intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án Kỹ sư quy hoạch: Đánh giá hiệu quả giao thông và an toàn trong trường hợp chuyển đổi nút giao đèn tín hiệu thành vòng xoay – Trường hợp nghiên cứu Nút giao Tân Phong, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: Lê Hoàng Mỹ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:112

105
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồ án Kỹ sư quy hoạch: Đánh giá hiệu quả giao thông và an toàn trong trường hợp chuyển đổi nút giao đèn tín hiệu thành vòng xoay – Trường hợp nghiên cứu Nút giao Tân Phong, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trình bày: Cơ sở lý thuyết vòng xoay, hiện trạng mạng lưới giao thông đường bộ Đồng Nai, trường hợp nghiên cứu ngã tư tân phong thành vòng xoay,... Mời các bạn cùng tham khảo

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án Kỹ sư quy hoạch: Đánh giá hiệu quả giao thông và an toàn trong trường hợp chuyển đổi nút giao đèn tín hiệu thành vòng xoay – Trường hợp nghiên cứu Nút giao Tân Phong, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

  1. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                Đề tài:  Đánh giá hiệu quả giao thông và an toàn trong trường hợp chuyển đổi nút  giao đèn tín hiệu thành vòng xoay – Trường hợp nghiên cứu  Nút giao Tân  Phong, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Trang 1
  2. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                MỤC LỤC Trang 2
  3. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                DANH MỤC HÌNH ẢNH Trang 3
  4. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang 4
  5. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT QL: Quốc lộ ĐT: Đường tỉnh ĐH: Đường huyện UBND: Ủy ban nhân dân TT TP.HCM: Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh Tx : Thị xã TDTT: Thể dục thể thao GTVT: Giao thông vận tải BTN: Bê tông nhựa BTXM: Bê tông xi măng MC: mặt cắt TH: Trường hợp HCM: Highway Capacity Munual LOS: Level Of Service TCXD: Tiêu chuẩn xây dựng TCN: Tiêu chuẩn ngành Trang 5
  6. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                MỞ ĐẦU 1. Đặt Vấn Đề Nút giao vòng đảo là một loại hình nút giao được bắt đầu sử dụng đầu tiên ở  Mỹ  năm 1905, lúc này nút giao mới chỉ là loại nút giao yêu cầu các xe tham gia  giao thông chạy theo vòng xuyến xung quanh đảo. Loại nút giao này sau đó được  xây dựng rất nhiều nó tạo điều kiện cho các dòng giao thông vào nút với tốc độ  cao. Nhưng sau đó khi lưu lượng giao thông tại các tuyến đường tăng cao thì nút   giao thông này lại xảy ra hiện tượng ùn tắc giao thông, khiến cho loại hình nút   giao thông này không được sử dụng nữa, thậm trí còn bị cấm sử dụng tại một số  nước. Sau đó, năm 1960 người Anh đã phát minh ra loại hình nút giao thông hiện  đại với luật nhường đường trong đó quy định các loại xe vào nút phải nhường   đường cho các đang lưu thông trong nút. Hiện nay, loại hình nút giao vòng đảo   kiểu mới này đã và đang được xây dựng rất nhiều ở các nước phát triển. Tuy nhiên, trong hệ  thống mạng lưới giao thông của nước ta hiện nay lại   đang tiếp tục xây dựng rất nhiều những nút giao vòng đảo kiểu cũ này, khiến cho  hiện tượng ùn tắc liên tục xảy ra tại các nút giao thông này. Thậm trí tại một số  nước như Mỹ loại hình nút giao thông vòng đảo kiểu cũ này đã bị cấm sử  dụng   trong nhiều năm cho tới mãi năm 2001. Hiện nay nước ta đã có khá nhiều nút giao  vòng đảo nhưng lại chưa có tài liệu đánh giáo hiệu quả và an toàn giao thong mà  nó  mang. Để làm sáng tỏ các ưu điểm của loại hình nút giao vòng đảo hiện đại   giúp cho chúng ta hiểu rõ lợi ích của nút giao vòng đảo hiện đại, trong đề  tài   nghiên cứu tác giả  đã tổng hợp, phân tích lý thuyết về  đánh giá khả  năng thông  hành, mức phục vụ  và mức độ  an toàn giao thông của loại hình nút giao thông   này. Sau đó, tác giả đã ứng dụng cho một nút giao thực tế là nút giao Tân Phong,  Biên Hòa, Đồng Nai. Trang 6
  7. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                2. Lý Do Chọn Đề Tài Nút giao thông vòng đảo là một loại hình nút giao thông quan trọng trong mạng   lưới giao thông hiện nay.Loại hình nút giao thông này đã được các nước trên thế  giới áp dụng rất nhiều để giải quyết vấn đề  tại các nút giao thông, đây cũng là  một loại hình nút giao có giá trị  thẩm mỹ  rất cao cho mạng lưới đường giao   thông, cảnh quan đô thị. Hiện nay loại hình nút giao này đang được sự  quan tâm   của rất nhiều các kỹ sư nước ta trên các diễn đàn về giao thông đưa ra thảo luận.  Nhưng ở nước ta hiện nay lại chưa có nhiều tài liệu về đánh giá hiệu quả  và an  toàn cho loại hình nút giao thông này. Vì vậy, tác giả đã chọn để tài để đưa ra các   lý thuyết đánh giá cho các loại hình nút giao thông này và làm sáng tỏ tính ưu việt   của loại hình nút giao thông vòng đảo hiện đại đang được áp dụng trên thế giới  hiện nay. Từ  đó đưa ra cái nhìn đúng đắn cho các kỹ  sư  về  loại hình nút giao  thông vòng đảo hiện đại thông qua việc đánh giá chuyển đổi từ  ngã tư  thành  vòng xoay tại nút giao Tân Phong, Biên Hòa, Đồng Nai. 3. Phương Pháp Nghiên Cứu Phương pháp nghiên cứu của đề  tài là phương pháp lý thuyết kết hợp với   thực tiễn.Tác giả  đã nghiên cứu lý thuyết đánh giá khả  năng thông hành của nút  giao vòng đảo với dòng giao thông vào nút là dòng tự  do theo công thức của  Phòng thí nghiệm đường bộ  Anh (The transport and Road Research Laboratory),   đánh giá khả  năng thông hành của các nút giao vòng đảo sử  dụng tín hiệu đèn   điều khiển, đánh giá khả  năng thông hành nút giao vòng đảo hiện đại theo :”   Roundabout An informational Guide” của bộ giao thông Mỹ, cùng với đó tác giả  đã sử dụng phương pháp tính toán pha đèn để áp dụng tính toán tín hiệu đèn điều  khiển cho nút giao thông. Tác giả  đã vận dụng các lý thuyết để  đánh giá các   phương án đưa ra áp dụng cho nút giao Tân Phong, Biên Hòa, Đồng Nai, dựa trên   các tài liệu về dự  án : “Đầu Tư  Xây Dựng Hầm Chui Tại Ngã Tư  Tân Phong”:   lưu lượng xe, bình đồ  nút giao đường Nguyễn Ái Quốc và đường Đồng Khởi… để đánh giá các vấn đề còn tồn tại trong nút giao khi cho dòng xe lưu thông tự do  Trang 7
  8. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                vào nút như: tồn tại các xung đột giao cắt giữa các dòng xe, bán kính quay đầu   thay đổi nhiều, chiều dài đoạn trộn dòng … 4. Mục Tiêu và Phạm Vi Nghiên Cứu Phân tích điều kiện vận hành hiện hữu (LOS, capacity, delay, queue length).  Xác định các vấn đề về giao thông và an toàn tại nút giao đèn tín hiệu kết hợp  đảo giao thông; Chuyển đổi nút giao đèn tín hiệu kết hợp đảo giao thông sang vòng xoay chú  trọng đến môi trường giao thông nhiều xe máy. Nghiên cứu này tập trung định lượng điều kiện vận hành tại nút giao đèn tín  hiệu, đảo giao thông và vòng xoay, làm cơ sở cho việc chuyển đổi nút giao đèn  tín hiệu sang vòng xoay. Nút giao ngã tư Tân Phong được chọn làm khu vực nghiên cứu vận dụng thực  tiễn. 5. Tóm Tắt Đề Tài Nghiên Cứu Đề  tài nghiên cứu lý thuyết đánh giá một số  loại nút giao vòng đảo trên thế  giới về  đánh giá khả  năng thông hành, mức phục vụ  và mức độ  an toàn giao   thông. Các loại nút giao được đưa vào nghiên cứu: nút giao ngã tư  được điều   khiển bằng đèn tín hiệu, nút giao vòng đảo có sử dụng tín hiệu đèn điều khiển và   nút giao vòng đảo hiện đại. Qua đó tác giả chỉ ra được các ưu điểm của loại hình   nút giao thông vòng đảo hiện đại so nút giao ngã tư được điều khiển bằng đèn tín   hiệu. Từ  đó các nghiên cứu lý thuyết tác giả  đề  tài đã vận dụng để  tính toán và  đánh giá khả năng thông hành, mức phục vụ cũng như mức độ an toàn giao thông  của nút giao Tân Phong giữa đường Nguyễn Ái Quốc và đường Đồng Khởi. Tác  giả đã đưa ra kiến nghị phương án thiết kế  cho nút giao thông này theo nút giao   vòng đảo hiện đại. Qua đề tài nghiên cứu tác giả kiến nghị sử dụng loại hình nút  giao vòng đảo hiện đại giải quyết vấn đề ùn tắc và an toàn giao thông. Trang 8
  9. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                CHƯƠNG 1  CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÒNG XOAY 1.1 Giới thiệu chung Vòng xoay hiện đại là một loại nút giao đặc trưng bởi một hình dạng tròn nói  chung, biển báo kiểm soát tại các nhánh đường vào, và các đặc trưng hình học   tạo ra một môi trường giao thông tốc độ thấp. Các vòng xoay hiện đại đã chứng   minh được một số  lợi ích an toàn, vận hành và các lợi ích khác khi so sánh với   các loại nút giao thông thường. Đối với các dự  án xây dựng nút giao mới hoặc   cải tiến, vòng xoay hiện đại cần được xem xét như là một sự thay thế. Đặc trưng của vòng xoay Các mẫu nút giao vòng tròn là một phần của hệ thống giao thông ở  Hoa Kỳ  trong hơn một thế kỷ. Việc sử dụng rộng rãi các loại nút giao đã giảm sau những   năm giữa thập kỷ 50, khi các vòng giao thông bắt đầu gặp vấn đề  về tắc nghẽn   và an toàn. Tuy nhiên, những lợi thế  của vòng xoay hiện đại, bao gồm các tính  năng thiết kế  sửa đổi và cải tiến, đã được công nhận và đưa ra thử  nghiệm tại   Hoa Kỳ. Hiện nay ước tính có hơn một nghìn vòng xoay tại Hoa Kỳ và hàng chục  nghìn trên toàn thế giới, với con số ước tính sẽ tăng lên ở Hoa Kỳ mỗi năm. Trang 9
  10. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                Hình 1.  Đặc trưng chính của vòng xoay Trang 10
  11. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                Hình 1.  Đặc trưng thiết kế của vòng xoay Các vòng xoay được chia thành ba loại cơ  bản theo kích thước và số  làn xe   để  thuận lợi cho việc thảo luận về  các vấn đề  về  năng lực thông hành hoặc   thiết kế cụ thể: vòng xoay mini, vòng xoay một làn xe và vòng xoay nhiều làn xe.  Những điều này được tóm tắt trong Bảng 1.1 Trang 11
  12. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                Bảng 1.  So sánh phân loại vòng xoay Vòng xoay 01 làn  Vòng xoay  nhiều  Yếu tố thiết kế Vòng xoay Mini xe làn xe Tốc độ  tối đa mong  15 – 20 dặm/giờ 20 – 25 dặm/giờ 25 – 30 dặm/giờ muốn   thiết   kế   tại  (25 – 30 km/h) (30 – 40 km/h) (40 – 50 km/giờ) các hướng vào Số lượng làn xe tối  đa trên mỗi hướng  1 1 2+ vào Đường kính đường  45 – 90ft 90 – 180ft 150 – 300ft tròn vòng xoay (13 – 27m) (27 – 55m) (46 – 91m) Được nâng lên (có  Được nâng lên (có  Cách xử lý đảo  Có thể đi ngang  thể đi ngang qua  thể có phần nâng  trung tâm hoàn toàn phần nâng lên) lên) Lưu lượng đặc  trưng ở 4 nhánh  đường để vận hành  Khoảng 45,000  Khoảng 15,000  Khoảng 25,000  mà không phân tích  xe/ngày đối với  xe/ngày xe/ngày chi tiết năng lực  vòng xoay 02 làn xe thông hành  (xe/ngày). Vòng xoay đang trở nên phổ biến hơn dựa trên nhiều cơ hội để cải thiện sự  an toàn và hiệu quả vận hành và cung cấp các lợi ích khác. Tuy nhiên, vòng xoay  không phải lúc nào cũng khả  thi và không phải lúc nào cũng cung cấp giải pháp  tối ưu cho mọi vấn đề. Lợi ích của vòng xoay và một số yếu tố ràng buộc, được   mô tả dưới đây. 1.2 Các yếu tố cần xem xét trong quá trình quy hoạch, thiết kế vòng xoay Mỗi loại hình sử  dụng phương tiện lưu thông qua vòng xoay có đặc trưng   độc đáo cần được xem xét trong quá trình lập quy hoạch và thiết kế. Một số đặc   điểm của bốn nhóm người dùng chính ­ người lái xe, người đi xe máy, người đi  bộ, người đi xe đạp và xe cấp cứu ­ được đề cập trong báo cáo này. 1.2.1 Đối với người lái xe Nghiên cứu cho thấy rằng vòng xoay giải quyết một số  vấn  đề  về  kinh   nghiệm điều khiển phương tiện trong khi lưu thông qua  nút giao. Một trong  Trang 12
  13. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                những đặc trưng thiết kế  chính của vòng xoay là hình dạng hình học của vòng  xoay làm cho toàn bộ các phương tiện lưu thông chậm lại khi đi vào vòng xoay.  Vòng xoay có thể tăng cường mức độ  an toàn cho người lái xe, bao gồm những  người lái xe đã lớn tuổi, bằng cách: ­ Cho phép người lái có nhiều thời gian hơn để ra quyết định, hoạt động, và   phản ứng; ­ Giảm số hướng mà người lái xe cần theo dõi để quan sát các xung đột giao  thông; và ­ Giảm sự  cần thiết để  đánh giá khoảng trống trong dòng giao thông đang  lưu thông một cách chính xác. Cần lưu ý đến cách bố trí các biển báo và bảng hiệu trên vỉa hè được rõ ràng,   dễ nhìn và dễ nhận biết đối với tất cả người sử dụng, kể cả những người lái xe  đã lớn tuổi. Xe tải và các loại xe lớn khác có thể  được điều chỉnh cho phù hợp  để lưu thông qua vòng xoay với sự lưu ý đúng mức với thiết kế. 1.2.2 Đối với người đi xe máy và đi xe đạp Người đi xe máy và xe đạp có nhiều kỹ  năng và kinh nghiệm, và vòng xoay  được thiết kế  để  phù hợp với phạm vi rộng. Người đi xe máy và xe đạp nên  được cung cấp các lựa chọn tương tự để lưu thông qua vòng xoay như ở các nút  giao thông thông thường, nơi họ điều hướng hoặc là xe cơ giới hoặc người đi bộ  tùy   thuộc   vào   kích   thước   của   nút   giao,   lưu   lượng   giao   thông,   mức   độ   kinh  nghiệm và các yếu tố  khác. Người đi xe máy và xe đạp thường cảm thấy thoải   mái khi đi qua những vòng xoay một làn xe trong môi trường có lưu lượng giao   thông thấp trong làn đường dành cho xe cơ giới, vì tốc độ có thể so sánh được và   ít các xung đột tiềm ẩn. Tại các vòng xoay lớn hơn, nhiều người đi xe máy và xe  đạp có thể thoải mái và an toàn hơn bằng cách sử dụng các đoạn đường nối với   lối đi bộ  trên vỉa hè hoặc lối đi đa năng xung quanh chu vi của vòng xoay như  người đi bộ. Trang 13
  14. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                1.2.3 Đối với người đi bộ Người đi bộ được bố trí đi qua đường tại vị trí vạch kẻ dành cho người đi bộ  qua đường và đi vòng quanh chu vi vòng xoay. Bằng cách cung cấp không gian để  để  người đi bộ  dừng trên đảo phân luồng, người đi bộ  có thể  quan sát một  hướng xung đột giao thông tại một thời điểm, đơn giản hóa việc đi qua đường  tại vòng xoay. Các phương tiện lưu thông qua vòng xoay với tốc độ  thấp cho  phép có nhiều thời gian hơn cho người lái xe và người đi bộ để ra quyết định và   phản ứng và để giảm hậu quả khi có va chạm xảy ra. Kết quả là có ít sự cố liên   quan đến người đi bộ xảy ra trong phạm vi vòng xoay. Những người đi bộ  khiếm thị  có thể  gặp khó khăn khi đi qua vòng xoay do   các yếu tố chính sau: ­ Những người đi bộ  khiếm thị  có thể  gặp khó khăn khi đi qua đường vì  băng qua đường nằm bên ngoài vách gần vỉa hè, và tính chất cong của  vòng xoay làm thay đổi các dấu hiệu nhận biết thông thường có thể nghe  thấy và xúc giác mà họ sử dụng để đi qua đường. ­ Vòng xoay   không bao gồm các dấu hiệu nhận biết bình thường có thể  nghe thấy và xúc giác được sử  dụng bởi những người đi bộ  có khiếm  khuyết về thị lực để tự đi vào vị trí vạch kẻ dành cho người đi bộ để tránh  các phương tiện đang lưu thông tại vòng xoay. ­ Âm thanh của dòng giao thông lưu thông tuần hoàn trong vòng xoay che  giấu dấu hiệu âm thanh mà người đi bộ  khiếm thị  sử  dụng để  xác định  thời điểm thích hợp để vào vạch kẻ đi qua đường (cả hai đều phát hiện ra   khoảng cách và phát hiện ra phương tiện đang đến). 1.2.4 Xe cấp cứu Vòng xoay đảm bảo xe cấp cứu khi lưu thông qua với tốc độ thấp hơn nhưng  vẫn duy trì việc di chuyển khẩn cấp, điều này có thể làm cho vòng xoay an toàn  hơn để  vượt qua khỏi khu vực giao cắt điều khiển bằng đèn tín hiệu. Không   Trang 14
  15. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                giống như  nút giao điều khiển bằng đen tín hiệu, các tài xế  điều khiển xe cấp  cứu sẽ  không gặp phải các phương tiện bất ngờ  chạy qua nút giao và va chạm  với tốc độ  cao. Nhân viên dịch vụ  cấp cứu có thể  có một số  lo ngại về  trách   nhiệm của họ  để  điều khiển phương tiện đi qua vòng xoay trong lúc khẩn cấp,   mặc dù điều này có thể được dễ dàng giải quyết trong thiết kế. Trên các tuyến đáp ứng nhu cầu khẩn cấp của các phương tiện cấp cứu, sự  chậm trễ  do các chuyển động liên quan tại một vòng xoay dự  kiến sẽ  được so   sánh với các loại nút giao thay thế  và kiểm soát. Giống như  các nút giao thông  thông thường, người lái xe nên được giáo dục không được vào vòng xoay khi có   phương tiện cấp cứu đang tiến đến từ  hướng khác. Một khi đã vào vòng xoay,  họ sẽ rẽ ra khỏi đường tuần hoàn trong vòng xoay nếu có thể, tạo thuận lợi cho   việc xếp hàng trước xe cấp cứu. 1.3 Sự xem xét về vị trí thiết lập vòng xoay Trong quá trình lập quy hoạch cho một nút giao mới hoặc cải tiến tín hiệu  giao thông hoặc kiểm soát dừng được xem xét, thì một vòng xoay hiện đại cũng   nên được xem xét như là một sự thay thế. Điều này bắt đầu với việc nắm bắt rõ   ràng được các đặc điểm của khu đất và xác định một sự sắp xếp sơ bộ. Có một   số vị trí nơi vòng xoay thường được xem xét là thuận lợi và một số tình huống có   thể   ảnh hưởng tiêu cực đến tính khả  thi của vòng xoay. Như  với bất kỳ  quyết   định nào về việc sử dụng các phương pháp xử lý các nút giao, cần lưu ý để hiểu   được lợi ích cụ  thể và sự  đánh đổi đối với từng khu vực dự  án. Phần này phác  thảo một số vấn đề về vị trí để giúp xác định xem một vòng xoay là một sự thay  thế cho nút giao khả thi. 1.3.1 Ứng dụng vào các vị trí phổ biến   Các   ứng  dụng  sau  đây  đặc   trưng  cho  một   số   tình  huống   mà   vòng  xoay  thường được thấy là khả thi và mang lại lợi ích: Trang 15
  16. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                 Các đơn vị  nhà ở  mới – Phương tiện lưu thông qua vòng xoay có tốc độ  thấp, giảm được tiếng  ồn so với các loại nút giao thông thường, chi phí   bão dưỡng thấp.  Trường học – Lợi ích chủ  yếu là giảm tốc độ  phương  ở  trong và xung  quanh vòng xoay.  Vòng xoay cải thiện cơ  hội cho người  đi bộ  đi qua   đường, cung cấp nơi dừng chân và khả  năng tập trung vào một dòng giao  thông tại cùng một thời điểm trong khi đi qua đường. Vòng xoay một làn   xe thường thích hợp với các vòng xoay nhiều làn xe gần các trường học vì  đơn giản hóa được việc đi qua đường cho trẻ  em. Tuy nhiên, nếu lưu  lượng giao thông lớn thì một vòng xoay nhiều làn xe vẫn có thể thích hợp   với một nút giao điều khiển bằng đèn tín hiệu.  Hành lang – Vòng xoay cung cấp cơ hội để  định hình mặt cắt ngang của   hành  lang  theo những cách có  thể   khác   với  những nút  giao  được  điều   khiển bằng đèn tín hiệu. Các nút giao được điều khiển bằng đèn tín hiệu  hoạt động hiệu quả  nhất khi có sự  quản lý đối với từng nhóm phương   tiện lưu thông. Điều này đòi hỏi phải thông qua các làn đường giữa các  đèn tín hiệu để duy trì sự toàn vẹn của các nhóm này. Mặt khác, vòng xoay  mang lại hiệu quả  thông qua quá trình chấp nhận khoảng hở  và do đó  không có nhu cầu tương tự cho sự di chuyển vượt lên của các phương tiện  trong nhóm. Kết quả là vòng xoay có thể được làm lớn như  cần thiết đối  với năng lực thông hành của nút, giữ  liên kết giữa các nút giao hẹp hơn.  Khái  niệm này  đôi khi  được  gọi  là   khái niệm  "nút  rộng,   đường  hẹp".  Giảm số lượng làn đường đi lại giữa các nút giao thông có thể  làm giảm   tác động của phần đường bên phải (phần đất được phép xây dựng các cơ  sở hạ tầng phục vụ cho giao thông) để cung cấp không gian đậu xe, lối đi   bộ rộng rãi hơn, dải trồng hoa cây cảnh, và làn đường dành cho xe đạp. Trang 16
  17. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                 Các giải pháp xử lý tại các nhánh vào vòng xoay –  Vòng xoay hiện diện  cơ hội để tạo ra các điểm nhấn, cảnh quan và các đặc trưng tại các nhánh  ra vào khác trong phạm vi giao nhau cũng an toàn và hiệu quả.  Nút giao với thời gian chờ tại nút cao – Vòng xoay có thể là ứng dụng lý  tưởng để  giảm sự  chậm trễ  tại các nút giao dừng – kiểm soát hoặc nút  giao được kiểm soát hoàn toàn.  Các nút giao thông ở vùng nông thôn – Vòng xoay đã được chứng minh là  làm giảm đáng kể số lượng các vụ  tai nạn gây tử  vong và tai nạn thương   tích tại các khu vực nông thôn, các vị  trí có tần suất tai nạn cao, ngay cả  những đường tiếp cận tốc độ cao (lớn hơn 55 dặm/giờ).  Phát triển thương mại –  Vòng xoay là một thiết kế  thẩm mỹ  thay thế  cho các biển báo, các tín hiệu giao thông và có khả năng đáp ứng nhu cầu   về năng lực thông hành tương tự. 1.3.2 Những vị trí hạn chế  Một số  yếu tố  liên quan đến vị  trí có thể   ảnh hưởng đáng kể  đến yêu cầu  thiết kế  nên cần tiến hành khảo sát chi tiết hơn về  một số khía cạnh của thiết  kế hoặc điều kiện vận hành. Một số yếu tố (nhiều trong số đó có căn cứ đối với  bất kỳ loại nút giao nào) được liệt kê dưới đây:  Các tính chất về vật lý phức tạp như những hạn chế về phần đường bên  phải (phần đất được phép xây dựng các cơ  sở  hạ  tầng phục vụ  cho giao   thông), xung đột về lợi ích, những hạn chế về môi trường, những vấn đề  về  thoát nước, góc giao giữa các nhánh đường tại nút giao, địa hình phân   lớp   không  thuận  lợi,...   làm  cho   việc   xây  dựng  một   vòng  xoay  trở   nên  không khả thi về mặt chính trị hoặc kinh tế. Trang 17
  18. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                 Gần các nhà máy, các trung tâm công nghiệp có lưu lượng giao thông lớn  sẽ gây khó khăn trong việc thiết lập vòng xoay, chẳng hạn như lưu lượng   xe tải lớn, xe quá khổ (hay còn gọi là xe siêu trọng).  Gần các “cổ chai” sẽ làm tăng lưu lượng giao thông vào vòng xoay, chẳng  hạn như  dấu hiệu vượt quá năng lực thông hành. Sự  vận hành êm thuận  của vòng xoay phụ thuộc vào dòng giao thông không bị cản trở trên đường  tuần hoàn trong vòng xoay. Nếu giao thông trên đường tuần hoàn trong  vòng xoay dừng lại, sự vận hành của vòng xoay bị cản trở và gây ra ùn tắc  giao thông ngay cả trong vòng xoay.  Nút giao có thể  tạo ra sự  chậm trễ  không mong muốn  đối với đường   chính. Vòng xoay loại trừ  một số  sự  chậm trễ  đối với tất cả  dòng giao   thông vào nút giao, bao gồm cả đường chính.  Lưu lượng người đi bộ và đi xe đạp lớn xung đột với dòng giao thông lưu   lượng lớn yêu cầu cần phải có thêm hệ  thống kiểm soát giao thông bổ  sung (chẳng hạn như đèn tín hiệu).  Các nút giao nằm trên các đường chính trong một mạng lưới đèn tín hiệu   được phối hợp. Trong những tình huống này, mức phục vụ  trên đường  chính có thể tốt hơn với một nút giao điều khiển bằng đèn tín hiệu được  kết hợp vào hệ thống. Sự  tồn tại của một hoặc nhiều điều kiện có thể  cản trở  sự  thiết lập một   vòng xoay. Trên thực tế, vòng xoay được xây dựng tại các địa điểm có một hoặc  nhiều điều kiện được liệt kê ở trên. Để giải quyết các điều kiện này, có thể cần   phân tích, thiết kế, và/hoặc phối hợp với các cơ  quan có thẩm quyền để  giải  quyết vấn đề và giúp đỡ trong quá trình ra quyết định. Trong một số trường hợp,  các điều kiện được xác định ở trên không thể vượt qua thì sự thiết lập một loại  nút giao khác có thể xem xét để phù hợp hơn. Trang 18
  19. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                1.4 Phân tích điều kiện vận hành vòng xoay Một câu hỏi cơ bản cần được trả lời ở cấp độ quy hoạch là có bao nhiêu làn   đường  ở  lối vào và làn đường trong vòng cần có để  đảm nhận nhu cầu giao  thông. Số lượng làn xe không chỉ  ảnh hưởng đến năng lực thông hành của vòng   xoay, mà còn ảnh hưởng đến kích thước của vòng xoay. Hình 03 thể hiện phạm   vi lưu lượng giao thông trung bình ngày (ADT) để  xác định các viễn cảnh trong  tương lai theo đó có thể  thiết lập vòng xoay một làn xe hoặc hai làn xe có thể  thực hiện đầy đủ. Các phạm vi này đại diện cho ngưỡng tổng lưu lượng phương   tiện ở các nhánh lối vào vòng xoay, nơi vòng xoay một làn xe hoặc hai làn xe nên  hoạt động có thể  chấp nhận được và phạm vi của lưu lượng các phương tiện   cần phân tích chi tiết hơn. Thủ pháp này được coi là một phương pháp đơn giản,  phương pháp bảo tồn để ước tính yêu cầu số làn đường cần thiết cho vòng xoay. Nguồn: U.S DoT, FHWA (2006) Hình 1.  Phạm vi lưu lượng giao thông trung bình ngày (ADT) Trang 19
  20. ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ QUY HOẠCH                Nếu lưu lượng nằm trong phạm vi được xác định trong Hình 1.3 “cần phân  tích bổ sung” thì vòng xoay một làn xe hoặc hai làn xe có thể vẫn hoạt động khá   tốt, nhưng yêu cầu phải sử dụng các thủ pháp được mô tả trong phần sau để có   cái nhìn tổng quan hơn về lưu lượng giao thông di chuyển thực tế trong giờ thiết  kế. Vòng xoay có thể thay đổi (ví dụ: một làn đường cho phần đường tuần hoàn  và hai làn đường  ở  các phần khác trong cùng một vòng xoay), vòng xoay với sự  đo đạc giờ cao điểm và vòng xoay ba làn đường đã thành công ở một số vị trí. The Highway Capacity Manual (HCM 2010) sử dụng một số mô hình để phản  ánh năng lực thông hành của các lối vào vòng xoay lên đến hai làn xe. Năng lực   thông hành của mỗi làn đường tại nhánh vào vòng xoay được tính toán dựa trên   xung đột giao thông trong đường tuần hoàn, bao gồm các hướng lưu thông khác  nhau từ các nhánh đường tiếp cận khác đi qua trước (và do đó mâu thuẫn với) lối   vào chính. Hình 04 thể  hiện các đường cong năng lực thông hành cho các viễn  cảnh của vòng xoay một và hai làn xe. Đường cong dưới có thể được sử dụng để  tính năng lực thông hành của nhánh vào đối với vòng xoay một làn xe, hoặc làn   đường của một lối vào hai làn xe xung đột với một làn đường tuần hoàn trong  vòng xoay. Đối với một vòng xoay với hai làn đường tuần hoàn, cần sử dụng hai  đường cong đại diện cho nhánh đường vào bên trái và bên phải. Ví dụ: với lưu   lượng giao thông 600 xe/giờ trên hai làn xe, làn đường bên trái của nhánh đường  vào hai làn xe sẽ  có năng lực thông hành khoảng 720 xe/giờ, và làn đường bên   phải của một nhánh đường vào hai làn xe sẽ có năng lực thông hành khoảng 740   xe/giờ. Chi tiết hơn, bao gồm mẫu tính toán lưu lượng của vòng xoay, quy đổi   phương tiện từ veh/h (xe/giờ) sang pc/h (PCU/giờ), làn đường sử dụng, năng lực  thông hành, và các tiêu chuẩn được thể hiện trong HCM 2010. Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2