intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nguyên liệu đến quá trình sinh trưởng, phát triển và năng xuất của nấm Ngọc Châm (Hypsizigus marmoreus)

Chia sẻ: Bùi Văn Công | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

155
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo đề tài "Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nguyên liệu đến quá trình sinh trưởng, phát triển và năng xuất của nấm ngọc châm" dưới đây để nắm bắt được tốc độ sinh trưởng, phát triển và năng suất của chủng nấm Ngọc Châm trên các loại nguyên liệu với tỷ lệ khác nhau từ đó tìm ra tỷ lệ các loại nguyên liệu thích hợp nhất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nguyên liệu đến quá trình sinh trưởng, phát triển và năng xuất của nấm Ngọc Châm (Hypsizigus marmoreus)

  1. PHẦN I : MỞ ĐẦU Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, nấm ăn được biết đến từ hàng ngàn  năm do có mùi vị và hương thơm hấp dẫn. Không những thế nhiều công trình  nghiên cứu đã cho thấy nấm ăn có giá trị dinh dưỡng cao, không chỉ giàu hàm  lượng protein, glucid, lipid, mà còn chứa rất nhiều các chất khoáng, đặc biệt là  các axit amin không thay thế, các vitamin thiết yếu như A, B, C, D, E…Trong y  học, nấm ăn được biết đến như một phương thuốc để: điều hòa huyết áp,  chống béo phì, tăng sức đề kháng, phòng chống ung thư. Nấm còn được coi như  một loại “rau sạch”, “thịt sach”, do không trồng trên đất, không phải bón phân,  không phun thuốc trừ sâu, thời gian trông và thu hoạch rất nhanh, nên các sản  phẩm dễ dàng đạt tiêu chuẩn “rau sạch”. Hơn thế, trồng nấm là một công việc  không phức tạp, nguyên liệu dễ kiếm. Trước hết, nó cung cấp nguồn thực  phẩm phục vụ tiêu dùng hàng ngày. Nếu trồng nhiều có thể bán nấm tươi, chế  biến muối, phơi sấy khô, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình và xã hội.  Phế thải sau thu hoạch hết nấm thì chuyển sang làm phân bón, chất đốt… Sản xuất nấm là một trong những nghề rất phù hợp với nông nghiệp,  nông thôn nước ta. Mỗi năm, nếu tính sản lượng rơm rạ, bã mía, thân lõi ngô,  mùn cưa, bông phế loại ở các nhà máy dệt, cây gỗ, cỏ…đạt trên 40 triệu tấn.  Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào để trồng nấm mà không phải quốc gia nào  trên thế giới cũng có được. Hàng triệu lao động trong nông nghiệp và cả ở các  thành phố, thị xã, thị trấn, đều có thể tham gia sản xuất nấm. Những điều kiện  khác như: vốn đầu tư, khoa học công nghệ, thời tiết khí hậu và đặc biệt thị  trường tiêu thụ cả nội tiêu và xuất khẩu hoàn toàn cho phép chúng ta nhanh  chóng phát triển sản xuất nấm trên quy mô lớn. Hiện nay Trung Tâm Công Nghệ Sinh Học Thực Vật – Viện Di Truyền   Nông   Nghiệp   đang   nuôi   trồng   một   loại   giống   nấm   mới:   nấm   Ngọc   Châm  (Hypsizigus marmoreus) có nguồn gốc từ  Nhật Bản. Trên thị  trường tiêu thụ 
  2. trong nước, các loại nấm cao cấp như: đùi gà, nấm kim châm, nấm ngọc châm,  nấm trà tân…có giá bán rất cao gấp 2 đến 3 lần các lại nấm ăn thông thường.   Nhận thấy tiềm năng phát triển, giá trị  kinh tế  của nấm Ngọc Châm đem lại  nên việc nghiên cứu và phát triển giống nấm này ở Việt Nam là điều kiện cần  thiết, đa dạng hóa chủng nấm và góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng nấm. Việc   chọn nguyên liệu trong sản xuất nấm là một khâu rất quan trọng trong việc tăng  năng xuất, chất lượng nấm sản phẩm. Nguyên liệu đạt yêu cầu cần phải có  đặc điểm sau: có nhiều ở địa phương, dễ bảo quản và chế biến, cho năng xuất  chất lượng nấm cao. Vì vậy với sự  giúp đỡ  của Thầy Ngô Xuân Nghiễn cùng  tập thể cán bộ công nhân viên của Viện Di Truyền Nông Nghiệp, tôi tiến hành   nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nguyên liệu đến   quá   trình   sinh   trưởng,   phát   triển   và   năng   xuất   của   nấm   ngọc   châm  (Hypsizigus marmoreus)” Mục tiêu đề tài : ­ Bước đầu so sánh, đánh giá tốc độ sinh trưởng, phát triển và năng suất  của chủng nấm Ngọc Châm trên các loại nguyên liệu với tỷ lệ khác nhau từ đó  tìm ra tỷ lệ các loại nguyên liệu thích hợp nhất. ­ Khảo sát  ảnh hưởng môi trường xung quanh (ngoại cảnh) tới sự  sinh   trưởng, phát triển, tỷ lệ nhiễm bệnh và năng suất của chủng nấm Ngọc Châm  nghiên cứu. ­ Bước đầu xây dựng quy trình công nghệ nuôi trồng nấm Ngọc Châm  trên cơ chất mới.
  3. PHẦN II :TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Vai trò của nấm trong tư nhiên và đời sống con người. 2.1.1 Vai trò của nấm trong tự nhiên. Nấm trong vị  trí phân loại sinh học: hiện nay hệ  thống phân loại của   R.H.Whiteker (1969) trong hệ thống phân loại giới là được chấp nhận, theo hệ  thống này thì giới được chia làm 5 giới: King dom (Giới) Monera Protista Fungi  Plantae Animani Giới  Giới  Mycota Giới  a khởi  nguyên  Giới  thực vật Giới  sinh sinh nấm động  vật Ngoài ra còn có hệ thống phân loại của A.L.Takhtadjan (1973) chia giới  thành 4 giới sau: Giới Mycota: gồm vi khuẩn và vi khuẩn lam;
  4. Giới Nấm; Giới thực vật; Giới động vật. Dù theo quan điểm nào thì nấm vẫn được coi như  một giới riêng tương  đương với giới thực vật và động vật trong hệ thống phân loại. Hầu hết các loại nấm không có khả năng quang hợp như thực vật do đó  nấm   không   có   đời   sống   tự   dưỡng   (Autroph)   mà   có   đời   sống   dị   dưỡng  (Hetetroph). Cũng như  các vi sinh vật, nấm đóng vai trò quan trọng như  là một  khâu trong chu trình tuần hoàn các vật chất tự  nhiên: phân hủy các hợp chất   phức tạp thành các hợp chất đơn giản hơn và các chất vô cơ, trả lại nguồn dinh   dưỡng cho đất. Nấm giải quyết vấn đề  phế  thải trong hành tinh chúng ta và khắc phục  những “vết thương” của thiên nhiên do con người tạo ra trong hoạt động sống   của mình. Hơn một nửa tổng lượng sinh khối do cây cối sản sinh ra chưa được   sử  dụng, chủ  yếu là rơm rạ, thân cây, cành nhỏ, gốc rễ  cây và cả  những phế  liệu, phế loại của các nhà máy công nghiệp. Hiện nay, Nhiều nước đã xây dựng  công nghệ  nuôi trồng nhiều loại nấm có chất lượng trên các loại nguyên liệu  này.  Ở  một số  nước ta bắt đầu xử  lý rác thải của các thành phố  và khu vực  đông dân cư để làm giá thể nuôi trồng nấm. Một khía cạnh cực kỳ quan trọng của nấm ăn là vai trò của chúng trong  nghề trồng rừng. Cho tới nay chúng ta đã biết được hàng trăm loài nấm có quan  hệ cộng sinh vời hàng chục họ thực vật bậc cao bao gồm các cây gỗ rừng, cây   ăn quả, cây cảnh, cây thuốc cũng như cây lương thực. Ý nghĩa kinh tế của nấm  trong nghề trồng rừng không chỉ là về sản lượng thu hái hàng năm mà nấm còn  đóng vai trò quan trọng trong việc trồng lại rừng ở những vùng hoang mạc cũng   như các vùng đồi núi trọc rộng lớn. Những công trình nghiên cứu gần đây đã chỉ  ra rằng, một trong nhưng biện pháp quan trọng bậc nhất của nghề trồng rừng,  
  5. là trồng thông non đã chủ  động tạo ra rễ  nấm, nhiều vùng rừng của nước ta   cũng như cả những vùng rừng trên thế giới đều được cải tạo bằng con đường   này. 2.1.2 Vai trò của nấm trong đời sống con người 2.1.2.1 Giá trị dinh dưỡng của nấm Ngoài các đặc điểm như  nhiều đạm, ít mỡ, ít calo, nấm ăn còn có các  chất có ích cho cơ thể như đa đường, khoáng và sinh tố. Chất đạm của nấm ăn,   của thực vật, của động vật sẽ là nguồn đạm quan trọng của loài người sau này. Theo phân   tích của các nhà khoa học, trong chất hữu cơ  của 112 loài   nấm ăn, hàm lượng bình quân của protein là 25%, lipid 8%, gluxit 60% (trong đó  đường 58%, xơ  8%), chất tro 7%. Hàm lượng chất hữu cơ trong mỗi loài nấm  ăn có sự khác nhau rất nhiều, có quan hệ mật thiết với ngoại cảnh và điều kiện   sống. ● Protein   Hàm lượng protein có chứa trong hầu hết các loại nấm đều rất cao (nấm  mỡ  47,42% tính theo chất khô, nấm rơm 33,77%...). Không những thế, protein  của nấm lại có chứa khoảng 17 ­ 19 loại axit amin như   leucine, iso leucine,  tyrosin, methionine, phenylalaline, lysine, histidine, arginine, cystine, tryptophane,  asparagine, threonine, glutamine, proline, glycine, alanine, valine, trong đó có  9  loại axit amin cần thiết cho cơ thể con người, những loại đó có rất ít trong thức  ăn từ  thực vật. Theo tài liệu thống kê thì Nấm Mỡ, Nấm Hương, Nấm Kim   Vàng, Nấm Đầu Khỉ, Nấm Mộc Nhĩ…hàm lượng axit amin cần thiết chiếm   40,53% tổng hàm lượng axit amin. ●  Axit nucleic Axit nucleic là hợp chất cao phân tử  có tác dụng quan trọng trong quá  trình sinh trưởng và sinh sản của cơ thể sinh vật cũng là vật chất cơ bản của di  
  6. truyền, (Trương Thụ  Đình, 1982) trong Nấm Rơm, Nấm Sò…hàm lượng axit  nucleic đạt tới 5,4 ­ 8,8% (khô) nhưng có sự  biến đổi theo từng giai đoạn sinh   trưởng. ●  Lipid Hàm lượng chất béo thô trong nấm ăn dao động từ  1­20% theo trọng  lượng thô và tất cả đều thuộc các axit béo không no. ● Gluxit và xenlulo Trong nấm ăn có tới 30 ­ 93% là gluxit, gluxit trong nấm ăn không chỉ là  chất dinh dưỡng mà còn là chất đa đường (polysacchride) và hợp chất của chất  đa đường có tác dụng chữa bệnh, nhất là chống khối u. Xenlulo trong nấm ăn  chiếm khoảng 2,5 ­ 21,5%, trung bình là 8%, chúng có tác dụng làm giảm lượng   cholesterol trong máu nhờ thế mà chống được sỏi thận và huyết áp cao ● Vitamin và chất khoáng Các vitamin có trong nấm, những loại tuy chỉ  cần với lượng nhỏ  song   không thể  thiếu được trong các hoạt động trao đổi chất của cơ  thể, cũng rất   phong phú. Chúng bao gồm các vitamin  nhóm B như  B1, B2, B6, B12, vitamin  C, PP…Trong nấm rơm, hàm lượng vitamin C đạt 206,27 mg/100g tươi và chỉ  cần ăn 3 ­ 4g nấm hương khô là đáp ứng được nhu cầu vitamin D trong 1 ngày Nấm ăn còn chứa nhiều loại khoáng chất mà cơ  thể  người dễ  hấp thu,  trong đó bao gồm rất nhiều nguyên tố vi lượng không thể thiếu trong hoạt động   trao đổi chất của cơ  thể  của con người như  canxi, sắt, mangan, k ẽm, nhôm,   silic, đồng, magie, clo, natri, kali. Đặc biệt là không có các độc tố. Do vậy nấm   được coi như là một loại rau sạch và thịt sạch cần được sử dụng trong các bữa   ăn hàng ngày. ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới người ta quý nấm hơn thịt. 2.1.2.2 Giá trị dược liệu của nấm.
  7. Theo thống kê, trên thế giới có khoảng 250000 loài nấm,với gần 300  chủng nấm có giá trị dược liệu nhưng hay sử dụng nhất chỉ có khoảng 20 ­ 30  loại. Ngoài việc cung cấp thực phẩm, một số loại nấm ăn còn có giá trị làm  thuốc chữa bệnh. Ngày nay các nhà khoa học thống kê được có trên 60 loại  kháng sinh từ nấm, nhưng chưa ứng dụng được nhiều vì chúng có hoạt tính  thấp. Nấm sinh ra các chất có tính kháng sinh để tăng tính cạnh tranh trong môi  trường sống tự nhiên. Các hợp chất có tính kháng sinh là các polyacetylen, hợp  chất chứa phenol, purin, quinon. Nấm ăn có chứa sắt, các chất vitamin, canxi và protein. Chúng rất tốt cho  các bà mẹ mang thai và bệnh nhân tiểu đường, bệnh nhân cao huyết áp. Nấm ăn  có các đặc tính dược học và được biết đến như là thuốc chữa bệnh về máu, tim  mạch, giải độc cho gan… ●  Tác dụng chống khối u Nấm có giá trị chữa bệnh do hầu hết nấm có chứa chất đa đường. Ở  Nhật Bản người ta chiết xuất chất đa đường từ bào tử nấm để chống khối u,  khả năng chống khối u trên cơ thể đạt 80 – 90% có ở 8 loại nấm. Hiện nay các  chất đa đường của nấm Linh Chi, Trư Linh, Nấm Hương đã được chiết xuất và  chế thành thuốc sử dụng trên lâm sàng tại nhiều bệnh viện để phòng trừ ung  thư.  ●  Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể Các chất đa đường chiết xuất từ nấm có tác dụng khôi phục và tăng khả  năng hoạt động của tế  bào lympho. Dịch chiết Linh Chi có tác dụng làm tăng  hoạt lực cơ thể, một số còn có tác dụng trong điều trị viêm gan, viêm phế quản   mãn tính và một số  bệnh viên phổi khác. Các nhà khoa học Trung Quốc đã  chứng minh tác dụng khả  năng tăng cường miễn dịch của nấm Linh Chi, Vân  Chi, Mộc Nhĩ Trắng,…
  8. ●  Tác dụng điều trị tim mạch Sử dụng quả thể Nấm Mộc Nhĩ Trắng, Mộc Nhĩ Đen có tác dụng chữa  bệnh đau nhói, đau thắt tim, dùng lâu sẽ khỏi bệnh. Linh Chi và Nấm Hương có  tác dụng hạ hàm lượng mỡ và cholesterol trong máu. Nấm Phục Sinh và Mộc  Nhĩ  có tác dụng tăng sức bóp cho cơ tim, ức chế tích tụ của tiểu cầu, có lợi cho  việc hạn chế xơ cứng động mạch. Chất purine chiết xuất từ  Nấm Hương có tác dụng hạ  hàm lượng mỡ  trong máu rất mạnh, so với thuốc làm giảm hàm lượng mỡ  thông thường như  antonin thì mạnh gấp 10 lần (Tôn Bồi Long, 1997). Các nhà khoa học Nhật có   bản khuyến cáo dùng thường xuyên 9 gam nấm hương khô/ ngày có tác dụng   giảm cholesterol trong máu và phòng chống xơ cứng động mạch. Đa số nấm ăn đều có tác dụng làm giảm huyết áp hoặc không gây tăng  huyết áp như: Nấm Mỡ, Nấm Rơm, Nấm Kim Châm, Mộc Nhĩ… Đặc biệt  Nấm Linh Chi có tác dụng đặc hiệu với bệnh cao huyết áp. ●  Tác dụng giải độc gan, bổ dạ dày Sử dụng chất đa đường chiết xuất từ Linh Chi, Nấm Hương có tác dụng  bổ gan, khống chế hiệu quả đối với viêm gan do virus đạt hiệu quả 97 – 98%,  bổ trợ việc điều trị ung thư gan (GS. Lâm Chí Bân, 2000). Trung Quốc chế biến   thành công viên nhộng nấm rơm (Armillaricllo tablescens) điều trị bệnh viêm túi  mật, viêm gan mãn, cấp có kết quả tốt. Thành phần hóa sinh của nấm đầu khỉ  (Hericium erinaceus) có tác dụng  bổ ngủ tạng, giúp tiêu hóa tốt, chống viêm loét dạ dày. Nấm sò có các loại hoạt   tính “bình khí, sát trùng” bởi trong nấm có nhiều loại axit amin, mannose có tác  dụng phòng trị đối với chứng viêm gan, loét dạ dày, sỏi niệu đạo và sỏi túi mật.   Nấm kim châm chứa nhiều arginine và lysine có tác dụng tương tự. ●  Tác dụng hạ đường huyết
  9. Đái tháo đường là một trong ba bệnh quan trọng đang uy hiếp sức khỏe   con người chỉ sau tim mạch và ung thư. Hoạt chất đa đường của mộc nhĩ trắng  có tác dụng làm giảm tổn hại đến tế  bào tuyến tụy, gián tiếp làm hạ  đường   trong máu. Các nhà khoa học Nhật Bản dùng nấm Đông Cô Trùng Hạ Thảo để  kích thích tuyến tụy tiết ra chất pancreatin làm hạ đường huyết, chất đa đường  Ganoderma A và Ganoderma C trong nấm Linh Chi có tác dụng làm giảm lượng  đường trong máu. ●  Tác dụng chống phóng xạ, khử gốc tự do Khi phẫu thuật khối u bằng phẩu thuật hoặc chạy tia phóng xạ, dùng  nấm ăn như Nấm Hương, Linh Chi, Mộc Nhĩ Trắng có tác dụng bồi bổ cơ thể,   giảm đau và kéo dài tuổi thọ người bệnh. Nấm Linh Chi có hoạt chất tryterpen, Nấm Mộc Nhĩ Đen có chất đa   đường làm tăng hoạt lực của men oxy hóa (supperoxide dismutase) các chất này  đều có tác dụng loại trừ được các gốc tự do – O2 và hydroxit – OH. 2.1.2.3 Lợi ích kinh tế của nấm. Việc trồng nấm hiện nay đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Trong từng  gia đình với diện tích nhỏ hay lớn đều có thể trồng được nấm để ăn và bán.  Nếu trồng nấm trong nhà và dùng nguyên liệu là rơm, rạ kê giàn thành 5 tầng  thì cứ 1m2 thu được 7 – 10kg nấm tươi, nếu trồng ở ngoài trời thì 1m2 đất thu  được ít nhất là 1kg nấm tươi. Nấm có chu kỳ nuôi trồng ngắn và rất ngắn, ví dụ: Nấm Rơm 20 – 25  ngày, Nấm Hương, Mộc Nhĩ 60 – 75 ngày. Vì thế khi gặp khí hậu không thuận  hoặc biến động của thị trường thì người sản xuất vẫn có thể dừng lại hoặc  chuyển hướng canh tác. Đây là lợi thế của nghề trồng nấm. Nguyên liệu trồng nấm thường rẻ (phế liệu nông nghiệp, lâm nghiệp,  công nghiệp) và có rất nhiều ở mọi miền đất nước. Sau khi thu hoạch vụ nấm,  có thể sử dụng cho chăn nuôi và trồng trọt (như làm phân hữu cơ).
  10. Nấm là loại thực phẩm có giá trị xuất khẩu cao: Nấm rơm, nấm mỡ muối: 1.200 – 1.300 USD/tấn Mộc nhĩ khô: 3.500 – 4.300 USD/tấn Nấm hương khô: 12.000 – 13.000 USD/tấn Nấm sò khô: 6.000 – 7.000USD/tấn Trồng nấm không những cải thiện đời sống của nhân dân ta, bổ sung cho  khẩu phần ăn hàng ngày, góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho cộng đồng  mà còn giải quyết được lao động nhàn rỗi ở các địa phương, tạo việc làm và  nguồn thu nhập đáng kể trong tình hình lao động hiện nay. 2.3 Sự phát triển của nghề trồng nấm. 2.1.3.1 Sự phát triển của nghề trồng nấm trên thế giới. Ngành sản xuất nấm đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng  trăm năm nay. Hiên nay người ta đã biết được có khoảng 2000 loài nấm ăn  được, trong đó có 80 loài nấm có chất lượng đã và đang được nghiên cứu và  nuôi trồng (UNESCO ­2004). Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới  ngày càng phát triển mạnh mẽ, nó đã trở thành một ngành công nghiệp thực  phẩm thực thụ, sản lượng nấm ăn nuôi trồng trên toàn thế giới đạt trên 10 triệu  tấn (2004) nấm tươi. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ trồng nấm đã trở thành một ngành công nghiệp lớn  được cơ giới hóa toàn bộ nên năng suất và sản lượng rất cao. Các loại nấm  được nuôi trồng chủ yếu là nấm mỡ, nấm sò theo quy mô dây chuyền công  nghiệp chuyên môn hóa cao, có nhà máy chuyên xử lý nguyên liệu (compost)  7000 tấn compost/1 tuần đã sử dụng robot trong các khâu nuôi trông chăm sóc và  thu hái nấm. Nhiều nước Châu Á, trồng nấm còn mang tính chất thủ công, năng suất  không cao. Các nước Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Nhật Bản và vùng lãnh thổ 
  11. Đài Loan áp dụng các kỹ thuật tiên tiến và công nghiệp hóa trong nghề trồng  nấm đã có mức tăng trưởng hàng trăm lần trong vòng 10 năm. Nhật Bản có  nghề trồng nấm truyền thống là nấm Đông Cô (Lentinula edodes), mỗi năm đạt  gần 1 triệu tấn. Hàn Quốc nổi tiếng với nấm Linh Chi (Ganoderma lucidum)  mỗi năm xuất khẩu thu về hàng trăm triệu USD. Ở Trung Quốc từ những năm  1960 bắt đầu trồng nấm, có cải tiến kỹ thuật nên tăng năng suất gấp 4 – 5 lần  và sản lượng tăng vài chục lần. Tổng sản lượng nấm ăn của Trung Quốc  chiếm 60% sản lượng nấm ăn của thế giới.  Nhìn chung nghề trồng nấm phát triển mạnh và rộng khắp, nhất là trong  20 năm trở lại đây. Sản xuất nấm đem lại nguồn thực phẩm, tạo việc làm tại  chỗ, vệ sinh môi trường đồng ruộng chống lại việc đốt phá rừng, đốt rơm rạ,  tạo ra nguồn phân hữu cơ cho cải tạo đất, góp phần tích cực vào chuyển hóa  vật chất. Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong nghề nấm về chọn tạo  giống nấm, về kỹ thuật nuôi trồng và sự bùng nổ thông tin, nghề nấm đã và  đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, được coi như nghề xóa đói, giảm  nghèo và làm giàu, thích hợp với các vùng nông thôn và miền núi. 2.1.3.2 Sự phát triển nghề trồng nấm ở Việt Nam Tổng sản lượng các loại nấm ăn và nấm dược liệu của Việt Nam hiện  nay khoảng trên 150000 tấn/ 1 năm. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 triệu  USD/năm. Ở Việt Nam đang nuôi trồng phổ biến các loại nấm là: Nấm rơm trồng ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long (Đồng Tháp, Sóc  Trăng, Trà Vinh…) chiếm 90% sản lượng nấm rơm cả nước. Mộc nhĩ tập trung ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình  Phước…) chiềm 50% sản lượng mộc nhĩ toàn quốc. Nấm mỡ, nấm sò, nấm hương chủ yếu được trồng ở các tỉnh miền bắc  sản lượng mỗi năm đạt khoảng 30000 tấn.
  12. Nấm dược liệu: Linh chi, vân chi, đầu khỉ…mới được nuôi trồng ở một  số tỉnh thành, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh phúc, TP Hồ Chí Minh…)  sản lượng đạt khoảng 150 tấn. Một số nấm khác như: Ngọc châm, kim châm, chân dài… đang được  nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm, sản lượng chưa đáng kể. Nghề trồng nấm ở Việt Nam đang phát triển nhưng ở quy mô nhỏ lẻ hộ  gia đình, trang trại, mỗi năm sử dụng vài tấn nguyên liệu có sẵn tới vài trăm  tấn/ 1 cơ sở sản xuất nấm.  Tiềm năng và những điều kiện thuận lợi của nghề nấm rất phù hợp  nước ta vì: ­ Điều kiện thiên nhiên ưu đãi, nhất là các tỉnh phía nam, chênh lệch giữa   nhiệt độ tháng nóng và tháng lạnh không lớn lắm nên có thể  trồng nấm quanh   năm. Do gần biển và nhiều sông hồ  nên không khí chứa nhiều hơi nước rất   thích hợp cho nấm. Độ ẩm thấp nhất tại Hồ Chí Minh cũng không quá 80% ­ Nguồn nguyên liệu dồi dào, riêng 20 ­ 30 triệu tấn rơm rạ trong 1 năm  cũng đủ  cho ra đời 2 triệu tấn nấm tươi, trị  giá 1 tỷ  USD, thậm chí nếu chế  biến thành đồ  hộp còn cho giá trị  cao hơn, lượng gỗ  khai thác bình quân hàng   năm là 3.5 triệu m3  tạo ra 1 lượng mùn cưa khổng lồ  cho sản xuất nấm, chưa   kể các phế liệu khác cũng chiếm số lượng rất lớn như bã mía, bông phế loại… ­ Lực lượng lao động đông đảo, giá công nhân lao động rẻ, đội ngũ cán  bộ kỹ thuật được rèn luyện ngày càng nhiều ­ Nhiều nơi có nghề  trồng nấm lâu đời như  Bình Chánh (Hồ  Chí Minh),   Long An…hoặc đang phát triển nghề nấm như Cần Thơ, Sóc Trăng, Đà Nẵng ­ Vốn đầu tư ban đầu để trồng nấm thấp hơn so với các nghành sản xuất   khác
  13. ­ Kỹ thuật trồng nấm không phức tạp, có thể dễ dàng tiếp thu được công  nghệ trong một thời gian ngắn ­ Thị trường tiêu thụ nấm trong nước và trên thế giới tăng nhanh Mặc dù rất có tiềm năng để phát triển song để nghề nấm trở thành một   nghành công nghệ  thực phẩm thực thụ  thì cũng còn nhiều khó khăn cần phải   khắc phục  Mặc dù đứng thứ  3 thế  giới về  xuất khẩu, nhưng hiện sản xuất nấm   của nước ta vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún và phải bán qua tay người khác. Một số  doanh nghiệp cảnh báo, mục tiêu đạt 1 triệu tấn nấm vào năm 2010 sẽ khó đạt   được nếu chúng ta không biết điều tiết thị trường, hình thành vùng nguyên liệu   và nhất là xây dựng thương hiệu để nâng cao giá bán. Giá   các   loại   nấm   ăn   đang   ở   mức   cao:   nấm   mỡ   muối   khoảng   1.200   USD/tấn; mộc nhĩ, nấm hương, nấm rơm 1.700 ­ 6.500 USD/tấn. Trong khi đó,  giá nấm sản xuất trong nước  ở  thời điểm đắt nhất cũng chỉ  28.000 ­ 30.000   đồng/kg, nấm rơm 10.000 ­ 15.000 đồng/kg.  Điều đáng nói là do nguồn nguyên liệu không đảm bảo về  chất lượng,   sản phẩm không đồng đều về  kích thước, mẫu mã,  cả  nước sản xuất được  100.000 tấn nấm nguyên liệu. Trong số đó, 50% sản lượng nấm tiêu thụ vẫn là   nấm tươi, hoặc chỉ  xuất khẩu dưới dạng thô. Các dạng nấm muối, nấm sấy  phần lớn được chế  biến tại gia đình hoặc cụm gia đình, bằng các thiết bị  thủ  công và chất lượng chưa cao. Giá nấm xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 60%   so với sản phẩm cùng loại được sản xuất tại Thái Lan, Trung Quốc. Do cả nước chỉ có 3 ­ 5% số cơ sở trồng và chế biến nấm tập trung, với   quy mô 10 ­ 15 tấn nguyên liệu/vụ,  vùng sản xuất nguyên liệu chưa đủ lớn, chỉ  có một số ít địa phương đang dần hình thành quy mô sản xuất hàng hoá còn đa   phần bà con vẫn xem nấm là cây trồng lúc nông nhàn, dẫn đến lượng cung luôn  
  14. thấp hơn nhu cầu. Tại một số địa phương, xuất hiện tình trạng sử dụng giống   chất lượng kém, dẫn đến hiện tượng bất ổn trong phong trào phát triển nấm ở  Việt Nam thời gian qua.        Bên cạnh đó, do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên dẫn  tới tình trạng nấm làm ra không biết bán cho ai, trong khi doanh nghiệp thì khan   hàng, GS.TS Nguyễn Hữu Đống (Trung Tâm Công Nghệ  Sinh Học Thực Vật ­  Viện Di truyền Nông Nghiệp) cho rằng: “Việt Nam có nhiều khả  năng xuất   khẩu nấm nhưng do vùng sản xuất nguyên liệu chưa đủ  lớn nên các doanh  nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua, chế biến và xuất khẩu” Một hạn chế không thể  không nhắc tới là nấm ăn chưa có thương hiệu   và có nguy cơ chịu chung số phận như gạo, chè, cà phê, hạt điều khi mà các nhà  xuất khẩu nấm Việt Nam phải chịu để  các doanh nghiệp nước ngoài chế  biến   và đóng gói lại sản phẩm của mình với nhãn mác mới rồi tiếp tục bán ra thị  trường với giá cao hơn… Rõ ràng, việc tạo dựng thương hiệu nấm vẫn là bài   toán chưa có lời giải. 2.1.4 Đặc điểm sinh học nấm Ngọc Châm (Hypsizigus maroreus) Nấm Ngọc Châm tên khoa học la Hypsizigus marmoteus là tên của giống   nấm Ngọc Châm từ Nhật Bản. Là loại nấm duy nhất có mùi giống với hải sản  (cua) nên còn có tên gọi khác là nấm hải sản, loại nấm này chứa đầy đủ 8 loại  a.a không thay thế ngoài ra còn chứa một vài loại polysacharide. Nó thường sinh  trưởng trên các cây họ lá rộng trong giới tự nhiên, ví dụ như cây cây sồi, vì thế  mà nấm này còn có tên khác là “nấm sồi”. Việc nuôi cấy nhân tạo nấm này bắt   nguồn từ  Nhật Bản bằng cách sử  dụng những cây lá rộng như  những nguyên  liệu nuôi cấy trong những năm của thập kỷ 70. Từ tháng 4 tháng 9 năm 1993, thí  nghiệm   nuôi  cấy   Hypsizigus   marmoreus   với   khuẩn  thảo  đã   được   tiến   hành  thành công bởi ông Lin Zhanhua  ở  thành phố  Kaga của Nhật Bản. Hypsizigus  
  15. marmoreus được người tiêu dùng đón nhận vì nó giàu dinh dưỡng, hương thơm  đặc trưng, mùi vị  hấp dẫn. Còn  ở  Việt Nam chủng nấm Ngọc Châm là chủng  giống còn khá mới mẻ, đang trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm nên sản   lượng nấm Ngọc Châm chưa đáng kể nhưng bước đầu cũng đã đem lại những  kết quả khá tốt. Nấm Ngọc Châm có 20 chủng, nhưng hiện nay phổ  biến nhất là hai  chủng: ­ Ngọc Châm Trắng ­ Ngọc Châm Nâu 2.1.4.1 Nấm Ngọc châm trong hệ thống phân loại Nấm Ngọc châm có tên khoa học là Hypsizygus marmoreus H.E. Bigelow,  tên tiếng Nhật là Bunashimeji, tên tiếng Hoa là Yuxun hay Bayuxun, còn tên  tiếng Anh là Crab mushroom hay Beech mushroom.  Giới nấm: Fungi; Nghành nấm thật: Eumycota; Lớp: Homobasidiomycetidae; Bộ: Agaricales; Họ: Tricholomataceae; Thuộc chi: Hypsizygus; Thuộc loài: marmoreus. 2.1.4.2 Đặc điểm hình thái Quả thể nạc, mọc thành chùm và hiếm khi được phát tán. Chúng thường   mọc thành cụm trong nuôi trồng nhân tạo, số lượng và kích thước quả thể  đối  với những cơ chất và phương pháp nuôi cấy khác nhau sẽ khác nhau. Nếu nuôi   cấy trong chai nhựa thì số  lượng quả  thể  của mỗi cụm có thể  từ  6 – 60 cánh  nấm. Mũ nấm hình bán cầu, bề  mặt mũ nấm trơn, rìa phẳng hoặc hơi cong. 
  16. Đường kính mũ nấm từ 2 – 15 cm, phần thịt nấm màu trắng và đặc. Phiến nấm   mỏng màu trắng ngả ra hơi vàng, tự do và dài không đều. Cuống nấm hình trụ,   phần lớn các cuống nấm hơi xoăn, màu trắng xám, rắn và nằm ở trung tâm, khi   già thì mềm và dài khoảng 3 – 15cm. Ban đầu nó dày hơn  ở  phần đáy, sau đó   hầu như  dày bằng nhau khi trưởng thành. Bào tử  đính thứ  sinh thì trong suốt,   mượt, hình cầu, đường kính khoảng 4 – 7 µm, dấu vết bào tử màu trắng. Hình 1: Đặc điểm hình thái nấm Ngọc Châm Mũ – phiến nấm Tai nấm Tai nấm cắt ngang Phiến nấm nhìn dưới kính hiển vi 2.1.4.3 Điều kiện sinh trưởng và phát triển của nấm Ngọc Châm. Nấm Ngọc Châm có thời gian sinh trưởng phát triển khoảng 90 – 105   ngày. ● Dinh dưỡng
  17. Đa số  nấm ăn (trong đó có Ngọc Châm) là sinh vật dị  dưỡng, sử  dụng   xenlulozo ở trạng thái gián tiếp. Vì vậy để tăng năng suất, chất lượng của nấm  người ta thường bổ sung thêm nguồn cacbon, nitơ, vitamin và khoáng chất bằng  cách bổ sung thêm cám gạo, cám ngô, bột đậu tương, bột nhẹ, đường… ­ Cacbon: Khoảng một nửa trọng lượng khô của tế  bào nấm được tạo thành từ  cacbon điều đó chỉ ra vai trò quan trọng của nó trong tế bào, là yếu tố bắt buộc   cho nấm tăng trưởng và phát triển, nó gồm các loại đường hỗn hợp và đường  đơn. ­ Nitơ: Là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu được ở  nấm được lấy từ  các axit   amin và amôn. ­ Vitamin và khoáng chất: Nấm Ngọc Châm cũng cần vitamin như  B1, B2… và các nguyên tố  vi  lượng như  Ca, P…cho sự  sinh trưởng và phát triển nên trong quá trình trồng  nấm thường bổ sung bột nhẹ (CaCO3). ● Nhiệt độ ­ Nấm Ngọc Châm là loại nấm ra quả thể ở nhiệt độ thấp và biến động.   Hệ  sợi có thể  phát triển  ở  nhiệt độ  từ  4 – 30  oC, trong khi vùng nhiệt độ  tốt  nhất là từ 22 – 26 oC. Quả thể phát triển thích hợp ở vùng nhiệt độ 8 – 28  oC và  phát triển tốt nhất trong khoảng 13 – 15 oC. ● Độ ẩm ­ Độ ẩm của cơ chất thích hợp cho sự phát triển của hệ sợi là 65 – 70%.   Không khí  ẩm  ướt tương đối thích hợp cho sự  hình thành mầm, vì thế  độ  ẩm  không khí tương đối nên là 95 – 100%. ● Độ pH
  18. ­ Nấm Ngọc Châm phát triển thích hợp  ở  môi trường trung tính. Hệ  sợi   phát triển hoàn toàn khi độ pH là 5,0 – 8,0 trong khi vùng pH tối ưu là 6,5 – 7,0   nếu pH > 8,0 sợi nấm kém phát triển sức đề kháng yếu. ● Chế độ ánh sáng ­ Trong giai đoạn nuôi sợi nấm Ngọc Châm không cần ánh sáng. Nếu để  ánh sáng chiếu trực tiếp trong giai đoạn này thì sợi nấm dễ  bị  thoái hóa, sức  chống chịu kém. ­ Trong giai đoạn phát triển quả thể và sự phân hóa ban đầu cần ánh sáng   yếu, còn khi ánh sáng mạnh thì cần cho sự phát triển của cuống, có thể là 250 –  500 lux. Thời gian áp dụng ánh sáng ban ngày nên kéo dài hơn 9 tiếng đồng hồ. ● Độ thông thoáng ­ Nấm Ngọc Châm là giống nấm hiếu khí. Sự  phát triển của hệ  sợi yêu  cầu lượng oxi đầy đủ, độ  thông thoáng cao 0,06 ≤ [CO2] ≤ 0,2% quả  thể  nấm  dễ nhạy cảm với nồng độ CO2 vì vậy nên kiểm soát [CO2] nhỏ hơn 0,1%.
  19. PHẦN III : VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Nội dung nghiên cứu ­ Khảo sát ảnh hưởng của môi trường nuôi trồng tới sự sinh trưởng phát  triển và năng suất của nấm Ngọc Châm. ­ Đánh giá năng suất chất lượng của chủng nấm Ngọc Châm   trên các   nguyên liệu khác nhau. ­ Bước đầu xây dựng quy trình công nghệ  nuôi trồng nấm Ngọc Châm  trên nguồn nguyên liệu thích hợp. 3.2 Đối tượng nghiên cứu Giống   nấm   Ngọc   Châm   (Hypsizigus   marmoreus)   sử   dụng   trong   thí  nghiệm là giống cấp 2, được lưu trữ và nhân giống tại Trung Tâm Công Nghệ  Sinh Học – Viện Di Truyền Nông Nghiệp, được ký hiệu là HT. Đây là chủng   nấm có nguồn gốc từ Nhật Bản. Giống cấp 2 được cấy trên cơ chất hạt (thóc), được đóng chai nhựa hoặc  chai thủy tinh. Giống cấy phải đủ  tuổi cấy (hệ  sợi đã ăn kín đáy chai từ  2 ­3  ngày), yêu cầu giống phải có hệ sợi đồng đều, có màu trắng đồng nhất, có mùi  
  20. đặc trưng, không bị nhiễm mốc, nhiễm sợi dại, nhiễm khuẩn, không cấy những  chai giống có hiện tượng tơi hạt, mất sợi. 3.3 Nguyên liệu Nguyên liệu để nuôi trồng nấm Ngọc Châm là mùn cưa cao su, mùn cưa  gỗ tre, mùn cưa bồ đề, mùn cưa gỗ tạp và bông phế loại. Trong thí nghiệm này  tôi dùng mùn cưa gỗ tre và mùn cưa gỗ cao su. Không dùng mùn cưa đã bị mốc,  mùn cưa các loại cây gỗ  cứng như  đinh, lim, sến, táu…Mùn cưa mới có thể  dùng ngay nếu dùng dần phải phơi khô đóng bao hoặc trộn  ủ bảo quản chống   mốc, chống mùn hóa làm mất chất dinh dưỡng. ­ Bông phế  loại của các nhà máy dệt chưa qua xử  lý các loại hóa chất  làm trắng hoặc hóa chất làm sạch. ­ Các loại phụ  gia dinh dưỡng bổ sung: Vôi bột, bột nhẹ, cám gạo, cám   ngô, đường. ­ Bột nhẹ  CaCO3: Bột nhẹ  sử  dụng trong thí nghiệm là bột nhẹ  loại 2,   không bị vón cục, vôi hóa, bổ sung bột nhẹ vào nguyên liệu trong quá trình đào  ủ, với mục đích: + Tạo độ xốp cho nguyên liệu. + Hiệu chỉnh pH cho nguyên liệu. + Điều tiết nước. + Điều chỉnh tích số  tan, tạo ra ion Ca 2+, Mg2+  …cung cấp khoáng cho  nguyên liệu. ­ Cám gạo, cám ngô: Bổ  sung vào nguyên liệu để  tăng hàm lượng dinh   dưỡng cho cơ  chất tạo điều kiện cho hệ  sợi phát triển tốt để  ta dễ  so sánh,   đồng thời cũng làm tăng độ  xốp cho nguyên liệu. Cám gạo, cám ngô phải nhỏ  mịn, không bị mốc, bị vón cục, có mùi thơm đặc trưng. ­ Đường: Bổ sung đường saccarozo cung cấp dinh dưỡng ban đầu cho hệ  sợi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2