intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN”

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:95

443
lượt xem
279
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nông Đức Mạnh đề cập tại Hội nghị lần thứ 7 khoá XI Ban Chấp hành Trung ương: “…cần đối chiếu với Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng , kết luận của Hội nghị TW 4 (Khoá IX) thẳng thắn, nghiêm khắc chỉ ra những mặt yếu kém, hạn chế, đặc biệt là mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…” . Một trong những tiêu chí xác định khả năng cạnh tranh của một quốc gia là hệ thống tài chính tiền tệ của...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN”

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG --------------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP “GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN” SINH VI£N: NGUYỄN THỊ HOA LỚP: A2-CN9 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ THỊ THANH HÀ NỘI – 2003
  2. LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................... 3 CHƯƠNG I - KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN..................................................................................................... 5 I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI........ 5 II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN .................. 15 CHƯƠNG 2 -..................................................................................... 30 I. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG ........................ 30 II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NÓI CHUNG VÀ TÍN DỤNG TRUNG - DÀI HẠN NÓI RIÊNG CỦA VIETCOMBANK ......... 31 III. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ................ 36 IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA VIETCOMBANK TRONG HOẠT ĐÔNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ........................................................................................... 55 CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 66 I – NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG.............................................................................. 66 II - KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGỌẠI THƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN .............................................. 72 KẾT LUẬN ........................................................................................ 92
  3. LỜI MỞ ĐẦU Một trong những yếu kém của nền kinh tế Việt nam hiện nay là khả năng cạnh tranh. Điều này đã được Tổng Bí thư ĐCS Việt nam Nông Đức Mạnh đề cập tại Hội nghị lần thứ 7 khoá XI Ban Chấp hành Trung ương: “…cần đối chiếu với Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng , kết luận của Hội nghị TW 4 (Khoá IX) thẳng thắn, nghiêm khắc chỉ ra những mặt yếu kém, hạn chế, đặc biệt là mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…”1. Một trong những tiêu chí xác định khả năng cạnh tranh của một quốc gia là hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia đó lành mạnh và ổn định. Như vậy, năng lực cạnh tranh mạnh của một ngân hàng là một yếu tố hết sức quan trọng để củng cố, ổn định và phát triển nền kinh tế Việt nam trong điều kiện hội nhập. Khái quát về hệ thống ngân hàng VN Đến nay, Việt nam đã có các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng đã được thành lập và hoạt động, bao gồm: Ngân hàng thương mại Nhà nước có 5 đơn vị với 116 chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, chưa kể đến các chi nhánh cấp huyện, thị trấn, các chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch. Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị gồm 23 ngân hàng với 105 chi nhánh cấp 1, chưa kể đến các chi nhánh cấp 2 và các phòng giao dịch; 14 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với 27 chi nhánh, chưa kể các phòng giao dịch; 3 ngân hàng liên doanh có 7 chi nhánh; 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, có 7 công ty tài chính được thành lập và tham gia vào thị trường tiền tệ và hệ thống tiết kiệm bưu điện trải rộng khắp nơi. 1 Tạp chí Ngân hàng, số Xuân Quý Mùi, 1+2/2003, trang 50.
  4. Nhìn tổng thể, ở Việt nam có một hệ thống ngân hàng đầy đủ các thành phần kinh tế với mạng lưới rộng lớn, phân bổ ở các tỉnh và thành phố, đủ năng lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới và thậm chí trong khu vực thì các ngân hàng thương mại của Việt nam chưa thể là các ngân hàng mạnh. Khả năng cạnh tranh còn yếu với số vốn điều lệ rất thấp. Trong khi đó tại các nước khu vực, các ngân hàng trung bình có số vốn điều lệ lớn gấp nhiều lần các ngân hàng Việt nam cộng lại. Việc bố trí mạng lưới chi nhánh của các ngân hàng Việt nam còn chưa hợp lý, nhất là ở các địa phương có nhu cầu dịch vụ ngân hàng thấp dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh. Đối với lĩnh vực cho vay, nhất là cho vay trung và dài hạn là mục tiêu của hầu như tất cả các ngân hàng thương mại, thì cuộc cạnh tranh này càng khốc liệt hơn. Từ thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động tín dụng trung dài hạn”, với mục tiêu chính là nghiên cứu khả năng cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong hoạt động này. Với những vấn đề được nghiên cứu, tôi hy vọng rằng các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt nam nói riêng sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, một phần rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng góp phần vào sự phát triển của Ngân hàng, cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Mặc dù đã cố gắng tối đa khi nghiên cứu nhưng do sự hạn chế về năng lực và kiến thức nên trong khoá luận này tôi không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía các Thầy Cô giáo và bạn đọc.
  5. Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với Cô Trần Thị Thanh, người hướng dẫn tôi viết và hoàn thiện khoá luận này, cũng như toàn thể các giảng viên trường Đại học Ngoại thương đã truyền đạt cho tôi kiến thức và phương pháp học tập và nghiên cứu. CHƯƠNG I - KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung của một quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như thần kinh của cả nền kinh tế. Trong cuốn “Quản trị Ngân hàng Thương mại” của Peter Rose, “ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt nam (12/1997), “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” Rõ ràng, tín dụng là một nghiệp vụ đặc biệt quan trọng. Các hoạt động liên quan đến tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong hầu hết các ngân hàng trên thế giới. Thông qua các khoản mục tín dụng của mình, ngân hàng tài trợ hay cung cấp tín dụng cho hầu hết các hoạt động sản xuất của các hãng kinh doanh thuộc các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế, là nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính khác, trợ giúp cho các hộ gia đình và cá nhân bằng các khoản vay tiêu dùng…. Hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ là việc chuyển một tài sản của ngân hàng cho một
  6. người/tổ chức nào đó mà chính là việc tạo ra tiền mới. Hoạt động tín dụng không hiệu quả do chất lượng tín dụng không tốt và quản lý tín dụng không tốt là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thất bại của các ngân hàng và khủng hoảng ngân hàng trên thế giới. Tuy hiện nay tiêu chí mới của các tổ chức tài chính thế giới không lấy một ngân hàng chỉ “đi vay để cho vay” làm một ngân hàng điển hình mà khuyến khích phát triển mô hình ngân hàng đa năng, nhưng tín dụng vẫn là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng không thể thiếu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, các sản phẩm dịch vụ ngày càng được đa dạng nhằm đáp ứng đầy đủ được các nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Cùng với sự thay đổi không ngừng của ngành tài chính, các loại hình cho vay cũng được mở rộng và đổi mới. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại các loại hình tín dụng nhưng không có loại nào là đặc biệt thoả đáng và chính xác. Dưới đây là một số loại hình tín dụng được phân biệt dựa trên những tiêu thức khác nhau nhằm làm rõ sự đa dạng của hoạt động này. 2. Phân loại tín dụng 2.1. Căn cứ vào thời hạn của hợp đồng tín dụng 2.1.1. Tín dụng ngắn hạn Là loại tín dụng có thời hạn không quá 1 năm. Loại tín dụng này được dùng cho các kế hoạch có tính thời điểm và thường xuyên. Tại Việt nam hiện nay hoạt động tín dụng ngắn hạn phát triển rất mạnh. Các ngân hàng cấp tín dụng cho các công ty xuất nhập khẩu bán/mua hàng hoá. Tín dụng có thể được cấp dựa trên tài khoản công ty mở tại ngân hàng. Tuỳ thuộc chất lượng khách hàng mà tín dụng này sẽ được cấp nhiều hay ít, và tỉ lệ ký qũy cao hay thấp, hoặc miễn ký quỹ.
  7. 2.1.2. Tín dụng trung và dài hạn Là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm, thường không quá 25 năm. Để có được sự chấp nhận của ngân hàng cho khoản vay này, khách hàng phải thoả mãn những điều kiện ngặt nghèo về năng lực sản xuất, tình hình tài chính và tính khả thi của dự án. 2.2. Căn cứ đặc điểm của sản phẩm cung ứng: 2.2.1. Tín dụng vãng lai Đây là loại tín dụng lâu đời nhất nhưng vẫn góp một phần quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một tài khoản để khách hàng có thể sử dụng theo nhu cầu nhưng không vượt quá hạn mức trong hợp đồng. Số lượng sử dụng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính của khách hàng. Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản. Do các điều kiện tín dụng, tín dụng vãng lai không được cấp cho đầu tư dài hạn, vì vậy thực chất ngân hàng cấp tín dụng vãng lai cho khách hàng nhằm bổ sung vốn cho sản xuất lưu thông thường xuyên. Việc cấp tín dụng vãng lai đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm. Khách hàng phải trả lãi suất cho vay và hoa hồng của nghiệp vụ thanh toán trung gian. Hiện nay loại hình tín dụng vãng lai là phổ biến nhất tại Việt nam. 2.2.2. Tín dụng thế chấp Khách hàng sử dụng tín dụng thế chấp khi muốn vay một khoản nợ ngắn hạn và thế chấp bằng động sản hay trái quyền. Giá trị vật thế chấp được chiết khấu theo loại động sản và tính thanh khoản của động sản đó. Vật thế chấp có thể bao gồm: các giấy tờ có giá (dài hạn hay ngắn hạn, cổ phiếu vô danh); hàng hoá; kim loại quý; các trái quyền (yêu cầu chi trả). Khách hàng phải trả lãi suất và hoa hồng. Hoa hồng được tính chủ yếu trên chi phí bảo quản vật thế chấp.
  8. 2.2.3. Tín dụng bảo lãnh Về thực chất, bảo lãnh không phải là tín dụng thuần tuý. Ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng trong giao dịch mua chịu với công ty nước ngoài hay vay của ngân hàng nước ngoài, đóng thuế cho nhà nước hay trong các hợp đồng đấu thầu. Việc này đồng nghĩa với việc ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tín dụng, khi đến thời hạn thanh toán, nếu khách hàng chưa hoặc không có khả năng chi trả thì ngân hàng là người đứng ra trả hộ. Với dịch vụ này, ngân hàng thu của khách hàng phải trả khoản phí bảo lãnh tính trên phần trăm của số tiền được bảo lãnh. Do tính rủi ro cao nên các ngân hàng thường phải dựa vào uy tín của khách hàng cũng như việc kiểm tra chặt chẽ tình hình tài chính của khách hàng để quyết định có cấp tín dụng bảo lãnh hay không. Loại hình này cũng áp dụng rất rộng rãi tại các ngân hàng Việt nam. 2.2.4. Đồng tài trợ Với những hợp đồng tín dụng có giá trị lớn (của những dự án lớn của quốc gia/công ty) mà một ngân hàng không thể đảm nhận, phương thức đồng tài trợ (hay liên kết tín dụng) thường được áp dụng. Theo phương thức này, một số ngân hàng cùng tham gia cho vay với một ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đầu mối giao dịch với khách hàng bằng các điều khoản đã được thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau. Tại Việt nam, các dự án mang tầm cỡ quốc gia như Dự án Khí điện đạm Cà Mau, Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn…. đều được các ngân hàng thương mại lớn cùng ký kết hợp đồng đồng tài trợ. Có những hợp đồng có cả các ngân hàng lớn của nước ngoài tham gia. Ngân hàng đứng ra làm đầu mối thường là Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và Ngân hàng Công thương Việt nam. 2.2.5. Leasing
  9. Leasing (thuê mua) là phương thức mà nhờ đó một doanh nghiệp có thể có được tài sản có giá trị lớn như các cấu kiện nhà máy, thiết bị và xe cộ… mà không cần phải xuất vốn. Thay vì mua đứt các tài sản đó, doanh nghiệp thuê chúng từ công ty thuê mua tài chính của ngân hàng (công ty này thường có liên kết với các công ty tài chính khác). Cách thức thuê mua là doanh nghiệp lựa chọn loại hàng hoá/thiết bị họ cần và công ty thuê mua sẽ mua thiết bị. Đến cuối thời hạn thuê, người thuê thường có quyền chọn lựa gia hạn thời gian thuê với mức thuê thấp hơn nhiều hay mua luôn thiết bị đó. Thời hạn cố định đầu tiên thường là 3-5 năm. Hình thức tín dụng thuê mua mới phát triển tại Việt nam trong mấy năm gần đây. Khách hàng của các công ty cho thuê tài chính của các ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.2.6. Factoring (mua nợ): Các công ty có nghiệp vụ mua nợ cung cấp cho các khách hàng của họ dịch vụ hạch toán sổ sách khách hàng, dịch vụ bảo toàn các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ được mua chủ yếu là các khoản tiền nợ hàng, công ty thanh toán ngay cho các doanh nghiệp bán chịu; cung cấp dịch vụ hạch toán sổ sách khách hàng; đảm bảo thanh toán đầy đủ cho các khoản đã chấp thuận. Ngoài ra, công ty còn thực hiện chiết khấu hoá đơn. Các ngân hàng lớn cung cấp dịch vụ này thông qua các công ty con. Hình thức này tại Việt nam chưa được áp dụng. Tại các nước phát triển, kể cả các nước Châu á như Trung quốc (và Hồng Kông), Đài loan, Hàn quốc … hình thức này rất phổ biến. 2.3. Căn cứ đặc điểm khách hàng: 2.3.1. Cho vay kinh doanh Đây là khoản mục quan trọng nhất, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Các khoản mục cho vay kinh doanh ngắn hạn bao gồm: cho vay mua hàng dự trữ, cho vay vốn lưu
  10. động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản. Các khoản mục này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh đột xuất hay tạm thời của doanh nghiệp. Các khoản cho vay dài hạn như cho vay kinh doanh kỳ hạn, cho vay luân chuyển, cho vay theo dự án, cho vay hỗ trợ mua lại công ty giúp cho các hãng kinh doanh có một lượng vốn lớn hơn rất nhiều và ổn định, tạo điều kiện phát triển cho các hãng. Đây là nghiệp vụ có tỉ trọng lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt nam. 2.3.2. Cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản Lý do tồn tại mạnh mẽ của loại hình tín dụng này là tâm lý gửi tiền của dân chúng: người ta hy vọng khi gửi tiền vào một ngân hàng thì sẽ có khả năng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó lúc cần. Tiền huy động từ tiết kiệm trong dân cư hiện nay là nguồn vốn quan trọng và sinh lợi cao cho ngân hàng, vì vậy các ngân hàng không nề hà cho vay khoản mục này. Tuy nhiên, tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình không ổn định chắc chắn, khiến cho chi phí và rủi ro đối với ngân hàng cũng rất cao. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng chịu tác động của chu kỳ kinh doanh nên một đặc điểm quan trọng của tín dụng tiêu dùng là lãi suất áp dụng rất cao. Cho vay mua nhà thế chấp hay cho vay tín chấp, cho vay theo thẻ tín dụng là những hình thức phổ biến của loại tín dụng này. Tuy nhiên, tại Việt nam hiện nay các ngân hàng chưa phát triển loại hình cho vay này, nhất là tại các ngân hàng thương mại nhà nước. Hiện nay tại Vietcombank đã có phòng Cho vay Ngắn hạn (cho vay tiêu dùng), khách hàng chủ yếu là cán bộ công nhân viên của Ngân hàng, các hộ kinh doanh và các hộ gia đình, cá nhân. Việc cho vay đòi hỏi phải có tài sản thế chấp và chỉ được vay theo một tỉ lệ thấp hơn giá trị thực của tài sản thế chấp (thường bằng 80%). Tuy nhiên, điều kiện về tài sản thế chấp rõ ràng là gây khó khăn, bởi các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu đất
  11. đai, công ty…. Do vậy loại hình cho vay này chưa được các ngân hàng Việt nam phát huy hết tác dụng của nó. 3. Các loại hình cho vay trung và dài hạn của các Ngân hàng Thương mại Theo cách phân chia một cách khoa học về phương thức cho vay của ngân hàng, các khoản vay được chia làm 2 loại: cho vay luân chuyển và cho vay theo số dư. 3.1. Cho vay luân chuyển Đây là loại hình cho vay mang lại nhiều ích lợi nhất cho khách hàng. Do tính linh hoạt của khoản vay này mà ngân hàng không đòi hỏi phải có bảo đảm. Đây là loại hình tín dụng đáp ứng rất kịp thời và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. Khách hàng sử dụng khi không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc quy mô chính xác của nhu cầu vay trong tương lai. Tín dụng luân chuyển cho phép khách hàng có thể giảm bớt ảnh hưởng của những biến động của chu kỳ kinh doanh, tạo điều kiện vay thêm trong thời kỳ khó khăn hay sẵn sàng hoàn trả khi tình hình tài chính được cải thiện. Như vậy, vốn vay của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời những biến động tài chính của khách hàng, vận hành song song xuyên suốt với chu kỳ kinh doanh của khách hàng. Khách hàng được đánh giá tín nhiệm tín dụng cao thường ít khi sử dụng loại tín dụng này mà chỉ ký kết hợp đồng làm bảo đảm để có thể nhanh chóng vay vốn từ những tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra hiện nay một loại hình mới
  12. cũng đang được sử dụng ngày càng rộng rãi là thẻ tín dụng. Các doanh nghiệp ưa thích loại hình này do tính hiệu quả của nó và do không phải thường xuyên làm đơn xin vay ngân hàng. Tại Việt nam hiện nay nghiệp vụ thẻ tín dụng đang phát triển mạnh mẽ và được ưa chuộng bởi tính tức thời, tiện lợi của nó. 3.2. Cho vay theo số dư Ngược lại với cho vay luân chuyển, việc cho vay theo số dư được tính toán dựa trên trị số tín dụng mà tại một thời điểm nhất định khách hàng đi vay đòi hỏi bổ sung vào tổng giá cả của khách hàng đó. Như vậy, mỗi lần chấp nhận thực hiện phương thức tín dụng này, ngân hàng sẽ trao cho khách hàng số vốn mà khách hàng yêu cầu trong một lần. Khách hàng trả nợ làm nhiều lần trong một thời gian dài nên các ngân hàng thường đòi hỏi phải có tài sản thế chấp hay điều kiện bảo lãnh ngặt nghèo. Cho vay theo số dư có thể gồm các hình thức sau: 3.2.1. Cho vay kinh doanh kỳ hạn Các hãng kinh doanh sử dụng khoản vay này cho các hoạt động đầu tư trung và dài hạn: mua thiết bị, xây dựng công trình… Khách hàng xin vay trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án và sẽ thanh toán khoản vay làm nhiều lần. Như vậy, dòng thu nhập trong tương lai của dự án là cơ sở của việc thanh toán khoản vay. Các khoản vay kỳ hạn đòi hỏi phải có bảo đảm bằng tài sản cố định thuộc sở hữu của người vay. Do mức độ rủi ro lớn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà các cán bộ tín dụng phải cân nhắn cẩn thận các yếu tố: (1) trình độ quản lý của hãng, (2)chất lượng
  13. hệ thống kế toán và kiểm toán hãng đang sử dụng, (3) tình hình tài chính của hãng trong qua khứ, (4) cam đoan không thế chấp tài sản cho các chủ nợ khác, (5) bảo hiểm tài sản của hãng có thoả đáng hay không, (6) rủi ro công nghệ đối với hãng, (7) độ dài khoảng thời gian trước khi dự án thu được lợi nhuận, (8) các xu hướng của nhu cầu thị trường và, (9) trạng thái tài sản ròng của hãng. 3.2.2. Cho vay dự án dài hạn Cho vay dự án dài hạn là loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro cao nhất. Khoản tín dụng này được dùng để tài trợ cho việc xây dựng các tài sản cố định có thể mang lại thu nhập trong tương lai có quy mô lớn. Các tài sản cố định trên có thể là các công trình mang tính chiến lược quốc gia. Vì quy mô lớn và tính rủi ro cao của loại hình này mà ngân hàng thường đòi hỏi phải có bảo lãnh, theo đó ngân hàng có thể thu hồi khoản vay từ tổ chức bảo lãnh khi khách hàng không có hoặc không đủ khả năng trả nợ. Đồng thời, việc cho vay đòi hỏi sự tham gia của một số tổ chức tài chính khác nhằm chia sẻ rủi ro. Cũng có trường hợp các khoản tín dụng trên có thể được thực hiện không cần có bảo lãnh nhưng mức lãi suất áp dụng sẽ cao hơn nhiều và đòi hỏi có tài sản thế chấp cho tới khi dự án kết thúc. Tại Việt nam… 3.2.3. Cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty Một hình thức tín dụng đang phát triển hiện nay là cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty bằng nợ đòn bẩy. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của nền tài chính thế giới mới. Tuy nhiên loại hình tín dụng này cũng gặp rất nhiều rủi ro khi các công ty vay nợ quá nhiều không có đủ khả năng trả nợ khi lãi suất tăng hay nền kinh tế suy thoái. Đây là kết quả tổng hợp của 3 nhân tố: (1) luồng thu nhập của hãng tương đối thấp so với giá mua lại nên không đủ bù đắp cho chi phí nợ vay, (2) các ngân hàng và tổ chức tài chính khác gia tăng sức ép thu nợ, (3) vốn của các nhà quản lý
  14. và cổ đông bị rút quá sớm gây ra thâm hụt nghiêm trọng trong ngân quỹ của công ty khi mà thu nhập của công ty chưa đủ mạnh để bù đắp các luồng ra này. Tuy nhiên tại thị trường Việt nam dịch vụ này chưa được áp dụng. Trên đây mới chỉ là những loại hình tín dụng được áp dụng khá phổ biến bởi các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có nền kinh tế với những nét đặc thù riêng nên không thể hoàn toàn áp dụng những hình thức trên trong kinh doanh ngân hàng tại các quốc gia đó. Việt Nam cũng không là ngoại lệ, chúng ta mới chỉ tạm thời đưa ra những chuẩn mực của thế giới phát triển để định hướng cho sự vận hành của bộ máy ngân hàng Việt Nam trong tương lai. 4. Đặc trưng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại Việt Nam Ngành ngân hàng Việt Nam là một ngành còn non trẻ so với thế giới với lịch sử phát triển hàng trăm năm. Do có những đặc điểm khác nhau về lịch sử đó, kèm theo những khác biệt trong chế độ và tổ chức bộ máy nhà nước nên ngành ngân hàng cũng có những điểm đặc trưng riêng biệt, cụ thể: Thị trường hạn hẹp, khách hàng chỉ là các Tổng công ty/công ty lớn của Nhà nước. Các công ty liên doanh hay có vốn của nước ngoài thường lựa chọn vay vốn tại ngân hàng liên doanh hay chi nhánh của ngân hàng nước ngoài. Sản phẩm đơn điệu do ngân hàng chỉ cho vay theo dự án mà không tính đến nhu cầu của khách hàng. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong khâu xin vay. Chịu sức ép nhiều mặt của các đối thủ cạnh tranh trong khối ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
  15. Từ vị thế là người chủ trên thị trường và trong mối quan hệ với khách hàng, hiện nay ngân hàng phải mời chào các doanh nghiệp vay nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được (đây là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường). Công cụ chủ yếu được sử dụng trong cạnh tranh ngày nay là cạnh tranh bằng lãi suất. Điều này làm giảm tính hiệu quả của công tác tín dụng, bởi lãi suất được tính toán trên nhiều cơ sở, trong đó rủi ro là yếu tố quan trọng. II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1. KHÁI NIỆM: “ Cạnh tranh là hoạt động liên quan đến hai hoặc các công ty, trong đó mỗi công ty cố gắng thuyết phục mọi người thích mua hàng hoá của công ty mình hơm là hàng hoá của công ty khác.” – Collins Cobuild English Dictionary. Theo kinh tế học, cạnh tranh là sự tranh giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy, một nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành thị phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường. Cạnh tranh được phân chia thành 2 loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường có cạnh trạnh hoàn hảo là thị trường có quá nhiều người bán và người mua cùng một hàng hoá đồng nhất đến mức không ai có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Nếu có ít nhất một người bán lớn đến mức có thể ảnh hưởng tới giá thị trường thì xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo (tình trạng độc quyền). Độc quyền được biểu hiện dưới các dạng: độc quyền tuyệt đối (monopoly) khi một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp ; độc quyền mua (monopsony) khi chỉ có duy nhất một nhà tiêu thụ; độc quyền nhóm
  16. (một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước (sự câu kết giữa một nhóm tài phiệt tư bản với nhà 2 nước tư bản) . Khả năng cạnh tranh của ngân hàng được đánh giá như một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường. Cùng với khái niệm cạnh tranh, “lợi thế cạnh tranh” đã trở thành một nội dung quan trọng đối với bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đang hoạt động trong nền kinh tế. Theo từ điển kinh doanh của nhà xuất bản Longman, “lợi thế cạnh tranh là một khía cạnh của một sản phẩm hay một dịch vụ do một công ty cung cấp đã mang lại lợi thế cho công ty đó so với các đối thủ khác”. Nhưng theo Michael Porter, một nhà nghiên cứu kinh tế chuyên sâu về cạnh tranh thì “về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát triển nhờ vào những sản phẩm mà công ty có thể cung cấp cho người mua có giá trị cao hơn chi phí công ty phải chịu để tạo ra được sản phẩm đó”3. Giá trị của sản phẩm là thứ người mua sắn sàng trả tiền, và lợi nhuận tăng thêm xuất phát từ việc mời chào giá cả thấp hơn của đối thủ cạnh tranh để giành được lợi nhuận tương đương hoặc cung cấp những dịch vụ duy nhất có lợi ích lớn hơn đủ bù đắp cho giá thành cao hơn. Như vậy, có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá và sự phân biệt. 2. CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỂ HIỆN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1.1. Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn 2 Managerial Economics, Keat Paul G.
  17. Đây là chỉ tiêu cho biết rõ nét nhất về kết quả cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Giá trị của các khoản cho vay phản ánh phần nào khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng cũng như cho biết ngân hàng có khoản vốn huy động mạnh đến thế nào mới có thể cung ứng một cách đầy đủ cho những khoản vay trên. Kết hợp với chỉ tiêu thị phần, khối lượng của dư nợ tín dụng trung và dài hạn khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường. 2.1.2. Thị phần Các ngân hàng cạnh tranh với nhau mà một trong những kết quả của cuộc cạnh tranh đó được phản ánh trên thị phần của mỗi ngân hàng. Lẽ tất nhiên, không phải ngân hàng nào có thị phần lớn hơn sẽ tập trung được nhiều ảnh hưởng về mình nhưng điều này cũng cho thấy vị thế và sự ổn định của ngân hàng này trên thị trường. Vì vậy, thị phần luôn là một mục tiêu được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm để đạt được lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. 2.1.3. Chất lượng khách hàng Chỉ cần nhìn vào các khách hàng của một ngân hàng, người ta đã có biết được phần nào khả năng thu hồi nợ của ngân hàng và qua đó biết được hoạt động cho vay của ngân hàng có đáng tin cậy không. Một ngân hàng có nguồn thông tin tốt về khách hàng mới có thể bảo đảm về khả năng tài chính của khách hàng và quyết định cho vay. Qua danh sách khách hàng ta còn có thể có thông tin về uy tín và danh tiếng của ngân hàng. Khách hàng tốt chính là doanh nghiệp có tiếng tăm trên thị trường, vì cũng giống như ngân hàng, uy tín của doanh nghiệp cũng do 3 Micheal Porter, “Competitive strategies”, 1985
  18. những thành quả đạt được trong quá khứ gây dựng nên. Không một ngân hàng nào muốn mạo hiểm cho một doanh nghiệp không có tên tuổi và chỗ đứng trên thị trường hay một doanh nghiệp đã có tiếng xấu trong hoạt động trước đây vay vốn với lí do một trong những mục tiêu hoạt động của ngân hàng là an toàn. Tình hình tài chính của khách hàng có ổn định mới bảo đảm khách hàng hoạt động có hiệu quả và do đó có khả năng trả nợ cho khách hàng khi có một dự án khả thi và một phương án trả nợ vay hợp lý. 2.1.4. Khả năng giải quyết nợ xấu Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các biện pháp mà ngân hàng đã sử dụng từ xưa tới nay trong quá khứ để giải quyết nợ xấu, góp phần nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng, đem lại lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Khi một ngân hàng có thể làm tốt công tác này chứng tỏ ngân hàng đó có những quyết sách phù hợp và linh hoạt nhằm cải cách hệ thống hoạt động của ngân hàng. 2.1.5. Chất lượng nghiệp vụ cán bộ Chỉ tiêu này được biểu hiện thông qua trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng có trình độ cao bảo đảm cho quá trình thẩm định dự án không sai sót và có độ tin cậy cao. Trình độ của cán bộ tín dụng còn thể hiện chính sách đào tạo và đãi ngộ cũng như khả năng thu hút nhân tài của ngân hàng, tạo thành một lực lượng làm nên một nửa thành công của ngân hàng: đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Như vậy, khả năng cạnh tranh của một ngân hàng không phải là một chỉ tiêu đơn lẻ mà nó được đánh giá tổng hợp thông qua sự kết hợp các chỉ tiêu nói trên. Chỉ có như vậy chỗ đứng của ngân hàng trên thị trường mới có thể được phản ánh một cách chính xác và đầy đủ, chi tiết, cung
  19. cấp cho chúng ta những nhận xét thấu đáo hơn về hoạt động của một ngân hàng trong tương lai. 2.2. CÁC CÔNG CỤ CẠNH TRANH Comment [VC1]: Có thể in đậm hoặc nghiêng đối với những tiêu đề dạng này. 2.2.1. Cạnh tranh bằng lãi suất Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lược rõ ràng nhất, trong đó công ty cố gắng trở thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các ngành sản xuất khác, đây có thể là một trong những chiến lược hiệu quả nhất và giá cả có thể được sử dụng như một yếu tố cơ bản đánh giá trình độ cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên, ngành ngân hàng có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi phải có những phân tích khác. Dữ liệu về giá của các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các ngành khác nhưng rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng. Cạnh tranh bằng lãi suất hiện nay đang được sử dụng một cách mạnh mẽ ở Việt Nam theo 2 khía cạnh: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. Lãi suất huy động được tăng lên nhằm thu hút thêm nhiều vốn cho ngân hàng, tạo cho ngân hàng một cơ sở vững chắc trong các hoạt động tài chính khác. Trong khi đó các ngân hàng cạnh tranh bằng việc hạ lãi suất cho vay. Việc một ngân hàng thực hiện chính sách dẫn đầu về giá nhằm có lợi nhuận thu được từ việc thu hút được nhiều khách hàng tỏ ra không mấy hiệu quả trong môi trường cạnh tranh trong ngành ngân hàng. Cho dù lãi suất cho vay thấp nhằm kích cầu tín dụng trung và dài hạn trong thời điểm vốn huy động bị ứ đọng không cho vay được, đồng thời tạo cơ hội cho các dự án được thực hiện với chi phí rẻ hơn, có thể tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế nhưng lại có những tác hại nghiêm trọng tới khả năng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2002 (tháng 8) đã phải tăng lãi suất huy động lên 0.66-0.68%/tháng, và cả 3 ngân hàng thương mại quốc doanh là Ngân hàng Đầu tư, Ngân
  20. hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Công thương cũng đồng loạt phải tăng lãi suất huy động, trong khi đó, lãi suất cho vay không tăng cao được. Lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại hiện ở mức khoảng 0.75%/tháng, phổ biến ở mức 0.85%/tháng trong khi phải trừ đi tiền gửi dự trữ bắt buộc, dự phòng…. Theo nhiều tính toán, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay chỉ là 0.15%/tháng trong khi mức cho phép của Quốc hội là 0.35%/tháng. Hậu quả là rủi ro lớn, thu nhập thấp, làm suy yếu sức mạnh tài chính, lương thấp. Như vậy, cạnh tranh về lãi suất là như một con dao hai lưỡi mà mặt có hại nhiều hơn có. Tuy nhiên, với những cách nhìn khác về việc sử dụng công cụ này, ta có thể dễ dàng nhận thấy là các ngân hàng có thể sử dụng những lãi suất khác nhau cho những khách hàng khác nhau trong những khoản vay thoạt trông là cùng loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các nhân tố rủi ro khác nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo đảm, thời điểm trả nợ …. Khách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn không cần vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thường nhận được lãi suất thấp hơn so với những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn nào. Tóm lại, cạnh tranh bằng lãi suất không phải lúc nào cũng đem lại tác dụng mong muốn. Để sử dụng công cụ này có hiệu quả, chúng ta cần phải có những biện pháp cụ thể và xác đáng. 2.1.2.2. Cạnh tranh bằng sự khác biệt và uy tín của ngân hàng Như trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo được sự khác biệt với các ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lược riêng thật hiệu quả nhằm đạt được sự tán thưởng và ủng hộ cao nhất của khách hàng, từ đó mới có thể hy vọng sẽ tạo được chỗ đứng trên thị trường và hoạt động có chất lượng, vượt lên hẳn các đối thủ cạnh tranh trước đó. Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một số
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0