intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: " QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ LỢI ÍCH VỚI TƯ CÁCH ĐỘNG LỰC CỦA LỊCH SỬ "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

175
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đã phân tích và luận chứng để làm rõ thêm quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về lợi ích với tư cách động lực của lịch sử. Lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy hoạt động của quần chúng nhân dân và qua đó, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc nghiên cứu lợi ích vừa giúp hiểu rõ thực chất của sự biến đổi lịch sử, vừa cho thấy vai trò to lớn có ý nghĩa quyết định của con...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: " QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ LỢI ÍCH VỚI TƯ CÁCH ĐỘNG LỰC CỦA LỊCH SỬ "

  1. Nghiên cứu triết học Đề tài: " QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ LỢI ÍCH VỚI TƯ CÁCH ĐỘNG LỰC CỦA LỊCH SỬ "
  2. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ LỢI ÍCH VỚI TƯ CÁCH ĐỘNG LỰC CỦA LỊCH SỬ ĐẶNG QUANG ĐỊNH (*) Bài viết đã phân tích và luận chứng để làm rõ thêm quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về lợi ích với tư cách động lực của lịch sử. Lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy hoạt động của quần chúng nhân dân và qua đó, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc nghiên cứu lợi ích vừa giúp hiểu rõ thực chất của sự biến đổi lịch sử, vừa cho thấy vai trò to lớn có ý nghĩa quyết định của con người thông qua hoạt động thực tiễn. Sự phát triển của xã hội được quy định bởi tổng thể các điều kiện tự nhiên và xã hội, do vậy cũng có một hệ thống các động lực tác động đến sự phát triển đó. Nhưng, suy cho cùng, sự phát triển của xã hội là kết quả của những hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những lợi ích nhất định. Theo đó, lợi ích là một động lực giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của con người và trong sự phát triển xã hội. Việc nghiên cứu lợi ích với tư cách động lực của lịch sử cho chúng ta cơ sở để nhận thức đúng đắn vai trò của con người và tính tích cực của họ trong mọi hoạt động lịch sử, cũng như tìm ra những giải pháp điều chỉnh các quan hệ lợi ích nhằm định hướng xã hội phát triển theo những mục tiêu đã định. Khi nghiên cứu lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng đinh: “Lịch sử không làm gì hết, nó “không có tính phong phú vô cùng tận nào cả”, nó “không chiến đấu ở những trận nào cả”! Không phải “lịch sử”, mà chính con người, con người thực sự, con người sống mới là kẻ làm ra tất cả những cái đó,
  3. có tất cả những cái đó và chiến đấu cho tất cả những cái đó. “Lịch sử” không phải là một nhân cách đặc thù nào đó sử dụng con người làm phương tiện đạt tới các mục đích của mình. Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình”(1). Từ cách tiếp cận đó, thông qua những tác phẩm tiêu biểu, như Hệ tư tưởng Đức, Bức thư Mác gửi P.V.Annencốp ngày 28 tháng Chạp 1846, Sự khốn cùng của triết học, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,… các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định con người là “chủ thể chân chính” sáng tạo ra lịch sử và con người cũng chính là điểm xuất phát của nhận thức triết học về lịch sử của các ông. C.Mác và Ph.Ăngghen đã lấy con người làm tiền đề xuất phát để nghiên cứu lịch sử. Do vậy, nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu chính bản thân con người, tìm động lực của lịch sử chính là tìm động lực thúc đẩy con người hoạt động. Triết học Mác khẳng định rằng, động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức…, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ lợi ích chính là sản phẩm hoạt động của con người, là sự kết tinh, đối tượng hoá bản chất con người, tính người. Nó vừa tồn tại dưới hình thái vật thể, vừa là quan hệ xã hội. Nhưng cái sản phẩm ấy chỉ trở thành lợi ích khi nó thuộc về sở hữu của người nào đó, liên quan và có thể thoả mãn nhu cầu nào đó, được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau. Người ta quan hệ với nhau, trao đổi tính người cho nhau chính là thông qua sản xuất và trao đổi sản phẩm của quá trình sản xuất ấy. Theo quan điểm trên thì lợi ích không phải là bản thân quan hệ xã hội, mà là cái mang quan hệ xã hội. Do vậy, việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ bản, nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng (2). Khi nói về vai trò của lợi ích, triết học Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau và làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa họ. Từ phạm trù lợi ích, C.Mác đã đi sâu nghiên cứu, giải thích lịch sử, chứng
  4. minh sự hiện diện của con người trong mọi hiện tượng, quá trình, mọi biểu hiện đa dạng của lịch sử và tìm ra động lực phát triển của nó. Thứ nhất, C.Mác cho rằng, để tìm hiểu động lực của lịch sử thì “trước hết phải hiểu bản thân cơ sở trần tục ấy trong mâu thuẫn của nó và sau đó cách mạng hoá nó trong thực tiễn bằng cách xoá bỏ mâu thuẫn đó”(3). Do vậy, chỉ có thể tìm động lực của lịch sử từ các mâu thuẫn xã hội. Theo ông, mọi mâu thuẫn xã hội, xét đến cùng, đều là mâu thuẫn về lợi ích giữa những giai cấp, tập đoàn người, giữa các lực lượng, khuynh hướng xã hội. Chính C.Mác khẳng định, mọi cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà nước, đấu tranh giữa phái dân chủ, phái quý tộc và phái quân chủ, đấu tranh cho quyền bầu cử,… chẳng qua chỉ là những hình thức hư ảo của những cuộc đấu tranh thực sự giữa các giai cấp khác nhau, mà đấu tranh giai cấp thông qua cách mạng xã hội sẽ là động lực cho sự thay thế, cải biến các “trạng thái xã hội”. Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử; đồng thời, coi đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Theo quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất - Đ.Q.Đ.)"(4), "mâu thuẫn ấy giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước cho đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang những hình thức phụ khác nhau như tổng thể những xung đột, những sự xung đột giữa các giai cấp khác nhau, những mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị”(5). Đây là một trong những quan điểm cơ bản nhất của triết học Mác về lợi ích với tính cách động lực của lịch sử. Theo quan điểm của hai ông, mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về thực chất, đó là mâu thuẫn giữa hai giai cấp có lợi ích đối lập: giai cấp
  5. thống trị muốn duy trì kiểu quan hệ sản xuất cũ và giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ, muốn xoá bỏ kiểu quan hệ sản xuất cũ đ ã lỗi thời để thiết lập một kiểu quan hệ sản xuất mới. Trong Hệ tư tưởng Đức, khi phân tích sự vận động biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ bản, hai ông đã đưa ra lời giải đáp cho vấn đề động lực phát triển xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật mới. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, các lực lượng sản xuất quyết định loại hình quan hệ xã hội. Tới một giai đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất sẽ mâu thuẫn với hình thức giao tiếp hiện có. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội. Thay cho hình thức giao tiếp trước đây đã trở thành xiềng xích là một hình thức giao tiếp mới phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển hơn. Khi xã hội phát triển đến một trình độ nào đó, hình thức giao tiếp mới này, đến lượt nó, lại không còn phù hợp với các lực lượng sản xuất đang phát triển nữa và biến thành xiềng xích của lực lượng sản xuất; mâu thuẫn đó tiếp tục được giải quyết bằng con đường cách mạng và đưa đến kết quả là hình thức giao tiếp cũ được thay thế bằng một hình thức giao tiếp mới tiến bộ hơn. Sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện được trong một phong trào thực tiễn, trong cách mạng. Triết học Mác đặc biệt chú ý tới vai trò của lực lượng sản xuất, nhất là lực lượng sản xuất mà giai cấp vô sản hiện đại là đại diện. Có thể nói, thông qua những quan điểm của mình, C.Mác đã chỉ ra tính quy luật của lịch sử, điều mà Hêghen đã từng nhận thấy nhưng lại không thể vạch ra được nguồn gốc của tính quy luật đó. Điều này cũng cho thấy sự khác biệt về chất của triết học Mác so với toàn bộ hệ thống triết học trước đây khi nghiên cứu về lịch sử. Từ chỗ cho rằng, “Đứng trên quan điểm thiển cận, ta có thể nắm lấy một trong những hình thức phụ đó và coi nó là cơ sở của những cuộc cách mạng ấy; việc đó càng dễ dàng khi bản thân những cá nhân tiến hành cách mạng lại tuỳ theo trình độ văn hoá của mình và tuỳ theo trình độ phát triển của lịch sử mà tự tạo ra cho mình đủ loại ảo tưởng về hoạt động của riêng mình"(6), C.Mác đã phê
  6. phán một cách sâu sắc, toàn diện quan niệm duy tâm về lịch sử, cái quan niệm biến tinh thần, ý thức thành động lực của lịch sử mà không thèm đếm xỉa đến sản xuất vật chất. Theo các nhà triết học duy tâm, chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng của ý thức, chỉ có sự phê phán và những nhà phê phán mới làm nên lịch sử. "Và khi bản thân các nhà lý luận ấy bắt tay vào những công trình lịch sử thì họ nhảy hết sức nhanh qua toàn bộ quá khứ”(7). C.Mác đã xác lập và phát triển quan niệm duy vật về lịch sử và cho rằng, “khác với quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó (quan niệm duy vật - Đ.Q.Đ) về lịch sử không đi tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần,… mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó"(8); rằng, “không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác”(9). Cho nên, các quan niệm duy tâm “chỉ có thể thấy lịch sử là những hành động chính trị của vương công và của nhà nước, những cuộc đấu tranh tôn giáo và đấu tranh lý luận nói chung"(10). Thứ hai, cuộc đấu tranh của những lợi ích riêng biệt đã “vô tình” đã tạo ra một lực lượng sản xuất tăng lên gấp bội nhờ sự hợp tác của những cá nhân; bởi lẽ, mỗi cá nhân đều chỉ theo đuổi những lợi ích của mình, nhưng muốn vậy họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó họ tạo ra một phương thức hợp tác, hình thành một “sức sản xuất” mới. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: "Cuộc đấu tranh thực tiễn của những lợi ích riêng biệt ấy - những lợi ích luôn luôn thực sự chống lại những lợi ích chung và những lợi ích chung hư ảo, - khiến cho cần thiết phải có can thiệp thực tiễn và sự kiềm chế những lợi ích riêng biệt bởi lợi ích "phổ biến" hư ảo, dưới hình thức nhà nước. Đối với các
  7. cá nhân ấy, lực lượng xã hội, - tức là lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời nhờ sự hợp tác của những cá nhân khác nhau do phân công lao động quy định, - biểu hiện không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự hợp tác đó xuất hiện không phải là một cách tự nguyện mà là một cách tự nhiên; mà biểu hiện như là một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà do đó họ không thể chế ngự được, và trái lại, lực lượng ấy hiện đang trải qua một chuỗi những giai đoạn và trình độ phát triển chẳng những độc lập với ý chí và hành động của loài người mà trái lại còn điều khiển ý chí ấy và hành động ấy”(11). Trong xã hội, mỗi cá nhân theo đuổi những mục đích riêng, nhưng những mục đích ấy của con người có khi phù hợp nhau, có khi chống đối nhau và do đó, các hành động của họ cũng diễn ra theo những hướng như vậy. Hợp lực của những hành động có khi phù hợp nhau, nhưng thường thì không ăn khớp nhau, có khi chống đối nhau ấy, tạo nên các sự biến lịch sử và tập hợp các sự biến ấy chính là xã hội. "Lịch sử diễn ra theo cách mà kết quả cuối cùng luôn luôn thu được từ những xung đột của nhiều ý chí riêng biệt, hơn nữa mỗi ý chí trong số đó trở thành cái như nó hiện có lại chính nhờ rất nhiều những điều kiện sống đặc biệt. Như vậy, có một số vô tận những lực giao nhau, một nhóm vô tận những hình bình hành, và vì sự đan chéo này mà xuất hiện một hợp lực – sự kiện lịch sử"(12). Với quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, chính thông qua việc thực hiện lợi ích của mình trong một điều kiện xã hội nhất định con người đã tạo ra một hợp lực, hợp lực đó biểu hiện ra vừa như một sức sản xuất mới mà sự biến đổi của nó tạo ra động lực cho lịch sử, vừa “tạo” ra quy luật cho sự biến đổi của lịch sử mà chính mình đang ở trong đó. Những quy luật của lịch sử mang tính khách quan, chẳng những độc lập với ý chí và hành động của loài người mà trái lại, còn điều khiển ý chí và hành động của họ. Thứ ba, triết học Mác khẳng định rằng, lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu
  8. xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà còn là động lực của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng, cải biến xã hội, qua đó thúc đẩy lịch sử phát triển. Trong quan điểm của các ông, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử, vừa là lực lượng cơ bản tham gia vào cách mạng nhằm cải biến xã hội theo những mục đích nhất định. Vì vậy, về thực chất, cách mạng là sự thực hiện lợi ích của quần chúng. Quần chúng nhân dân sẽ không l àm cách mạng nếu họ không thấy được lợi ích của mình được phản ánh trong lợi ích chung. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã giải thích tại sao những cuộc cách mạng trước kia, mặc dù không đem lại lợi ích thực sự cho quần chúng, chỉ đem lại lợi ích cho một giai cấp thiểu số - giai cấp thống trị, mà quần chúng vẫn đi theo. Sở dĩ như vậy vì họ tìm thấy lợi ích trong cách mạng, cái “khêu gợi” nhiệt tình của họ. Giai cấp thiểu số chỉ lôi kéo được quần chúng tham gia cách mạng khi chúng nhân danh lợi ích chung, và những tư tưởng, học thuyết chính trị của giai cấp thiểu số cũng phải thể hiện lợi ích chung đó dù chỉ là trên danh nghĩa. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu tượng: phải gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến(13). Tuy nhiên, sự thống nhất về lợi ích trong các nhà nước của những xã hội có giai cấp đối kháng chỉ là tạm thời. Khi cách mạng thành công, giai cấp cách mạng - giai cấp xuất hiện với tư cách là toàn bộ cái khối đông đảo của xã hội đương đầu với một giai cấp thống trị duy nhất, có lợi ích thực sự gắn liền với lợi ích chung của các giai cấp không thống trị khác - lại nhanh chóng biến lợi ích chung đó thành lợi ích của riêng giai cấp mình, "sau đó thì sự đối lập của giai cấp không thống trị với giai cấp giờ đây đã nắm được quyền thống trị lại càng phát triển sâu sắc và gay gắt hơn. Hai sự việc đó dẫn tới chỗ
  9. là cuộc đấu tranh mà giai cấp không thống trị phải tiến hành chống lại giai cấp thống trị mới, đến lượt nó, lại nhằm mục đích phủ định chế độ xã hội trước đó một cách kiên quyết hơn và triệt để hơn tất cả các giai cấp đã giành được quyền thống trị trước kia"(14). Triết học Mác khẳng định hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân hướng theo một lợi ích chung là động lực cơ bản của lịch sử. Điều này là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra động lực của cuộc cách mạng vô sản trong tương lai – một cuộc cách mạng không phải chỉ vì lợi ích của thiểu số nữa. Các ông viết: "Trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp, vì nó được thực hiện bởi một giai cấp không còn được coi là một giai cấp trong xã hội nữa, không được thừa nhận là giai cấp và đã biểu hiện sự tan rã của mọi giai cấp, của mọi dân tộc,… trong khuôn khổ xã hội ngày nay"(15). Thứ tư, từ tư tưởng về lợi ích, triết học Mác cũng đã giải thích mối liên hệ của xã hội công dân – khái niệm chỉ toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và những giao tiếp vật chất của con người, của các cá nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nó là kết cấu phức tạp bao gồm nhiều yếu tố, nhiều mối liên hệ hợp thành của đời sống sản xuất, kinh tế. Nó chính là mặt kinh tế, chế độ kinh tế của xã hội(16)– với kiến trúc thượng tầng, cụ thể là với chính trị, tư tưởng của xã hội. Các ông khẳng định rằng, “một khi “tư tưởng” tách rời “lợi ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục nó” và “tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được; trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn
  10. thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”(17). Theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị... giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần”... Về thực chất, “những tư tưởng thống trị chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng”(18). Các ông đã khẳng định, nếu không có những yếu tố vật chất bao gồm một mặt là lực lượng sản xuất, mặt khác là sự hình thành khối đông đảo quần chúng cách mạng đang nổi dậy không những chống lại những điều kiện riêng biệt của xã hội cũ, mà còn chống lại bản thân "sự sản xuất ra đời sống" trước đây, chống lại "toàn bộ hoạt động" làm cơ sở cho xã hội cũ, thì ý niệm về cuộc cách mạng nào đó dù có được phát biểu hàng trăm lần đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển thực tế cả. Có thể nói, xuất phát từ lợi ích - cái gắn bó mật thiết với con người, triết học Mác đã tìm ra được động lực của lịch sử, đó chính là sự biến đổi của lực lượng sản xuất gắn với sản xuất vật chất và hoạt động cải biến xã hội thông qua đấu tranh giai cấp và các cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân. Quan điểm này đã chỉ ra cơ sở khách quan và khoa học để giải thích sự biến đổi của lịch sử và động lực phát triển của nó. Dưới góc độ phát triển xã hội, chúng ta không dừng lại ở việc nhìn nhận vị trí, vai trò của lợi ích trong hoạt động của mỗi cá nhân cụ thể, mà phải nghiên cứu sâu hơn quan hệ biện chứng giữa các lợi ích đó nhằm tìm ra những động lực chung cho sự phát triển xã hội. Có như vậy, chúng ta mới tạo được những hoạt động thống nhất của “khối quần chúng đông đảo”, của “một dân tộc trọn vẹn” để thúc đẩy xã hội phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Vậy, nếu vấn đề là nghiên cứu những động lực – một cách có ý thức hay không có ý thức, và thường là không
  11. có ý thức – ẩn sau những động cơ của những nhân vật hoạt động trong lịch sử và là những động lực thực tế cuối cùng của lịch sử, thì vấn đề không phải là nghiên cứu những động cơ của các cá nhân riêng lẻ, dù đó là những cá nhân xuất sắc đi nữa, mà là nghiên cứu những động cơ đã lay chuyển những khối quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi dân tộc; những động cơ đã đẩy họ không phải đến chỗ tiến hành những cuộc nổi dậy, nhất thời theo kiểu lửa rơm chóng tắt, mà đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”(19). Tóm lại, theo quan điểm của triết học Mác, lợi ích có vai trò rất to lớn đối với hoạt động của con người. Nó là động lực sâu xa của lịch sử. Tất nhiên, trong suốt quá trình lịch sử, lợi ích được phát triển, được biểu hiện ra thành các yếu tố, các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Bởi lẽ, những gì gắn với sự tồn tại và phát triển của con người thì cũng gắn với sự tồn tại và phát triển của lịch sử. Nghiên cứu về lợi ích cho ta cơ sở để hiểu thực chất của những biến đổi của lịch sử. Nhưng điều quan trọng hơn là, qua đó chúng ta thấy được vai trò to lớn của con người đối với lịch sử của chính mình thông qua hoạt động thực tiễn của họ. Chính con người chứ không phải ai khác là chủ nhân chân chính của lịch sử, là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Đó là cách tiếp cận đúng đắn và có giá trị to lớn nhất trong triết học về lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.r (*) Thạc sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.141. (2) Xem: Phạm Văn Chung. Triết học Mác về lịch sử. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.89.
  12. (3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.11. (4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107. (5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107-108. (6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107-108. (7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.58. (8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.54. (9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.54. (10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.56. (11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.48 – 49. (12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.37, tr.643. (13) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.68 (14) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.69 (15) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.100 (16) Xem: Phạm Văn Chung. Triết học Mác về lịch sử. Sđd., tr.148 (17) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.122,181. (18) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, 1995, tr.66-67. (19) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.438.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0