đó thù lao phụ  thuộc vào những phát hiện hoặc kết quả của những dịch vụ  đó.Thí dụ, giả sử có một công ty kiểm toán hợp đồng với khách hàng là thù  lao được tính là 4000 USD, nếu là một báo cáo chấp nhận hoàn toàn, nhưng   chỉ là 2000 USD, nếu là một báo cáo chấp nhận có loại trừ. Tuy vậy, thù lao của một hội viên có thể thay đổi.Và thường thì công  ty kiểm toán tính thù lao căn cứ trên số giờ làm việc. Các mức giá theo thời   gian khác nhau được tính cho các trình độ  khác nhau của nhân viên. Song  trong những năm gần đây, các công ty kiểm toán đã tăng dần các cuộc đấu  thầu hợp đồng dựa trên một căn cứ  tính thù lao cố  định mà không cần xem  xét đến nhu cầu về thời gian phải bỏ ra. Các khoản thù lao không được xem là phụ  thuộc nếu chúng được quy định   bởi toà án hay các tổ chức quyền lực khác hoặc, trong các vấn đề  về  thuế,   nếu được xác định dựa trên các kết quả  của các vụ  kiện theo luật hoặc   những phát hiện của các cơ quan nhà nước. Như vậy, việc tính thù lao dựa trên kết quả của dịch vụ cung cấp là để  giúp các kiểm toán viên giữ vững tính khách quan khi điều tra các cuộc kiểm   toán hoặc khi cung cấp các dịch vụ về thuế hoặc tư vấn quản lý. 2.2.6. Trách nhiệm đối với đồng nghiệp. Hiện nay không có nguyên tắc đạo đức nào về  trách nhiệm đối với  đồng nghiệp. Tuy nhiên, mối quan hệ  tốt đẹp giữa các đồng nghiệp được  AICPA thừa nhận là rất quan trọng. Cách mà những người trong cùng một  14
  15. nghề  đối xử  với nhau sẽ   ảnh hưởng đến thái độ  của xã hội đối với nghề  nghiệp đó. Sự  hỗ  trợ  lẫn nhau nên bao gồm việc cung cấp người trợ  lý có  nghiệp vụ chuyên môn cao trong các vấn đề có tính nghiệp vụ cho bạn hành  nghề  và sự  hạn chế  hợp lý trong việc thay thế  các công ty kiểm toán hiện  hữu ở các khách hàng hiện nay của họ. Mỗi thành viên của Công ty là một phần thành tố làm nên năng lực của   cả  Công ty. Các kiểm toán viên phải gắn kết với nhau, tạo nên một khối   năng lực thống nhất, không tách rời. Sự gắn kết ấy không chỉ thể hiện ở sự  đoàn kết thuần tuý theo cách hiểu lâu nay mà còn thể  hiện  ở  công việc,  ở  trình độ  nghiệp vụ  chuyên môn,  ở  công tác quản lý. Có nghĩa rằng, trong   nghiệp vụ chuyên môn tất cả phải có trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh  thần cùng học tập và cùng tiến bộ. Mỗi kiểm toán viên phải tự  học và học  hỏi lẫn nhau, đó là động lực, là trách nhiệm và quyền lợi của chính mình,  của công ty. 2.2.7. Trách nhiệm và thông lệ khác ­ Hành vi làm mất tín nhiệm. Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các  nguyên tắc, các văn bản hướng dẫn, hoặc các quy định ( không có quy định   nào về  hành vi làm mất tín nhiệm ). Tuy nhiên, trong nguyên tắc 501 nói rõ  hội viên không được phạm phải một hành vi làm mất tín nhiệm đối với nghề  nghiệp.  Có ba văn bản hướng dẫn, nhưng ngoài văn bản đầu tiên, hai văn bản còn lại  cũng rất mơ hồ. Ba văn bản hướng dẫn có thể được tóm lược như sau: 1. Giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp  ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Thí dụ, giả sử Ban quản trị không trả  thù lao cho công ty kiểm toán và các chủ chung vốn của công ty kiểm toán do  đó từ chối trả lại sổ sách của khách hàng. Chủ chung vốn của công ty kiểm  toán đã vi phạm nguyên tắc 501. 2. Một công ty kiểm toán không được phân biệt đối xử giữa các chủng  tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác hoặc quốc tịch. 3. Nếu một người hành sự đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan  nhà nước, mà cơ quan này quy định các thể thức kiểm toán khác với GAAS ,  thì cả các thể thức của cơ quan nhà nước đó và GAAS  đều phải được tuân   thủ trừ phi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác. Để  hướng dẫn về  những gì cấu thành một hành vi làm mất tín nhiệm, các  văn bản dưới luật của AICPA cung cấp những hướng dẫn rõ ràng hơn là  Bản Điều lệ đạo đức. Các văn bản dưới luật nói rõ rằng một hội viên trong  15
  16. AICPA sẽ  bị khai trừ mà không cần nghe phán xét kết tội đối với bất kỳ sự  vi phạm nào trong bốn loại vi phạm sau: 1. Sự phạm tội có thể bị phạt tù giam từ một năm trở lên. 2. Cố  ý quên không điền vào bất kỳ bản khai thuế  lợi tức nào mà  kiểm toán viên, với tư cách là người nộp thuế cá nhân, được yêu  cầu điền vào theo luật. 3. Nhân danh kiểm toán viên hoặc khách hàng điền một bản khai  thuế lợi tức giả hoặc gian dối. 4. Cố tình giúp đỡ lập hoặc trình bày một bản khai thuế lợi tức giả  hoặc gian dối của khách hàng. 5. Như vậy, trong trường hợp một người uống rượu quá say, hành  động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà nhiều người  xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp thì không bị coi là hành vi  làm mất tín nhiệm. 2.2.8. Trách nhiệm và thông lệ khác ­ Hoa hồng. Nguyên tắc 503: Hội viên không được trả hoa hồng để có khách hàng,   và cũng không được nhận hoa hồng cho việc chuyển cho khách hàng một kết  quả  hoặc dịch vụ  của người khác. Nguyên tắc này không nghiêm cấm các  khoản thanh toán đối với việc mua một dịch vụ kế toán hoặc thanh toán tiền   hưu trí cho các cá nhân trước đây được thuê mướn trong thực tiễn công tác  kiểm toán độc lập hoặc các khoản thanh toán cho người thừa kế  của họ  hoặc bất động sản của họ. Nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa sự  quá khích trong lĩnh vực kiểm   toán thông qua việc “ trả thù lao cho người tìm kiếm” đối với đội ngũ nhân  viên, ngân hàng và những người khác để có thể giúp công ty mở rộng hoạt   động của mình. Nguyên tắc này cũng nhằm ngăn ngừa kiểm toán viên tính thêm ngoài  dịch vụ đã thực hiện. 2.2.9. Trách nhiệm và thông lệ khác – Các công việc không phù hợp. Nguyên tắc 504: Hội viên làm việc trong công ty kiểm toán công cộng  không được đồng thời làm việc trong bất kỳ  doanh nghiệp nào hoặc làm  công việc nào mà có thể  sinh ra mâu thuẫn về  quyền lợi khi cung cấp dịch   vụ chuyên nghiệp. Hiện tại vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về công việc không phù hợp   và hầu như không có các quy định đạo đức.  2.2.10. Sự bắt buộc. 16
  17. Không chấp hành các nguyên tắc đạo đức có thể dẫn đến việc bị khai   trừ  khỏi AICPA. Điều này tự  bản thân nó không ngăn ngừa kiểm toán viên   hành nghề kiểm toán độc lập. Nhưng nó nhất định là một hình phạt nặng về  mặt xã hội. Mỗi kiểm toán viên được cấp một giấy phép hành nghề. Khi có một sự  vi   phạm đáng kể quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng có thể  dẫn đến việc mất  bằng và giấy phép hành nghề  kiểm toán viên. Mặc dù ít xảy ra, song điều   này khai trừ người hành nghề khỏi ngành kiểm toán độc lập. Vì vậy, tất cả  các kiểm toán viên bên ngoài phải tuân thủ  chuẩn   mực đạo đức nghề  nghiệp nêu trên và hoàn toàn độc lập trong mọi   hoạt động của mình. CHƯƠNG III MINH CHỨNG VỀ KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI KHÔNG ĐỘC LẬP 3.1. Vài nét về Enron: Tiền thân của Enron là công ty Khí tự nhiên miền Bắc, thành lập năm  1932 tại Omaha, Nebraska. Năm 1979, công ty đã tổ chức cơ cấu lại trở thành  Internorth of Omaha. Năm 1985, trên cơ  sở  sáp nhập hai công ty Houston  Natural Gas và Internorth of Omaha, đổi tên công ty thành Enteron (ruột), với   ý tưởng là bộ  phận không thể  thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhưng cái tên  này nhanh chóng được rút gon lại chỉ còn Enron khoảng năm 1990. Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong   thập niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể  thay đổi sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách  năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ  phải mở  cửa đường truyền tải  điện cho hệ thống phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền  từ  việc mua bán trên thị  trường năng lượng. Trên thực tế, họ  chỉ  là những   nhà buôn sắp xếp hợp đồng giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng.   Trong tay Enron, thị  trường năng lượng ngang hàng với một sự  đầu cơ  tài  chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy trị giá hàng triệu USD khắp thế  giới nhưng chỉ  sở  hữu chúng khi giá năng lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn  thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi, Enron đã vươn sang  các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện viễn thông. Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ  có doanh số  hơn 100 tỷ  USD, lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là  tạp chí Fortune luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với  17
  18. số  vốn kinh doanh 63 tỷ  USD. Tại thời điểm xảy ra vụ  bê bối năm 2001,  Enron nắm trong tay cơ  sở  vật chất kỹ  thuật cực kỳ  giá trị, hoạt động tại  trên 30 quốc gia trên thế  giới (trong đó có Việt Nam), giao dich với hơn 30  sản phẩm khác nhau, sở  hữu 38 nhà máy điện, gần 60 vạn km đường  ống   dẫn dầu và khí đốt, hàng loạt các công ty con về các ngành kinh doanh khác   như giấy, thép, hóa dầu, nhựa… Sự phát triển của Enron 1985 2000 Số lượng nhân viên 15076 18000 Các nước có hoạt động  4 Trên 30 Tài sản (tỷ đôla) 12 33 Đánh giá (Forturn 500) Không có 18 3.2. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối *Năm 2000 ­ Tháng 3: CEO Enron, Kenneth Lay bị cáo buộc gian lận báo cáo hàng  năm năm 1999. Jeffrey Skilling, giám đốc điều hành (COO) của Enron   bị cáo  buộc có dấu hiệu gian lận cho Arthur Andersen LLP về dữ liệu tài chính năm  1999. ­ Tháng 8, giá cổ phiếu Enron leo cao mức kỷ lục: 90$/cổ phiếu ­ Tháng 8 và tháng 11, K. Lay tiếp tục bị cáo buộc gian lận báo cáo tài  chính hàng quý cho quý II và III năm 2000. *Năm 2001 ­ Từ  ngày 22 – 25 tháng 1, COO Enron, J. Skilling liên tục đưa ra các  yêu cầu gian lận các báo cáo tài chính nhằm dối gạt các nhà đầu tư. ­ 6/2, Enron được tạp chí Fortune bình chọn là một trong những công ty  sáng tạo nhất tại Mỹ lần thứ 6 liên tiếp. ­ 5/5, giá cổ phiếu Enron đóng cửa là 59,78$ ­ 23/7, giá cổ phiếu Enron tiếp tục sụt giảm còn 47$, gây mất lòng tin   nghiêm trọng cho các nhà đầu tư. ­ 14/8, vì lý do cá nhân, Skilling từ chức. K. Lay tuyên bố “ Tuyệt đối  không có vấn đề kế toán, không có vấn đề  kinh doanh, không có vấn đề  dự  trữ, không có vấn đề che dấu sự thật” 18
  19. ­ 15/8, Sherron Watkins, một phó chủ tịch phát triển của Enron, đã phát  hiện ra các sai phạm kế toán của công ty và gửi thư đến cho K. Lay. ­ 16/10: Enron công bố lỗ quý thứ ba là $ 618,000,000. ­ 31/10,  Ủy ban chứng khoán và hối đoái Mỹ  (SEC) bắt đầu mở  cuộc  điều tra chính thức về kế toán của Enron và các đối tác. ­ Arthur Andersen, công ty kiểm toán của Enron, đã tiếp tay cho nó  bằng cách tiêu hủy các tài liệu liên quan đến sai phạm. ­ Giá cổ  phiếu Enron tụt dốc không phanh, chỉ  còn khoảng 0,6$/ cổ  phiếu. ­ 8/11, Enron công bố nó phóng đại lợi nhuận bằng cách $ 586,000,000  trong năm năm. ­ SEC yêu cầu các nhân viên Arthur Andersen có liên quan đến Enron  hầu tòa. ­ 2/12, Enron thông báo phá sản. *Năm 2002 ­ 9/1, Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận bắt đầu một cuộc điều tra hình sự vụ  phá sản Enron. ­ 10/1, Arthur Andersen thừa nhận đã hủy tài liệu của Enron, từ tháng 9  đến tháng 11. ­ 3/5,   Enron đề  xuất thành lập một công ty mới tạm gọi là Công ty  Năng lượng OpCo . Nếu được chấp thuận, OpCo sẽ  có tài sản cốt lõi của  Enron, bao gồm 15.000 dặm đường  ống tài sản, 75.000 dặm tài sản phân  phối, 6.700 mega watt, và 12.000 nhân viên. *Năm 2003 ­ 11/7, Enron đề xuất kế hoạch cơ cấu lại công ty. *Năm 2004 ­ 6/1, Tòa án New York phê duyệt đề xuất cơ cấu lại của Enron. Theo   kế hoạch này, chủ nợ sẽ nhận được $ 11000000000 bằng tiền mặt và chứng  khoán. ­ 11/2, J. Skilling bị bắt với 35 tội danh gian lận, giao dịch nội gián,… ­ 7/7, cựu CEO Kenneth Lay  bị truy tố bởi Tòa án Hoa Kỳ. *Năm 2005 Các Tòa án tối cao phán quyết về mặt lý thuyết Andersen miễn tội để  tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên thiệt hại mà vụ Enron mang đến đã khiến cho  nó không còn có thể hoạt động được nữa kể cả với quy mô hạn chế. 3.3. Hậu quả 3.3.1. Enron 19
  20.   Những người chịu thiệt hại nặng nề  nhất chính là các cổ  đông và   nhân viên của công ty. ­ Giá cổ  phiếu của Enron lên đến đỉnh cao 90 đô la vào tháng 8/2000.   Một năm sau đó, vào tháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 triệu USD trong   quý 3/2001 và giá trị  vốn cổ  đông giảm 1,2 tỉ  USD. Dự kiến các chủ  nợ  sẽ  thu hồi được 1/5 số tiền 74 tỉ USD của họ. ­ 17.000 nhân viên của Enron sẽ  mất tiền hưu trí của họ.  Tuy Enron   tuyên bố  dành riêng 200 triệuUSD để   chuyển trách nhiệm lương hưu sang  các công ty bảo hiểm, chính phủ cho biết số tiền này chắc chắn không đủ. ­ Các cổ đông sẽ mất toàn bộ giá trị cổ phiếu. ­ Tài sản của Enron được đem bán đấu giá để trả nợ, thu được khoảng   11 tỉ. 3.3.2. Arthur Andersen Ngay sau khi bị  kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt   vụ kiện khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD. Andersen phá sản, hàng loạt các cuộc thương lượng mua bán diễn ra.  KPMG đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái  giá rẻ mạt là 284 triệu USD năm 2002. Andersen Việt Nam được KPMG mua  lại với hợp đồng trong đó có điều khoản đảm bảo việc làm cho toàn bộ nhân  viên hiện có của Andersen Việt Nam. Một  trong ngũ  đại  gia là Ernst & Young  đã chiếm  được  phần  lớn  những khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ. Các   công   ty   nhỏ   hơn   cũng   kiếm   được   phần   chia.   Công   ty   tư   vấn  Hitachi Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong   số đó đến nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting. Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới,   với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ  còn không đầy 200   người, chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty   khách hàng trước đây. 3.4. Nguyên nhân 3.4.1. Sự lạm dụng SPE và các giao dịch nội bộ SPE (Special Purpose Entity) là các công ty con được Enron thành lập ra  để đứng tên tài  sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài chính. Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thể lập ra một   SPE.  Đơn vị SPE này sẽ  làm chủ  đường  ống và thế  chấp ngay ống này để  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0