Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán và kiểm toán viên đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
lượt xem 7
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán (quy mô công ty kiểm toán, nhiệm kỳ công ty kiểm toán) và kiểm toán viên (giới tính, nhiệm kỳ kiểm toán viên, số năm kinh nghiệm) với việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích tự định.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán và kiểm toán viên đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------------- TRẦN THỊ THU THẢO NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ KIỂM TOÁN VIÊN ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN MÃ SỐ: 60340301 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN ĐÌNH HÙNG TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán và kiểm toán viên đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của bản thân. Nội dung, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và dựa theo số liệu thu thập được. Các tài liệu, đoạn trích dẫn được sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tác giả. TP. HCM, ngày 28 tháng 10 năm 2014 Tác giả luận văn Trần Thị Thu Thảo
- MỤC LỤC TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1 2. Mục tiêu nghiên cứu ...........................................................................................1 3. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................................2 4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................2 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................2 6. Những đóng góp của đề tài.................................................................................2 7. Bố cục của đề tài nghiên cứu..............................................................................3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN .............................4 1.1. Quy mô công ty kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận ............................4 1.2. Giới tính kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận ...............................6 1.3. Luân chuyển kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận .........................9 1.4 . Số năm kinh nghiệm của kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận ...........11 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .........................................................................13 2.1. Tổng quan về kiểm toán .................................................................................13 2.1.1. Định nghĩa kiểm toán ...............................................................................13 2.1.2. Công ty kiểm toán .....................................................................................14 2.1.3. Kiểm toán viên ..........................................................................................19 2.1.4. Một số quy định pháp lý tại Việt Nam liên quan đến các vấn đề trong đề tài:.................... ...................................................................................................20 2.2 . Tổng quan về hành vi điều chỉnh lợi nhuận ...................................................23 2.2.1. Định nghĩa về hành vi điều chỉnh lợi nhuận ............................................23 2.2.2. Động cơ của hành vi điều chỉnh lợi nhuận: ..............................................25
- 2.3. Cách thức tiến hành điều chỉnh lợi nhuận ......................................................31 2.4. Một số mô hình định lượng hành vi điều chỉnh lợi nhuận .............................35 CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ................................................................41 3.1 . Giả thuyết nghiên cứu .....................................................................................41 3.2. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................42 3.3 . Dữ liệu nghiên cứu .........................................................................................43 3.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................44 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................48 4.1 . Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mô tả các biến ……………………………………………………………………………….48 4.2. Kiểm định Hausman test để lựa chọn mô hình hồi quy phù hợp ...................50 4.4 . Kiểm định nghiệm đơn vị ...............................................................................52 4.5. Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến...............................................................53 4.5.1. Kiểm định mối quan hệ giữa biến quy mô công ty kiểm toán (SIZE) và các khoản dồn tích tự định (DA) ........................................................................53 4.5.2. Kiểm định mối quan hệ giữa biến giới tính kiểm toán viên (GENDER) và các khoản dồn tích tự định (DA) ........................................................................54 4.5.3. Kiểm định mối quan hệ giữa biến nhiệm kỳ kiểm toán viên (APT) và các khoản dồn tích tự định (DA) ..............................................................................55 4.5.4. Kiểm định mối quan hệ giữa biến nhiệm kỳ công ty kiểm toán (AFT) và các khoản dồn tích tự định (DA) ........................................................................56 4.5.5. Kiểm định mối quan hệ giữa biến số năm kinh nghiệm của kiểm toán viên (AGE) và các khoản dồn tích tự định (DA) .......................................................56 4.6 . Kết quả hồi quy đa biến ..................................................................................57 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI .60 5.1. Kết luận và kiến nghị ......................................................................................60 5.2. Một số hạn chế của đề tài................................................................................61 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCTC Báo cáo tài chính KTV Kiểm toán viên TNHH Trách nhiệm hữu hạn UBND Ủy ban nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Tương quan mong đợi đối với các biên nghiên cứu .................................43 Bảng 4.1: Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình ....48 Bảng 4.2: Kiểm định Hausman Test .........................................................................50 Bảng 4.3: Kiểm định Durbin-Watson test .................................................................51 Bảng 4.4: Kiểm định nghiệm đơn vị (Panel unit root test) .......................................52 Bảng 4.5: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa SIZE và DA ...........................53 Bảng 4.6: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa GENDER và DA ...................54 Bảng 4.7: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA ............................55 Bảng 4.8: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa AFT và DA ............................56 Bảng 4.9: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa AGE và DA ...........................57 Bảng 4.10: Kết quả hồi quy đa biến ..........................................................................58 Bảng 4.11: Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu ........................................59
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lý thuyết thông tin bất cân xứng chỉ ra rằng nhà quản lý thường có xu hướng cung cấp thông tin có lợi cho họ và các đối tượng khác không có điều kiện tiếp cận thông tin gốc nên khả năng sẽ đưa ra quyết định sai. Đó là vấn đề luôn tồn tại trên thị trường chứng khoán. Ngành kiểm toán ra đời nhằm giảm thông tin bất cân xứng đặc biệt là thông tin công bố về lợi nhuận, một trong những chỉ tiêu quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Nhằm đảm bảo thông tin về lợi nhuận trong kỳ đáng tin cậy và có thể sử dụng được, vai trò của kiểm toán viên ở đây là phải phát hiện và điều chỉnh tối thiểu hóa các khoản điều chỉnh mà nhà quản lý có xu hướng thực hiện để đạt được mức lợi nhuận mong muốn trong quá trình kiểm toán của mình. Vậy liệu rằng khi đọc báo cáo kiểm toán với những thông tin như tên công ty kiểm toán, tên kiểm toán viên qua đó biết được giới tính kiểm toán viên, số chứng chỉ hành nghề,..., nhà đầu có thể có những nhận định ban đầu về độ tin cậy của thông tin lợi nhuận được trình bày trên báo cáo tài chính hay không? Nhằm trả lời câu hỏi trên tác giả thực hiện nghiên cứu thực nghiệm này để xác định mối liên hệ giữa một số đặc điểm đặc thù của công ty kiểm toán, của kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý doanh nghiệp (đo lường thông qua các khoản dồn tích tự định theo mô hình De Angelo (1986) và được cải tiến bởi Friedlan (1994) tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán (quy mô công ty kiểm toán, nhiệm kỳ công ty kiểm toán) và kiểm toán viên (giới tính, nhiệm kỳ kiểm toán
- 2 viên, số năm kinh nghiệm) với việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích tự định. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa một số đặc điểm của công ty kiểm toán (quy mô công ty kiểm toán, nhiệm kỳ công ty kiểm toán) và kiểm toán viên (giới tính, nhiệm kỳ kiểm toán viên, số năm kinh nghiệm) với hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 90 công ty niêm yết thị trường chứng khoán Việt Nam tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu : Sử dụng phương pháp phân tích định lượng như thống kê mô tả, hồi quy tuyến tính nhằm định lượng và xem xét mối quan hệ giữa công ty kiểm toán (quy mô công ty kiểm toán, nhiệm kỳ công ty kiểm toán), kiểm toán viên (giới tính, nhiệm kỳ kiểm toán viên, số năm kinh nghiệm) và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Khoảng thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2009 - 2013 6. Những đóng góp của đề tài Về mặt lý luận: - Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt Nam cũng như trên thế giới. - Xác định hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và tổng hợp một số biện pháp mà họ có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
- 3 Về mặt thực tiễn: Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Từ đó giúp người đọc báo cáo tài chính có một số nhận định ban đầu khi tiếp cận báo cáo kiểm toán. 7. Bố cục của đề tài nghiên cứu Bố cục của đề tài gồm 5 chương không bao gồm phần mở đầu như sau: Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan Chương 2: Cơ sở lý thuyết Chương 3: Thiết kế nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Kết luận kiến nghị và những hạn chế của đề tài
- 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 1.1 Quy mô công ty kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận Nghiên cứu thực nghiệm của Becker và các cộng sự (1998) sử dụng cơ sở dữ liệu dữ liệu Compustat 1993, tiến hành so sánh giá trị các khoản dồn tích tự định của các công ty được kiểm toán bởi Big 6 và các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không phải là Big 6 trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1992. Mẫu nghiên cứu gồm 10.397 quan sát được kiểm toán bởi Big 6 và 2.179 quan sát được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không phải là Big 6. Các khoản dồn tích tự định được ước tính dựa trên mô hình của Jone (1991). Kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty được kiểm toán bởi các công ty không phải là Big 6 có giá trị các khoản dồn tích tự định từ 1,5% đến 2,1% tổng tài sản và cao hơn so các công ty được kiểm toán bởi Big 6. Francis và các cộng sự (1999) phán đoán rằng các công ty có các khoản dồn tích lớn thường tích cực hơn và có cơ hội trong việc thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận và có động cơ thuê các công ty kiểm toán Big 6 nhằm đảm bảo rằng báo cáo tài chính là đáng tin cậy. Nghiên cứu tiến hành trên mẫu gồm 74.390 quan sát là báo cáo tài chính trong giai đoạn 1974-1994 của công ty niêm yết trên sàn NASDAQ. Kết quả cho thấy các công ty có các khoản dồn tích cao có nhiều khả năng sẽ thuê các công ty kiểm toán Big 6. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy những công ty được kiểm toán bởi Big 6 mặc dù có mức dồn tích cao nhưng giá trị của các khoản dồn tích tự định ước tính thì thấp hơn. Phát hiện này nhất quán với các công ty kiểm toán Big 6 hạn chế áp dụng các khoản dồn tích. Nghiên cứu thực nghiệm của Elder và Zhou (2002) nhằm kiểm định mối quan hệ giữ chất lượng kiểm toán (đo lường bằng quy mô công ty kiểm toán và mức độ chuyên môn hóa nội ngành) và hành vi điều chỉnh lợi nhuận (đo lường bởi các khoản dồn tích tự định) của các công ty lần đầu phát hành cổ phiếu ra công chúng. Nghiên cứu tiến hành trên mẫu gồm 1.083 quan sát là các công ty lần đầu phát hành
- 5 cổ phiếu ra công chúng trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 1998 được lấy ra từ cơ sở dữ liệu Compact Disclosure. Cross-sectional Jones model (1994) được sử dụng để ước tính giá trị các khoản dồn tích tự định. Kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty lần đầu phát hành cổ phiếu ra công chúng được kiểm toán với Big 5 có mức điều chỉnh thấp hơn so với các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không phải là Big 5. Nhóm tác giả trên cũng tiến hành nghiên cứu tương tự đối với một mẫu gồm 2.453 quan sát là các công ty phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1999. Một kết luận tương tư như nghiên cứu trước đó được đưa ra khi xác định mối quan hệ giữa quy mô công ty kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Rusmin (2010) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm tại Singapore nhắm xác định mối quan hệ giữa độ lớn của hành vi điều chỉnh lợi nhuận và chất lượng kiểm toán. Mô hình Cross‐sectional modified Jones model được sử dụng để đo lường các khoản dồn tích tự định (DA) – đại diện cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Từ tổng thể ban đầu gồm 551 công ty niêm yết trên hai bảng niêm yết chính (Mainboard – 413 công ty và Sesdaq – 138 công ty) tại ngày 31 tháng 12 năm 2003. Các định chế tài chính như ngân hàng, các công ty bảo hiểm...được loại bỏ ra khỏi tổng thể. Sau khi loại bỏ các công ty không phù hợp yêu cầu nghiên cứu, một mẫu gồm 301 công ty được sử dụng, trong đó, 260 công ty được kiểm toán bởi Big 4, 41 công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không phải là Big 4. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị của các khoản dồn tích tự định (DA) của các công ty được kiểm toán bởi Big 4 thấp hơn giá trị các khoản dồn tích tự định (DA) của các công ty được kiểm toán bởi các hãng kiểm toán không phải là Big 4. Như vậy, các công ty kiểm toán Big 4 hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các doanh nghiệp được họ kiểm toán. Nghiên cứu thực nghiệm của Yasar (2013) về mối quan hệ giữa quy mô công ty kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận được đo lường thông qua các khoản dồn tích tự định (DA). Nghiên cứu được thực hiện trên một mẫu gồm 290 quan sát là báo cáo tài chính trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2007 của các công ty loại hình
- 6 sản xuất được niêm yết tại Istanbul Stock Exchange (ISE). Các khoản dồn tích tự định (DA) được ước lượng theo mô hình Cross‐sectional modified Jones model. Trong 290 quan sát có 130 quan sát được kiểm toán bởi Big 4 và 160 quan sát được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không phải là Big 4. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về các khoản dồn tích tự định giữa các công ty được kiểm toán bởi Big 4 và các công ty được kiểm toán bởi các công ty khác. Lâm Huỳnh Phương (2013) trong luận văn thạc sĩ nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán và nhiệm kỳ kiểm toán viên. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn là báo cáo tài chính đã được kiểm toán từ năm 2000 đến năm 2012 của 39 công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán HNX và HOSE. Kết quả thực nghiệm của tác giả cho thấy khi xem xét mối quan hệ với các khoản dồn tích tự định, biến nghiên cứu quy mô công ty kiểm toán không có ý nghĩa thống kê. Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy quy mô công ty kiểm toán có ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán có quy mô lớn (Big) được kỳ vọng là có giá trị tuyệt đối của các khoản dồn tích tự định thấp hơn so với các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán còn lại (không phải là Big). 1.2 Giới tính kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận Một số nghiên cứu đã nghiên cứu sự khác biệt giới tính ảnh hưởng lên các khía cạnh của hành vi cá nhân. Các nghiên cứu đều có chung nhận định rằng ít nhất về đa số, phụ nữ không thích rủi ro và ít cả tin hơn nam giới (Byrnes & Miller, 1999). Kết quả tương tự khi các mẫu được lựa chọn trong lĩnh vực kế toán và tài chính (Jianakoplos & Bernasek, 1998; Olsen & Cox, 2001; Graham và các cộng sự., 2002; Dwyer và các cộng sự, 2002; Watson & McNaughton, 2007). Phụ nữ cũng ít cả tin trong các vấn đề tài chính hơn nam giới (Johnson & Powell, 1994); Barber & Odean, 2001; Bliss & Potter, 2002).
- 7 Một số nghiên cứu cho rằng không có sự khác biệt về giới tính trong vấn đề đạo đức (Ford & Richardson, 1994), trong khi một số nghiên cứu khác cho rằng phụ nữ cư xử có đạo đức hơn nam giới. Phụ nữ được quan sát thấy có đạo đức hơn trong bối cảnh kinh doanh (Ruegger & King, 1992; Khazanchi, 1995; Eynon và các cộng sự, 1997). Roxas và Stoneback (2004) đồng ý rằng nhìn chung phụ nữ ít đồng ý với các hành vi vi phạm đạo đức. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy phụ nữ ít đồng ý với các hành vi vi phạm đạo đức để nhận được các khoản thưởng ở nơi làm việc (Betz và các cộng sự, 1989; Bernardi & Arnol, 1997). Một số nghiên cứu về mối liên hệ giữa giới tính và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Clikeman và các cộng sự (2001) sử dụng dữ liệu từ một cuộc khảo sát nhắm vào các sinh viên ngành kế toán để nghiên cứu liệu giới tính và nguồn gốc quốc gia có ảnh hưởng đến quan điểm về các phương pháp thông thường để điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giới tính không phải là vấn đề quyết định trong bối cảnh này. Krishnan và Parsons (2006) nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty Fortune 500 và cho thấy mối liên hệ giữa giới tính với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Gul và các cộng sự (2007) sử dụng dữ liệu của các công ty S&P 500 và cho thấy những hãng có nữ giám đốc trong ban điều hành có mức điều chỉnh lợi nhuận thấp hơn các hãng không có nữ giám đốc. Vai trò của nữ kiểm toán viên trong nghề nghiệp kiểm toán đang được chú ý nhiều trong giai đoạn gần đây. Gold và các cộng sự (2009) cung cấp các bằng chứng cho thấy kiểm toán viên nữ ít thích rủi ro hơn so với các đồng nghiệp nam trong các xét đoán nghề nghiệp, đồng thời kiểm toán viên nữ ít bị ảnh hưởng bởi các giải thích không thể thẩm định của khách hàng hơn các kiểm toán viên nam. Bernardi và Arnol (1997) nhận thấy phụ nữ trong Big 5 thực hiện tốt hơn các đồng nghiệp nam trong vấn đề phát triển đạo đức. Chung và Monroe (2001) kiểm định mối quan hệ giữa giới tính của kiểm toán viên và các xét đoán kiểm toán, kết luận rằng các nữ chủ phần hùn (partner) xử lý thông tin chính xác và hiệu quả hơn trong các vấn đề kiểm toán phức tạp. O’Donnell và Johnson (2001) nhận thấy kiểm toán
- 8 viên nữ phải nỗ lực nhiều hơn so với các nam đồng nghiệp trong việc đưa ra các xét đoán nghề nghiệp (ít hữu hiệu hơn). Gần đây, Ittonen và Peni (2012) đã kiểm định mối quan hệ giữa kiểm toán viên nữ và phí kiểm toán bằng nghiên cứu thực nghiệm với mẫu gồm 715 hợp đồng kiểm toán được ký kết với một số công ty thuộc nước Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển) niêm yết trên sàn giao dịch NASDAQ OMX trong hai năm tài chính 2005 và 2006. Nghiên cứu chỉ ra rằng chủ phần hùn phụ trách hợp đồng là nữ đưa ra mức giá phí kiểm toán cao hơn, cho thấy kiểm toán viên nữ thận trọng, ít cả tin, và mức độ chuẩn bị cho cuộc kiểm toán cao hơn đưa đến mức giá phí cao hơn. Niskanen và các cộng sự (2009) nghiên cứu liệu rằng giới tính kiểm toán viên có tác động lên độ lớn của hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ ở Phần Lan. Nghiên cứu thực hiện trên 5.000 công ty với báo cáo tài chính cho giai đoạn 1999 – 2006, sử dụng mô hình Jones Model (1991) để ước tính các khoản dồn tích tự định nhằm đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu kết luận nữ kiểm toán viên cho phép mức tự định trong báo cáo thu nhập cao hơn các nam kiểm toán viên. Ittonen và các cộng sự (2013) khảo sát mối liên hệ giữa chất lượng các khoản dồn tích và giới tính của chủ phần hùn phụ trách hợp đồng kiểm toán. Căn cứ vào những khác biệt do giới tính về tính thận trọng, tính bảo thủ, việc chấp nhận rủi ro, tác giả đưa ra định đề là các nữ kiểm toán viên có thể nâng cao chất lượng của các khoản dồn tích. Nghiên cứu được tiến hành trên một mẫu gồm 770 quan sát là công ty Phần Lan và Thụy Điển niêm yết trên sàn giao dịch Nasdaq OMX với báo cáo tài chính từ năm 2005 đến 2007. Kết quả phân tích hồi quy bảng dữ liệu chéo cho thấy, các công ty được kiểm toán bởi các chủ phần hùn nữ thì có các khoản dồn tích tự định nhỏ hơn, điều này hàm ý là kiểm toán viên nữ có thể có những tác động nhằm hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Trên đây là một số nghiên cứu về tác động của giới tính đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tổng hợp các nghiên cứu trên đưa đến nhận định là kiểm toán viên
- 9 nữ dường như nỗ lực nhiều hơn trong việc lập kế hoạch kiểm toán cũng như trong việc phát hiện và ngăn chặn hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tôi kỳ vọng công ty được kiểm toán bởi kiểm toán viên nữ sẽ có khoản dồn tích tự định (DA) thấp hơn công ty được kiểm toán bởi các kiểm toán viên nam. 1.3 Luân chuyển kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận Các nghiên cứu gần đây tại châu Á có nghiên cứu của Kim và cộng sự (2004) thực hiện ở Hàn Quốc, một môi trường đặc biệt đối với ngành kiểm toán. Trong khi ở các nước khác việc luân chuyển kiểm toán mang tính bắt buộc nhưng nhà quản lý và đơn vị kiểm toán vẫn có quyền lựa chọn công ty kiểm toán và kiểm toán viên mới. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc kể từ năm 1989, quy định mới về việc luân chuyển kiểm toán đã được thông qua. Theo đó, các công ty niêm yết đang gặp khủng hoảng về mặt tài chính (kết quả được đo lường bằng một loạt các chỉ số tài chính do chính phủ ban hành) sẽ phải chấp nhận việc kiểm toán bắt buộc từ phía cơ quan chức năng, cụ thể ở đây là ủy ban giám sát tài chính (Financial Supervisory Commission – FSC). Cơ quan này sẽ chỉ định bắt buộc một kiểm toán viên độc lập để kiểm toán cho các công ty này. Các tác giả sử dụng thước đo các khoản dồn tích để đánh giá chất lượng kiểm toán viên và họ thấy rằng DA giảm dần qua các năm sau khi công ty chịu sự kiểm toán bắt buộc. Qua đó cho thấy việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc là cần thiết nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mẫu nghiên cứu mà họ lựa chọn là các công ty đang gặp khó khăn về mặt tài chính do đó nguy cơ nhà quản trị điều chỉnh thông tin lợi nhuận là khá cao; và kết quả này không thể áp dụng chung cho cả thị trường trong đó bao gồm các công ty hoạt động lành mạnh. Johnson và cộng sự (2002) cũng sử dụng DA làm thước đo chất lượng kiểm toán. Các tác giả phân loại nhiệm kỳ kiểm toán ra thành ba loại: ngắn (2-3 năm), trung bình (5-8 năm) và dài ( trên 9 năm). Qua đó, khi họ lấy DA của loại trung bình làm mốc so sánh, các kết quả cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn, DA cao hơn; trong khi đối với loại dài thì DA và nhiệm kỳ kiểm toán không có ý nghĩa về
- 10 mặt thống kê. Qua đó, các tác giả kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán dài làm giảm chất lượng thông tin lợi nhuận, bên cạnh đó cần tăng số năm bắt buộc luân chuyển lên vì DA có xu hướng giảm xuống khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng lên (ít nhất là 8 năm). Myers và cộng sự (2003) nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và chất lượng thông tin lợi nhuận. Chất lượng thông tin lợi nhuận được đo lường thông qua hai thước đo DA (các khoản dồn tích tự định) được ước tính theo mô hình Jone model (1991) và TA (tổng các khoản dồn tích). Kết quả thực nghiệm cho thấy với cả hai thước đo này thì khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng lên, cả TA và DA đều giảm xuống. Và khi nhiệm kỳ càng dài thì các khoản dồn tích này không dương quá cao và cũng không âm quá cao. Qua đó, các tác giả nêu lên rằng khi kiểm toán viên cung cấp dịch vụ cho cùng một công ty trong một khoản thời gian dài thì khả năng điều chỉnh thông tin lợi nhuận của nhà quản lý bị hạn chế, làm gia tăng chất lượng báo cáo tài chính. Chi và Huang (2003) cũng thấy rằng ban đầu DA và nhiệm kỳ kiểm toán có tương quan âm (tức là nhiệm kỳ kiểm toán tăng thì DA giảm). Nhưng khi khoảng thời gian vượt quá 5 năm, tương quan giữa DA và nhiệm kỳ kiểm toán đổi chiều. Họ cũng giải thích kết quả này bằng hiệu ứng hiểu biết trong những năm đầu và hiệu ứng quá quen thuộc trong những năm sau đó khiến chất lượng giảm. Và họ cũng lưu ý rằng công ty kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc luân chuyển kiểm toán viên bằng các chính sách giúp nhóm kiểm toán viên mới có thêm sự hiểu biết và kinh nghiệm được truyền lại từ các kiểm toán viên tiền nhiệm. Từ đó, họ cho rằng quy định bắt buộc luân chuyển là cần thiết nhưng chỉ nên dừng lại ở cấp độ kiểm toán viên, không áp dụng trên quy mô công ty. Luận văn thạc sĩ của tác giả Lâm Huỳnh Phương (2013) nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán và nhiệm kỳ kiểm toán viên. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn là báo cáo tài chính đã được kiểm toán từ năm 2000 đến năm 2012 của 39 công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán HNX và HOSE. Kết
- 11 quả thực nghiệm của tác giả cho thấy tại thị trường Việt Nam nhiệm kỳ kiểm toán và chất lượng kiểm toán, đo lường bằng các khoản dồn tích tự định, có mối quan hệ tuyến tính với nhau (ít nhất là trong vòng 5 năm đầu). Khi nhiệm kỳ kiểm toán càng dài thì chất lượng kiểm toán càng cao, nghĩa là các khoản dồn tích tự định càng giảm. Bên cạnh đó, tác giả cũng kết luận nhiệm kỳ công ty kiểm toán không có quan hệ với chất lượng kiểm toán, hay nói cách khác nhiệm kỳ công ty kiểm toán không tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nhìn chung, các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng thì DA giảm xuống. Theo quy định tại Việt Nam, nhiệm kỳ kiểm toán viên tối đa là 3 năm. Theo tác giả, mặc dù quy định này làm gia tăng tính độc lập của kiểm toán viên lại khiến họ phải gặp rủi ro cao trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những kinh nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại; đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc tìm hiểu một khách hàng mới để lập kế hoạch kiểm toán năm đầu. Tôi cũng kỳ vọng rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng lên thì DA cũng giảm xuống. 1.4 Số năm kinh nghiệm của kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận Các nghiên cứu trước đây cho thấy động cơ của nhà quản lý cũng như người lao động thay đổi theo tuổi tác. Một số nghiên cứu cho thấy những công ty có giám đốc điều hành gần đến tuổi về hưu thường cắt giảm chi phí nghiên cứu phát triển (R&D) và nguồn kinh phí dùng để đầu tư, mua sắm, nâng cấp tài sản cố định (Dechow và Sloan, 1991; Barker và Mueller, 2002). Demers và Wong (2010) cho rằng nhà quản lý lâu năm thường có động cơ hơn so với các nhà quản lý mới vào nghề trong việc thổi phồng lợi nhuận. Trong lĩnh vực kiểm toán, Sundgren và Svanström (2010) nghiên cứu tác động của một số đặc điểm của kiểm toán viên (số hợp đồng phụ trách, tuổi và kinh nghiệm , mức độ phụ thuộc vào giá phí) và chất lượng kiểm toán (đo lường bằng khuynh hướng phát hành ý kiến về giả định hoạt động liên tục). Nghiên cứu trên
- 12 một mẫu gồm 1202 công ty trách nhiệm hữu hạn đã nộp đơn phá sản trong giai đoạn từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009 tại Thụy Điển được lấy từ cơ sở dữ liệu Affärsdata. Tác giả tiếp cận báo cáo kiểm toán cho năm tài chính gần với thời điểm nộp hồ sơ xin phá sản và xem xét đoạn lưu ý về vấn đề hoạt động liên tục trên báo cáo kiểm toán. Trong số 1202 báo cáo kiểm toán thì chỉ có 211 báo cáo phát hành ý kiến về giả định hoạt động liên tục. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các kiểm toán viên lớn tuổi ít phát hành ý kiến về giả định hoạt động liên tục hơn so với các kiểm toán viên trẻ, hay nói cách khác, tuổi của kiểm toán viên tương quan nghịch biến với chất lượng kiểm toán. Người viết chưa tìm thấy nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tuổi nghề của kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu này đang được thực hiện trên mẫu là các công ty niêm yết, đối tượng mà báo cáo tài chính được quan tâm và sử dụng rộng rãi và đi kèm với nhiều rủi ro dành cho người hành nghề kiểm toán. Do đó, kinh nghiệm là một yếu tố quan trọng giúp kiểm toán viên giảm thiểu rủi ro thì thực hiện kiểm toán đối với các công ty niêm yết. Do đó, người viết kỳ vọng số năm kinh nghiệm của kiểm toán viên có tương quan nghịch biến với các khoản dồn tích tự định (DA).
- 13 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Tổng quan về kiểm toán 2.1.1 Định nghĩa kiểm toán Kiểm toán (audit) nguồn gốc từ la tinh “audire” nghĩa là “nghe” gợi nên một hình ảnh cổ điển về kiểm toán là người đọc báo cáo đọc to lên cho một bên độc lập nghe và chấp nhận. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán: Ở Anh người ta định nghĩa: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những báo cáo tài chính của một xí nghiệp do các kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp lý nào có liên quan”. Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính”. Quan điểm này xuất hiện là bởi ở các nước phát triển, đối tượng trực tiếp và thường xuyên của kiểm toán là các báo cáo tài chính. Sự ra đời và hoạt động của kiểm toán gắn liền với việc kiểm tra tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính nên đã có sự đồng nhất kiểm toán với kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên, hiện nay định nghĩa được chấp nhận rộng rãi là: “Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập” (Arens và Locbbeccke, 1997). Các thuật ngữ trong định nghĩa nêu trên được hiểu như sau: - Thông tin được kiểm tra có thể là báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tờ khai nộp thuế, quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước… Kết quả kiểm toán sẽ giúp cho người sử dụng đánh giá độ tin cậy của các thông tin này. - Các chuẩn mực được thiết lập là cơ sở để đánh giá các thông tin được kiểm tra, chúng thay đổi tùy theo thông tin được kiểm tra. - Bằng chứng kiểm toán là các thông tin để chứng minh cho ý kiến nhận xét của kiểm toán viên.
- 14 - Báo cáo kiểm toán là văn bản trình bày ý kiến chính thức của kiểm toán viên về sự phù hợp giữa thông tin được kiểm tra và chuẩn mực đã được thiết lập. - Kiểm toán viên phải có đủ năng lực và độc lập để có thể thực hiện cuộc kiểm toán đảm bảo chất lượng. Năng lực của kiểm toán viên là trình độ nghiệp vụ được hình thành qua đào tạo và kinh nghiệm tích lũy, giúp cho kiểm toán viên có khả năng xét đoán công việc trong từng trường hợp cụ thể. Còn sự độc lập đối với đơn vị được kiểm toán là yêu cầu tối cần thiết để duy trì sự khách quan của kiểm toán viên và tạo được niềm tin ở người sử dụng kết quả kiểm toán. 2.1.2 Công ty kiểm toán 2.1.2.1 Định nghĩa Theo định nghĩa được trình bày ở đoạn 5, điều 5, chương 1 của Luật Kiểm toán độc lập (2011) thì “Doanh nghiệp kiểm toán là doanh nghiệp có đủ điều kiện để kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Đồng thời theo điều 3, chương 1 của Nghị định 17/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 03 năm 2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kiểm toán độc lập, đã có phân tích sâu hơn và hướng dẫn cụ thể: “Doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định và đã được Bộ Tài chính Việt Nam cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán”. 2.1.2.2 Cơ cấu tổ chức Hình thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở Việt Nam bị chi phối bởi hình thức sở hữu công ty: (1) Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, trong đó, Giám đốc, người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập bổ nhiệm (Bộ tài chính, UBND Thành phố). Cách thức tổ chức tại các công ty này theo chức danh và theo cơ cấu hành chính. Trách nhiệm công việc và tổ chức hoạt động theo chức danh quản lý.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 27 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn