Đề tài triết học: Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
lượt xem 159
download
Đề tài triết học: Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt nhằm trình bày về sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học của Nho giáo, nội dung cơ bản của tư tưởng triết học của Nho giáo, những ảnh hưởng của tư tưởng triết học của Nho giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài triết học: Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM CAO HỌC KHÓA K19 …………………... .. …..………………. TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC Đề tài: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT. GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA SVTH : MAI THỊ CHÍN THÁNG 3 NĂM 2010 HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 1
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA LÔØI CAÛM ÔN Triết Học - một môn học đòi hỏi sự tư duy, nghiền ngẫm, nổ lực tìm tòi và nghiên cứu của sinh viên. Có thể Triết Học mang đến sự khô khan nếu chúng ta chỉ học Triết học để hoàn tất các môn trong Khóa học mà quên rằng hiểu được những triết lý bên trong môn học này là điều rất thú vị, Triết học dạy chúng ta rất nhiều điều thâm thúy về triết lý làm người v.v… 90 tiết học tuy là khoảng thời gian ngắn nhưng em đã được Thầy truyền đạt những kiến thức quý báu về nội dung, về tư tưởng của môn học này. Tuy vẫn chưa hiểu được tất cả những triết lý sâu xa và tinh tế của môn học nhưng em vẫn cảm nhận được những hữu ích mà môn học đã mang lại. Em chân thành cảm ơn Thầy – TS. Bùi Văn Mưa – Tiểu Ban Triết Học – Khoa Lý Luận Chính trị đã truyền đạt cho chúng em những kiến thức bổ ích cũng như những tiết học rất vui tươi. Kính chúc Thầy luôn dồi dào sức khỏe và ngày càng đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực giảng dạy. Tp,HCM 3/2010 HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 2
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA LỜI MỞ ĐẦU Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hoá góp phần làm phong phú văn hoá Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hoá Hán cùng với sự giao lưu tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử mất ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau: có những giai đoạn lịch sử, người ta đề cao Nho giáo, coi đó như là chuẩn mực để xây dựng đời sống xã hội, lại có thời gian, người ta phê phán, bài bác, thậm chí phủ nhận Nho giáo. Đương nhiên, khi đã coi Nho giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá trong các giai đoạn lịch sử cũng là việc làm bình thường. Ở Việt Nam trong những thập niên gần đây việc tìm hiểu Nho giáo có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh nhiều bộ sách kinh điển Nho giáo được tái bản, nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo lại càng trở nên càng thiết hơn, khi mà một số nước trong khu vực vốn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm Nho giáo đang vươn lên thành những “con rồng”. Hai cuộc toạ đàm về Nho giáo diễn ra tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn giữa các nhà khoa học Mỹ và các nhà khoa học Việt Nam cũng không ngoài mục đích góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống Nho giáo. Nét đặc thù của triết học Trung Quốc nói chung hay Nho giáo nói riêng là có xu hướng đi sâu vào giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội có nội dung bao trùm là con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước. Ngay từ khi xâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã nhanh chóng thích nghi và phát triển mạnh mẽ, sự ảnh hưởng, tác động của nó đến đời sống người Việt Nam rất sâu sắc không chỉ trong quá khứ mà vẫn còn tiếp tục phát huy đến ngày nay, góp phần phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, đề tài: “tư tưởng triết học của Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt” được thực hiện nhằm làm rõ hơn tư tưởng triết học chủ đạo của Nho giáo cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó đến đời sống người Việt Nam trãi qua bao thế hệ. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 3
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA MỤC LỤC Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO ....... 5 1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI ....................5 1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời: .................................................................................5 1.1.2. Đặc Điểm:................................................................................................5 1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO............................................5 1.2.1. Lịch sử hình thành:..................................................................................5 1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo: ....................................................8 Chương 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO....................................... 8 2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO.......................................8 2.1.1. Ngũ Kinh: ................................................................................................8 2.1.2. Tứ Thư.....................................................................................................9 2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO..............................................11 2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy: .....................................11 2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo Đức:15 2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống: 16 Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT....................... 18 3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam............................................18 3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt..............20 3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam...............................................20 3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam. ......20 3.2.3. Tư tưởng triết học nho giáo - nét văn hóa đặc trưng trong việc xây dựng đời sống gia đình mới Việt Nam ngày nay..........................................................21 3.3. KẾT LUẬN ..................................................................................................27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 28 HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 4
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO 1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI 1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời: Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á có hai con sông lớn (Hoàng Hà & Trường Giang). Vào thế kỷ 21 TCN chỉ là một vùng đất nhỏ ở trung lưu Hoàng Hà, lãnh thổ được mở rộng dần cho đến thế kỷ 18. Cư dân phía Bắc Trường Giang là dân tộc Hán, có nguồn gốc Mông Cổ (Hoa/Hạ) sống du mục, (thích săn bắn, chinh phục). Cư dân phía Nam Trường Giang là các dân tộc Bách Việt, sống nông nghiệp (định canh, định cư) có nền văn hóa riêng nhưng dần dần bị dân tộc Hán đồng hóa. Xã hội chia làm hai loại người (quân tử và tiểu nhân)… Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động, với các vương triều khác nhau đã để một nền văn hóa rực rỡ với nhiều trường phái triết học sâu sắc. 1.1.2. Đặc Điểm: • Nền triết học đồ sộ nhưng tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn đạo đức, chính trị, xã hội của thời đại đặt ra. • Xuất phát từ quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân mà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung đột nhau xung quanh vấn đề cội nguồn, số phận, bản tính,..của con người; nhằm xây dựng một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người vươn lên trong điều kiện xã hội đầy phức tạp và biến động. • Các trường phái triết học khác nhau, vừa phê phán xung đột, vừa hấp thụ tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh hưởng tư tưởng biện chứng trong kinh dịch. 1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO 1.2.1. Lịch sử hình thành: Khổng giáo (Nho giáo) là một giáo lý đạo đức cơ bản xuất xứ ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5 và 6 trước CN. Dựa trên những cơ cấu và sự tu tập nó đã phổ biến lâu HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 5
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA đời trong xã hội Trung Quốc, chẳng hạn hệ thống gia tộc và sự thờ cúng ông bà, tổ tiên của nó, Khổng giáo đã trở thành hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất Trung Quốc, cùng tồn tại với Lão giáo (đạo) và Phật giáo qua nhiều thế kỷ. Người sáng lập ra nó đức Khổng Phu Tử (551-479 trước CN) một nhà cải cách chính trị cũng là một nhà giáo dục, ngài bất mãn với sự suy đồi đạo đức trong thời đại của mình và tìm cách khôi phục lại những giá trị mà ngài cho là những phong tục tốt đẹp của thời đại Hoàng Kim. Những tư tưởng triết lý, đạo lý và tín ngưỡng đặt nền tảng cho một hệ thống đạo đức đã tồn tại qua nhiều thời gian thử thách. Trãi qua hơn hai nghìn năm, tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hóa mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả còn xem nho giáo là tư tưởng tôn giáo của Trung Quốc. Trong thực tế, nho giáo là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung Quốc, nó là tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo và được coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có ảnh hưởng tới một số nước ở Châu Á . 1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo: Nho giáo nguyên thủy (tiền Tần/Khổng –Mạnh): Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của - Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng- Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 6
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị”. Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ thư và ngũ kinh là kinh điển nho giáo. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị). HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 7
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO 2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO Để hiểu được tư tưởng triết học của nho giáo lúc bấy giờ, cần điểm qua các tác phẩm kinh điển của Nho giáo gồm 02 (hai) bộ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Đây là hai bộ sách nổi tiếng mà hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. 2.1.1. Ngũ Kinh: Giáo lý của Khổng Tử dựa trên sáu quyển sách cổ: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc Và Xuân Thu. Bốn trong sáu quyển này được đề cao với từ “Kinh”- Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Nhạc Kinh vào thế kỷ thứ 2 trước CN, do bởi sách nhạc mất đi, năm cuốn còn lại được đặt tên là Ngũ Kinh. Kinh Thi là người bạn đồng hành của ngài. Chắc hẳn ông ta đã thuộc lòng nó và hát nó. Ngài đề cập hoặc trích dẫn nó khoảng 20 lần trong Luận Ngữ. Kinh thi có 305 bài hát, bao gồm các bài hát ca tụng triều đại được hát ở triều đình nhà Chu và những bài dân ca khác biệt với những phần của đế chế nhà Chu. Theo truyền thống, nhà vua phái các quan lại đi khắp nơi để thu thập các bài dân ca để ông ta có thể tìm hiểu về những gì người dân nghĩ suy nơi sự cai trị của mình. Khổng Tử giới thiệu Kinh Thi cho các môn sinh của ngài với một vài lý do. Đầu tiên giúp cho họ hiểu được các phong tục, tập quán quốc gia khác nhau. Thứ hai, giúp cho họ sống hòa thuận với người khác. Thứ ba, nó là phương tiện hòa giải tình cảm của họ. Cuối cùng, nó sẽ đưa họ đến với muôn thú và cỏ cây. Về “Kinh Thư” là sách ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. “Kinh Dịch” là một cẩm nang về sự tiên đoán có từ đời nhà Chu và sau đó được các nhà uyên bác của đạo Khổng mở rộng. Bằng cách vận dụng các cây que bằng cọng cỏ thì có thể tạo ra 64 ngôi sao sáu cánh, liên kết tất cả các cấu trúc này và biến đổi thành vũ trụ. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 8
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Không còn cốn sách “Lễ” nào tồn tại vào thời Khổng Tử. Tuy vậy, cuốn Lễ ký chứa đựng các tư liệu vào đầu thời kỳ nhà Chu nhưng thực tế nó được biên soạn sau này, đưa ra tình huống cổ điển. Cuốn sách này quan trọng của Lễ Nghi cũng như tạo cho nó có sự phù hợp với thời thế. Ví dụ, khi một người trị vì qua đời, các quan lại và hầu thiếp đều bị chôn theo để linh hồn họ tiếp tục đi theo hầu hạ. Sách lễ đã phản đối việc đó bằng cách dùng hàng mã thay thế, vừa đáp ứng cho mục tế lễ, vừa thể hiện tình cảm người sống dành cho người chết. “Kinh Xuân Thu” ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra). 2.1.2. Tứ Thư Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm: Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử. “Đại học” là sách dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước. Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử. Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”) “Trung Dung” là sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 9
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. “Luận Ngữ” là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người mỗi cách. Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo. “Mạnh Tử” Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: tâm học và chính trị học. Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời. Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 10
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này. 2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO 2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy: Là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về Đạo làm người quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống các tư tưởng về đạo đức – chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội mà là những quan hệ đạo đức - chính trị tam cương là ba quan hệ vua –tôi, cha – con, chồng – vợ . Các quan hệ này được Nho Gia gọi là Đạo. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ ; thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỹ cương phép nước lỏng lẽo là do ba quan hệ này rối loạn, do danh – thực oán trách nhau, nghĩa là vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; chồng chẳng ra chồng, vợ chẳng ra vợ. Vì vậy muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó và Nho gia nguyên thủy đã lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh. Bên cạnh việc giáo dục để xây dựng một xã hội đại đồng, Khổng Tử và Mạnh Tử còn tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của mình qua thuyết Thiên Mệnh. Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng là Thiên Mệnh và hiểu biết được Thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành người hoàn thiện. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 11
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Dựa trên thuyết Thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: “ thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có nghĩa là: con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống,do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là nguyên nhân làm biến tính con người, mất đi bản tính trời phú, làm cho con người vô đạo, thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính người phải lập đạo, làm cho thiên hạ hữu đạo. Đạo phải đi cùng với giáo mới sâu sắc, vững bền. Hữu đạo là thể hiện mối quan hệ giữa người với người, giữa người với trời đất – vạn vật một cách đúng đắn phù hợp với Thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm dương, nếu lập đạo của đất thì nói về cương nhu, còn lập đạo của người thì nói đến nhân nghĩa. Quan niệm về nhân nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức nho gia nguyên thủy. Chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng. • Quan niệm về Nhân: - Theo Khổng Tử: nhân là lòng hương người (ái nhân). Muốn thực hiện đạo làm người tức muốn thực hiện đức nhân cần phải: điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác; mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt; khống chế mình theo đúng lễ…người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín mẫn, huệ (cung kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi)…, bên trong gia đình luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)… - Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp, Ông cho rằng chỉ có người quân tử, kẻ cai trị mới có được đức nhân. • Quan niệm về nghĩa: - Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân dùng để đối xử với người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để đối xử chính và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong mối quan hệ với người thì đức nghĩa thể hiện trong mối quan hệ với mình. Khi làm việc gì hoặc nói điều gì ta thấy tâm thảnh thơi, thoải mái và hứng thú thì đó là làm điều nghĩa và nói điều HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 12
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA nghĩa. Vậy, nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm bất kể điều đó có đem đến lợi ích cho người thực hiện việc đó hay không. - Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp mà khổng Tử cho rằng, bậc quân tử tin tường việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ việc lợi. Tiểu nhân và quân tử là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là phẩm chất đạo đức. • Quan niệm về Lễ: - Để đạt được nhân, lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương cho xã hội Khổng Tử chủ trương phải dùng lễ. lễ xác định được vị trí, vai trò của từng người, phân định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi. - Theo Khổng Tử lễ được hiểu ở hai khía cạnh. Thứ nhất, lễ được hiểu là lễ giáo phong kiến như những phong tục, tập quán; những qui tắc, qui định về trật tự xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình pháp…; thứ hai, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội trước lễ nghi, trật tự, kỹ cương phong kiến. - Nhân và lễ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khổng tử cho rằng trên đời này không tồn tại người có nhân mà vô lễ. Ngoài Nhân, Lễ, Nghĩa, Nho gia còn nói đến trí là sự sáng suốt để nhận thức mọi vấn đề, hiểu đạo trời, hiểu đạo người, hiểu cả thiên hạ và biết sống với nhân; tín tức là nói đến lòng ngay, dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau. Nếu Khổng Tử chú trọng đến Tam Đức (nhân, trí, dũng) thì Mạnh Tử xem Tứ Đức (nhân, lễ, nghĩa, trí) là những chuẩn mực đạo đức hoàn thiện hơn. Dựa vào thuyết Thiên Mệnh Người cho rằng: “ nhân chi sỏ, tính bản thiện” – con người sinh ra đã có sẳn tính thiện trong người, do người có nhân, lễ, nghĩa & trí. Tâm là cội nguồn tính thiện trong con người. Vì vậy, con người phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính nghĩa là giữ gìn cái tâm thiện ấy. Mặc dù vậy, trong cuộc sống vẫn tồn tại cái ác mê hoặc lòng người, làm đảo điên trật tự, kỹ cương của xã hội. Để giữ được trật tự kỹ cương phải thực hành đường lối nhân nghĩa. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 13
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Tất cả những điều nêu trên là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho giáo mà người quân tử phải biết tu thân để đạt đạo. Người quân tử phải đạt được chín điều: nhìn cho minh bạch, nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo phải trang nghiêm, khi tức giận phải nghĩ hậu quả, nói năng trung thận, làm việc phải trọng tín cẩn, nghi hoặc phải hỏi han, khi thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa. Đó là những chuẩn mực xây dựng nên mẫu người quân tử trong xã hội. Không riêng bậc quân tử mới biết tu thân, đạt đạo và hành đạo để trở thành mẫu người chuẩn mực. Quan niệm về người phụ nữ trong tư tưởng Nho giáo ràng buộc bởi Tam tòng, Tứ đức. “Tam Tòng” là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: ”tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nghĩa là người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,lúc lấy chồng phải theo chồng, chồng mất phải theo con. “Tứ Đức” muốn nói đến bốn tính nết tốt mà người phụ nữ phải có, gồm: công dung, ngôn, hạnh. Người phụ nữ phải khéo léo trong việc làm, hòa nhã trong sắc diện, mềm mại trong lời nói và nhu mì trong tính nết. Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, muốn trở thành người quân tử phải biết tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo, đạo chính là con đường phải theo, là quan hệ mà con người phải biết ứng xử trong cuộc sống. Đó chính là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ. Bên cạnh đó còn phải đạt đức là những phẩm chất tốt đẹp mà con người thể hiện trong cuộc sống. Người quân tử còn phải biết: thi, thư, lễ, nhạc. Tóm lại, xuyên suốt quan điểm đạo đức – chính trị - xã hội của Khổng Mạnh là xây dựng mẫu người quân tử. Người quân tử phải biết tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức nghĩa là phải biết tu thân và không chỉ có tu thân mà còn phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn hành động hiểu quả phải thực hành đường lối nhân trị - cai trị bằng tình người, yêu thương và xem như bản thân mình; và chính danh. Nho giáo nguyên thủy đã khát khao biến xã hội từ loạn thành trị. Điều này toát lên tính nhân bản sâu sắc. Nó đòi hỏi người cai trị - người quân tử là người có vốn văn hóa toàn diện. Nho giáo nguyên thủy xây dựng xã hội đại đồng không dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội, không xuất phát từ nền sản xuất vật chất mà chủ yếu dựa HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 14
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA trên mối quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội thông qua việc rèn luyện, giáo dục nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị. Dùng tâm, đạo, dùng nhân, nghĩa để thu phục lòng người, để trị quốc, an dân. Mặc dù nó mãi là lý tưởng chính trị cao đẹp của tầng lớp phong kiến thống trị xã hội Trung Quốc nhưng Nho giáo nguyên thủy Khổng – Mạnh toát lên giá trị nhân bản và tinh thần biện chứng sâu sắc. 2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo Đức: Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con người, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa. Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải, đường hay, việc đúng. Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” (Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại nhân là thế đó” (Tồn Tâm Thương). Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội. Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 15
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA vào ngũ thường. Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu tượng hoá. Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ “nhân nghĩa” một màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có “tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của người có nhân, nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người tương cảm với 4 đức của trời. Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số thời điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển càng ngày nó càng bị trừu tượng hoá trên quan điểm siêu hình. Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực. 2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống: Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn biết người chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! “Phải vụ lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta” (Luận ngữ) khi khoa học chưa phát HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 16
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái “thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời mặc dù ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời, sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử. HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 17
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT Nho giáo của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam tư thời Bắc thuộc và ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Cùng với Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo của Khổng tử đã tác động, chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. 3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam. Hoàn cảnh du nhập của Nho học ở Việt Nam có khác với nước khác. Nếu với Nhật Bản thì sự du nhập là gián tiếp, từ Triều Tiên truyền sang và sau đó là sự tiếp thu trực tiếp, các lưu học sinh Nhật Bản sang Trung Quốc học Nho học và truyền bá lúc đầu mang tính áp đặt. Người Hán xâm lược Việt Nam, đưa Nho học vào để tăng cường sự thống trị. Vì vậy, thái độ đầu tiên của người Việt Nam là phản ứng, chống lại. Thái độ trên có sự chuyển biến là mãi về sau, khi nền kinh tế xã hội Việt Nam có nét giống với nền kinh tế - xã hội phong kiến Trung Quốc, khi người Việt Nam có sự quen thuộc ít nhiều với Nho học. Thái độ đối với Nho học của người Việt Nam có bước ngoặc là khi người Việt Nam giành được độc lập dân tộc từ tay người Hán ở thế kỷ X, lúc này, người ta thấy ở học thuyết này là một lý luận và một nghệ thuật của đạo trị nước, cần thiết phải nắm lấy để xây dựng đất nước mình. Các triều đại phong kiến Việt Nam tự mình thấy phải du nhập và phát triển Nho học. Các vua của triều Lý Việt Nam ở thế kỷ XI đã xây dựng văn miếu để tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền nhà Nho, đã mở trường Quốc Tử Giám cho con hoàng tộc và con cái các nhà quyền quý vào học tập Nho học, đã tổ chức ra các kỳ thi Nho học để chọn ra các nhân tài kiểu nhà Nho. Khi nói đến vấn đề du nhập Nho học vào Việt Nam, nhiều người chỉ thấy hoạt động đó ở giai đoạn đầu, giai đoạn đầu Bắc thuộc. Thực ra sự du nhập đó diễn ra nhiều lần và ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoài sự diễn ra ở đầu công nguyên, Nho học còn được tiếp tục truyền vào Việt Nam ở các giai đoạn sau. Có thể nói, thời nào cũng có hiện tượng du nhập, giai đoạn nào của Nho học Trung Quốc cũng muốn truyền sang Việt Nam. Thời Bắc thuộc là Hán Nho, thời Đinh, Lê, Lý, HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 18
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA Trần, là Đường Nho, thời Lê Sơ là Tống Nho, thời Lê Mạt và Nguyễn là Thanh Nho. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia liền nhau, việc giao lưu không gì cản trở, hơn nữa, tư tưởng và học thuật thì không có biên giới ngăn cách. Sau khi chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc bằng chiến công trên sông Bạch Đằng năm 938, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Thời điểm này là thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê đều theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta. Cũng từ đây, Nho giáo được quan tâm, chú ý. Bên cạnh sự đóng góp của các nhà sư trong việc ổn định và xây dựng đất nước thì xu hướng Nho giáo giữ vai trò ngày càng quan trọng và dần dần thay thế Phật giáo ngày càng rõ. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thấm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm. Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam, HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 19
- Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA 3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt. 3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam. Qua các thời đại lịch sử của dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo được hết ý nghĩa của đạo Nho, phân tích thành hệ thống theo yêu sách của trường ốc, bác học. Hơn thế nữa, cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo Nho lấy "dụng" làm "thể", nên có những hiện tượng phản kháng nếp sống cao ngạo, giả tạo và khắt khe của lớp "quan lại hủ nho", những cách đối xử thiếu tình nghĩa trong gia đình và ngoài xã hội, những lễ nghi rườm rà, bất nhân... Sứ điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ như thế khi tiếp cận với lịch sử xã hội. Nhưng đằng sau những hiện tượng xã hội tiêu cực trên đây, hồn của đạo Nho vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một người con dân Việt; và đôi khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những hình thức nhiêu khê, giả tạo của nếp sống "nho nhã" giả hình. Từ triều đình đến cuộc sống làng mạc, từ cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp sống gia đình... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một trật tự nhân sinh tình nghĩa. Từ vua chúa đến thứ dân, từ người có học đến người dân quê không biết đọc biết viết..., thì "lễ", là sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm nhận như giềng mối của các tương quan xã hội. Từ ý thức nghĩa làm người, dân Việt Nam đã anh dũng đẩy lui, tố giác... những hành vi bạo ngược vi phạm đến tự do và sự sống an bình của đồng bào họ. Và chưa có ai, sử gia nào Việt Nam, dám viết rằng những năm tháng bị ngoại bang đô hộ, vua quan hà hiếp dân chúng... dầu có ổn định bên ngoài từng trăm năm, là những năm tháng hòa bình cả. Vì tự thâm sâu nơi tâm hồn người Việt Nam, hòa bình chân thật là nỗ lực xây dựng con người và xã hội trong Ðạo lý, một nền hòa bình vốn không phải do bất cứ ai, bất cứ phe nào suy nghĩ ra và áp đặt theo sở thích của mình. Nhưng hòa bình chân thật trong khuôn khổ Trung và Hòa của Nho học có căn nguồn vững bền nơi Tâm Duy Vi, xuất phát từ đáy lòng của mỗi người. 3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và nhiều HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài triết học: Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
29 p | 615 | 254
-
Tiểu luận triết học: Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
23 p | 573 | 179
-
Tiểu luận triết học: Tư tưởng triết học phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam
30 p | 416 | 127
-
Đề tài: Tìm hiểu tư tưởng nhân sinh quan trong triết học Khổng Tử
60 p | 388 | 85
-
Đề tài triết học: Tư tưởng triết học của Pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại
31 p | 264 | 56
-
Đề tài triết học " TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG "
13 p | 198 | 48
-
Đề tài triết học " TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG DI CHÚC "
11 p | 185 | 34
-
Đề tài triết học " TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VỀ DÂN SINH VÀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HÀI HOÀ "
10 p | 125 | 21
-
Đề tài: Triết học nghệ thuật của Selinh - Nguyễn Duy Hoàng
12 p | 156 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phật giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
105 p | 72 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng của Jiddu Krishnamurti về con người
175 p | 37 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ, Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
76 p | 46 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng nhân sinh của Minh Mạng
89 p | 44 | 8
-
Đề tài: " TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (HỘI NGHỊ BÀN TRÒN VỀ CUỐN SÁCH CỦA V.V.XÔCÔLỐP “NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC”) (Tiếp theo kỳ trước) "
13 p | 67 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại
105 p | 27 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở ở Đà Nẵng (Nghiên cứu trường hợp trường THCS Trưng Vương Đà Nẵng)
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn