Đề tài Văn học Việt Nam: Khảo sát một số câu tục ngữ có nhiều cách hiểu
lượt xem 11
download
Đề tài Văn học Việt Nam: Khảo sát một số câu tục ngữ có nhiều cách hiểu giới thiệu tới các bạn những nội dung về một số đặc trưng của tục ngữ có liên quan đến ngữ nghĩa; tục ngữ có nhiều cách hiểu – thực trạng và nguyên nhân; tục ngữ có nhiều cách hiểu – một số đề xuất, giải pháp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài Văn học Việt Nam: Khảo sát một số câu tục ngữ có nhiều cách hiểu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THANH ĐẢM KHẢO SÁT MỘT SỐ CÂU TỤC NGỮ CÓ NHIỀU CÁCH HIỂU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 34 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, mọi người đều công nhận rằng TN được sáng tạo ra nhằm mục đích tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của nhân dân lao động. Những kinh nghiệm như thế ngày càng được bổ sung, bồi đắp, thêm đa dạng, phong phú theo thời gian, không gian. Và đến bây giờ, có thể nói chúng ta đã có cả một kho tàng TN - kho tàng kinh nghiệm. Đây là tài sản vô giá, tinh hoa của dân tộc từ ngàn đời truyền lại và luôn được bồi đắp. Do đó việc bảo tồn và phát huy vốn TN là trách nhiệm của các cơ quan chuyên ngành, của các nhà nghiên cứu, của mọi người. Vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu TN (cho đến nay), mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, có giá trị, nhưng thực tế đòi hỏi phải tìm hiểu, nghiên cứu thêm, chuyên sâu vì còn nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận một cách thỏa đáng, còn nhiều ý kiến tranh luận, thậm chí có vấn đề còn bỏ ngỏ. Chẳng hạn, vấn đề truy nguyên nguồn gốc, xuất xứ; về tính dị bản; về ranh giới với thành ngữ, ca dao; đặc biệt là tính nhiều nghĩa và ngữ cảnh hành ngôn phong phú, đa dạng của TN. Vấn đề tính nhiều nghĩa của một câu TN cần được tiếp tục bàn bạc, xem xét do đặc trưng của TN, có nhiều ý kiến tranh luận, không thống nhất trên các tạp chí chuyên ngành. Hơn nữa, tính nhiều nghĩa của TN cũng là vấn đề quan tâm, thích thú đối với người viết luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài, chúng tôi nhằm một số mục đích sau: - Giúp mọi người thêm yêu quý di sản, tinh hoa của cha ông, dân tộc, trong đó có TN. Mọi người phải luôn có ý thức gìn giữ và quý trọng vốn TN của dân tộc vì nó là kho kinh nghiệm quý báu của cha ông đúc kết lại trên tất cả các lĩnh vực cuộc sống, vì nó thể hiện lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân dân, lối nói của dân tộc. - Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về văn học dân gian nói chung, TN nói riêng để từ đó khám phá kiến thức về xã hội, về văn học nghệ thuật... Bởi lẽ, văn học dân gian được xem là bộ gen, là cơ sở, là cội nguồn của văn học dân tộc. - Biết nhận xét và vận dụng TN trong cuộc sống hàng ngày, trong công tác một cách tốt hơn, đạt hiệu quả hơn. Bởi vì sức sống của TN ngày càng được khẳng định, nó vừa giản dị vừa sâu sắc một cách thú vị. Bởi vì TN là “những nhận xét, phán đoán, kết luận mà tính chân thực đã được xác nhận từ trước”, được người nói dùng làm căn cứ để “trợ lực”, để
- “dựa vào nhằm để chứng minh cho tính chân thực của một nhận xét, phán đoán, kết luận nào đó của mình” [8, tr. 122]. - Đây là dịp, cơ hội trao đổi, bàn bạc để tìm ra, để nhận dạng nghĩa của TN. Nếu câu TN có một nghĩa duy nhất, ý nghĩa đích thực thì chọn một nghĩa và loại những nghĩa không phù hợp. Còn nếu câu TN đích thực có nhiều nghĩa thì phải chấp nhận nó và xem đây là tính sinh động của TN về mặt ý nghĩa. - Thấy được con đường nhận thức và lí giải nghĩa của TN nói chung trong đó có một số câu TN có nhiều cách hiểu là rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải vận dụng kiến thức liên ngành để giải mã. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Một số câu TN của người Việt (Kinh) trong các cuốn từ điển, các sách chuyên ngành mà qua đối chiếu, so sánh chúng tôi thấy có sự giải thích nghĩa khác nhau. Cụ thể: + Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, Nxb. Giáo Dục - Hà Nội, 1993. + Về cội về nguồn của Lê Gia, Nxb. Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, bốn quyển. + Từ điển thành ngữ, tục ngữ - ca dao Việt Nam của Việt Chương, Nxb. Đồng Nai, 1995. + Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, Nxb. Khoa học xã hội, 1997. + Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ do Hoàng Văn Hành chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. - Những câu TN có nhiều cách hiểu khác nhau vì nhiều nguyên nhân khác nhau qua các bài viết trao đổi, tranh luận trên các tạp chí chuyên ngành và các tạp chí có liên quan. Cụ thể: + Tạp chí Văn hoá dân gian. + Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống. + Tạp chí Ngôn ngữ. + Tạp chí Nguồn sáng dân gian. - Do những câu TN có nhiều cách hiểu khác nhau có số lượng tương đối nhiều nên chúng tôi chỉ chọn một số câu có thể nói là tiêu biểu, có vấn đề tranh luận... để tìm hiểu. Phần còn lại, chúng tôi chỉ liệt kê ra để bạn đọc tham khảo (có kèm theo các cách hiểu) và đặt ở phần phụ lục.
- - Đi vào khảo sát, chúng tôi tìm hiểu, lí giải những nguyên nhân dẫn đến một câu TN có nhiều cách hiểu ở hai cấp độ: nhiều cách hiểu về nghĩa của cả câu TN (chủ yếu) và nhiều cách hiểu về một vài từ ngữ, hình ảnh trong câu nhưng nghĩa vẫn thống nhất. Cụ thể: xét câu TN trên văn bản và trong ngữ cảnh cụ thể. Từ những nguyên nhân này, chúng tôi đưa ra một số đề xuất, giải pháp để phần nào giải quyết vấn đề khảo sát. 4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Từ trước đến nay, việc tìm hiểu, nghiên cứu TN đã được nhiều người quan tâm. Họ có những bài viết công phu, ở nhiều khía cạnh, có giá trị trong việc góp phần tìm hiểu TN. Ở cấp độ ngữ nghĩa của TN có liên quan đến vấn đề người viết đang nghiên cứu, tìm hiểu, có các loại sách, bài viết sau: - Về giải thích ý nghĩa các câu TN, có công trình “Về cội về nguồn” của Lê Gia (4 quyển) [1]. Tác giả đã giải thích một số lượng lớn TN, đặc biệt là đã liệt kê các cách hiểu khác đối với câu TN ở một số sách và có ý kiến đồng tình hay bác bỏ với nhiều lí lẽ, dẫn chứng. Có thể nói, công trình này đã giúp cho việc hiểu nghĩa câu TN cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tức người đọc có cái nhìn tương đối bao quát, toàn diện về các cách hiểu và gốc tích, xuất xứ câu TN. - Bài viết đề cập và khai thác yếu tố nội dung của TN có: 1.“Tiểu luận về tục ngữ Việt Nam” của Chu Xuân Diên trong sách Tục ngữ Việt Nam [7]. Ở tiểu luận này, qua phân tích nội dung ngữ nghĩa của TN, tác giả đi đến kết luận TN có tính nhiều nghĩa. Từ lúc ra đời, được lưu truyền và sử dụng thì TN có sự mở rộng nghĩa. Tức là mở rộng nội dung kinh nghiệm được đúc kết trong TN: từ nội dung nói về kinh nghiệm lao động sang nội dung nói về kinh nghiệm xã hội. Cũng theo tác giả, TN bắt đầu từ những quan sát trực tiếp, cụ thể đối với sự vật và hiện tượng, sau đó chúng được khái quát, được trừu tượng. Đây chính là tầng nghĩa bóng của TN. 2.“Về tính nhiều nghĩa của tục ngữ” trong sách Văn học dân gian Việt Nam, tập II của Hoàng Tiến Tựu [91]. Theo tác giả thì loại TN phản ánh những hiện tượng và quy luật vận động trong tự nhiên mang tính khái quát cao, phần lớn đều có thể được dùng theo nghĩa bóng để nói về những hiện tượng và quy luật xã hội. Và tính chất ngụ ý không nằm trong ý đồ sáng tác ban đầu của tác giả dân gian mà nảy sinh trong ý thức của người sử dụng TN. Nhưng hiện tượng này chỉ xảy ra đối với những câu TN có khả năng mở rộng nghĩa – tức mang tính chất ẩn dụ, tượng trưng, chứa đựng nghĩa bóng. 3. “Những đặc điểm thi pháp của tục ngữ” trong sách Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian của Đỗ Bình Trị [85]. Theo tác giả, TN nảy sinh từ nhu cầu
- khái quát những kinh nghiệm rút ra từ sự quan sát và suy ngẫm về những sự việc, sự kiện thực tế được lặp đi lặp lại nhiều lần. Và sau đó những kinh nghiệm ấy lại được sử dụng trong các hoạt động thực tế. Con đường từ TN đến thực tế, tác giả chú ý đến tính đa nghĩa và trường nghĩa của TN. Tính đa nghĩa đưa đến chức năng ẩn dụ của TN. Còn trường nghĩa tạo nên sự mở rộng nghĩa trong ứng dụng của TN. 4. “Tục ngữ” (trích bài giảng cho sinh viên khoa văn các trường đại học) trong tập sách nhiều tác giả Văn hóa dân gian: Những công trình nghiên cứu của Bùi Mạnh Nhị [58]. Ở bài giảng này, tác giả có đề cập đến nội dung ngữ nghĩa của TN. Đó là quá trình tạo nghĩa và mở rộng nghĩa. Theo tác giả, TN được sáng tạo từ những quan sát cụ thể, hình ảnh, sau đó được nâng lên thành khái quát và vận vào các hiện tượng đời sống. Và cứ mỗi lần TN được sử dụng ở những văn cảnh khác nhau thì nội dung, ý nghĩa của nó lại giàu thêm. - Đặc biệt là những bài phân tích, giải thích, bình luận về một vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu TN hay một câu TN cụ thể trên các sách báo như: + “Nên hiểu câu Rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn như thế nào? ” (Phan Văn Hoàn, Vhdg, số 4, 1987). + “Nhàn bàn về cách hiểu một số câu tục ngữ, thành ngữ” (Thái Phương, Ngôn ngữ và đời sống, số 7, 1997). + “Bàn thêm về tục ngữ Ăn hết đánh đòn, ăn còn mất vợ” (Trần Thị Đan Phượng, Ngôn ngữ và đời sống, số 5, 1999). + “Về nghĩa của tục ngữ” (Nguyễn Xuân Đức, Vhdg, số 4, 2000). + “Thêm một cách hiểu về một câu tục ngữ” (Nguyễn Thị Nhung, Ngôn ngữ, số 6, 2001). + “Chuyện về sự đa nghĩa trong thành ngữ, tục ngữ” (Nguyễn Thị Hồng Thu, Ngôn ngữ và đời sống, số 8, 2001). + “Những câu tục ngữ làm đau đầu các nhà soạn sách” (Nguyễn Xuân Kính, Nguồn sáng dân gian, số 1, 2001). + “Một số câu tục ngữ người Việt về ăn uống có nhiều cách hiểu” (Phan Lan Hương, Văn hóa dân gian, số 5, 2002). + “ Đa nghĩa- vẫn là chuyện chữ nghĩa ” (Lê Xuân Mậu, Ngôn ngữ, số 6, 2004). Nhìn chung, các bài viết này xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau nhưng mục đích chính là để rộng đường dư luận và giúp người đọc hiểu tương đối cặn kẽ về từng câu TN để có thể vận dụng đúng trong các trường hợp cần thiết. Nhưng cũng qua các bài viết này, chúng tôi thấy nổi lên mấy vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng, thậm chí gây nhiều tranh luận, bất đồng ý kiến:
- - Ranh giới giữa TN và ThN, CD. - Nguồn gốc của một câu TN. - Về tính nhiều nghĩa của TN. Như vậy, điểm qua lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đây là những gợi ý quí báu, là cơ sở quan trọng để chúng tôi tiếp tục khảo sát, thực hiện đề tài nghiên cứu. Do còn nhiều vấn đề “tồn nghi” trong tìm hiểu, nghiên cứu TN, nên đề tài cần được triển khai, nghiên cứu. Như vậy, đề tài này là sự tiếp nối trong việc lí giải nghĩa của TN, đó là “Khảo sát một số câu tục ngữ có nhiều cách hiểu”. 5. Phương pháp nghiên cứu - Sưu tầm, tập hợp, phân loại những câu TN có nhiều nghĩa trong các cuốn từ điển hay những câu có nhiều cách hiểu khác nhau trên các sách báo, tạp chí... - Đối chiếu, so sánh các cách hiểu khác nhau ở một câu TN và phân tích, diễn giải để làm rõ nguyên nhân. - Sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp liên ngành (vận dụng tri thức của các ngành văn học, ngôn ngữ, sử học, dân tộc học, xã hội học, tâm lí học...) để lí giải và đề xuất cách hiểu nghĩa ở một câu TN. - Tổng hợp, khái quát lại vấn đề. 6. Đóng góp của đề tài - Có cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện về ngữ nghĩa TN: nguồn gốc sinh thành, quá trình lưu truyền, ứng dụng,... cũng như cấu trúc ngữ nghĩa của nó. - Làm phong phú thêm con đường tìm hiểu, khám phá TN. Nghĩa là để hiểu được nội dung một câu TN thì không chỉ dừng lại ở ý nghĩa đương đại, ý nghĩa chung mà còn phải tìm hiểu cái hay, cái đẹp ở nghĩa gốc và sự chuyển nghĩa trong quá trình lịch sử của nó. Bởi vì, nếu dừng lại ở ý nghĩa đương đại thì sẽ không tránh khỏi những ngộ nhận về nghĩa của từ cũng như câu TN. - Giúp cho việc giảng dạy, học tập TN trong nhà trường đạt hiệu quả hơn cũng như việc sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, có ý thức, mạnh dạn tạo ra những TN mới khi ngữ cảnh cho phép để bổ sung vào kho tàng TN Việt Nam. Chú ý khi sử dụng TN cần làm cho phát ngôn có nhạc điệu, có hình ảnh, có sức nặng chở tư tưởng, tình cảm, có sức thuyết phục.
- - Giúp cho việc tìm hiểu các tác phẩm văn học một cách thuận lợi hơn khi nhà văn, nhà thơ có sự tiếp thu và sử dụng TN trong tác phẩm của mình. Ở khía cạnh này, TN được xem là tài liệu bổ trợ. 7. Kết cấu luận văn - Mở đầu. - Nội dung chính: + Chương 1: Một số đặc trưng của tục ngữ có liên quan đến ngữ nghĩa. +Chương 2: Tục ngữ có nhiều cách hiểu – Thực trạng và nguyên nhân. + Chương 3: Tục ngữ có nhiều cách hiểu – Một số đề xuất, giải pháp. Kết luận. Ngoài ra, còn có phần phụ lục (liệt kê một số câu TN có nhiều cách hiểu, có kèm theo các nét nghĩa) và tài liệu tham khảo.
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA TỤC NGỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGỮ NGHĨA 1.1. Khái niệm tục ngữ Thật khó có thể có một định nghĩa nào thật sự trọn vẹn, đầy đủ, rõ ràng về TN. Hiện nay, người ta vẫn chưa có “kênh” thống nhất về nó. Chúng ta biết rằng “tục ngữ” đã có từ hàng nghìn năm trước của dân tộc và luôn được bồi đắp. Nghĩa là nó có tính “đại chúng lâu đời”. Mãi về sau người ta mới “đặt tên” cho nó. Nhưng để cho nó một tên gọi thì phải biết bản thân (hình thức, nội dung, chức năng...) nó là gì. Có thể nói, tên gọi đối tượng và bản thân đối tượng phải luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: tên gọi phải thể hiện được bản chất cơ bản nhất của đối tượng. Bản chất của đối tượng có thể thấy qua định nghĩa về đối tượng. Và thực tế cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về TN. Thậm chí có người còn cho rằng, “ngay một số nhà tục ngữ học vào loại đầu đàn cũng phải thừa nhận là không một định nghĩa nào có thể cho phép xác định rõ ràng như thế nào là một câu tục ngữ” [65, tr. 88]. Chúng tôi xin điểm lại những quan điểm chủ yếu thuộc ngành nghiên cứu văn học (với các tác giả tiêu biểu như: Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Cao Huy Đỉnh, Chu Xuân Diên, Đỗ Bình Trị...) và ngôn ngữ học (với các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn Mệnh, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu, Đái Xuân Ninh, Cù Đình Tú, Hồ Lê, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thái Hòa,…) qua bảng sau: Tục ngữ theo quan niệm của các nhà nghiên Tục ngữ theo quan niệm của các nhà cứu văn học ngôn ngữ học -Diễn đạt một ý trọn vẹn -Ngữ thông báo. -Là một phán đoán, thiên về lí trí. -Câu hoàn chỉnh, diễn đạt một ý trọn vẹn, có -Đúc rút kinh nghiệm thực tiễn. kết cấu 2 trung tâm. -Câu hoàn chỉnh. -Câu - thông điệp nghệ thuật. -Phương pháp suy luận của nhân dân - -Câu cố định. phương pháp hình thức đáng chú ý. - Là một phát ngôn đặc biệt và có khả năng -Là một hiện tượng ý thức xã hội. phân tách. -....... -Hiện tượng ngôn ngữ. Như vậy, thực tế hiện nay là có nhiều định nghĩa khác nhau về TN. Vì sao lại có hiện tượng “lạ” này? Sự không thống nhất này do TN là một hiện tượng đặc biệt, phức tạp, vừa thuộc lĩnh vực ngôn ngữ (lời nói) lại vừa thuộc lĩnh vực văn học dân gian (tác phẩm nghệ thuật). Hơn nữa, giữa TN và ThN, CD có quan hệ “họ hàng” chồng chéo với nhau, có sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau. Nghĩa là ranh giới giữa chúng là rất mong manh, mờ nhạt,
- khó phân biệt một cách rõ ràng. Cụ thể như những trường hợp ngoại lệ, những đơn vị có tính chất “ lưỡng tính” mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra. Do đó, một định nghĩa (xuất phát từ một góc độ, tiêu chí nào đó) thì không thể nào bao quát được đầy đủ những đặc trưng của TN. Dẫn đến hệ quả là khi nghiên cứu ThN thì người ta lại viện đến TN, CD để đối chiếu, so sánh, để khu biệt nó và ngược lại. Phan Văn Hoàn có lí khi cho rằng: “Có thể nói một cách không quá đáng rằng, lịch sử nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ từ trước đến nay – nhất là từ sau 1945 là lịch sử của sự đối chiếu giữa hai đối tượng này. Không những ở những công trình nghiên cứu chung... mà ngay ở trong những tác phẩm nghiên cứu riêng từng đối tượng” [37, tr. 48]. Sự khó phân biệt giữa TN và ThN, TN và CD còn thể hiện ở chỗ chúng ta thấy các sách chuyên ngành, các cuốn từ điển chưa có sự nhất quán trong xếp loại cùng một đơn vị ngôn ngữ. Chúng tôi xin nêu một số trường hợp: (dấu X thể hiện sự lựa chọn đơn vị ngôn ngữ là TN, ThN hay CD) ST Đơn vị ngôn ngữ Tục ngữ Thành ngữ Ca dao T 1 Lệnh ông không bằng cồng bà. X [46,7,35,tr. X [2,25, 177, 245, 96] tr.818,287] 2 Đã sinh ra kiếp đàn ông, đèo cao X [46,35, X [2, tr. 456] núi thẳm sông cùng quản chi. tr.100, 135] 3 Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa X [46,35, X [2,tr. 390] mẹ như nước trong nguồn chảy ra. tr.83,142] 4 Một cây làm chẳng nên non, ba cây X [46,35,tr. 201, X[2,10,tr.86,439] chụm lại nên hòn núi cao. 49] 5 Tre non dễ uốn. X [7,10,46,tr. X [2,tr. 668] 307,581, 319] 6 Người roi, voi búa. X [7, tr. 307] X [2,46,tr. 230, 226] 7 Trai tơ lấy phải nạ dòng, như nước X [7,35, tr. 240, X [2,tr. 651] mắm thối chấm lòng lợn thiu. 139] 8 Tre già măng mọc. X [7, tr. 307] X [2,25,tr. 668, 495] 9 Của mình thì giữ bo bo, của người X [46,35,tr. X [2,tr. 408] thì bỏ cho bò nó ăn. 88, 147]
- Trước thực tế như vậy, có lẽ ý kiến của Hoàng Văn Hành đã thể hiện thực trạng và sự “bế tắc” này: “Trong thế giới hiện thực khách quan muôn màu muôn vẻ, vô cùng đa dạng và phức tạp, chớ có tham vọng đi tìm những đường ranh giới thẳng băng, dứt khoát giữa các sự vật và hiện tượng” [27, tr. 72]. Nhưng để nghiên cứu, tìm hiểu về TN thì phải nhận diện được nó. Muốn vậy, phải tìm ra những tiêu chí khu biệt chúng (với các đối tượng như ThN, CD,...). Chúng tôi không có ý định đưa ra quan niệm mới về TN, cũng không phải là “định nghĩa mới” mà chỉ là khái niệm về TN. Khái niệm này chúng tôi dựa trên các định nghĩa về TN của những người đi trước trên cơ sở chọn lấy những đặc trưng cơ bản nhất, những cái phổ biến có tính quy luật để làm cơ sở nghiên cứu nghĩa của TN. Theo chúng tôi TN là: những sáng tác dân gian ngắn gọn, súc tích; giàu vần điệu, hình ảnh; có đơn vị là câu; có chức năng đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên, con người và xã hội; và được nhân dân vận dụng trong hoạt động (như làm ăn, giao tiếp, ứng xử,...) của mình. Đối với đề tài “Khảo sát một số câu tục ngữ có nhiều cách hiểu”, chúng tôi cũng có giới hạn phạm vi của đối tượng nghiên cứu. Do tình hình thực tế không thể phủ nhận là giữa TN, ThN, CD có sự “giao thoa” với nhau, có ranh giới mờ nhạt, và để tránh “chọn nhầm” những câu ThN, CD, một mặt chúng tôi cố gắng giới hạn phạm vi khảo sát, mặt khác có ý thức loại bỏ những câu được cho là “trung gian”, “lưỡng tính”. Nhưng trong quá trình lựa chọn chắc không tránh khỏi những sơ suất, lẫn lộn. Thiết nghĩ, nếu có thì cũng không phải là vấn đề nghiêm trọng lắm. Hơn nữa, chúng tôi không đặt vấn đề giám định tư liệu được khảo sát một cách chặt chẽ và cũng không phải là điều mà đề tài muốn hướng tới. 1.2. Một số đặc trưng của tục ngữ có liên quan đến ngữ nghĩa V. Ia. Prốp đã từng nói: “Chừng nào những đặc trưng của một thể loại chưa được nghiên cứu hoặc chí ít là mô tả trên những nét đại cương, thì không thể tìm hiểu được những tác phẩm cụ thể thuộc những thể loại ấy” [86, tr.104]. Tục ngữ cũng vậy. Mặc dù là sự đúc kết kinh nghiệm dưới hình thức câu nói và thường được dùng trong giao tiếp hàng ngày nhưng TN cũng là một tác phẩm thật sự. Đây là tính chất “hỗn đồng” của TN. TN là câu nói nhưng là câu nói đạt trình độ nghệ thuật cao, có những thủ pháp nhất định. Tính chất này thể hiện ở chỗ một câu TN có sự hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, nội dung chứa đựng một ý trọn vẹn, thực hiện chức năng thông báo. Cụ thể hơn là thể hiện ở tính cân đối của cấu trúc, tính hình tượng của từ ngữ, “chặt chẽ, đanh thép mà lại giàu hình ảnh, nhịp nhàng, xuôi tai, thuận miệng”...Có nghĩa TN là một sáng tác nghệ thuật có đặc thù riêng cần
- phải khám phá để hiểu nó. Do đó, trước khi đi vào tìm hiểu, khảo sát nghĩa cụ thể của từng câu TN, chúng tôi xin đề cập một số đặc trưng của TN có liên quan đến ngữ nghĩa. 1.2.1. Các loại nghĩa Gần đây có người đề xuất nghĩa khái quát khi phân loại nghĩa của TN. Nhưng loại nghĩa này chỉ ở giai đoạn đề xuất, hơn nữa nó chưa thật sự có tính phổ biến, tính quy luật đối với TN, lại rất gần gũi với nghĩa bóng. Do đó, chúng tôi chỉ xét hai loại nghĩa truyền thống là nghĩa đen và nghĩa bóng. 1.2.1.1. Nghĩa đen Một cách đơn giản nhất, có thể hiểu nghĩa đen là nghĩa gốc, nghĩa trực tiếp, nghĩa ban đầu khi mới hình thành câu TN. Nghĩa này toát ra từ bản thân sự vật, hiện tượng do TN ghi lại. Thí dụ câu TN “Vỏ quít dày, móng tay nhọn”. Nghĩa đen được biểu hiện trực tiếp từ hình ảnh “vỏ quít dày” và “móng tay nhọn”: gặp trái quít có vỏ dày, không dao cũng có cách bóc được, đó là nhờ vào móng tay nhọn của mình nạy ra. Do nghĩa đen là nghĩa ban đầu, nghĩa trực tiếp nên nó thường phản ánh các hiện tượng tự nhiên, thời tiết, những kinh nghiệm lao động,... 1.2.1.2. Nghĩa bóng Là nghĩa gián tiếp được phát triển trên cơ sở nghĩa đen qua quá trình lưu truyền trong không gian và thời gian. Nghĩa là câu TN, ngoài nội dung nói về ý nghĩa của chính hiện tượng mà nó miêu tả, lại còn có nhiều hàm ý rộng hơn, khái quát hơn do việc mở rộng ý nghĩa của sự vật và hiện tượng cá biệt ấy vào sự vật, hiện tượng khác. Cũng thí dụ “Vỏ quít dày móng tay nhọn”, bên cạnh nghĩa đen trên, nó còn có sự mở rộng nghĩa là: kẻ gian đã có người xảo quyệt trị, người dữ sẽ gặp kẻ hung tợn dạy cho. Đây chính là nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng của câu TN. Như vậy, khi nghĩa đen chuyển thành nghĩa bóng cũng tức là TN từ việc phản ánh những hiện tượng tự nhiên, kinh nghiệm lao động đã mở rộng phạm vi phản ánh về con người và xã hội. Và đây là điều mà người sử dụng TN muốn hướng tới. Điều kiện để nghĩa đen trở thành nghĩa bóng là khi người sử dụng TN liên hệ, đối chiếu, tìm thấy sự tương đồng giữa điều mà TN phản ánh với các hiện tượng đời sống. 1.2.2. Phương thức tạo nghĩa và sự vận dụng Quy luật sáng tạo và vận dụng TN có thể nói ngắn gọn là từ những quan sát cụ thể, hình ảnh, sau đó nâng lên thành khái quát và vận vào các hiện tượng đời sống (ở đây chỉ giới hạn những câu TN có nhiều nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng). Thật vậy, có thể nói TN được hình thành và vận dụng thông qua ba loại tư duy: tư duy hình tượng, tư duy khái quát và tư duy đối chiếu. Bắt đầu là tư duy hình tượng. Tư duy này phản ánh sự vật và hiện tượng bằng những đường nét, màu sắc, hình khối,... Đối với
- TN, đó là sự quan sát trực tiếp những sự vật, hiện tượng cụ thể, cá biệt và miêu tả chúng. Chính cách quan sát và miêu tả cụ thể này làm cho TN có tính hình tượng, gợi cảm, dễ nhớ. Từ sự quan sát cái cụ thể và miêu tả cái cụ thể mà con người đã có những nhận xét, phán đoán, kết luận về nó. Tức là tách những mặt riêng rẽ, căn bản nhất của cái cụ thể muôn màu muôn vẻ ở dạng khái quát. Trong TN là việc bao gộp nhiều nhận xét cụ thể, nhiều cảnh huống cụ thể có liên quan và tương đồng với nhau vào một cảnh huống chung nhất, điển hình nhất. Hay nói cách khác nó “cá biệt mà điển hình”. Quá trình này người ta gọi là quá trình trừu tượng hóa, quá trình tạo ra nghĩa bóng cho câu TN. Tức là những điều tai nghe mắt thấy được nhận thức và phản ánh lại bằng chính sự vật hoặc bằng những hình tượng về sự vật nhằm nói lên chân lí ở mức khái quát nhất. Lúc này nghĩa của câu TN người ta gọi là nghĩa biểu trưng (hình thức dùng một hiện tượng, sự vật nào đó để biểu hiện một cách tượng trưng, ước lệ về một cái gì đó có tính chất khái quát, trừu tượng). Và cơ sở để sử dụng TN theo nghĩa biểu trưng là ở chỗ TN biểu hiện những nhận xét khái quát một cách cụ thể, hình ảnh. Ở giai đoạn tư duy khái quát, người ta đã tạo cho TN một cảnh huống điển hình nhưng chứa đựng nhiều cảnh huống khác nhau được rút gọn, được quy thành một câu đơn giản. Do đó, người ta sẽ đối chiếu, quy chiếu, liên hệ khi có sự tương đồng giữa ngữ cảnh cụ thể với nghĩa bóng của câu TN. Và khi đó trường nghĩa của câu TN sẽ được mở rộng; nội dung, ý nghĩa của câu TN lại giàu thêm lên. Đúng như Hoàng Văn Hành nói: Phàm là tục ngữ nào miêu tả càng đúng những chi tiết, những sự kiện, và hoàn cảnh điển hình, thì giá trị tổng kết của nó càng cao và phạm vi ứng dụng của nó càng rộng. Bởi vì, chi tiết và hoàn cảnh điển hình do tục ngữ miêu tả ở tầng nghĩa cơ sở trong trường hợp đó đã tạo ra tiền đề cho những mối liên hội ngữ nghĩa về sau. Sự liên hội ngữ nghĩa này là có quy tắc: từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng... dưới hình thái ẩn dụ hóa [27, tr. 35]. Ta sẽ chứng minh những điều vừa nói qua một thí dụ cụ thể. Chẳng hạn câu TN “Cây ngay bóng tròn”. Câu TN bắt đầu là sự quan sát, miêu tả trực tiếp hiện tượng tự nhiên cá biệt, giàu hình tượng: cây ngay, đứng thẳng thì bóng tỏa xuống sẽ tròn trịa. Từ cái cụ thể, nghĩa đen này, người ta đã nâng nó lên thành cái khái quát, trừu tượng hóa nó, biến nó thành cái có tính phổ biến, có tính quy luật. Tức là tạo ra nghĩa bóng, có giá trị biểu trưng. Mà thông thường, như trên đã nói, con người có khuynh hướng dùng một hiện tượng tự nhiên để nói về con người, về một hiện tượng xã hội. Do đó, nghĩa bóng mà câu TN muốn nói là mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, giữa điều kiện và kết quả: bản chất, điều kiện tốt thì sẽ có hiện tượng và kết quả tốt và ngược lại. Đó là nghĩa bóng. Còn khi được vận dụng vào cuộc sống thì nó có sự mở rộng nghĩa do các ngữ cảnh khác nhau. Người ta có thể hiểu:
- cha mẹ có đạo hạnh thì con cháu sẽ nên người hay người ngay thì làm việc gì cũng ngay thẳng, đàng hoàng,... Chúng ta có thể tóm tắt quá trình hình thành, tạo nghĩa và vận dụng của TN bằng sơ đồ sau:
- Sơ đồ này chúng tôi dựa trên các quan niệm, định nghĩa về TN và những kiến giải về quá trình hình thành, tạo nghĩa và sử dụng nghĩa của các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, Chu Xuân Diên cho rằng nghĩa đen thường đề cập đến những vấn đề tự nhiên, cá biệt khi chuyển sang nghĩa bóng thường nói về các hiện tượng xã hội, mang tính khái quát, trừu tượng thông qua những nhận xét, phán đoán, kết luận. Hay như Hoàng Tiến Tựu cho nghĩa đen là nghĩa trực tiếp, ban đầu, nhưng trong quá trình lưu truyền trong không gian – thời gian thì có sự mở rộng, phái sinh nghĩa. Còn Bùi Mạnh Nhị thì cho quá trình tạo nghĩa bóng là quá trình sáng tạo liên tục về nghĩa và khi nghĩa bóng được vận dụng trong những trường hợp cụ thể thì chân lí được khẳng định thêm,... 1.2.3. Tính ngắn gọn, hàm súc Một trong những yêu cầu quan trọng đối với ngôn ngữ văn học nghệ thuật nói chung là cần phải cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều, “ý ở ngoài lời”. TN cũng vậy. Thậm chí đây là một yêu cầu, một đặc điểm nổi bật nhất của TN. Thực tế có những câu TN rất ngắn, chỉ có ba tiếng, nhưng thông thường thì từ bốn đến tám tiếng. Cho đến nay, qua khảo sát, chúng ta chỉ biết những câu TN dài nhất chỉ khoảng 15 – 18 tiếng nhưng số lượng này rất ít. Thí dụ: 1. Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ (18 tiếng). 2. Đen đông, chớp lạnh, quái vàng hoa bầu, trong ba điều ấy có lành đâu (15 tiếng). 3. Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Xuân, cá rô Đầm sét (16 tiếng). Thật vậy, TN cần phải thật ngắn gọn, cùng nội dung nhưng càng ngắn càng hay, “rất hay mà lại ngắn” (Hồ Chí Minh). Cái hay này thể hiện ở chỗ: nói ngắn (về hình thức biểu hiện) là cốt để nói nhiều (về phương diện nội dung). Tức là ngắn về dung lượng từ ngữ, hàm súc về nghĩa nhưng tăng mức độ khái quát cho bài học kinh nghiệm. Và chính điều này làm cho TN mở rộng phạm vi ứng dụng của mình. Vì sao TN cần phải ngắn gọn, hàm súc? Như chúng ta đã biết, TN ra đời bắt nguồn từ những nhận xét, phán đoán, suy luận của con người về các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Những nhận xét, phán đoán này cần phải được đúc rút lại thành những kinh nghiệm, những chân lí. Hơn nữa, những kinh nghiệm này cần phải được lưu giữ, được phổ biến từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác,... Nhưng sự lưu giữ và phổ biến này chủ yếu bằng con đường truyền miệng. Do đó, TN cần phải thật ngắn gọn để tiện lợi cho trí nhớ. Lí do nữa, như đã nói ở trên, là do “lời ít ý nhiều”, do muốn mở rộng phạm vi ứng dụng vào nhiều ngữ cảnh khác
- nhau. Dấu hiệu nào cho ta biết TN có tính ngắn gọn, hàm súc? Đó là sự tỉnh lược. Hoàng Tiến Tựu nói: Trong tục ngữ có những hệ từ và từ liên kết (thì, là, mà, nhưng, bởi, vì vậy, do đó, cho nên, vả chăng, song le, tuy thế...) thường bị bỏ đi và nhiều khi cả những thành phần cơ bản của câu (như chủ ngữ, vị ngữ,...) cũng bị tỉnh lược. Do đó, mối quan hệ giữa các phán đoán cũng như hình thức suy luận của nhân dân thường không được thể hiện rõ trong tục ngữ [91, tr. 122]. Như vậy, sự cô đọng, hàm súc của TN là do các hệ từ, kết từ bị tỉnh lược. Trong khi đó các từ còn lại đều rất cần thiết, không thừa. Hơn nữa, TN là sự đúc kết kinh nghiệm ở dạng khái quát. Dễ thấy nhất là ở tục ngữ không có loại từ, đại từ chỉ định, không có từ hạn định về thời gian – không gian một cách rõ ràng mà là phiếm định... Chẳng hạn, TN nói “Con gà tức nhau tiếng gáy” chứ không thể nói “Con gà chuồng này tức nhau tiếng gáy”... Ta biết rằng câu trong TN là những loại câu tương ứng với các loại phán đoán. Nhưng câu ở dạng rút gọn, có thành phần bị tỉnh lược thì kết cấu câu không còn phù hợp hoàn toàn với kết cấu lôgic của phán đoán. Thử xét câu TN “Tấc đất tấc vàng”. Đây là câu TN rất cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa. Do đó, trong ứng dụng thực tế người ta có thể mở rộng nội dung, ý nghĩa câu TN bằng cách chêm xen các kết từ hoặc hiểu ngầm nghĩa khi đặt vào một ngữ cảnh cụ thể và phù hợp với dụng ý của người sử dụng. Người sử dụng có thể chêm xen như sau: không bằng quý như Tấc đất là tấc vàng. thì quý hơn Nếu câu TN trên mà có dạng cố định như một trong những dạng chêm xen trên thì nội dung của nó sẽ bị hạn hẹp, bị “chết cứng” trong một nghĩa. Tức là các hệ từ, kết từ sẽ hiện thực hóa nội dung, ý nghĩa của câu TN. Như vậy, tính ngắn gọn, hàm súc, cô đọng do tỉnh lược của TN là một “mã nghệ thuật”, một “tiềm năng tiếp nhận” của TN. 1.2.4. Tính đối xứng Tính chất đối xứng là một đặc điểm nổi bật của cấu trúc TN, loại câu này chiếm số lượng rất lớn trong kho tàng TN Việt Nam. Nó không những góp phần tạo nên tính ngắn gọn, chặt chẽ của lối nói trong TN mà còn tạo nên tính nhịp nhàng, dễ làm “ngọt tai” người
- tiếp nhận. Đặc điểm nổi bật của câu TN có tính đối xứng là tính chất đối xứng giữa các bộ phận và các yếu tố tạo nên nó. Có hai kiểu câu đối xứng trong TN là câu đối xứng đơn và câu đối xứng kép. *Câu đối xứng đơn: Câu đối xứng đơn là câu đảm bảo được hai đặc điểm sau: - Về mặt lôgic: nội dung mỗi câu TN là một phán đoán. - Về mặt cú pháp: mỗi câu TN là một câu đơn mà mỗi thành phần câu tương đương với một vế. Thí dụ: Của mua là của được, Một quả cà bằng ba chén thuốc, Tham thì thâm,... * Câu đối xứng kép: Câu đối xứng kép là câu đảm bảo đủ hai yêu cầu sau: - Về mặt lôgic: có sự liên kết hai hoặc hơn hai phán đoán. - Về mặt cú pháp: mỗi câu TN là một câu phức mà mỗi thành phần câu tương đương với một vế (một câu đơn). Thí dụ: Giàu đâu ba họ, khó đâu ba đời; Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống; ... Trong hai loại câu đối xứng trên thì câu đối xứng kép phổ biến hơn, chiếm số lượng nhiều hơn và căn bản đáp ứng, thỏa mãn được những yêu cầu, đặc điểm của một câu TN có tính đối xứng. Sau đây chúng tôi xin lấy một câu TN cụ thể thuộc loại đối xứng kép, có phân tích để thấy rõ hơn tính đối xứng của TN. Thí dụ câu: “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Ta thấy câu TN bao gồm 6 yếu tố, lập thành 2 vế đối xứng nhau, mỗi vế gồm 3 yếu tố. Tính đối xứng được thể hiện ở các bình diện sau: - Đối ý: là đối xứng giữa hai vế của câu TN với nhau về ý (đói ăn vụng đối với túng làm liều). Quan hệ đối ý này được thể hiện qua kiểu cấu trúc so sánh trùng điệp có dạng a = b. Nghĩa là hai vế của câu TN đối ý nhau nhưng có tác dụng liên kết, bổ sung cho nhau nhằm tô đậm, khẳng định một ý chung. Dựa vào sự bổ sung nhau giữa hai ý của hai vế (đói, túng: hoàn cảnh khó khăn, bức bách, cùng đường...; ăn vụng, làm liều: việc làm tồi tệ, mất nhân cách, danh dự,...) ta suy ra ý nghĩa câu TN là những người rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bức bách, rơi vào bước đường cùng thì tất yếu họ phải làm những điều không tốt, trái với nhân cách, danh dự của họ và chúng ta nên phần nào lượng thứ cho họ. - Đối lời: là sự đối xứng giữa các yếu tố trong hai vế của câu TN. Đối lời có quan hệ chặt chẽ với đối ý đã nói ở trên, vì nhờ có quan hệ đối lời mà quan hệ đối ý mới có và thể hiện ra được. Cũng câu TN trên, quan hệ đối lời được thể hiện như sau: Đói đối xứng với túng Ăn vụng đối xứng với làm liều. Cần nói thêm rằng, sự đối ý, đối lời trong câu TN trên được xác lập nhờ vào thuộc tính tương đồng về ngữ pháp – ngữ nghĩa giữa các yếu tố trong hai vế đó. Cụ thể:
- - Nội dung ngữ nghĩa của các yếu tố đối xứng nhau trong hai vế đều thuộc cùng một phạm trù ngữ nghĩa: Đói / túng: đều thể hiện trạng thái, hoàn cảnh của con người. Ăn vụng / làm liều: đều là hiện tượng, việc làm xấu của con người. - Các yếu tố đối xứng phải cùng từ loại: Đói / túng: đều là tính từ. Ăn vụng / làm liều: đều là động từ. Tóm lại, trên đây là hai kiểu câu TN có tính đối xứng. Thực tế thì các dạng đối trong TN rất nhiều. Quan hệ giữa các vế cũng rất nhiều loại, muôn màu muôn vẻ: nguyên nhân – kết quả, điều kiện – kết quả, bổ sung, phụ thuộc, so sánh tương đồng – tương phản,... Thêm vào đó, hình thức cú pháp của tục ngữ thường rất phức tạp, đa dạng. Do vậy, việc tìm hiểu cấu trúc đối xứng có ý nghĩa rất quan trọng, giúp ta hiểu đúng nội dung ý nghĩa câu TN. 1.2.5. Tính vần điệu Đây là yếu tố không thể thiếu trong việc tạo dựng cấu trúc của câu TN cả về phương diện hình thức nghệ thuật lẫn phương diện nội dung. * Về nhịp: Nhịp là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên và làm rõ tính đối xứng của câu TN. Thể hiện rõ nhất là nhịp trùng với trục đối xứng của câu TN. Thí dụ: Có công mài sắt / có ngày nên kim. Nếu câu TN có 3 vế thì sẽ có 2 trục và tất yếu phải có 2 nhịp. Thí dụ: Đầu chép / mép trôi / môi mè. Thực tế thì nhịp trong TN rất đa dạng, linh hoạt, “tự do”. Điều này được biểu hiện ở một số khía cạnh sau: - Cùng một câu TN nhưng khi nói có thể ngưng giọng ở những chỗ khác nhau để tạo nên những sự ngắt nhịp khác nhau. Thí dụ: + Dâu / hiền hơn con gái. Dâu hiền / hơn con gái. + Rể / hiền hơn con trai. Rể hiền / hơn con trai. Chọn cách ngắt nhịp này hay cách ngắt nhịp kia đều phụ thuộc vào người nói muốn nhấn mạnh ý nào trong ý chung của cả TN. Nghĩa là giữa nhịp (hình thức) và nghĩa (nội dung) của một câu TN có liên quan mật thiết với nhau. - Trong một câu TN có thể có nhiều loại nhịp đan xen với nhau. Thí dụ: + Lúc thì chẳng có ai / lúc thì ông xã / ông cai đầy nhà (nhịp 5 / 4 / 4). + Lựa được con dâu / sâu con mắt (nhịp 4 / 3).
- + Vui xem hát / nhạt xem bơi / tả tơi xem hội / bối rối xem đám ma / bỏ cửa bỏ nhà xem đám rước (nhịp 3 / 3/ 4 / 5 / 7). - Ở phần lớn các câu TN, nhịp trùng với ranh giới giữa các vế có số lượng tiếng bằng nhau, đối nhau. Thí dụ: Ăn no / lo được; thứ nhất thả cá / thứ nhì gá bạc; Nồi đồng dễ nấu / chồng xấu dễ sai;... Tuy nhiên, có những trường hợp mà số lượng tiếng giữa các vế không bằng nhau, không đối nhau mà vẫn có nhịp. Thí dụ: Đói muốn chết / ba ngày tết cũng no; Gần chợ / để nợ cho con; Hết nạc / vạc đến xương… Điều này là do vần tạo nên nhịp cho câu TN. Lại nữa, có những câu TN mà hai vế không có sự hiệp vần mà nhịp vẫn có. Thí dụ: Có nuôi con/ mới biết lòng cha mẹ (nhịp 3 / 5); Có loạn ly / mới biết người trung nghĩa (nhịp 3 / 5)… Ta thấy các câu TN này có sự đối xứng về ý giữa hai vế mà không đối lời. Do đó, nhịp có được là do ý tạo nên. - Đối với những câu TN bị tỉnh lược kết từ thì vai trò của nhịp vô cùng quan trọng, nó trở thành nơi “trú ẩn” của trục đối xứng. Còn đối với những câu mà có thể chêm xen những kết từ khác nhau thì nhịp của nó cũng thay đổi và dĩ nhiên ngữ nghĩa cũng thay đổi ít nhiều. Dựa vào nhịp của TN, chúng ta có thể phân tích và vận dụng nó một cách linh hoạt, sáng tạo trong giao tiếp. Cần lưu ý rằng, nhịp dù linh hoạt đến đâu cũng phải ăn nhập với ý vì nó là một trong những hình thức thể hiện ý. Do đó, việc xác định nhịp là rất quan trọng vì có thể dẫn đến hiểu đúng hoặc hiểu sai nội dung câu TN. * Về vần: vần là yếu tố ngoại hình đặc trưng của TN. Nó là “chất keo” có chức năng kết dính, liên kết các yếu tố, các vế để tạo thành một phát ngôn hoàn chỉnh, chặt chẽ, bền vững, khó bị tan vỡ. Bên cạnh đó, nhờ vần điệu mà câu TN có âm hưởng mượt mà, xuôi tai, thuận miệng, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ vận dụng. Có hai loại vần trong TN là vần liền và vần gián cách. - Vần liền: vần liền là khuôn vần được láy lại liền sau nó, giữa chúng không có yếu tố trung gian và chúng thường xuất hiện ở vị trí giữa câu. Thí dụ: + Người roi, voi búa. + Có ít xít ra nhiều. + Lắm mối tối nằm không. Những thí dụ trên cho thấy vần liền có thể xuất hiện ở các loại câu khác nhau (4 tiếng, 6 tiếng, 8 tiếng...) và rất ăn nhịp với nhịp. - Vần gián cách: là những khuôn vần được láy lại mà giữa chúng có yếu tố trung gian và thường xuất hiện ở các vị trí khác nhau trong câu.
- + Cách 1 âm tiết: Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con xục xạc. + Cách 3 âm tiết: Mặt đỏ như lửa, thấy đàn bà chửa cũng phải tránh. + Cách 5 âm tiết: Mồng một chơi nha, mồng hai chơi ngõ, mồng ba chơi đình. Ngoài ra còn có dạng câu có sự đan xen các loại vần với nhau như: Mặt mũi méo mo thì co đồng tiền, mặt vuông chữ điền thì tiền không có. Như vậy, nhịp và vần luôn gắn bó với nhau để tạo nên tính nhạc, sự hài hòa, sinh động, cân đối cho câu TN. Đồng thời nhịp và vần cũng góp phần thể hiện ý nghĩa, thể hiện sự thống nhất giữa ý và lời, âm thanh và tư tưởng ở TN. Đặc điểm này càng chứng tỏ rằng, TN mặc dù là câu nói dùng hàng ngày nhưng vẫn mang đầy đủ những đặc điểm của sáng tác nghệ thuật ngôn từ. 1.2.6. Tính hình tượng Là lối nói dùng hình tượng cụ thể để nói lên những ý niệm trừu tượng, dùng cái cá biệt để nói lên cái phổ biến... Hình tượng trong TN được tạo ra bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau như so sánh nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ, cường điệu,… * So sánh (tỉ dụ): là phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tượng kia. Thí dụ: Con có cha như nhà có nóc, Lòng vả cũng như lòng sung, Chồng như đó vợ như hom, Gái có chồng như rồng có mây… * Nhân hoá: là cách thức gán cho những sự vật vô tri, những đối tượng trừu tượng những đặc tính của con người thể hiện ở những động từ, tính từ chỉ hành động hoặc phẩm chất vốn riêng có ở con người. Thí dụ: Thuyền đua lái cũng đua; Mâm cao đánh ngã bát đầy, Mèo khoe mèo dài đuôi… * Ẩn dụ (so sánh ngầm): Đây là biện pháp nghệ thuật phổ biến trong TN. Biện pháp này sử dụng phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự nhằm thể hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì dấu đi một cách kín đáo. Đây là lối nói bóng gió, ngụ ý. Do lối nói này mà TN gợi sự liên tưởng phong phú khi muốn xác định nghĩa của nó. Nghĩa là TN sử dụng lối nói gián tiếp, ngầm ẩn mà muốn nắm được ẩn ý phải qua công phu khai thác, suy luận. Đây là phương thức phổ biến nhất trong TN. Chẳng hạn: Lá lành đùm lá rách (1), Tre già măng mọc (2), Đục nước béo cò (3), Kiến tha lâu đầy tổ (4)… Câu TN (4) nói về hoạt động của loài kiến: cứ từng chút một, ngày này sang ngày khác, chúng tha mồi về tổ của mình và tha mãi cũng đầy tổ. Từ một hiện tượng, hành động của loài kiến, người ta đã nâng lên, muốn biểu trưng cho những việc làm kiên nhẫn, cần
- kiệm, vượt khó, biết tính toán thì sẽ thành công của con người. Tương tự ta có câu (1) nói về tình yêu thương, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau của con người; câu (2) là sự thay thế, tiếp nối nhau của các thế hệ người trong mọi hoạt động; câu (3) ý nói trong cảnh rối ren, kẻ chuyên đầu cơ trục lợi sẽ dễ dàng hoạt động thủ lợi. Như vậy, có thể nói, từ hình tượng cụ thể, cá biệt mà người ta đã khái quát hoá, trừu tượng hoá, tức tạo ra nghĩa biểu trưng của TN. Trong khi đó, hình ảnh biểu trưng trong TN lại biểu hiện nhiều mặt, là mã nghệ thuật. Do vậy mà trong tiếp nhận và sử dụng, người ta có thể khai thác mặt nào đó, hiểu theo cách riêng của mình. Chính điều này tạo nên hiện tượng nhiều nghĩa ở TN. 1.3. Về khái niệm “Câu tục ngữ có nhiều cách hiểu” Đây là phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ở đây, chúng tôi phân định giữa “loại nghĩa” và “số lượng nghĩa”. Thông thường, theo các nhà nghiên cứu thì có hai “loại nghĩa”: nghĩa đen và nghĩa bóng. Hoàng Tiến Tựu phân: đơn nghĩa và đa nghĩa, gọi chung là “tính nhiều nghĩa”. Còn “số lượng nghĩa” là số lượng nghĩa ở trong một “loại nghĩa”, tức các cách hiểu khác nhau ở nghĩa đen hoặc nghĩa bóng. Chẳng hạn như trường hợp câu TN có hai nghĩa đen hoặc hai nghĩa bóng... Phạm vi, đối tượng khảo sát của đề tài chúng tôi là “số lượng nghĩa” ở một câu TN. Do đó, “ nhiều cách hiểu” là “số lượng nghĩa” (từ hai trở lên) ở một loại nghĩa. Có lúc chúng tôi dùng khái niệm “nhiều nghĩa” là với ý này. Chẳng hạn câu TN “Trâu béo kéo trâu gầy”. Câu này có hai nghĩa đen: + Cùng một chủ, trâu béo, khỏe bù chỗ kém, thiếu ở phần việc của trâu gầy, yếu. + Trâu béo, khỏe cày kéo tốt, khiến trâu gầy, yếu hơn cũng phải cố theo (tạo hiệu quả tốt cho công việc). Và tương đương với hai nghĩa đen là hai nghĩa bóng: + Trong một tập thể, người giỏi giang, siêng năng bù đắp công việc cho người kém cỏi, lười biếng. + Người giỏi giang, năng nổ có tác động, ảnh hưởng tốt đến người kém cỏi, ù lì, giúp người này cùng tiến bộ. Ta xét thấy về “loại nghĩa” thì câu TN trên có hai: nghĩa đen và nghĩa bóng. Còn xét về “số lượng nghĩa” thì có bốn nghĩa: hai nghĩa đen và hai nghĩa bóng. Hay như Hoàng Tiến Tựu cho câu “Một búi cỏ một giỏ phân” là câu đơn nghĩa (xếp theo loại nghĩa) thì cũng thuộc một trong những dạng của đối tượng khảo sát của đề tài chúng tôi vì câu này có hai cách hiểu: + Một búi cỏ vùi vào gốc, có giá trị như giỏ phân.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
luận văn: TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975- NHỮNG KHUYNH HƯỚNG VÀ D=SỰ ĐỔI MỚI NGHỆ THUẬT
214 p | 598 | 73
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
160 p | 208 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ Loạn
158 p | 147 | 30
-
Luận án tiến sĩ Văn học Việt Nam: Truyện nôm bác học từ góc nhìn cổ mẫu
196 p | 121 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đề tài phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
100 p | 127 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ
108 p | 79 | 20
-
Luận văn tiến sĩ Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái
168 p | 82 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Thể tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam từ 1986 đến nay
171 p | 67 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến
105 p | 48 | 11
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sỹ Văn học Việt Nam: Đặc điểm thơ điền viên - sơn thủy từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII
9 p | 81 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Hình ảnh con người Hà Nội trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới
101 p | 24 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết tư liệu trong văn học Việt Nam đương đại: trường hợp “Hồi ức lính” của Vũ Công Chiến và “Rừng đói” của Nguyễn Trọng Luân
82 p | 47 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Phan Khôi với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
173 p | 35 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn hoá và Văn học Việt Nam: Tạp văn Phan Thị Vàng Anh
106 p | 23 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
100 p | 67 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tạp chí Sông Hương và Cửa Việt trong giai đoạn đầu của văn học đổi mới khảo sát giai đoạn 1986-1996
185 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại
91 p | 31 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn