intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài về hệ thống ngân hàng việt nam

Chia sẻ: Tu Oanh05 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

135
lượt xem
61
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, hệ thống ngân hàng cũng được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế. Ngay từ thời thượng cổ, các ngân hàng sơ khai đầu tiên đã xuất hiện và đến nay, phát triển thành cả một hệ thống phong phú, đa dạng và ngày càng hiện đại ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, mãi đến thế kỷ XIX, hệ thống ngân hàng mới ra đời và đi vào hoạt động....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài về hệ thống ngân hàng việt nam

  1. Đề tài về hệ thống ngân hàng Việt Nam
  2. LỜI MỞ ĐẦU Gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, hệ thống ngân hàng cũng được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế. Ngay từ thời thượng cổ, các ngân hàng sơ khai đầu tiên đã xuất hiện và đến nay, phát triển thành cả một hệ thống phong phú, đa dạng và ngày càng hiện đại ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, mãi đến thế kỷ XIX, hệ thống ngân hàng mới ra đời và đi vào hoạt động. Song khi có hai pháp lệnh của Nhà nước về ngân hàng (tháng 5/1990) thì hệ thống ngân hàng Việt Nam được tách làm hai cấp thành ngân hàng quản lý tức Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng kinh doanh tức hệ thống ngân hàng trung gian. Trong hệ thống ngân hàng trung gian lại được chia làm hai, gồm: Hệ thống ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính phi ngân hàng. Các hệ thống ngân hàng này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế XHCN phát triển. Giờ đây, nhằm đáp ứng công cuộc CNH, HĐH đất nước, thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài đòi hỏi các ngân hàng phải có nhiều vốn và sử dụng một cách có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.” Nhằm khai thác tốt các tiềm năng kinh tế trong xã hội, việc huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng thương mại là con đường thiết yếu nhất. Ngân hàng thương mại với chức năng hoạt động của mình có vai trò rất to lớn trong nền kinh tế góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của xã hội. Việc hình thành, hoạt động và phát triển của hệ thống NHTM Việt nam trong hơn 18 năm đổi mới đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiến độ, đáp ứng được nhu cầu lớn về vốn của các chủ thể kinh tế, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Đồng thời nó góp phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật như trên, NHTM Việt Nam còn bộc lộ nhiều những tồn tại, những bất cập trong quá trình hoạt động. Thực tế hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình hội nhập như về vốn còn quá thấp, nguồn nhân lực, cơ chế và nhất là cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài Như vậy, thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM hiện nay ra sao? Nguyên nhân và giải pháp khắc phục như thế nào? Vấn đề này được đề cập trong tiểu luận này mặc dù chỉ ở một số khía cạnh chắc chắn chưa bao quát hết, song em mong muốn tìm được lời giải cho vấn đề này của các NHTM Việt Nam. Trang 1
  3. Phần I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI I/ KHÁI NIỆN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm : Ngân hàng thương mại ( NHTM ) là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận các khoản tiền gửi của khách hàng có trả lãi để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi, rồi dùng chính những khoản đó cho vay lại đối với nền kinh tế, thực hiện chiết khấu và làm nhiệm vụ thanh toán Như vậy, NHTM được khẳng định là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản là: nhận ký thác của các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức, cơ quan Nhà nước và sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay hay chiết khấu. Các NHTM thu hút vốn bằng cách nhận tiền gửi thanh toán (tiền gửi có thể phát séc), tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (tiền gửi có thể thanh toán ngay nhưng không cho phép người gửi viết séc), tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi có kỳ hạn thanh toán trước). Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nó phản ánh bản chất của NHTM là đi vay để cho vay. Do vậy NHTM còn được gọi là ngân hàng ký thác, hay ngân hàng tiền gửi . Bên cạnh đó, NHTM còn huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau để tăng nguồn vốn kinh doanh. NHTM có thể vay vốn từ ngân hàng trung ương hoặc các trung gian tài chính khác. Bất cứ NHTM nào khi được ngân hàng trung ương cho phép thành lập thì đều có quyền được vay tiền tại ngân hàng trung ương trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. 2. Các chức năng của NHTM: NHTM là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất. Tổng số tài sản Nợ của các NHTM bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản Nợ của các ngân hàng khác và tổ chức tài chính phi ngân hàng. NHTM hoạt động theo định chế tổ chức tài chính mang tính tổng hợp, ngoài ra còn là thành viên chủ yếu tham gia vào hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như của thị trường vốn. Bản chất của NHTM được thể hiện rõ nét qua các chức năng của NHTM: Trang 2
  4. 2.1 Trung gian tín dụng Với chức năng trước tiên là tổ chức trung gian tín dụng, NHTM đã khắc phục được những hạn chế trong mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung trong thời gian ngắn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đó, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của mình rồi đem cho vay đối với nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này, ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Sở dĩ ngân hàng thực hiện được chức năng này vì nó là một cơ quan chuyên trách chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết đ ược tình hình cung cầu về tín dụng, là nơi khách hàng có thể tin tưởng gởi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, ngân hàng đã giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn lẫn thời gian cho vay. Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của NHTM vì nó phản ánh bản chất của NHTM là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời cũng là cơ sở để ngân hàng thực hiện những chức năng tiếp theo. 2.2 Trung gian thanh toán Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền gửi từ tài khoản tiền gửi của khách hàng hay nhập tiền vào tài khoản của họ theo lệnh. Ngân hàng đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của khách hàng, chi tiền của họ cho khách hàng. NHTM thực hiện chức năng này trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Thông qua việc nhân tiền gửi, ngân hàng mở cho khách hàng tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán, đồng thời giảm thiểu rủi ro và chi phí trong việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt của các chủ thể kinh tế. Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất lớ n đối với toàn bộ nền kinh tế trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí l ưu thông, do đó góp ph ần tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, chức năng này càng được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng và chỉ khi chức năng trung gian Trang 3
  5. thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của NHTM mới được nâng cao hơn với tư cách là “người thủ quỹ “ của xã hội. Chức năng này đồng thời tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay và là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. 2.3 Tạo tiền “ Tạo tiền ” là chức năng cơ bản thứ ba của NHTM. Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây, các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi (tiền vàng, bạc) rồi cho vay bằng chính những đồng tiền đó, thì kể từ khi các ngân hàng ra đời, việc cho vay không nhất thiết phải là tiền vàng, bạc mà họ nhận được từ người gửi. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các chủ ngân hàng đã phát hiện giấy chứng nhận tiền gửi – tín phiếu được khách hàng sử dụng để chi trả các khoản nợ và vì vậy, tiền giấy chuyển đổi ra vàng được các ngân hàng đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng hoặc bạc. Đây là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động của tiền tệ. Vào thế kỷ XIX, khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng thành hai cấp, hình thành nên ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì các ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó ngân hàng phát hành độc quyền đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, còn các ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ trong mối quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân, không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Như vậy, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán là cơ sở để NHTM thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để thanh toán trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch. Khi ngân hàng thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa tạo ra tiền, chỉ khi thực hiện cho vay thì ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Đó cũng là một phát minh lớn trong hoạt động ngân hàng. Chính việc cho vay đã tạo ra tiền gửi thanh toán. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, NHTM phải làm chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản mới là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả trong xã hội. Chức Trang 4
  6. năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng. 3. Vị trí ,vai trò của ngân hàng thương mại: Vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện trong việc vận dụng các chức năng của nó và cụ thể hoá trong các hoạt động của ngân hàng. Khái quát có thể nêu ra hai vai trò lớn sau: - Trước tiên, các NHTM có vai trò là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Với chức năng trung gian tín dụng, qua nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và đầu tư, ngân hàng đã huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, cho vay dưới các hình thức khác nhau đối với các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các ngân h àng đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Nhờ có NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó trở thành “ chất dầu bôi trơn ” cho bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào phục vụ sản xuất kinh doanh, nâng cao mức sônga xã hội. Bên cạnh đó, với chức năng làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nhanh quá tr ình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội,tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. Có thể nói mọi quan hệ kinh tế đều thực hiện thông qua tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống NHTM bên cạnh các tổ chức tài chính phi ngân hàng. - Ngoài ra, NHTM còn có vai trò là công c ụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Với chức năng tạo tiền, NHTM là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế. Trang 5
  7. Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ phải sử dụng các công cụ để điều tiết l ượng tiền trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ đ ược thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực của các NHTM và các trung gian tài chính khác như việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư. Nhìn chung, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, NHTM ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần ổn định và phát triển toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. 4. Các họat động chủ yếu của ngân hàng thương mại: a. Các họat động truyền thống của ngân hàng: - Thực hiện trao đổi ngoại tệ : Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. - Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại : Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất. - Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi đ ược hưởng mức lãi suất tương đối cao. - Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày Trang 6
  8. nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện. - Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. - Cung cấp các tài khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. - Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý t ài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các ngân h àng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp. b. Những họat động ngân hàng mới phát triển gần đây : - Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất. - Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài Trang 7
  9. chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. - Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu h ường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. - Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thu ê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế. - Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. - Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán : Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới. - Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp : Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) Trang 8
  10. đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt đ ược sự tăng giá trị vốn). - Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn : Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. c. Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại chủ yếu ở nước ta: - Huy động vốn - Tín dụng - Đầu tư và kinh doanh chứng khoán - Kinh doanh ngoại tệ và vàng - Quản lý rủi ro - Thanh toán & chuyển tiền - Thanh toán quốc tế - Nghiệp vụ khác : ngân hàng điện tử, kinh doanh BDS.. Trong đó , hoạt động chính của NHTM là tín dụng và huy động vốn : +Tín dụng gồm : cho vay, chiết khấu, Bao thanh toán, thuê tài chính, bão lãnh, tài trợ XNK, cho vay thấu chi, cho vay hạn mức. +Huy động vốn : Tiền gửi ( tiết kiệm, thanh toán, có kì hạn và ko kì hạn ), Giấy tờ có giá ( chứng chỉ tiền gữi, kì phiếu...) Trang 9
  11. Phần II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM TRONG THỜI CÁC NĂM GẦN ĐÂY (2006-2008) I/ TỔNG QUAN HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, hệ thống ngân hàng một cấp được cải tổ, chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp gồm NHNN Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh đóng vai trò làm trung gian kinh doanh tiền tệ. Sau khi hai pháp lệnh về ngân hàng ra đời thì hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam thực sự dược xây dựng phù hợp với mô hình ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường, với NHTƯ làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán; các NHTM, ngân hàng chuyên doanh, công ty tài chính… Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. NHTM quốc doanh được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước, giữ vai trò chủ đạo chỉ huy hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta. NHTM cổ phần được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hay tổ chức không được sở hữu số cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ NHNN quy định. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dã thực sự làm đổi mới hệ thống NHTM phù hợp với tình hình ngày càng phát triển về kinh tế của đất nước. NHTM có vai trò là người môi giới trung gian nhằm tập trung tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các doanh nghiệp và dân chúng. Như vậy, các NHTM ra đời là một yêu cầu khách quan và có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế hàng hoá thị trường: góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần tích cực vào sự phát triển công ty cổ phần, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và có vai trò quan tr ọng trong việc mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trang 10
  12. II/ ƯU ĐIỂM VÀ BẤT CẬP CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM 1/Những ưu điểm: -Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. -Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. -Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. -Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… 2/Những bất cập yếu kếm: Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập đ ược tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế. -Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực cụ thể: .Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương Trang 11
  13. mại Nhà nước là hơn 10.000 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. .Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. -Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. -Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Việc sử dụng vốn cho vay trung-dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống. c/ Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập, yếu kém của hệ thống NHTM Việt Nam -Cho phép thành lập quá nhiều ngân hàng với năng lực tài chính quá thấp (hiện nay mới nâng điều kiện vốn điều lệ lớn hơn 1000 tỷ VND) - Các cơ quan quản lý nhà nước chưa đánh giá đúng và đầy đủ về những yêu cầu đối với môi trường pháp lý, điều kiện hoạt động để khuyến khích v à bảo đảm cho sự phát triển an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng, do đó chưa có chiến lược và giải pháp hỗ trợ phát triển ngân hàng một cách có hệ thống. - Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến việc cung cấp, sử dụng các dịch vụ ứng dụng Internet như: e-banking, home banking,… còn thiếu, chậm đổi mới và hoàn thiện so với yêu cầu phát triển kỹ thuật công nghệ hiện đại và triển khai rộng rãi các dịch vụ ngân hàng hiện đại, chưa tạo cơ sở cho việc xử lý các tranh chấp, tạo ra tâm lý ngần ngại khi sử dụng và cung cấp các dịch vụ này. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn bất cập, chưa khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch trên thị trường ngoại hối . Trang 12
  14. - Trình độ phát triển nền kinh tế nước ta còn thấp và môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn, yếu kém làm hạn chế khả năng cung ứng và nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại lớn đòi hỏi các TCTD phải có vốn lớn, nhưng trên thực tế vốn ở các ngân hàng vẫn còn thấp, rất khó đầu tư phát triển công nghệ hiện đại . - Trình độ cán bộ quản lý và kinh doanh của các TCTD còn hạn chế, chưa đủ khả năng tiếp cận và làm chủ được công nghệ mới, quản trị kinh doanh và quản trị rủi ro so với yêu cầu kinh doanh theo cơ chế thị trường và hiện đại hóa công nghệ trong hệ thống ngân hàng . Phần III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ - Phát triển về công nghệ: ° Đây là yêu cầu cơ bản trong việc phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng của hệ thống NHTM. Việc ứng dụng công nghệ mới trong ngành ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho các NHTM có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ ngân hàng. Các NHTM cần phải: ° Tăng cường liên doanh, liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng các tổ chức kinh tế khác trong và ngoài nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. ° Hiện đại hóa đồng bộ hạ tầng kỹ thuật công nghệ trên phạm vi toàn hệ thống ngân hàng và ngay trong từng TCTD. Thực hiện các giao dịch liên chi nhánh trong toàn hệ thống một cách nhanh chóng, không còn sự khác biệt về cách thức, tốc độ xử lý giữa giao dịch nội bộ và giao dịch liên chi nhánh. ° Phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử (internet banking, home banking, mobile banking,…, các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt theo hướng giao dịch tự động nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả. - Phát triển nguồn nhân lực: ° Cần thiết hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có trình độ giỏi thông qua xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý lao động phù hợp. Trang 13
  15. ° Bên cạnh việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, các NHTM cũng cần phải phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ có tr ình độ cao đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong xu thế hội nhập. Để nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực, các ngân hàng có chiến lược chủ động đào tạo và đào tạo lại các nội dung về nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ ngân hàng có thể tiếp cận được công nghệ mới, quan tâm đến môi trường làm việc của cán bộ cũng như các chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần cho nhân viên,… - Tăng cường năng lực hoạt động và tài chính của các TCTD : ° Các NHTM cần thiết phải xây dựng đề án tăng c ường năng lực tài chính và xem đây là giải pháp giúp cho các NHTM và TCTD nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho việc phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại.Tăng cường năng lực hoạt động tài chính có thể thực hiện theo hướng: ° Tăng vốn tự có bằng các hình thức huy động từ thị trường qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, Nhà nước bổ sung vốn, lợi nhuận để lại, nâng cao chất lượng tài sản có,… Việc tăng vốn tự có sẽ tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh, mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới . ° Đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTM nhằm giúp cho các ngân hàng sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn và làm tăng thêm tiềm lực tài chính cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. ° Xử lý nợ xấu theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, giảm nợ xấu phải gắn liền với việc xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát hữu hiệu chất lượng tín dụng của các NHTM . ° Thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết giữa các NHTM và TCTD với nhau trong quá trình phát triển các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng, giúp cho các NHTM và TCTD sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạn chế được sự lãng phí và kém hiệu quả trong quá trình ứng dụng phát triển công nghệ hiện đại . - Chủ động xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh ° Các NHTM cần chủ động xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh theo hướng phát triển thương hiệu và xây dựng văn hóa kinh doanh ngân hàng văn minh – hiện đại, bằng cách đẩy mạnh các hoạt động marketing, tuyên truyền, quảng cáo dịch vụ ngân hàng trên thị trường đến khách hàng . Tuy nhiên, để chiến lược phát triển kinh doanh dịch vụ ngân hàng thực hiện có hiệu quả góp phần vào sự phát triển nền kinh tế xã hội, cần thiết có sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước VN trên một số nội dung : Trang 14
  16. ° Bổ sung, sửa đổi Luật NHNN và Luật các TCTD, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và ứng dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng; quy định rõ phạm vi hoạt động cũng nh ư loại hình dịch vụ ngân hàng mà các TCTD được phép thực hiện và cung ứng cho nền kinh tế . ° Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối theo h ướng tự do hóa các giao dịch vãng lai và kiểm soát có chọn lọc các giao dịch về vốn. Từng bước loại bỏ những bất hợp lý về mua, bán và sử dụng ngoại tệ, cho phép các tổ chức và cá nhân tham gia rộng rãi hơn các giao dịch hối đoái. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hóa có kiểm soát, từng bước giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước tiến tới hình thành tỷ giá hối đoái theo quy luật cung cầu . ° Hoàn thiện các quy định về tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước theo lộ trình tự do hóa thương mại dịch vụ tài chính và mở cửa thị trường tài chính. ° Tiếp tục định hướng cho các TCTD phát triển các hoạt động dịch vụ, đặc biệt l à phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đảm bảo cho các TCTD đầu tư đúng hướng và có hiệu quả trong kinh doanh . ° Thực hiện cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt trong mọi ngành, mọi cấp của nền kinh tế chớ không chỉ thực hiện ở phạm vi ngành ngân hàng. Bên cạnh đo, Ngân hàng Nhà nước có thể hình thành trung tâm thanh toán bù trừ séc, hối phiếu nhằm tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ phát hành, lưu thông và sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế . ° Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu quốc gia hiện đại, tập trung, thống nhất. Triển khai các đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, giám sát, quản trị, điều hành, thông tin, báo cáo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. - Tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của các NHTM: ° Kinh doanh trong lĩnh vực NH thường xuyên gặp rủi ro, vì vậy, cần có một cơ chế vận hành khép kín về thời gian kể từ khi cho vay đến khi thu hết vốn và lãi. NH cần tăng cường việc kiểm tra định kỳ trên cơ sở các báo cáo tài chính của doanh nghiệp , kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại các cơ sở khách hàng, kiểm tra giá trị đảm bảo khoản vay qua giá trị thị trường của tài sản đảm bảo… Đồng thời tăng c ường công tác kểm tra, kiểm soát nội bộ NHTM về hoạt động tín dụng do các sản phẩm tín dụng có chất lượng thường xuyên bị thay đổi, các nguyên tắc bi vi phạm… ° Cùng với việc kiểm soát nội bộ công tác tín dụng, NH cũng cần chú trọng việc định kỳ xem lại, nới lỏng hay thu hẹp hạn mức tín dụng của khách h àng vay vốn. Kiểm tra lại công tác định giá tài sản thế chấp, đặc biệt cho các khoản vay lớn. Kiểm tra lại tình hình thực hiện chính sách tín dụng của NH, các quy định, hạn mức an to àn của NHNN. Trang 15
  17. Nghiên cứu chất lượng tín dụng trên cơ sở tự phân loại và đánh giá nợ, khả năng tổn thất, tình hình xử lý nợ quá hạn thời gian qua để có những giải pháp phù hợp . Đồng thời cũng cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa những khoản vay không l ành mạnh, năng động xử lý các khoản nợ quá hạn. Sinh viên VŨ TRUNG THÁI Trang 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0