intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ: Nghiên cứu chất lượng cuộc sống các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ phục vụ giảng dạy và học tập trường hợp tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

156
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ: Nghiên cứu chất lượng cuộc sống các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ phục vụ giảng dạy và học tập trường hợp tỉnh Bình Thuận nghiên cứu hiện trạng chất lượng cuộc sống các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận, đề xuất các kiến nghị phát triển kinh tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ: Nghiên cứu chất lượng cuộc sống các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ phục vụ giảng dạy và học tập trường hợp tỉnh Bình Thuận

  1. BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH ______________ ĐẾ TÀi NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ Mã số : B.2006.19.06. Chủ nhiệm đề tài : TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ TP. HỒ CHÍ MINH-2008
  2. LỜI CẢM ƠN Đề tài được hoàn thành với sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu, phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học. Cán bộ giảng dạy khoa Địa lí, với sự nhiệt tình của các công tác viên và sự cung cấp số liệu của các cơ quan ban ngành liên quan. Nhân đây, chúng tôi xin cám ơn: - Ban Giám hiệu - Phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học - Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận Đã giúp đỡ vật chất và tinh thần, cung cấp tư liệu quý giá cho nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài. TP. Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 4 năm 2008 Chủ nhiệm đề tài TS. Phạm Thị Xuân Thọ
  3. TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ Tên đề tài : Nghiên cứu chất lượng cuộc sống các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ phục vụ giảng dạy và học tập – Trường hợp tỉnh Bình Thuận. Mã số : B.2006.19.06 Chủ nhiệm đề tài : TS. Phạm Thị Xuân Thọ. Tel: 0903.308.425. E-mail: ptxtho@yahoo.com Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Cơ quan và cá nhân phối hợp : 1. ThS. La Nữ Ánh Vân – Trưởng khoa Du lịch Trường Cao đẳng Cộng đồng Bình Thuận. 2. ThS. Phạm Thị Bình - CBGD Khoa Địa lí - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 3. CN. Bùi Vũ Thanh Nhật - CBGD Khoa Địa lí - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Thời gian thực hiện : Từ tháng 4 năm 2006 - tháng 4 năm 2008. 1. Mục tiêu - Khái quát về chất lượng cuộc sống các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận. - Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người dân trong tỉnh Bình Thuận nói riêng và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ nói chung. - Làm nguồn tư liệu cho các giảng viên, sinh viên Địa lí tham khảo nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập. 2. Nội dung chính - Tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận. - Nghiên cứu hiện trạng chất lượng cuộc sống các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận. - Nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị phát triển kinh tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
  4. 3. Kết quả đạt được : Nghiên cứu thực hiện qua 2 giai đoạn : - Giai đoạn 1 : Từ tháng 6 - 2006 đến 5 - 2007  Thu thập tư liệu, thông tin  Thực địa, điều tra xã hội học Các kết quả cho thấy chất lượng cuộc sống dân cư các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận thuộc loại trung bình thấp so với nhiều vùng trong cả nước nhưng còn cao hơn vùng Bắc Trung Bộ, Tây Bắc. Điều này cho thấy, các tỉnh DHNTB đã có nhiều chính sách phát triển KT - XH và quan tâm đến các chính sách giảm đói nghèo, phát triển văn hóa, y tế, xã hội và bình đẳng giới. - Giai đoạn 2 : Từ tháng 6- 2007 đến thàng 2 - 2008  Hoàn thiện cơ sở lí luận, phân tích đánh giá khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư các tỉnh Duyên hải miền Trung và tỉnh Bình Thuận.  Viết báo cáo về chất lượng cuộc sống dân cư, sử dụng GIS và phần mềm Mapinfo, thành lập bản đồ chất lượng cuộc sống dân cư các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận. Qua đó thấy rõ mối tương quan giữa các yếu tố KT - XH với việc nâng cao chất lượng cuộc sống và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
  5. SUMMARY Project Title : Researching living quality of Middle Southern Coastal Area for teaching and studying purposes - Binh Thuan Case Code number : B.2006.19.06 Coordinator : Pham Thi Xuan Tho Ph.D Tel: 0903.308.425. E-mail: ptxtho@yahoo.com Implementing Institution : Hochiminh City University of Pedagogy Cooperating Institution : Individuals to anttend the subject : 1. La Nu Anh Van – Dean of the faculty of Faculty of tourism – Binhthuan Junior College of Community. 2. Pham Thi Binh – Lecturer of the faculty of Geography - Hochiminh City University of Pedagogy. 3. Bui Vu Thanh Nhat - Lecturer of the faculty of Geography - Hochiminh City University of Pedagogy. .Duration : From April, 2006 to April, 2008. 1. Objectives: Overview about the living quality of Middle Southern Coastal province. - Solutions proposed to improve the living quailty of the people of Middle Southern Coastal in general and Binhthuan province in particular. - Materials for Geography lecturers and students in studying and teaching 2.Main content :  Understanding factors to living quality of Middle Southern Coastal provinces  Researching current living quality of Middle Southern Coastal provinces  Researching, proposing solutions to develop the economy to improve living condition 3.Result obtained: - 1th period : From April, 2006 to May. 2007 - Collect data and information - Carry out sociological field research, investigation - Results show that inhabitants living quality of Middle Southern Coastal and Binh Thuan provinces is the average low among provinces in the country, yet still is higher than that of Middle Northern Area, North West Area. This shows that Middle Southern Coastal provinces have got many policies to develop sociology economy and concern about policies to reduce poor, drive away hunger, improve sociology, hospitality, and sex equality. - 2th period : From June, 2007 to February. 2008
  6.  Complete basic theory, analyse ability to upgrade living quality of inhabitants in Middle Southern Coastal and Binh Thuan provinces - Report about living quality, using GIS and Mapinfo software, creating living quality map of Middle Southern Coastal and Binh Thuan provinces. Therefore we can observe the relationships of socio-economical elements to living quality improvements and propose solutions to improve inhabitants living quality.
  7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT Ý NGHĨA - ANTT : An ninh trật tự - BHYT : Bảo hiểm y tế - BVMT : Bảo vệ môi trường - BVTV : Bảo vệ thực vật - CĐ : Cao đẳng - CLCS : Chất lượng cuộc sống - CNH-HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa - CNKT : Công nhân kỹ thuật - CN-XD : Công nghiệp-xây dựng - CNXH : Chủ nghĩa xã hội - ĐH : Đại học - DHNTB : Duyên hải Nam Trung Bộ - DV : Dịch vụ - GD – ĐT : Giáo dục và đào tạo - GDP : Tổng thu nhập quốc nội - GTSX : Giá trị sản xuất - GTTN : Gia tăng tự nhiên - GV : Giáo viên - HĐND : Hội đồng nhân dân - KHCN & MT : Khoa học công nghệ và môi trường - KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình - KT – XH : KT - XH - LT – TP : Lương thực thực phẩm - LHQ : Liên Hiệp Quốc - PCTP : Phòng chống tội phạm - SX : Sản xuất - THCN : Trung học chuyên nghiệp - THCS : Trung học cơ sở - THPT : Trung học phổ thông - TM-DV : Thương mại-dịch vụ - TNTN : Tài nguyên thiên nhiên - UBND : Ủy ban nhân dân - VAC : Vườn – Ao - Chuồng - VRAC : Vườn - Rừng - Ao - Chuồng - XĐGN : Xóa đói giảm nghèo - XH : Xã hội - XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong phát triển KT - XH, nâng cao chất lượng cuộc sống (CLCS) và nỗ lực xóa đói, giảm nghèo. Tỉ lệ nghèo đã giảm mạnh từ hơn 60% vào năm 1990 xuống còn 18,1% vào năm 2004, nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với mức tăng bình quân 8 - 9%/năm trong những năm gần đây và chính sách phát triển kinh tế gắn với giảm đói nghèo của Chính phủ. Tuy CLCS của dân cư Việt Nam đã tăng nhanh, chỉ số HDI năm 2007 tăng lên đạt 0,73, xếp hạng 105 trên 177 quốc gia và lãnh thổ. Nhưng CLCS của dân cư Việt Nam có sự phân hóa mạnh mẽ theo vùng, miền và theo nhóm dân cư. Để xã hội phát triển văn minh, công bằng, dân chủ, văn minh và bền vững cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng các yếu tố, các chính sách nhằm đưa ra các giải pháp thích hợp nâng cao CLCS dân cư, giảm bớt sự cách biệt giữa các vùng miền, các tỉnh. CLCS là một khái niệm tổng hợp đo mức sống của con người. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, CLCS của con người, cần được quan tâm nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội để thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của con người, nâng cao CLCS. CLCS cũng phản ánh trình độ phát triển về KT - XH của khu vực hay một quốc gia, một vùng, một tỉnh. Đối với giáo viên, sinh viên ngành Địa lí, việc nghiên cứu CLCS, hiểu rõ bản chất, cách tính, các nhân tố ảnh hưởng đến CLCS dân cư và tình hình biến chuyển CLCS dân cư một nước, một vùng cụ thể có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc. Nhằm ứng dụng lí luận vào thực tiễn để nâng cao hơn nữa CLCS cho dân cư địa phương và đây cũng là mục tiêu hướng tới của đất nước ta cũng như của các quốc gia khác. Duyên hải Nam Trung Bộ, bao gồm 8 tỉnh thành có những đặc điểm tương đồng nhau về mặt tự nhiên, do đó có nhiều điểm tương đồng trong quá trình phát triển KT - XH và CLCS. Bình Thuận là tỉnh cực Nam Trung Bộ, tiếp giáp vùng kinh tế Đông Nam Bộ, gắn với vùng kinh tế Đông Nam Bộ năng động có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tạo điều kiện cho tỉnh Bình Thuận đã phát triển, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong những năm gần đây. Nhưng tốc độ phát triển kinh tế như vậy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao CLCS cho nhân dân trong tỉnh, đặc biệt cuộc sống của dân cư các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao còn nhiều khó khăn. Sự cách biệt về CLCS của dân cư giữa các địa phương còn khá lớn. Ở TP. Phan Thiết và các thị trấn kinh tế phát triển nhanh, CLCS được nâng cao rõ rệt, trong khi các vùng nông thôn, miền núi của tỉnh còn nhiều xã nghèo, hộ nghèo, CLCS còn thấp kém. Tỉnh Bình Thuận cũng có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng CLCS dân cư chưa cao. Làm thế nào để nâng cao CLCS của dân cư Bình Thuận cũng như cho dân cư các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ? Tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao CLCS của dân cư vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và tỉnh Bình Thuận.
  9. Nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “Nghiên cứu chất lượng cuộc sống dân cư các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ phục vụ giảng dạy và học tập - Trường hợp tỉnh Bình Thuận” với mong mỏi tìm kiếm một số giải pháp nâng cao CLCS của dân cư. Ở đây, tỉnh Bình Thuận được lựa chọn là một trường hợp điển cứu có nhiều yếu tố nổi bật về tự nhiên còn khó khăn, nhưng cũng có nhiều ưu đãi trong phát triển KT - XH của một tỉnh cực nam của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,… 2. MỤC ĐÍCH – NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI - Tổng quan có chọn lọc lí luận về CLCS. - Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến CLCS dân cư các tỉnh DHNTB và tỉnh Bình Thuận. - Tìm hiểu khái quát thực trạng CLCS dân cư các tỉnh DHNTB và thực trạng CLCS dân cư tỉnh Bình Thuận. - Phân tích sự biến động CLCS của dân cư các tỉnh trong vùng và CLCS của các nhóm dân cư trong tỉnh. - Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao CLCS và giảm sự cách biệt giữa các nhóm dân cư ở Bình Thuận nói riêng và các tỉnh DHNTB nói chung. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU * Đối tượng nghiên cứu : Chất lượng cuộc sống của dân cư là vấn đề rộng lớn, phức tạp và biến đổi theo không gian, thời gian, trong đó các tiêu chí để đánh giá CLCS rất đa dạng, trong đó có thể dựa vào chỉ số cơ bản nhất là chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ số HDI cho biết một cách tổng quát về sự phát triển con người: Sống cuộc sống khoẻ mạnh và lâu dài (đo bằng tuổi thọ, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,7 tuổi); được học hành (đo bằng tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tổng tỉ lệ đi học tiểu học, trung học, đại học - của Việt Nam là 90,3% và 63,9%); có mức sống hợp lí (thu nhập GDP/đầu người theo sức mua tương đương - của Việt Nam là 3.071 USD). Ngoài ra, còn phải tính đến những mặt khác như nhu cầu sống tốt hơn được đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần khác như: cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật, về nhà ở, điện nước, giao thông đi lại, y tế và sống trong một môi trường tự nhiên không ô nhiễm, môi trường xã hội, an toàn, lành mạnh,… Các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, bao gồm 8 tỉnh thành giáp biển là một địa bàn rộng lớn. Do vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu khái quát về DHNTB và điển cứu tỉnh Bình Thuận từ đó có những giải pháp có tính chất tương đồng để nâng cao CLCS cho vùng, cũng như đề ra các giải pháp riêng cho tỉnh Bình Thuận.  Thời gian nghiên cứu : Nghiên cứu CLCS dân cư các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, điển cứu CLCS dân cư tỉnh Bình Thuận trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2006.
  10. 4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Vấn đề nghiên cứu CLCS dân cư đã được nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ rất sớm nhưng ở các khía cạnh khác nhau như : mức sống, chỉ số phát triển con người nhưng chưa thật đầy đủ với nghĩa CLCS. Kể từ khi cách mạng công nghiệp hình thành và phát triển đã nâng cao mức sống của con người và tạo nên sự phân hóa sâu sắc giữ nhóm người giàu và nhóm người nghèo. Ngày nay, trên thế giới người ta thường dùng chỉ số phát triển con người (HDI) để so sánh mức sống của con người giữa các nước. Ở Việt Nam, nhiều cơ quan ban ngành trung ương và địa phương có các đề tài liên quan đến CLCS dân cư như đánh giá mức sống dân cư, các báo cáo phát triển con người. Chương trình phát triển của LHQ tham gia cùng tiến hành nghiên cứu mức sống trong cả nước vào các năm 1992-1993 và 1997-1998, năm 2004. Năm 1996, Viện kinh tế TP. HCM tiến hành đề tài “Phân hóa giàu nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế TP. HCM”, năm 2000 tiếp tục đề tài “Nghiên cứu diễn biến mức sống dân cư và phân hóa giàu nghèo tại TP. HCM”. Ngoài ra còn có đề tài : “Vấn đề giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa ở TP. HCM” của: Nguyễn Thế Nghĩa, Mạc Đường, Nguyễn Quang Vinh. Báo có phát triển con người năm 2007 của UNDP. Nhưng thực tế CLCS còn được thể thiện bằng nhiều tiêu chí khác ngoài mức sống và chỉ số HDI như được sống trong môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn lành mạnh. Do vậy, nhóm đề tài muốn nghiên cứu sâu hơn về CLCS dân cư phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy địa lí. 5. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 5.1. Các quan điểm nghiên cứu 5.1.1. Quan điểm hệ thống Các tỉnh DHNTB và Bình Thuận là đơn vị lãnh thổ tự nhiên, KT - XH trong tổng thể tự nhiên và KT - XH của Việt Nam nói chung. Nghiên cứu CLCS gắn với sự phát triển KT - XH của từng tỉnh, của vùng và cả nước. Để nâng cao CLCS cho nhân dân các tỉnh DHNTB và Bình Thuận cần phải đặt trong bối cảnh chung của sự phát triển KT - XH và CLCS của cả nước. CLCS thay đổi theo hướng nào liên quan đến sự phát triển KT - XH của đất nước, của tỉnh, việc sử dụng tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và đường lối chính sách của Nhà nước và tỉnh. Do vậy, nghiên cứu CLCS các tỉnh DHNTB và Bình Thuận phải đứng trên quan điểm hệ thống, xét Bình Thuận trong vùng DHNTB, trong hệ thống KT - XH cả nước để đưa ra các giải pháp phù hợp tác động vào hệ thống nhằm nâng cao CLCS một cách bền vững. 5.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Quan điểm tổng hợp lãnh thổ là quan điểm quan trọng, đặc trưng trong quá trình thực hiện các công trình nghiên cứu Địa lí học. Các đối tượng địa lí không tồn tại đơn độc trên một lãnh thổ, mà chúng tồn tại trong mối quan hệ tương tác có những tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau, tạo nên những nét đặc thù riêng về mặt lãnh thổ KT - XH. Chẳng hạn như giữa các tỉnh DHNTB có những nét tương đồng về mặt tự nhiên và KT - XH nên có những điểm khá tương
  11. đồng về CLCS. Nhưng giữa các tỉnh cũng có những nét khác biệt và trong một tỉnh cũng có sự khác biệt về mức sống. Ví dụ, ở Bình Thuận có mức sống trung bình, nhưng TP. Phan Thiết có CLCS cao hơn so với Tánh Linh, huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam... Vì vậy, trên quan điểm tổng hợp lãnh thổ có thể đánh giá tổng hợp các yếu tố tự nhiên, KT - XH tạo nên CLCS với nét đặc trưng riêng của lãnh thổ, đồng thời cũng khái quát được những nét tương đồng cho những lãnh thổ lớn hơn. Từ đó đưa ra các giải pháp chung cho cả vùng cũng như các giải pháp đặc thù cho từng địa phương. 5.1.3. Quan điểm lịch sử – viễn cảnh CLCS dân cư không chỉ thay đổi theo không gian mà còn thay đổi theo thời gian. Đánh giá các tác động đến CLCS dân cư trong qua khứ và hiện tại, chúng ta có thể dự báo được sự gia tăng hay suy giảm CLCS trong tương lai. Trong các công trình nghiên cứu Địa lí nói chung và nghiên cứu CLCS nói riêng, cần vận dụng quan điểm lịch sử - viễn cảnh để dự báo và có các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm biến đổi CLCS dân cư theo chiều hướng tích cực. 5.1.4. Quan điểm sinh thái, phát triển bền vững CLCS dân cư chịu tác động mạnh mẽ của hai yếu tố tự nhiên, tài nguyên môi trường và KT - XH. Việc gia tăng sản xuất, khai thác tài nguyên mạnh mẽ sẽ làm tăng thu nhập, góp phần nâng cao CLCS, nhưng khi tài nguyên cạn kiệt, thu nhập sẽ giảm, hoặc phát triển kinh tế không chú ý đến việc bảo vệ môi trường, con người không được sống trong môi trường trong sạch thì CLCS sẽ bị giảm. Do vậy, để nâng cao CLCS cần chú ý đến phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên môi trường, tạo điều kiện tăng trưởng, phát triển kinh tế liên tục gắn với nâng cao CLCS. Vì vậy, khi nghiên cứu CLCS cần xem môi trường trong sạch, có thể khai thác, sử dụng lâu bền là bộ phận quan trọng để nâng cao CLCS. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp thống kê Các số liệu CLCS được thu thập từ các cơ quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương như: Niên giám thống kê, tư liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc, cục Thống kê, báo cáo của UBND tỉnh Bình Thuận, Sở Lao động - Thương binh Xã hội và thống kê từ các phiếu điều tra xã hội học, … từ đó nhóm tác giả phân loại, thống kê theo các tiêu chí CLCS. 5.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp Trên cơ sở các nguồn tư liệu, nhóm tác giả phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến CLCS dân cư các tỉnh DHNTB và Bình Thuận. Đồng thời so sánh các chỉ tiêu CLCS Việt Nam với một số nước trên thế giới, so sánh CLCS dân cư giữa các vùng, giữa vùng DHNTB với các vùng và CLCS dân cư Bình Thuận với cả nước và một số tỉnh để thấy được nét tương đồng và di biệt giữa các vùng, các tỉnh với nhau, phân tích nguyên nhân và đề ra giải pháp chung cho vùng, giải pháp riêng cho tỉnh Bình Thuận.
  12. 5.2.3. Phương pháp thực địa, điều tra xã hội học Điều tra thực địa nhằm kiểm chứng các số liệu thống kê, đảm bảo tính xác thực của số liệu về CLCS ở địa bàn nghiên cứu. CLCS dân cư được thể hiện qua nhiều mặt vật chất và tinh thần, qua thực địa nhóm nghiên cứu có nhận định tổng hợp, chính xác hơn về CLCS. Điều tra xã hội học và phỏng vấn các nhà quản lí, lãnh đạo các ban ngành và dân cư địa phương để thấy được tâm tư nguyện vọng, phương hướng phát triển kinh tế, dự án và các giải pháp nâng cao CLCS dân cư. 5.2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ Bản đồ là phương tiện ban đầu cho nhóm nghiên cứu đánh giá khái quát về các nguồn lực phát triển KT - XH và các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS của dân cư. Đồng thời, bản đồ cũng là phương tiện thể hiện sinh động kết quả nghiên cứu sự phát triển và phân hóa CLCS. Biểu đồ dùng để thể hiện các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu về CLCS. các chỉ tiêu CLCS thể hiện bằng biểu đồ dễ dàng so sánh, phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành CLCS, giữa các địa phương. 5.2.5. Hệ thống thông tin Địa lí GIS và MapInfo Sử dụng hệ thống thông tin đia lí chồng xếp các lớp thông tin, cho phép tổng hợp các yếu tố tạo thành CLCS dân cư. Sử dụng phần mềm MapInfo cho phép thành lập bản đồ CLCS dân cư một cách sinh động, các tiêu chí đánh giá CLCS phân hóa theo vùng lãnh thổ được thể hiện rõ nét trên bản đồ.
  13. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Nâng cao CLCS dân cư là mục tiêu phấn đấu của thế giới nói chung cũng như các quốc gia, các vùng nói riêng, đặc biệt là những vùng còn nghèo, khó. Nhưng quan niệm về CLCS cũng chưa thật thống nhất. Trong thực tế có thể hiểu CLCS một cách chung nhất là sự thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người. CLCS không chỉ là mức sống của người dân về phương diện vật chất mà CLCS còn thể hiện sự cảm nhận hạnh phúc của một cá nhân hay nhóm dân cư như : được sống trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội lành mạnh. CLCS thực chất không chỉ là một khái niệm hữu hình, bởi vậy khó có thể tính toán cụ thể một cách chính xác mọi tiêu chí được. Tuy nhiên, một số tiêu chí về mức sống có thể định lượng khá rõ ràng, các tiêu chí về đời sống tinh thần có thể đo bằng các chỉ số định tính tương đối. CLCS gồm có hai thành phần chính, trước hết xét về khía cạnh vật chất bao gồm thu nhập, lương thực, thực phẩm và y tế - giáo dục. Mặt khác, tinh thần của con người như sự yên vui, an toàn sống trong môi trường trong lành. Nghiên cứu CLCS dân cư đặc biệt quan trọng nhằm tìm cách nâng cao CLCS cho con người. Chất lượng cuộc sống1: “Chất lượng cuộc sống được hiểu là sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản của con người, CLCS được thể hiện qua hai mặt : lối sống và mức sống”. - Mức sống là trình độ sinh hoạt vật chất của con người phản ánh trình độ đạt được về mặt SX và là phương tiện để đánh giá CLCS. - Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái KT - XH nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống : trong lao động, hưởng thụ, trong quan hệ, giữa người với người trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa. LHQ đưa ra chỉ số phát triển con người Human Development Index (HDI) là tiêu chí chính để đánh giá CLCS của con người bao gồm cả thu nhập quốc dân bình quân đầu người, thành tựu y tế xã hội và trình độ văn hóa, giáo dục. Tổng hợp lại là chỉ số HDI có giới hạn trong khoảng từ 0,00 đến 1. Nước nào có HDI lớn hơn chứng tỏ sự phát triển con người cao hơn. Chỉ số HDI sẽ thể hiện toàn diện và đầy đủ hơn về sự phát triển, trình độ văn minh của một quốc gia, trên cơ sở đó cho phép nhìn nhận các nước giàu, nghèo một cách chính xác và khách quan hơn. Khái niệm mức sống chủ yếu nói lên khía cạnh số lượng vật chất của đời sống, khía cạnh kinh tế của phúc lợi con người còn lối sống lại bao hàm cả đặc trưng chất lượng của hoạt động sống của con 1 Theo giáo sư Vũ Khiêu
  14. người. CLCS là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện sự đáp ứng nhu cầu nâng cao thể chất, trí tuệ, vật chất và tinh thần cho nhân dân. Do vậy, khó có thể định nghĩa một cách hoàn chỉnh thế nào là CLCS, nhưng có thể định nghĩa một cách khái quát là: “CLCS là sự đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người trong hoạt động sống nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về vật chất và tinh thần”. Theo điều tra đánh giá của New Zeland trong các cuộc điều tra CLCS, họ đã chú ý đến các mặt được hưởng thụ : Sức khỏe và hạnh phúc; Tính cộng đồng; Môi trường không tội ác và sự an toàn; Sự giáo dục và công việc; Xây dựng môi trường; Văn hóa; Chế độ dân chủ. 1.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Các chỉ tiêu đánh giá CLCS chính là chỉ tiêu về thu nhập bình quân đầu người thể hiện mức độ đáp ứng các nhu cầu về vật chất cho con người như: lương thực - dinh dưỡng, mức độ đáp ứng nhu cầu nhà ở, điện nước; tuổi thọ trung bình của con người, mức độ đáp ứng y tế và sự hưởng thụ các mặt tinh thần khác như văn hóa, giáo dục, môi trường sống,… 1.2.1. Thu nhập bình quân đầu người Tiêu chí chính đánh giá CLCS dân cư giữa các nước, các vùng là chỉ số thu nhập quốc dân tính bình quân theo người (GNP/ người hay GNI/ người) hoặc tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân theo người (GDP/ người). Tuy nhiên, chỉ số GDP/ người phản ánh mờ nhạt hơn hay có thể nói là chưa chính xác về CLCS dân cư. Vì các nước đang phát triển có chỉ số GDP/ người lớn hơn GNP/ người, do các nước này thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều nên phần giá trị rất lớn của các công ty đầu tư nước ngoài được tính gộp vào GDP. Do vậy, nhiều khi phải tính đến chỉ số GNP (hay GNI/ người) sẽ cho thấy sự chênh lệch chính xác hơn về CLCS dân cư giữa các vùng. Mặt khác, CLCS của dân cư không chỉ khác biệt do ảnh hưởng đơn thuần của giá trị thu nhập theo đầu người, mà nó sẽ bị chi phối lại do giá cả sinh hoạt của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau. Ngoài việc quy đổi giá trị GNP/ người hoặc GDP/ người ra USD theo tỉ giá hối đoái, LHQ đã đưa ra phương pháp tính giá trị thu nhập của dân cư các vùng khác nhau theo sức mua tương đương (PPP), để tránh những sai lệch về mức sống thực tế ở các vùng, các nước. Cách tính này cho thấy một cách xác thực sự chênh lệch mức sống giữa các quốc gia khác nhau. Bảng 1.1. GDP bình quân đầu người của các nhóm nước năm 2005 (Theo giá thực tế) Nhóm nước Tăng dân số Tổng GDP % GDP so với GDP / người thế giới % (tỉ USD) 1. Thu nhập cao 0,7 34.446,2 77,7% 43.437 2. Thu nhập trung bình 1,4 8.535,1 19,2% 4.155
  15. 3. Thu nhập thấp 2,3 1.391,4 3,1 % 1142 4. Toàn thế giới 1,2 44.384,9 100% 6.954 Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và Ngân hàng Thế giới Sự phân hóa GNP/người và GDP/ người rất khác nhau giữa các nước khác nhau tạo nên khoảng cách giữa nhóm nước giàu và nhóm nước nghèo; sự khác biệt về các chỉ số gia tăng dân số và tăng kinh tế liên quan chặt chẽ với thu nhập giữa các nhóm dân cư các vùng, các nước. Đó là nguyên nhân dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo trong các nhóm dân cư và giữa các vùng trong một nước. Sự chênh lệch về thu nhập dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt nhất giữa khu vực nông thôn và thành thị. Theo WB ranh giới nghèo khổ là những người có thu nhập bình quân hàng năm dưới 1 USD/ngày. Tuy nhiên, giữa các vùng và các quốc gia khác nhau chỉ số này có sự thay đổi. Ví dụ người nghèo khổ ở Srilanca thu nhập là 27 USD/ người/ tháng, ở Bănglađét là 11 USD/ người/ tháng, ở Philippin là 85 USD/ người/ tháng. Đến năm 2007, đường ranh giới nghèo theo thu nhập bình quân đầu người được tính dưới 2 USD/ ngày. Thu nhập của dân cư theo nhóm nước rất khác biệt nhau, khoảng cách về thu nhập GDP/ người theo PPP giữa dân cư nhóm nước giàu và nước nghèo rất lớn, năm 2006 là 13,07 lần, theo giá trị thực tế là 56,98 lần. Trong khi tốc độ tăng dân số của nhóm nước thu nhập thấp lại cao hơn tộc độ tăng của nhóm thu nhập cao tới 3,28 lần (Bảng 1.1). Điều đó càng làm cho các nước chậm phát triển càng khó khăn hơn trong việc nâng cao CLCS. Bảng 1.2. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế và theo PPP của một số nước phát triển Dân số GDP (tỉ USD) GDP (USD) Hàng năm tăng Triệu Tăng DS/ GDP theo GDP / GDP/ thời kỳ Nước GDP theo GDP theo giá thực tế người theo người năm (%) 1990-2005 giá thực tế PPP bình quân/ PPP (2008) 2006* người (%) WB -2007 1.Canada 33,2 0,9 113,8 1078 34.484 36713 2,2 2. Nhật 127,7 -0,02 4534.0 3995,1 35.484 31947 0,8 3. Pháp 64,4 0,49 2126,6 1849,7 34.936 31992 1,6 4. Mỹ 303,9 0,97 12416,5 12416,5 41.890 43968 2,1 5. Anh 60,6 0,42 2198,8 2001,8 36.509 33087 2,5 6. Ý 59,4 0,03 1762.0 1672 30.073 29053 1,3 7. Đức 82,2 -0,07 2794,9 2429,6 33.890 32322 1,4 8. Nga 142 -0,51 763,7 1552 5.336 13116 -0,1 Nguồn: *UN Wordl Population Prospects 2006 dân số TG tăng TB: 1,17% năm. Nhìn chung, mức sống dân cư được cải thiện khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp mức sống sẽ không được cải thiện; Đặc biệt, đối với nhóm dân cư nghèo, nếu tăng trưởng kinh tế không gắn với phát triển bền vững và chú ý đến vấn đề giảm nghèo đói. Trong thực tế,
  16. có nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhưng mức sống không cao tương ứng vì giá các mặt hàng cao và việc chăm lo sức khỏe, phát triển y tế, đảm bảo phúc lợi xã hội cho dân cư còn thấp. Ngược lại, có nước tuy có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn, đời sống vật chất còn khó khăn, nhưng lại quan tâm tới mục tiêu nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục, đáp ứng nhu cầu y tế, đảm bảo sức khỏe cho mọi thành viên thì chất lượng cuộc sống dân cư lại cao hơn. Do vậy, LHQ đã dùng chỉ số phát triển con người, một chỉ số tổng hợp để phản ánh cơ bản CLCS trên toàn thế giới từ thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay. Bảng 1.3. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế và theo PPP của một số nước đang phát triển ở châu Á Dân số GDP (tỉ USD) Hàng năm GDP (USD) tăng GDP/ Nước Triệu Tăng DS Giá thực tế GDP/ thời kỳ GDP theo GDP theo người % năm bình người theo 1990-2005 giá thực tế PPP (2008) (2006) quân/người PPP (%) 1. Trung Quốc 1.323 0,6 2.234,3 8.814,9 1.713 6.757 8,8 2. Ấn Độ 1.131 1,46 805,7 3.779 736 3.452 4,2 3. Inđônêxia 231,6 1,16 287,2 847,6 1.302 3.843 2,1 4. Hàn Quốc 48,2 0,34 787,6 1.063,9 16.309 22.029 4,5 5. Malaixia 27,5 1,69 130,3 275,8 5.142 10.882 3,3 6. Philippin 88,6* 1,72 99 426,7 1.192 5.137 1,6 7. Singapore 4,7 1,19 116,8 128,8 26.893 29.663 3,6 8. Thái Lan 63 0,66 176,6 557,4 2.750 8.677 2,7 9. Việt Nam 87,4* 1,32 52,4 255,3 631 3.071 5,9 Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2006 Các kết quả tính toán các tiêu chí HDI cho thấy CLCS dân cư thế giới không ngừng được cải thiện. Tuổi thọ trung bình của dân cư Thế giới luôn tăng lên (năm 2005 là 69), tỉ lệ biết chữ của người lớn và tỉ lệ nhập học các cấp cũng được tăng lên rõ rệt, GDP bình quân đầu người được cải thiện với mức tăng trung bình năm 1%. Chỉ số HDI của một số nước giàu có thu nhập cao nhưng thứ hạng theo HDI thấp hơn vị trí GDP do chưa đầu tư cho y tế, giáo dục hoặc giá cả đắt đỏ. Ngược lại, một số nước thu nhập thấp hơn, nhưng lại có biện pháp, chính sách tích cực quan tâm đến y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng đồng nên thứ hạng theo chỉ số HDI, vị trí nước này tăng lên. Trong số 177 quốc gia cung cấp số liệu để xây dựng HDI cho năm 2007, 70 quốc gia xếp hạng HDI cao với giá trị từ 0,800 đến 0,944; 85 quốc gia trong đó có Việt Nam được xếp hạng HDI trung bình với giá trị từ 0,501 đến 0,799 và 22 quốc gia xếp hạng HDI thấp2. Chênh lệch HDI giữa các quốc gia trong phạm vi một khu vực cũng đáng kể, khu vực Đông Nam Á, giá trị HDI cao nhất thuộc về Singapore, thấp nhất là Lào. Có điều cần chú ý là mối quan hệ giữa các chỉ số thành phần tạo nên giá trị HDI ở mỗi quốc gia rất khác nhau. Vì vậy, có những nước HDI 2 Năm 2001 : 55 nước có chỉ số HDI cao, 88 nước HDI trung bình và 34 nước được xếp hạng HDI thấp
  17. như nhau song mức thu nhập lại không giống nhau. Có những nước thu nhập bình quân đầu người như nhau nhưng giá trị HDI lại khác nhau. Bảng 1.4. So sánh mức thu nhập và chỉ số HDI giữa các quốc gia năm 2007 Nước Giá trị HDI GDP/người theo PPP Côoet 0.891 39360 Croatia 0.846 14310 Trung Quốc 0.777 4644 Thái Lan 0.781 7599 Angiêri 0,733 6347 Indonesia 0.728 3454 Nguồn: WB 2007, Ở nước ta, nhờ chính sách và sự quan tâm tới phát triển con người của Đảng và Nhà nước, các chỉ số phát triển con người có sự tiến bộ rõ rệt, với đặc điểm nổi bật là các chỉ số về mặt xã hội cao hơn chỉ số phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỉ giá sức mua tương đương đã tăng liên tục qua các năm: năm 1995 mới đạt 1.236 USD, năm 2003 đạt khoảng 2.493 USD, năm 2004 đạt khoảng 2.644 USD. Theo Báo cáo phát triển con người năm 2007 do UNDP công bố GDP/người theo sức mua tương đương (PPP) của Việt Nam đạt 3.071 USD xếp thứ 122/177 nước. Nhưng nếu theo HDI , báo cáo phát triển con người năm 2007 của UNDP thì Việt Nam xếp hạng 105 trên 177 nước theo chỉ số HDI. Xếp hạng của Việt Nam về HDI đã cao hơn xếp hạng về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỉ giá sức mua tương đương (xếp hạng HDI là 105/177 so với hạng GDP/ người theo PPP là 122/177. Bảng 1.5. So sánh mức thu nhập và thứ hạng HDI năm 2007 Nước GDP/người theo PPP (USD) Giá trị HDI Việt Nam 3.071 0,733 Hạng thứ 122/177 Hạng thứ 105/177 Ấn Độ 3.452 0,619 Hạng thứ 121/177 Hạng thứ 128/177 Nguồn: Báo cáo phát triển con người, 2007 của UNDP, WB và IMF So với các nước ASEAN, chỉ số HDI năm 2007 của Việt Nam chỉ trên thứ hạng của Indonesia hạng thứ 107, Lào hạng 130 và Campuchia hạng 131, Myanmar hạng 132, Đông Timor hạng 150, và xếp sau Philippines hạng 90, Thái Lan hạng 78, Malaysia hạng 63, Singapore hạng 25. Như vậy, với tốc độ tăng trưởng hiện nay của Việt Nam và Malaysia thì sau 35 năm nữa GDP/đầu người của Việt Nam mới đuổi kịp Malaysia về phương diện lí thuyết. LƯỢC ĐỒ CHỈ SỐ HDI CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI NĂM 2007
  18. 0,950 trở lên 0,700–0,749 0,450–0,499 0,900–0,949 0,650–0,699 0,400–0,449 0,850–0,899 0,600–0,649 0,350–0,399 0,800–0,849 0,550–0,599 dưới 0,350 0,750–0,799 0,500–0,549 không có số liệu Biểu đồ 1. GDP/người của Việt Nam so với một số nước trong khu vực 1.2.2. Lương thực và dinh dưỡng Lương thực, thực phẩm là nhu cầu quan trọng thiết yếu hàng ngày của con người. Nhu cầu về cung cấp năng lượng cũng thay đổi theo vùng, theo thời gian, theo độ tuổi, theo giới, theo nghề nghiệp (cường độ lao động),… Lương thực, thực phẩm là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức sống dân cư. Khả năng cung cấp lương thực, thực phẩm đủ đáp ứng nhu cầu năng lượng hàng ngày cho con người và việc đảm bảo cân đối giữa các hàm lượng chất đạm, chất béo, chất đường và các loại khoáng chất, vitamin trong bữa ăn là một chỉ số quan trọng đo lường mức sống - một mặt quan trọng của CLCS. Bảng 1.6. Lượng calori thực phẩm tính trung bình một người /ngày của 2 nhóm nước cao nhất và thấp nhất thế giới (Đơn vị: Calori) 10 nước có lượng Calori/ người thấp nhất 10 nước có lượng Calori/người cao nhất
  19. Thứ hạng Tên nước Giá trị Thứ hạng Tên nước Giá trị 165 Zambia 1,927 1 Hoa Kì 3,774 166 Liberia 1,900 2 Bồ Đào Nha 3,741 167 Ethiopia 1,857 3 Ai Cập 3,721 168 Tajikistan 1,828 4 Áo 3,673 169 Comoros 1,754 5 Italy 3,671 170 Burundi 1,649 6 Israel 3,666 171 Somalia 1,628 7 Ireland 3,656 172 Congo (DRC) 1,599 8 Pháp 3,654 173 Apganistan 1,539 9 Canada 3,589 174 Eritrea 1,513 10 Malta 3,587 Nguồn: Encarta 2007 Nhưng khả năng đáp ứng lương thực, thực phẩm cũng rất khác nhau trên toàn thế giới. Có những nơi dân cư thừa dinh dưỡng, ngược lại có nhiều nơi dân cư thiếu lương thực thực phẩm một cách trầm trọng như các nước kém phát triển ở châu Phi, châu Á. Theo tổ chức Lương Nông của LHQ đưa ra lượng Calori tối thiểu cho một người là 2360 Calori/ ngày là ranh giới cho sự nghèo đói3. Như vậy, các nước đang phát triển ở châu Phi và châu Á là các nước nghèo đói. 1.2.3. Chăm sóc sức khỏe - Dịch vụ y tế Sức khỏe của dân cư là điều kiện quan trọng để xã hội tồn tại và phát triển. Chăm sóc sức khỏe và đảm bảo dịch vụ y tế thể hiện sự quan tâm đến cộng đồng, là nhiệm vụ quan trọng trong việc nâng cao CLCS dân cư của mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Theo WHO, chỉ tiêu sức khỏe - dịch vụ y tế gồm mức đầu tư ngân sách cho chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế tính theo tổng chi ngân sách hoặc GDP, chất lượng và số lượng y bác sĩ, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho khám chữa bệnh - chăm sóc sức khỏe, tuổi thọ bình quân của dân cư, tỉ suất tử vong nói chung. Đặc biệt là tỉ suất chết của trẻ em, tỉ lệ dân số mắc các loại bệnh truyển nhiễm, bệnh xã hội, bệnh hiểm nghèo ở một quốc gia. Người có thu nhập cao sẽ có điều kiện chăm sóc sức khỏe, nâng cao tuổi thọ và trình độ. Có sức khỏe tốt sẽ có điều kiện để nâng cao trình độ học vấn và có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao CLCS, nâng cao tuổi thọ,… Sức khỏe có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng lao động, năng suất lao động của người dân. Nếu không có sức khỏe tốt, sẽ dẫn tới năng suất lao động thấp, thu nhập thấp, đồng thời chi phí cho bệnh tật nhiều và dẫn đến hiện tượng đói nghèo. Để nâng cao dịch vụ y tế, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng thường phải tăng số lượng, chất lượng bác sĩ, nhân viên y tế và các cơ sở khám, chữa bệnh, tăng số giường bệnh,… Vì vậy, các chỉ số bác sĩ / 10.000 dân hoặc số dân/ bác sĩ, số giường bệnh / 1000 dân hoặc số dân / 1 giường bệnh,… là tiêu chí để xác định mức độ đảm bảo y tế cho nhân dân. Bảng 1.7. Tình hình phát triển cơ sở y tế một số nước trên thế giới 3 Theo Tổ chức Y tế Thế giới ranh giới của nghèo đói là 2100
  20. 10 nước có tỉ lệ người tính trung trên 1 giường 10 nước có tỉ lệ người tính trung trên 1 bệnh cao nhất giường bệnh thấp nhất Thứ Bình quân số Thứ Bình quân số người / Tên nước Tên nước hạng người / 1 giường hạng 1 giường 1 Niger 8.333 2 Nepal 5.000 168 Azerbaijan 120 3 Bê nanh 4.281 169 Lithuania 115 4 Mali 4.167 170 CH Sec 114 5 Ethiopia 4.141 171 Ukraine 114 6 Bangladesh 3.333 172 Đức 112 7 Apganistan 2.500 173 Nga 95 8 Senegal 2.500 174 Belarus 88 9 Somalia 2.500 175 Mông Cổ 87 10 Madagascar 2.381 176 Nhật Bản 70 Nguồn : Tổ chức Y tế thế giới 2006 Mức độ đảm bảo sức khỏe cho người dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, mức thu nhập quốc dân, sự phát triển dân số. Các nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao thì mức độ đầu tư cho y tế cao và chăm sóc sức khỏe tốt. Số lượng bác sĩ nhiều, trình độ cao, trang thiết bị hiện đại, có khả năng chữa được những bệnh hiểm nghèo. Ở các nước đang phát triển thu nhập bình quân thấp hơn rất nhiều, dân số phát triển nhanh cho nên việc đầu tư phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe không theo kịp. Chi cho y tế thấp chỉ có 1,7% so với GNP chỉ bằng 1/5 so với các nước có thu nhập cao. Ở các nước kém phát triển thu nhập chủ yếu chi cho ăn uống. Tỉ lệ chi cho y tế, giáo dục, vui chơi giải trí ít. Chất lượng khám chữa bệnh chưa đáp ứng kịp thời với nhu cầu thực tế. Tỉ lệ bác sĩ/ 10.000 dân thấp. Việc quan tâm đến các loại bệnh nhất là bệnh truyền nhiễm tại các nước này chưa được chú trọng, 3 nhóm bệnh phổ biến nhất là bệnh truyền nhiễm, bệnh hô hấp, bệnh do ký sinh trùng chiếm gần nửa số nguyên nhân tử vong. Trong khi đó, ở những nước phát triển thì những bệnh này được kiểm soát khá tốt. Các cơ sở y tế thiếu trầm trọng ở nhóm nước nghèo ở châu Á, châu Phi như Ethiopia, Bănglađét, Apganistan,... Ngược lại, các nước kinh tế phát triển cao như Nhật Bản, Đức và một số nước XHCN trước đây có chính sách phát triển xã hội tốt như Nga, Ucraine, Belarus, Mông cổ có số cơ sở y tế và giường bệnh nhiều (Bảng 1.7). Tình hình này cũng có thể nhận thấy tương tự về số lượng dân cư quá lớn tính trung bình trên 1 bác sĩ ở các nước nghèo như Malawi, Rwanda.. và số dân trung bình khá ít tính trung bình trên 1 bác sĩ ớ các nước giàu như Hoa Kì, Italy, Bỉ và một số nước XHCN : Cuba, Nga , Belarus (Bảng 1.8). Bảng 1.8. Số dân tính trung bình trên 1 bác sĩ của một số nước trên thế giới Thứ Bình quân số người / Thứ Bình quân số Tên nước Tên nước hạng 1 bác sĩ hạng người / 1 bác sĩ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2