intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá

Chia sẻ: Cao Văn Tùng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:40

96
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá trình bày nội dung: góp phần vào công tác nghiên cứu, giải quyết đòi hỏi cấp bách của người trồng mía trong việc phòng trừ sâu đục thân và sử dụng bọ đuôi kìm phòng trừ chúng tại Thanh Hoá,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá

PHẦN I. MỞ ĐẦU<br /> 1.1. Lý do chọn đề tài<br />      Cây mía (Saccharum officinarum L.) là cây công nghiệp có nguồn gốc nhiệt <br /> đới, cung cấp nguyên liệu chủ  yếu cho các ngành công nghệ  chế  biến đường  ở <br /> nhiều nước trên thế  giới.  Ở  Việt Nam cây mía đang chiếm một vị  trí quan trọng <br /> trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp phục  <br /> vụ cho công cuộc Công nghiệp hoá ­ Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. <br /> Việt Nam thuộc khu vực Bắc bán cầu nằm trải dài từ 8030’ ­ 23020’ vĩ độ <br /> bắc, có tọa độ  tương  ứng với các nước trong khu vực trồng mía có năng suất <br /> cao như Đài Loan là 456,1 tấn/ha, Ấn Độ 440,8 tấn/ha. Về vị trí địa lý của nước <br /> ta thuộc khu vực có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển và khai <br /> thác tiềm năng năng suất cao về cây mía, song năng suất mía bình quân chung cả <br /> nước mới chỉ đạt 49,7 tấn/ha. Trong nhiều nguyên nhân làm năng suất mía thấp,  <br /> thì nhóm sâu đục thân mía làm giảm đáng kể  về  năng suất và chất lượng mía <br /> nguyên liệu (Đỗ Ngọc Diệp, 2002).<br /> Từ  sau  năm  1975  đến nay,  đặc biệt trong 10 năm gần  đây ngành mía  <br /> đường đang có bước tiến đáng kể  về  diện tích, năng suất, sản lượng. Các nhà <br /> khoa học đã khẳng định, để nâng cao năng suất mía cần phải sử dụng các giống  <br /> mới, kết hợp với đầu tư thâm canh cao, bón phân hợp lý. Tuy nhiên kinh nghiệm <br /> thực tiễn sản suất và kết quả nghiên cứu cho thấy: Sâu, bệnh cỏ dại và chuột là  <br /> những nhân tố  gây nên tổn thất rất lớn cho năng suất, chất lượng mía,  ảnh <br /> hưởng đến hiệu quả chế biến đường của các nhà máy chế biến đường.<br /> Theo tài liệu điều tra của ngành mía đường Việt Nam năm 2000, thiệt hại <br /> làm giảm sản lượng do sâu: 17,1%, do bệnh: 11,5%, do cỏ  dại: 11,8%.[Báo cáo <br /> tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mía đường của Bộ NN&PTNT [2]<br /> Hiện nay việc phòng trừ  sâu đục thân hại mía đang gặp rất nhiều khó <br /> khăn, vì cây mía là cây lưu gốc nhiều năm, bộ  giống mía phong phú, địa hình <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> trồng mía đa dạng và sâu đục thân mía ẩn nấp ở nhiều bộ  phận khác nhau trên  <br /> cây mía và các cây trồng khác nên công tác phòng trừ không đạt hiệu quả cao.<br /> Công tác phòng trừ  sâu hại cây trồng nói chung và sâu đục thân mía nói  <br /> riêng là tìm ra các biện pháp phòng trừ  có hiệu quả  không gây ô nhiễm môi <br /> trường đạt mục tiêu: kinh tế ­ xã hội ­ môi trường. Thời gian qua, chương trình <br /> phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) đã được tiến hành trên nhiều loại cây trồng,  <br /> với nhiều sâu hại khác nhau, đã mang lại hiệu quả kinh tế, đảm bảo không gây  <br /> ô nhiễm môi trường. Việc tiến hành phòng trừ sâu đục thân hại mía theo hướng  <br /> IPM cần nắm vững hệ sinh thái đồng mía, mối quan hệ của cây mía với dịch hại <br /> và thiên địch của chúng. Nguyên tắc chung của biện pháp này là bảo vệ  và sử <br /> dụng các loài thiên địch của sâu hại nhằm khống chế  quần thể  sâu hại phát <br /> triển dưới ngưỡng gây hại kinh tế, bảo vệ cây trồng.<br /> Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm  <br /> trong phòng trừ  sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ  hầu như  chưa được quan  <br /> tâm. Có một số  kết quả  nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về <br /> không gian và thời  gian, vừa quá lạc hậu với  điều kiện sản xuất mới. Với <br /> những kết quả đã có không thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ <br /> sâu đục thân mía nào phù hợp mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện  <br /> nay, phần lớn người trồng mía tại Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục <br /> thân, nếu có thì các biện pháp phòng mang tính tự  phát, riêng rẽ  nên hiệu quả <br /> không cao, mà còn ảnh hưởng đến môi trường, không bảo vệ và sử dụng được <br /> thiên địch trong tự nhiên, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm theo hướng GAP.<br /> Vì lẽ  đó, để  góp phần vào công tác nghiên cứu, giải quyết đòi hỏi cấp <br /> bách của người trồng mía trong việc phòng trừ sâu đục thân và sử dụng bọ đuôi  <br /> kìm phòng trừ  chúng tại Thanh Hoá. Chúng tôi tiến hành đề  tài   “Nghiên cứu  <br /> khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để  phòng trừ  sâu đục thân hại mía tại vùng  <br /> nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá”<br /> 1.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩ thực tiễn<br /> <br /> <br /> 2<br /> 1. 2.1. Ý nghĩa khoa học:<br /> Đề  tài được tiến hành sẽ  cung cấp các dẫn liệu khoa học về thành phần <br /> loài, phân bố tác hại của sâu hại mía nói chung, sâu đục thân hại mía nói riêng. <br /> Cũng như thành phần thiên địch của chúng tại ở vùng mía Thanh Hoá.<br /> <br /> <br /> 1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn:<br /> Các kết quả  nghiên cứu của đề  tài sẽ  góp phần làm cơ  sở  để  xây dựng  <br /> quy trình quản lý tổng hợp sâu đục thân mía đáp ứng 3 yêu cầu kinh tế, xã hội, <br /> môi trường tại vùng nghiên cứu.<br /> 1.3. Mục đích, yêu cầu của đề tài<br /> 1.3.1. Mục đích<br /> Đề tài tiến hành nhằm mục đích sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục <br /> thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá. Từ đó, đề xuất  <br /> giải pháp sử dụng bọ đuôi kìm thay thế thuốc hoá học trong việc phòng trừ sâu đục  <br /> thân mía hại mía.<br /> 1.3.2. Yêu cầu<br /> ­ Điều tra thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân hại mía nói  <br /> riêng tại vùng nguyên liệu mía Đường Lam Sơn Thanh Hóa.<br /> ­ Điều tra biến động mật độ  bọ  đuôi kìm qua các tháng trong thời gian  <br /> thực hiện đề tài.<br /> ­ Bố  trí một số  công thức thí nghiệm nghiên cứu khả  năng sử  dụng bọ <br /> đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía<br /> 1.4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu<br /> 1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới<br /> ­ Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía<br /> Theo Hiệp hội Kỹ thuật Mía Đường Quốc tế (International Socienty of Sugar  <br /> Cane Technology ­ ISSCT), đến năm 1999 trên mía đã ghi nhận có 324  loài sâu gây <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> hại. Trong đó ngành chân khớp chiếm số  lượng nhiều nhất (84,5%), tuyến trùng <br /> (4,9%), gặm nhấm (5,9%), các loài khác (4,7%). [36]<br /> Như vậy, trên phạm vi toàn thế giới, trong số các nhóm sâu hại mía, nhóm côn <br /> trùng hại thân chiếm số đông nhất (49,7% tổng số loài đã phát hiện) trong đó nhóm sâu <br /> đục thân mía luôn được đánh giá là sâu hại nguy hiểm nhất. <br /> Thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân nói riêng không chỉ  biến <br /> động trên phạm vi toàn thế giới mà ngay trong một quốc gia cũng có sự biến động  <br /> giữa vùng này với vùng khác, giữa trước đây và sau này.<br /> Ở  Malaysia, kết quả  điều tra thành phần của Lim và Pan từ  1970 ­ 1978  <br /> (1980) [40] cho thấy có khoảng 360 loài sâu hại mía thuộc 98 họ  côn trùng. <br /> Trong đó có 32 loài được đánh giá là quan trọng với cây mía. Trong 360 loài sâu  <br /> hại mía có 25 loài sâu đục thân mía, trong số này có 11 loài sâu đục thân mía đã  <br /> được xác định là sâu hại quan trọng đối với cây mía. <br /> Ở   Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] thành phần sâu hại mía có 79 loài, còn <br /> theo Box (1953) [26] thì có 125 loài, theo Gupta (1957) [34] thì có 18 loài sâu chủ <br /> yếu và 21 loài sâu thứ yếu. Theo David (1977) [30] riêng sâu đục thân mía có tới <br /> 9 loài thường xuyên gây hại. <br /> Ở Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] người ta đã sử dụng bọ đuôi kìm để phòng <br /> trừ sâu đục thân mía kết quả cho thấy, khi thả bọ đuôi kìm vào lúc mía 2 tháng sau  <br /> trồng, với lượng 400 con/ha, 600 con/ha và 800 con/ha thì năng suất mía tăng lần  <br /> lượt so với đối chứng là 11,26%, 16,44% và 18,89% và lượng đường tăng lần lượt <br /> là 5,06%, 7,15% và 8,88%.<br /> Ở Đài Loan, theo Cheng (1994) [29] nhóm sâu đục thân hại mía có 5 loài thường  <br /> xuyên gây hại là sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana, sâu đục thân 5 <br /> vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker, <br /> sâu  đục thân mình trắng  Scirpophaga nivella  Fabricius và sâu đục thân mình <br /> hồng Sesamia inferens Walker. <br /> Đánh giá về  tình hình thiệt hại do sâu đục thân mía, theo Solomon et al.  <br /> (2000) [41] cho thấy các loài sâu đục mầm làm giảm 26,65% mầm cấp 1; 6,4%  <br /> 4<br /> mầm cấp 2; 27,1% mầm cấp 3 và 75,0% mầm cấp 4, làm giảm 22 ­ 30% năng suất <br /> mía và 12,5% hàm lượng đường. Theo Avasthy và Tiwari (1986) [20] ở Ấn Độ sâu <br /> đục thân 5 vạch là loài gây hại chính yếu, loài này có thể làm giảm tỷ lệ mầm từ <br /> 30 ­ 75% ở các vùng mía khác nhau. Theo Waterhouse (1993) [43] đã tổng kết rằng  <br /> sâu đục thân mía gây hại nặng ở Philippines, Cam­pu­chia và thường gây hại nặng  <br /> cục bộ tại Lào và Indonesia. Theo Solomon et al. (2000), các loài sâu đục ngọn là <br /> nguyên nhân làm chết khoảng 10% số mầm và 3­4% số cây ở giai đoạn vươn lóng, <br /> làm giảm năng suất từ 18,5­44,8% và 0,2­4,1 chữ đường (CCS).<br /> Phương thức gây hại và thời kỳ cây mía bị sâu đục thân tấn công của các <br /> loài sâu đục rất khác nhau. Các loài sâu đục lóng chủ  yếu gây hại phần thân <br /> lóng, nhưng cũng có thể gây hại phần đốt lóng. Triệu chứng gây hại của chúng <br /> khác nhau, ví dụ: Sâu đục thân 4 vạch chủ yếu gây hại ở các lóng mềm còn bẹ lá  <br /> (d/Emmerez de Charmoy, 1917) [32]<br /> Trọng lượng cây mía giảm khi bị sâu đục thân hại nặng và có thể bị chết  <br /> do thân bị  thối và khô. Các lóng bị  đục thường dễ  gãy và các mầm nách phát <br /> triển mạnh làm giảm độ đường trong cây mía (Gupta và Avasthy, 1960) [35]<br /> Khi cây mía bị sâu đục thân gây hại thì hàm lượng đường saccaro, độ Brix, <br /> Pol, Ap giảm đáng kể. Ngược lại, hàm lượng N, chất tro và chất nhựa tăng lên <br /> (Box, 1929) [25]<br /> ­ Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh, phát  <br /> triển của sâu đục thân hại mía<br /> Theo kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu đục thân 4 vạch của <br /> các tác giả  Harris (1990) [37], Betbeder­Matibet (1990) [24], David (1980) [31] ở các  <br /> nước khu vực  Ấn Độ  Dương cho thấy: ngài thường vũ hoá tập trung trong thời  <br /> gian khoảng 4 giờ  sau khi mặt trời lặn và hoạt động chủ  yếu vào đêm, ngài cái <br /> thường chỉ giao phối 1 lần duy nhất trong đời. Sau khi giao phối khoảng 1 đêm thì <br /> ngài cái đẻ trứng với số trứng khoảng 850 quả. Chúng đẻ trứng thành ổ ở mặt trên  <br /> hoặc dưới của lá, đôi khi trứng còn đẻ cả trên bẹ lá, mỗi ổ trứng có từ 20­40 quả.<br /> <br /> <br /> 5<br /> Các nghiên cứu về  đặc điểm sinh học của sâu đục thân 5 vạch cho thấy:  <br /> Trưởng thành thường vũ hóa vào ban đêm, ban ngày ít hoạt động thường ẩn nấp bên <br /> dưới bẹ lá. Ngài cái tiết pheromone dẫn dụ giới tính để thu hút ngài đực đến ghép  <br /> đôi giao phối. Ngài thường để  trứng vào giữa đêm. Trứng đẻ  thành ổ  ở  mặt dưới  <br /> các lá còn xanh. Mỗi ổ từ 2 ­ 4 hàng trứng, với trung bình 25 quả/ổ. Trong một đêm <br /> ngài cái thường đẻ khoảng 400 quả trứng. Trứng sau khi đẻ 4 ­ 6 ngày thì nở, sâu  <br /> non tuổi 1 phân tán bằng cách nhả tơ đu sang cây khác để gây hại. Chúng rất thích ăn <br /> các đỉnh sinh trưởng và các mô mềm gây nên hiện tượng nõn héo. Thời gian phát <br /> dục của pha sâu non (5­6 tuổi) từ  16 ­ 30 ngày, sau đó hóa nhộng ngay bên trong <br /> đường đục của thân cây (Harris, 1990 [37]; Butani, 1977 [27]; Avasthy và Tiwari, <br /> 1986 [20]; Kumar, K., S. C. Gupta, U. K. Mishra, G. P. Dwivedi and N. N. Sharma <br /> (1987) [39]<br /> ­ Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ<br /> Theo Suhartawan và Wirioatmodjo (1996) [42] có thể  áp dụng các biện <br /> pháp phòng trừ  như  vệ  sinh đồng ruộng và xử  lý hom giống trong nước nóng <br /> 500C trong 2 giờ, sử  dụng các giống mía chống chịu cao với sâu đục thân hoặc  <br /> sử  dụng các loài ong mắt đỏ kí sinh pha sâu non và pha trứng. Ngoài ra cũng có <br /> thể dùng thuốc hoá học như Carbaryl, Dicrotophos, Monocrotophos và Acephate <br /> để phun phòng trừ sâu non. <br /> Theo CABI (2000) [28] có thể dùng biện pháp cắt bỏ cây bị ngọn héo và giết  <br /> chết sâu non, biện pháp này tốn nhiều công lao động. Ngoài ra người ta còn có thể sử <br /> dụng ong mắt đỏ Trichogramma chilonis để trừ trứng của sâu đục thân.<br /> Theo (David, 1980) [31], sử dụng các hom giống sạch sâu để trồng, kết hợp với  <br /> việc bóc lá vào các thời điểm 5, 7 và 9 tháng sau khi trồng, hạn chế sử dụng quá nhiều  <br /> phân đạm, đồng thời tiêu úng với vùng ngập úng cũng hạn chế sự xuất hiện và gây  <br /> hại của sâu đục thân 4 vạch. Tăng cường sử dụng các giống mía chống chịu cao đối  <br /> với sâu đục thân 4 vạch như Co285, Co453, Co513, Co6860, Co915 để hạn chế thiệt <br /> hại do sâu đục thân 4 vạch..<br /> <br /> <br /> 6<br /> Đối với sâu đục thận mình hồng, các biện pháp phòng trừ  như: Cắt bỏ <br /> cây bị sâu, rút bỏ ngọn héo và giết chết sâu non bên trong, vun luống sớm ở giai  <br /> đoạn cây con và bạt gốc ngay sau khi thu hoạch đối với mía để lưu gốc. Đây là các <br /> biện pháp tương đối đơn giản mà hiệu quả  lại cao trong việc phòng trừ sâu đục  <br /> thân mình hồng. Biện pháp sinh học, có thể sử dụng loài ruồi kí sinh để trừ sâu ở <br /> giai đoạn sâu non. Kết quả thử nghiệm trong phòng cho thấy, loài ruồi này có thể <br /> kí sinh với tỷ lệ khá cao (84,4%) (David, 1980) [31].<br /> Đối với sâu đục thân mía thì đã có nhiều nghiên cứu và sử dụng khá thành <br /> công bọ đuôi kìm trong việc phòng trừ sâu đục thân hại mía. Kết quả nghiên cứu  <br /> cho thấy khi thả  bọ  đuôi kìm với lượng 400 con/ha thì tỷ  lệ  lóng bị  hại giảm  <br /> 64,58% so với đối chứng và năng suất mía tăng 26,48%  (David, 1980) [31].<br /> * Những nghiên cứu về bọ đuôi kìm<br /> Theo Easki Teiso  et. al  (1952) [69] Bọ  đuôi kìm Dermaptera còn có tên <br /> khoa   học   là  Euplexoptera,   Euplecoptera,   Dermoptera,   Labiduroida  hay <br /> Forficulida; tên tiếng anh là Earwigs. <br /> Cơ thể kéo dài, kiểu đầu nhô về phía trước, hàm kiểu miệng nhai với râu <br /> đầu nhiều đốt, mắt kép phát triển. Hầu hết trong bộ  Dermaptera cánh ngắn, <br /> cánh ngoài biến thái, gân cánh mịn, cánh trong dạng màng hình bàn nguyệt, gân <br /> cánh xếp hình dẻ quạt. Các chân gân bằng nhau với 3 đốt bàn. Bụng  10 đốt, đốt  <br /> bụng cuối cùng kéo dài như cái kìm, theo Richard leung (2004) [109], bụng BĐK  <br /> có 10 đốt ở con đực (kể cả đuôi kìm), con cái có 8 đốt bụng. Máng đẻ trứng của <br /> con cái ngắn hoặc tiêu biến tùy theo loài.<br /> Bọ  đuôi kìm được phát hiện  ở  hầu hết các nơi trên thế  giới trừ  những <br /> vùng băng giá, rất phổ biến ở những vùng có khí hậu nóng ẩm. Có khoảng hơn <br /> chục loài sống trong hang dơi vùng Châu á.<br />  Có khoảng 1.200 loài đã được miêu tả, hầu hết chúng đều sống tự do, ăn <br /> tạp (các côn trùng nhỏ), một số  loài ăn chồi non thực vật nhưng khi xuất hiện  <br /> con mồi thì chúng lại chuyển sang ăn con mồi ngay. Bọ  đuôi kìm thường sống  <br /> <br /> <br /> 7<br /> ẩn nấp, chạy nhanh, mặc dù có cánh nhưng không thấy chúng bay [69], chỉ  tìm <br /> kiếm thức ăn trên cây, ăn côn trùng nhỏ vào ban đêm [109].<br /> Trưởng thành cái đẻ trứng vào trong  ổ làm dưới đất, chúng có tập tính là <br /> chăm sóc và bảo vệ trứng, thậm chí còn có hành động bảo vệ con 1 – 2 tuần sau  <br /> nở. Trong điều kiện  ấm áp chúng đẻ  nhiều, mùa hè chúng ít khi đẻ  trứng, mùa <br /> đông lạnh chúng đình dục hoàn toàn cho đến  mùa xuân lại tiếp tục hoạt động, <br /> mỗi năm BĐk thường có 7 lứa.<br /> Pobham (1965) phân loại BĐK bộ  Dermaptera  theo kiểu hình giải phẫu <br /> bên trong, theo cơ  quan sinh dục ngoài và phân bố  theo địa lý đã chia  các loài <br /> BĐK bắt mồi tập trung ở bộ phụ Porficulina gồm:<br /> ­ Tổng họ  Pygidicranoidea, tổng họ  này sinh sống chủ  yếu trog các kho <br /> chứa ở các nước Asian, Australia, Nam Phi và Nam Mĩ.<br /> ­ Tổng họ  Karschilloidea rất lớn tập trung  ở  Nam Phi, tổng họ  này chủ <br /> yếu là BĐK ăn kiến.<br /> ­ Tổng họ Labioidea có 3 họ là Labiidae, Carcinophoridea, Arixeniidea, họ <br /> Labiidea phổ biến hơn, họ  Arixeniidea gồm các loài kí sinh trên dơi.<br /> ­   Tổng   họ  Forficuloidea  có   ba   họ   là    Chelisochidea,   Labiduridea,  <br /> Forficuloi­dea  trong   đó   họ  Labiduridea  phân   bố   rộng,   giống    Labidura  và <br /> Euborellia phổ biến nhất<br /> Theo Gullan, P.J. và P.S. Crranston (2000) có khoảng  1.800 loài bọ  đuôi <br /> kìm với 10 họ phân bố trên thế giới [73].<br /> 1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước<br /> ­  Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía<br /> Nhìn chung trước những năm 1990 công tác nghiên cứu về sâu đục thân hại mía <br /> ở nước ta còn rất ít. Tuy nhiên, sau những năm 1990 đến nay, đặc biệt khi chương <br /> trình mía đường được Nhà nước chú trọng, quan tâm là cây xoá đói giảm nghèo cho <br /> người dân nông thôn miền núi thì các vùng nguyên liệu mới chú ý đưa các giống mới <br /> có năng suất cao, đầu tư thâm canh công nghệ cao để theo kịp các nước trên Thế giới  <br /> và khu vực, theo đó công tác BVTV cũng được quan tâm.<br /> 8<br /> Ở miền Bắc, theo Lương Minh Khôi (1963) [10] và  Hồ Khắc Tín & CTV (1962) <br /> [15] có 5 loài sâu đục thân hại mía thường xuyên là sâu đục thân mình vàng  Eucosma  <br /> schistaceana, sâu đục thân 5 vạch  Chilo infuscatellus  Snellen, sâu đục thân 4 vạch <br /> Proceras venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và <br /> sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker. Trong đó sâu đục thân mình vàng, sâu <br /> đục thân 4 vạch và sâu đục thân mình trắng là những loài phát sinh gây hại phổ biến  <br /> nhất tại Thanh Hóa và các tỉnh Bắc Trung Bộ.<br /> Theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995) [1], ở miền Bắc có 2 loài sâu đục  <br /> thân mía phổ biến nhất là sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius <br /> và sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker. Kết quả điều tra cho thấy số <br /> lượng sâu non của sâu đục thân mình trắng cao hơn số  lượng sâu non của sâu  <br /> đục thân 4 vạch (tương ứng là 70,0 ­ 77,2% và 22,3 ­ 30,0%). Tuy nhiên theo kết <br /> quả  điều tra trong 3 năm 2005, 2006 và 2007 của Nông trường Thống Nhất  <br /> huyện Yên Định Thanh Hoá là trong 5 loại sâu đục thân thì số  lượng xuất hiện  <br /> và gây hại nhiều nhất là sâu đục thân 4 vạch tiếp đến là sâu đục thân mình vàng  <br /> với tỷ  lệ  tương  ứng là 70,16 và 42,44%. Kết quả  này cũng trùng với kết quả <br /> điều tra của Nông trường Vân Du huyện Thạch Thành và Nông trường Sao  <br /> Vàng huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá.<br /> Theo kết quả  điều tra của Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997) [7]  <br /> tại Nông trường Hà Trung tỉnh Thanh Hoá và Nông trường Đồng Giao tỉnh Ninh  <br /> Bình cho thấy trên các giống mới của Đài Loan ROC1, ROC9, ROC10 và ROC16 <br /> trong niên vụ 1995­1996 cho thấy đã xác định được 19 loài sâu hại mía, trong đó  <br /> có 5 loài sâu đục thân mía, loài gây hại nặng nhất là sâu đục thân mình vàng và <br /> sâu đục thân 4 vạch.<br /> Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn văn Hoan trong 3 năm từ 1998­2000 <br /> tại Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá gồm 7 huyện 4 Nông <br /> trường, cho thấy thành phần sâu hại mía gồm 26 loài thuộc 7 bộ  12 họ. Trong  <br /> đó,   nhóm   sâu   đục   thân   mía   có   5   loài   là   sâu   đục   thân   mình   vàng  Eucosma <br /> schistaceana, sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch <br /> 9<br /> Proceras venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius <br /> và sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker.<br /> Kết quả điều tra của Đỗ Ngọc Diệp tại khu vực miền Đông Nam bộ năm <br /> 1987 cho thấy có 20 loài sâu hại mía. Trong đó, sâu đục thân có 5 loài chiếm 25% <br /> tổng số  loài  đã xác  định. Chúng bao gồm sâu  đục thân mình vàng  Eucosma  <br /> schistaceana, sâu đục thân 5 vạch  Chilo infuscatellus  Snellen, sâu đục thân 4 <br /> vạch  Proceras venosatus  Walker, sâu đục thân mình trắng  Scirpophaga nivella <br /> Fabricius và sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker. Tại Viện Nghiên <br /> cứu Mía đường Bến Cát, các kết quả điều tra của Nguyễn Đức Quang năm 1997  <br /> [13], Vũ Hữu Hạnh năm 1995 [6] và Cao Anh Đương 1998 đều cho thấy trong <br /> thành phần sâu hại mía có 5 loài sâu đục thân tương tự như kết quả điều tra của  <br /> các tác giả khác.<br /> Kết quả điều tra trong phạm vi toàn quốc của Lương Minh Khôi từ 1992 ­ <br /> 1997 [8] cho thấy thành phần sâu hại mía có 27 loài trong đó nhóm sâu đục thân  <br /> có 9 loài chiếm 33,33% tổng số loài đã xác định.<br /> Trên các giống mía mới nhập về từ đài Loan và Trung Quốc hiện nay đang <br /> được trồng phổ biến tại Thanh Hoá thì hầu hết đều bị sâu đục thân phá hại nhưng  <br /> tỷ lệ hại từ 2,52­5,88% nhỏ hơn giống F134 (giống cũ của Trung Quốc) là 11,5% <br /> và giống MY55­14 của Cu Ba là 12,85%. Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi <br /> và Lê Thanh Hải (1997) [7] cho thấy giống F134 bị sâu đục thân hại nặng hơn các <br /> giống ROC1, ROC9, ROC10 và ROC16 từ 1,4 ­ 2,3 lần. Tuy nhiên theo báo cáo của <br /> Nông trường Vân Du huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá cho thấy trong 4 năm từ <br /> 2004 ­ 2007 khi đầu tư thâm canh cao thì các giống ROC, Việt đường, Quế đường <br /> có tỷ lệ sâu đục thân từ 13,21­ 17,68%.<br /> Theo đánh giá của Nguyễn Huy Ước (1994) [19] thiệt hại do sâu đục thân  <br /> mía gây ra tại miền Đông Nam Bộ lên đến 20% năng suất mía. So sánh tỷ lệ bị <br /> sâu đục thân gây hại giữa mía tơ  và mía gốc cho thấy trên mía gốc bị  gây hại  <br /> năng hơn trên mía tơ. Tương tự  như  vậy, kết quả  thí nghiệm tại nông trường  <br /> Hà Trung Thanh Hóa và Đồng Giao Ninh Bình cho thấy tỷ lệ bị sâu đục thân phá <br /> 10<br /> hại trên mía gốc là 14% trong khi đó trên mía tơ là 8% (Lương Minh Khôi và Lê  <br /> Thanh Hải, 1997) [7] <br /> Theo Lê Song Dự  và Nguyễn Thị  Quý Mùi (1997) [5] sâu đục thân mình <br /> vàng và sâu đục thân 4 vạch là những loài nguy hiểm nhất  ở miền Bắc, có nơi  <br /> các loài sâu này làm thiệt hại năng suất từ  25 ­ 30%. Xét về  các giống mía thì <br /> giống F134 bị sâu đục thân phá hại năng hơn các giống việt đường, quế  đường <br /> và các giống ROC (Lương Minh Khôi và Lê Thanh hải, 1997) [7] <br /> ­ Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh phát triển  <br /> của sâu đục thân hại mía<br /> Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi (1997) [9] cho thấy:<br />    ­ Loài sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana phát sinh nhiều vào 20/4 và <br /> 20/5 còn từ tháng 6 trở đi ít gặp. Vòng đời: Trứng từ 4­6 ngày, sâu non 20­22 ngày,  <br /> nhộng từ  9­10 ngày, trưởng thàng từ  8­13 ngày. Bướm cái đẻ  trung bình 173 quả <br /> trứng/con. Sâu non bắt đầu gây hại chủ yếu từ khi mía mọc mầm và chiếm tỷ lệ <br /> 8,5% các loài sâu đục thân.<br />   ­ Loài sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker phát sinh 6 đợt trong năm kéo <br /> dài suốt quá trình sinh trưởng của cây mía. Vòng đời: Trứng từ 5­7 ngày, sâu non 20­<br /> 26 ngày, nhộng từ 7­12 ngày, trưởng thành từ 3­7 ngày. Bướm cái đẻ trung bình  từ 8­<br /> 11 ổ trứng, mỗi ổ khoảng 200 quả trứng. Sâu non bắt đầu gây hại khi mía mọc mầm  <br /> nhưng hại mạnh nhất khi  mía vươn lóng. Tỷ lệ hại chiếm 71,8% các loài sâu đục  <br /> thân.<br />   ­ Sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius mỗi năm phát sinh 4­5 <br /> lứa. Vòng đời: Trứng từ  7­15 ngày, sâu non 31­61 ngày, nhộng từ  12­18 ngày, <br /> trưởng thành từ  3­13 ngày. Sâu non phá hại mía cây, đặc biệt  ở  đốt ngọn, sâu  <br /> non đục từ ngọn mía xuống dưới, ăn điểm sinh trưởng, gây nên hiện tượng cây <br /> bị cụt ngọn. Sâu hại khi cây mía được 220 ngày với tỷ  lệ hại chiếm 61,0% các  <br /> loài sâu đục thân.<br />   ­ Sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker trong năm phát sinh 5­6 lứa.  <br /> Vòng đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 5­6 ngày, sâu non 20­30 ngày, nhộng <br /> 11<br /> từ 8­10 ngày, trưởng thành từ 5­6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Mỗi bướm <br /> cái đẻ khoảng 300 trứng. Sâu non phá hại ở tất cả các thời kỳ  sinh trưởng của  <br /> cây mía.  Ở  miền Nam sâu mình hồng nhiều nhất chiêm tỷ  lệ  51,85% ­ 69,35%  <br /> các loài sâu đục thân mía.<br />    ­ Sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen trong năm phát sinh 5­6 lứa. <br /> Vòng đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 3­5 ngày, sâu non 18­35 ngày, nhộng <br /> từ 7­8 ngày, trưởng thành từ 4­6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Bướm cái đẻ <br /> thành ổ, mỗi ổ có từ 250 ­ 300 trứng. Sâu non nở là phân tán, thường nhả tơ đu <br /> đưa nhờ  gió, di chuyển từ  cây này sang cây khác để  phá hại. Chúng phá hại <br /> mạnh trên mía trồng vụ đông.<br /> Theo   Cục   Bảo   vệ   Thực   vật   (1999)   [4],   loài   sâu   đục   thân   mình   vàng <br /> thường phát sinh 7 lứa trong năm, nhưng gây hại nặng nhất  ở  lứa 1 và lứa 2 <br /> (khoảng cuối tháng 3, 4 và 5), gây mía mầm và mía bắt đầu vươn lóng, phát sinh  <br /> gây hại nhiều trên mía trồng đất ruộng và đất bãi. Sâu đục thân 4 vạch thường  <br /> phát sinh 4­5 lứa trong năm, sâu phá hại mía quanh năm từ khi mía mọc mầm cho  <br /> đến khi thu hoạch. Sâu đục thân mía 5 vạch thường phát sinh gây hại 5 đợt, <br /> nhưng có 2 đợt cao điểm, cao điểm 1 từ  cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và cao <br /> điểm 2 từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6. Sâu thường phát sinh gây hại nhiều trên <br /> đất đồi khô hạn. Sâu đục thân mình trắng thường phát sinh 4­5 lứa trong năm, <br /> nhưng tập trung hại nhiều nhất  ở lứa 1 (tháng 5) và lứa 2 (tháng 6­7), lứa thứ 3 <br /> (tháng 8­9). Loài sâu đục thân mình hồng là loài phát sinh gây hại sớm nhất trong <br /> ruộng mía và gây hại quanh năm, cả vụ mía Đông, nhưng hàng năm phát sinh gây hại <br /> nhiều vào tháng 3­4, hại lúa mía đẻ nhánh. Ngoài cây mía, sâu còn hại lúa, ngô và các  <br /> cây trồng thuộc họ hoà thảo khác. <br />         Tóm lại: Những kết quả nghiên cứu trong nước về đặc điểm sinh học và <br /> quy luật phát sinh phát triển của các loài sâu đục thân mía chủ yếu ở miền Bắc  <br /> tập trung vào các loài sâu đục thân phổ  biến, dễ  nuôi như  sâu đục thân mình <br /> hồng và sâu đục thân mình vàng. Trong khi các loài sâu đục thân khác như  sâu <br /> đục thân mình tím và sâu đục thân 4 vạch lại chưa được quan tâm nghiên cứu  <br /> 12<br /> nhiều. Nguyên nhân có thể là do các loài sâu này tương đối khó nuôi bằng thức  <br /> ăn tự nhiên, trong khi thức ăn nhân tạo lại chưa có.<br />        Theo Lương Minh Khôi (1997b) [9], ở Việt Nam có 4 loài thiên địch chủ yếu <br /> của nhóm sâu đục thân mía, chúng bao gồm: Ong mắt đỏ Trichogramma spp. Ký <br /> sinh trứng sâu đục thân mía mình vàng, 4 vạch, 5 vạch và sâu đục thân mình <br /> trắng; ong đen Telenomus sp. Ký sinh trứng các loài sâu đục thân mía mình vàng, <br /> 4 vạch, 5 vạch và mình trắng, nhưng ký sinh trứng sâu đục thân mình trắng <br /> nhiều hơn, ong đen kiến trắng chân vàng Apanteles flavipes Cameron ký sinh pha <br /> sâu non các loại sâu đục thân 5 vạch, 4 vạch và sâu đục thân mình hồng và bọ <br /> đuôi kìm ăn các loại sâu non của sâu đục thân. Theo Phạm Bình Quyền và CTV  <br /> (1995) [1]  ở miền Bắc chỉ có 2 loài thiên địch phổ  biến của nhóm sâu đục thân <br /> mía là ong mắt đỏ  Trichogramma chilonis và ong đen Telenomus sp. ký sinh pha <br /> trứng các loài sâu đục thân mình trắng và sâu đục thân 4 vạch.<br /> ­ Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ sâu đục thân hại mía<br /> * Biện pháp kỹ thuật canh tác:<br /> Đây là biện pháp được nông dân trồng mía  ở  nhiều vùng áp dụng phổ <br /> biến từ khá lâu. Theo các tác giả Hồ Khắc Tín và CTV (1982) [15], Lương Minh <br /> Khôi (1997a [8] và 1997b [9]), Nguyễn Huy  Ước (1994) [19], Phạm Văn Lầm  <br /> (1999) [11]... Các biện pháp này bao gồm:<br /> + Trước khi trồng mía, đất phải được cày bừa kỹ nhằm tiêu diệt mầm mống của <br /> sâu ẩn náu trong đất, vùng đất thấp có thể cho nước ngập để diệt sâu.<br /> + Chọn hom, giống mía trồng: chọn các hom giống không có sâu hại và <br /> chọn các giống mía có tính chống chịu sâu như  các giống ROC, Việt đường <br /> CP34­79, HN56­12, QĐ11 và F156.<br /> + Bón phân đầy đủ và cân đối cho mía mọc tốt. Chăm sóc làm cỏ kịp thời  <br /> kể cả  trên các đường lô và bụi rậm xung quanh, nhằm loại trừ nơi  ẩn náu của  <br /> sâu. Nơi có điều kiện lao động nên bóc là già, cắt chồi vô hiệu, loại bỏ  mầm  <br /> mống trứng ở đó. Kết quả thí nghiệm của Viện Nghiên cứu Mía Đường (1996) <br /> <br /> <br /> 13<br /> [18] cho thấy ruộng mía bóc lá kịp thời giảm tác hại của sâu đục thân từ 16,77 ­  <br /> 41,73% và tăng năng suất mía lên 13,75% so với ruộng đối chứng. <br /> + Ruộng mía để gốc sau thu hoạch phải được cày lật đất kịp thời và cày  <br /> sâu, giết chết các loại sâu ẩn nấp trong gốc mía và dưới đất.<br /> + Bố trí thời vụ hợp lý: ở miền Bắc vụ xuân tốt nhất nên trồng mía trong  <br /> tháng 2, vụ  đông tốt nhất là tháng 10­11 vì lúc trồng mía sẽ  dễ  dàng hơn, mía <br /> phát triển trùng với các tháng có đủ lượng mưa, nhiệt độ và ánh sáng, đồng thời  <br /> tránh được các cao điểm phát sinh của sâu (Lương Minh Khôi, 1997a) [8]<br /> * Biện pháp hoá học:<br /> Sâu đục thân tuy phá hại nhiều và phổ  biến, nhưng người trồng mía nói <br /> chung ít chú trọng công tác phòng trừ. Đặc biệt, trong những năm gần đây khi  <br /> các vùng nguyên liệu mía đưa nhiều giống mới có năng suất, phẩm chất đồng <br /> thời chế  độ  thâm canh cao thì sự  phá hại của sâu đục thân là rất nặng nề  và  <br /> nghiêm trọng. Hiện nay tại các vùng nguyên liệu mía khu vực Thanh Hoá, người  <br /> trồng mía đã tích cực phòng trừ các loài sâu đục thân. Theo Cục Bảo vệ thực vật <br /> [4] các loại thuốc sử  dụng chủ  yếu là Diazinon 10H (rắc vào gốc khi vun với <br /> lượng 10­20Kg/ha), padan 95SP (phun với lượng 0,8 ­ 1,0 lit/ha), supracide 40EC  <br /> (phun với lượng 0,8 ­ 1,0 lit/ha), sumithion (phun với lượng 1,0 ­ 1,5 lit/ha). Theo  <br /> Lương Minh Khôi (1997b) [9] có thể  dùng các loại thuốc diazinon 10G lượng  <br /> 20kg/ha hoặc padan 4G lượng 20 ­ 30kg/ha rải vào luống khi trồng, cũng có thể <br /> rải vào gốc khi vun, hiệu quả phòng trừ đạt tỷ lệ 64,1% so với đối chứng. Ngoài <br /> ra, có thể dùng padan 95SP phun khi mía mọc mầm, đạt tỷ lệ trừ sâu 78,7%.<br /> * Biện pháp sinh học:<br /> Chủ yếu sử dụng ong kí sinh và bọ đuôi kìm. Nhìn chung biện pháp sinh học còn  <br /> chưa được chú trọng nhiều.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 14<br /> PHẦN II. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 2.1. Đối tượng nghiên cứu<br /> ­ Sâu đục thân hại mía.<br /> ­ Bọ đuôi kìm (thiên địch của sâu đục thân mía)<br /> ­ Khả  năng sử  dụng bọ  đuôi kìm để  trừ  sâu đục thân hại mía tại vùng <br /> nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá<br /> <br /> 15<br /> 2.2. Nội dung nghiên cứu<br /> ­ Điều tra thành phần sâu hại trên một số giống mía tại vùng nguyên liệu  <br /> mía đường Lam Sơn Thanh Hoá<br /> ­ Điều tra thành phần sâu đục thân, mức độ gây hại của chúng đối với một <br /> số giống mía được trồng chủ yếu tại vùng nguyên liệu Mía đường Lam Sơn Thanh  <br /> Hóa.<br /> ­ Điều tra biến động mật độ  bọ  đuôi kìm qua các tháng trong thời gian  <br /> thực hiện đề tài.<br /> ­ Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi Kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía<br /> 2.3. Phương pháp nghiên cứu<br /> 2.3.1 Thời gian địa điểm nghiên cứu<br /> Thời gian: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2015<br /> Địa điểm: vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> 2.3.2  Phương pháp điều tra <br /> Phương pháp điều tra nghiên cứu biến động mật độ bọ đuôi kìm được tiến <br /> hành điều tra định kỳ 1 tuần/lần, để xác định biến động mật độ bọ đuôi kìm tại  <br /> vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> Phương pháp điều tra: chúng tôi điều tra cố định 5 hộ  trồng mía tại nông <br /> trường Sao Vàng .  Ở mỗi hộ trồng mía, chọn 1 điểm đại diện, mỗi điểm chọn <br /> một hàng dài 5m (theo hàng mía) tại đó điều tra các giống MY55­14, ROC10, <br /> ROC22 và viên lâm 6, trên cả  mía tơ  và mía gốc. Tại điểm điều tra tiến hành <br /> quan sát toàn bộ  cây để  phát hiện những dấu vết hoặc triệu chứng bị hại (héo  <br /> ngọn, khô đọt, lá có vết bị  hại, thân có lỗ  đục, cây sinh trưởng còi cọc, đổ <br /> gãy...). Dùng dao chẻ dọc những cây bị hại hoặc nghi bị hại, thu thập tất cả các loài <br /> côn trùng bắt gặp, kể cả những cá thể đục trong thân cây. Ghi chép các thông tin về <br /> loài sâu gây hại. <br /> Mức độ phổ biến của sâu đục thân và bọ đuôi kìm được đánh giá như sau:       <br />                  ­ : Rất ít (50% tần suất bắt gặp)           <br /> <br /> <br /> 2.4. Phương pháp bố  trí thí nghiệm trên diện tích hẹp thả  bọ  đuôi kìm,  <br /> đánh giá khả năng khống chế sâu đục thân hại mía của bọ đuôi kìm<br /> Chọn ruộng ở cách xa ruộng trồng mía khác, có diện tích 1000m2 , để thả <br /> bọ đuôi kìm. Bọ đuôi kìm được mua từ Chi cục BVTV Nghệ An và chúng được  <br /> thả theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Ruộng đối chứng không thả bọ đuôi kìm,  <br /> không dùng thuốc BVTV, có cùng giống mía, tuổi mía, cùng chế độ canh tác như <br /> ruộng thả  bọ  đuôi kìm. Sau khi thả  bọ  đuôi kìm, chúng tôi điều tra liên tục 7 <br /> ngày/lần, để đánh giá và so sánh sự phát sinh, phát triển và gây hại của sâu đục <br /> thân hại mía giữa hai ruộng.<br /> Thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để trừ sâu đục thân <br /> hại mía được tiến hành với 6 công thức sau:<br /> ­ Công thức  1: Đối chứng không phun thuốc, không dùng bọ đuôi kìm.  <br /> ­ Công thức 2: Thả bọ đuôi kìm với mức 400 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc <br /> mía mới mọc mầm.<br /> <br /> <br /> ­ Công thức 3: Thả bọ đuôi kìm với mức 600 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả   vào <br /> lúc mía mới mọc mầm. <br /> ­ Công thức 4: Thả bọ đuôi kìm với mức 800 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả   vào <br /> lúc mía mới mọc mầm. <br /> 2.5. Công thức tính toán.<br /> ­ Xác định mức độ ảnh hưởng của thuốc hóa học:<br /> + Hiệu lực của thuốc hóa học ngoài đồng ruộng được tính theo công thức <br /> của Henderson – Tilton:<br /> <br /> <br /> <br /> 17<br /> Trong đó:  E (%) Hiệu lực của thuốc<br /> Ta : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc<br /> Cb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc<br /> Ca : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc<br /> Tb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc<br /> ­ Tỷ lệ mầm (cây) bị hại (%) = x 100<br /> ­ Tỷ lệ lóng bị hại (%) =  x 100<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 18<br /> PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> <br /> Bảng 1: Diễn biến khí hậu thời tiết<br />           tháng<br /> 1 2 3 4<br /> Chỉ tiêu<br /> Nhiệt độ ( t0 ) 17,3 19,7 20,0 24,5<br /> Lượng   mưa <br /> 28,5 31,2 71,8 24,3<br /> (mm)<br /> Độ ẩm (%) 85 88 92 85<br /> <br /> <br /> Nhiệt độ: Tháng 1 thấp dẫn tới thờ kỳ sinh trưởng phát triển của cây mía <br /> chậm đấy là giai đoạn mía đang ở thời kỳ mầm và cây con. Nhiệt độ tháng 1 tới  <br /> tháng 4 tăng dần phù hợp cho cây mía sinh trưởng phát triển tốt.<br /> Lượng mưa: Từ tháng 1 đến tháng 4 biến đổi không đều, lượng mưa thấp <br /> nhất vào tháng 4 là 24,3 mm và cao nhất vào tháng 3 là 71,8 mm.<br /> Ẩm độ: từ  tháng 1 đến tháng tư  biến đổi không nhiều,  ẩm độ  cao nhất  <br /> vào tháng 3 là 92%.<br /> Nhìn chung nhiệt độ  và độ   ẩm khá cao chính vì vậy đã tạo điều kiện  <br /> thuận lợi cho dịch hại phát sinh phát triển và gây hại mạnh.<br /> 3.1. Thành phần sâu hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh  <br /> Hoá<br /> Thực tiễn sản xuất trong những năm gần đây cho thấy, mía bị  rất nhiều  <br /> sâu hại tấn công, đặc biệt khi nâng cao trình độ canh tác, đưa tiến bộ khoa học  <br /> kỹ thuật vào thâm canh mía công nghệ cao (năng suất: 100 ­ 150 tấn/ha với 10 ­  <br /> 13 độ CCS), thì tình hình sâu bệnh càng phức tạp. Mía là cây trồng thích hợp cho  <br /> nhiều loại sâu bệnh tồn tại và phát triển.<br /> Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm  <br /> trong phòng trừ  sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ  hầu như  chưa được quan  <br /> tâm. Có một số  kết quả  nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về <br /> 19<br /> không gian và thời  gian, vừa quá lạc hậu với  điều kiện sản xuất mới. Với <br /> những kết quả đã có không thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ <br /> sâu đục thân mía nào phù hợp mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện  <br /> nay, phần lớn người trồng mía tại Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục <br /> thân, nếu có thì các biện pháp phòng tránh chỉ  mang tính tự  phát, riêng rẽ  nên  <br /> hiệu quả  không cao, mà còn  ảnh hưởng đến môi trường, không bảo vệ  và sử <br /> dụng được thiên địch trong tự nhiên, để lại tồn dư thuốc BVTV trong sản phẩm  <br /> quá ngưỡng cho phép, ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng.<br />  Tại vùng trồng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hóa chúng tôi đã  <br /> thu thập được 18 loài sâu thuộc 7 bộ  và 13 họ  côn trùng khác nhau, được trình <br /> bày ở bảng sau:<br /> Bảng 2: Thành phần sâu hại mía tại vùng Nguyên liệu mía đường Lam Sơn <br /> Thanh Hóa<br /> Mức độ phổ <br /> TT Tên việt nam Tên khoa học Bộ/họ<br /> biến<br /> I Bộ cánh đều Homoptera<br /> 1 Ceratovacuna lanigera <br /> Rệp xơ trắng Eriosomatidae +++<br /> Zehntner<br /> 2 Rầy xanh lá  Empoasca flavescens <br /> Cicadellidae ++<br /> mạ Fabr<br /> 3 Trionymus sacchari <br /> Rệp sáp Coccidae ++<br /> Cockerell<br /> II Bộ cánh vảy Lepidoptera<br /> 4  Sâu đục thân 4  Proceras venosatus <br /> Pyralidae ++<br /> vạch Walker<br /> 5 Sâu đục thân  Scirpophaga nivella F<br /> Pyralidae ++<br /> bướm trắng<br /> 6 Sâu đục thân  Argyroploce <br /> Eucosnidae +++<br /> mình vàng schistaceana Snellen<br /> 7 Sâu đục thân  Sesamia inferens <br /> Noctuidae ++<br /> mình hồng Walker<br /> <br /> 20<br /> III Bộ cánh bằng Isoptera<br /> 8 Mối Odontotermes sp Termitidae +++<br /> IV Bộ cánh tơ Thysanoptera<br /> 9 Stenochretothrips <br /> Bọ trĩ Thripidae ++<br /> biformis (Bagnall)<br /> V Bộ cánh <br /> Orthoptera<br /> thẳng<br /> 10 Parapleurus alliaceus <br /> Châu chấu Acrididae ++<br /> Gemar<br /> 11 Cào cào xanh  Acrida sp<br /> Acrididae ++<br /> lớn<br /> 12 Brachytrupes <br /> Dế mèn Gryllidae ++<br /> portentosus Lich<br /> VI Bộ cánh nửa Hemiptera<br /> 13 Leptocorisa acuta <br /> Bọ xít dài Coreidae ++<br /> Thunberg<br /> 14 Bọ xít xanh Nezara viridula Linn Pentatomidae +<br /> 15 Cletus punctiger <br /> Bọ xít gai Coreidae +<br /> Thunberg<br /> VII Bộ cánh cứng Coleoptera<br /> 16 Bọ hung đen  Alissonotum <br /> Scarabaeidae ++<br /> đục gốc impressicole Anow<br /> 17 Bọ hung nâu  Onthophagus suginoi <br /> Scarabaeidae +++<br /> nhỏ Ochi<br /> 18 Cánh cam đục  Anomala expensa <br /> Scarabaeidae +<br /> gốc Bates<br /> Qua bảng 2 ta thấy cây mía là cây trồng có tập đoàn sâu hại rất phong <br /> phú, chúng gây hại trên tất cả các bộ phận của cây (gốc, thân, lá, ngọn) và trong  <br /> cả  quá trình sinh trưởng, phát triển cho đến khi thu hoạch. Thành phần sâu hại  <br /> mía mà chúng tôi thu được bao gồm 7 bộ và 18 loài. Trong đó bộ cánh vảy nhiều <br /> nhất với 4 loài, bộ cánh thẳng, bộ cánh cứng, bộ cánh nửa và bộ cánh đều 3 loài, <br /> bộ cánh bằng và cánh tơ mỗi bộ có 1 loài. Trong số đó thì nhóm sâu hay bắt gặp  <br /> nhất là rệp xơ trắng, sâu đục thân, bọ hung đen đục gốc…<br /> 21<br /> 3.2. Thành phần loài sâu đục thân hại mía và tỷ lệ cây bị hại<br /> Cũng trong thời gian này chúng tôi đi sâu nghiên cứu thành phần và tình <br /> hình gây hại của sâu đục thân trên mía tơ  giống MY55­14. Kết quả  điều tra <br /> được trình bày ở bảng 3.<br /> Bảng 3: Thành phần sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường <br /> Lam Sơn Thanh Hóa.<br /> Tỷ lệ thành phần loài (%)<br /> NT Sao  NT Sông  NT Thống <br /> Vàng – Thọ  Âm huyện  Nhất – Yên <br /> <br /> Loài sâu đục  Họ Xuân Ngọc Lặc Định<br /> <br /> thân<br /> Sâu đục thân mình <br /> Eucosmidae 31,7 26,8 22,5<br /> vàng<br /> Sâu đục thân 4 vạch Pyralidae 26,6 31,3 19,7<br /> Sâu đục thân mình <br /> Pyralidae 13,6 12,3 15,9<br /> hồng<br /> Sâu đục thân mình <br /> Pyralidae 18,7 19,2 31,9<br /> trắng<br /> Sâu đục thân 5 vạch Pyralidae 9,4 10,4 10,1<br /> <br /> Hiện tại  ở  vùng chuyên canh mía Thanh Hóa chúng tôi đã xác định có 5  <br /> loài sâu đục thân hại mía, chúng đều thuộc bộ  cánh vảy. Trong 5 loài này có 4 <br /> loài thuộc họ Pyralidae,1 loài thuộc họ Eucosmidae. <br /> Kết qủa nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả  tương tự  kết quả <br /> điều tra của tác giả Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997).<br />  So với kết quả điều tra của tác giả  Phạm Bình Quyền và CTV (1995) ở <br /> miền bắc thì thành phần sâu đục thân hại mía có thêm 3 loài đó là sâu đục thân <br /> mình vàng  Eucosma  schistaceana,  sâu  đục thân mình hồng  Sesamia   inferens <br /> Walker, sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus.<br /> <br /> <br /> 22<br />  Khi so sánh với kết quả  điều tra của Trung tâm bảo vệ  thực vật miền <br /> Trung (1995) thì thành phần sâu đục thân  ở  Thanh Hóa có thêm 1 loài đó là sâu  <br /> đục thân mình hồng Sesamia inferens.<br /> Qua bảng 3 chúng ta nhận thấy được sự  biến động về  tỷ  lệ  thành phần  <br /> loài của các loài sâu đục thân hại mía  ở  các vùng chuyên canh mía. Qua đó ta  <br /> cũng có thể thấy được tình hình chung của tất cả các nông trường trồng mía.<br /> Khi xét về  tỷ  lệ  thành phần loài thì qua bảng 3 ta thấy loài sâu đục thân <br /> mình vàng chiếm tỷ lệ  thành phần loài cao nhất trong nhóm sâu đục thân ở  các  <br /> vùng chuyên canh (22.5 – 31,7%), tiếp theo là loài sâu 4 vạch (19,7 – 31,3%), sâu  <br /> mình tím (18,7 – 31,9%), sâu mình hồng (12,3 – 15,9%) thấp nhất loài sâu đục  <br /> thân 5 vạch (9,4 – 10,4%).<br /> Ở  mỗi nông trường  khác nhau thì tỷ  lệ  thành phần loài cũng khác nhau, <br /> mức độ khác nhau lớn hay nhỏ phụ thuộc vào trình độ thâm canh, tập quán canh  <br /> tác của nông dân tại vùng chuyên canh mía, vào các biện pháp kỹ thuật canh tác <br /> ví dụ như tủ lá, bóc lá, đốt lá, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đất đai.<br /> Qua bảng 3 ta thấy: trong tổng số 5 loài sâu đục thân được phát  hiện  thì <br /> tại nông trường Sao Vàng – Thọ Xuân loài sâu đục thân mình vàng chiếm tỷ lệ <br /> thành phần phần loài lớn nhất (31,7%) tiếp đến là sâu 4 vạch (26,6%), sâu mình  <br /> tím (18,7%), thấp nhất là sâu mình hồng và sâu 5 vạch (13,6% và 9,4%), trong <br /> khi đó tại nông trường  Sông Âm huyện Ngọc Lặc sâu đục thân 4 vạch chiếm tỷ <br /> lệ  cao nhất (31,3%), tiếp đến là loài mình vàng (26,8%), sâu mình tím (19,2%)  <br /> thấp nhất là sâu mình hồng và sâu 5 vạch   ( 12,3% và 10,4%) còn tại nông  <br /> trường Thống Nhất – Yên Định sâu đục thân mình tím lại chiếm tỷ lệ cao nhất  <br /> (31,9%) tiếp đến là sâu mình vàng (22,5%), sâu 4 vạch (19,7%), thấp nhất vẫn là  <br /> loài mình hồng và 5 vạch ( 15,9% và 10,1%). Sỡ dĩ có sự khác biệt như thế là do  <br /> tập quán canh tác của nông dân. Việc đốt bỏ  ngọn lá mía sau thu hoạch  ảnh <br /> hưởng rõ rệt đến mật độ các loài sâu đục thân hại mía. Đốt lá mía một mặt giết <br /> chết sâu hại trong tàn dư cây bị hại mặt khác nó cũng giết chết nhiều loài thiên <br /> địch đồng thời cũng làm giảm nguồn thức ăn của những cá thể  còn sống xót, <br /> 23<br /> chính vì những lý do đó mà mật độ quần thể thiên địch bị giảm mạnh, tạo điều  <br /> kiện cho các loài sâu đục thân nhân nhanh số lượng gây hại ở giai đoạn sau đặc <br /> biệt là loài sâu 5 vạch đục mầm. Bên cạnh đó việc đốt lá còn làm cho tốc độ <br /> bốc hơi nước tăng lên trong các tháng mùa khô, ruộng mía bị khô hạn nhanh hơn <br /> rất thuận lợi cho loài sâu 5 vạch đục mầm phát sinh gây hại nặng. Hầu hết  ở <br /> tất cả các nông trường trên đều không đốt ngọn lá mía mà thay vào đó là việc tủ <br /> lá mía, không đốt ngọn. Vì vậy mà tỷ  lệ  thành phần loài sâu đục mầm 5 vạch  <br /> thấp nhất so với các loài sâu khác, song việc tủ lá mía cũng là nguyên nhân làm <br /> cho tỷ lệ thành phần loài sâu đục thân mình tím ở các nông trường cao. Sâu đục <br /> thân mình tím có đặc tính là đẻ  trứng trên các lá mía nửa khô hoặc đang khô, <br /> những ruộng mía có tủ lá sẽ thu hút loài sâu này đến đẻ trứng, tích lũy số lượng <br /> và gây hại nặng. Vì thế mà tỷ lệ sâu mình tím tại các nông trường cao hơn hẳn  <br /> so với sâu đục mầm 5 vạch.<br /> 3.3. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân tại vùng nguyên liệu mía đường Lam <br /> Sơn Thanh Hoá.<br /> 3.3.1. Tỷ lệ gây hại của  sâu đục thân  trên mía tơ tại vùng nguyên liệu  <br /> mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ được trình bày <br /> ở bảng sau:<br /> Bảng 4: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân  trên mía tơ tại vùng nguyên liệu <br /> mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> Tháng Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)<br /> điều tra MY55­14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6<br /> 1 0 0 0 0<br /> 2 3.7 2.5 1.9 3.0<br /> 3 6.8 5.4 4.5 5.9<br /> 4 7.5 6.6 6.4 7.2<br /> 5 11.3 7.9 8.7 12.4<br /> TB 5.9 4.5 4.3 5.7<br /> <br /> 24<br /> Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ sau :<br /> <br /> <br /> Nhận xét:<br /> Kết quả ở bảng 4 và biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác <br /> nhau trên cả 4 giống mía điều tra ở vụ mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao  <br /> nhất trên giống mía MY55­14 và Viên Lâm 6 lần lượt là (5.9 và 5.7%), trong khi  <br /> đó trên giống mía ROC10 và ROC22 tỷ  lệ  hại thấp hơn (4.5 và 4.3%). Theo <br /> chúng tôi có thể  do giống mía ROC10 và ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên <br /> không phải là thức ăn ưa thích của sâu đục thân.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3.3.2. Tỷ lệ gây hại của  sâu đục thân  trên mía gốc 1 tại vùng nguyên  <br /> liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 được trình  <br /> bày ở bảng sau:<br /> Bảng 5: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân  trên mía gốc 1 tại vùng nguyên <br /> liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.<br /> Tháng Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)<br /> MY55­14 ROC10 ROC22 Viên lâm 6<br /> 25<br /> điều tra<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2