intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Doanh nghiệp Việt và câu chuyện tỉ giá

Chia sẻ: Cong Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

109
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Doanh nghiệp Việt và câu chuyện tỉ giá Có kẻ khóc, người cười trong câu chuyện tỉ giá tăng, nhưng trên hết ai nấy đều chờ đợi Chính phủ sẽ có một giải pháp “lưỡng toàn kỳ mỹ” cho vấn đề tỉ giá. Trong lúc đó, tất cả những gì doanh nghiệp có thể làm là vận dụng toàn bộ sự linh hoạt của mình để ứng phó với bài toán sản xuất và bán hàng hằng ngày.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Doanh nghiệp Việt và câu chuyện tỉ giá

  1. Doanh nghiệp Việt và câu chuyện tỉ giá Có kẻ khóc, người cười trong câu chuyện tỉ giá tăng, nhưng trên hết ai nấy đều chờ đợi Chính phủ sẽ có một giải pháp “lưỡng toàn kỳ mỹ” cho vấn đề tỉ giá. Trong lúc đó, tất cả những gì doanh nghiệp có thể làm là vận dụng toàn bộ sự linh hoạt của mình để ứng phó với bài toán sản xuất và bán hàng hằng ngày. Câu chuyện tỉ giá tăng sẽ có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu dường như không hoàn toàn đúng trong lúc này, khi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Vì vậy, ông Dương Quốc Nam, Tổng Giám đốc Công ty Nội thất Phố Xinh, cũng như nhiều doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, đang hy vọng sự điều chỉnh mới về tỉ giá để có thể giúp cân bằng chuyện nhập, xuất. Tỉ giá tăng: Rủi ro hay cơ hội? Phố Xinh có khoảng 700 công nhân với 3 nhà máy lớn và 10 cửa hàng trưng bày trong nước. Khoảng 40% doanh thu của công ty này đến từ xuất khẩu, trong khi phần lớn
  2. nguyên vật liệu như gỗ, da, kính, sắt phục vụ đều phải nhập khẩu. Gần một năm qua có thể xem là không thuận lợi cho công ty này trước việc đồng nội tệ giảm giá. Trước tiên, Phố Xinh phải đối mặt với chuyện giá nhập khẩu nguyên liệu tăng, trong khi giá xuất khẩu khó mà tăng được, do hợp đồng đã được ký từ trước. Khó khăn còn đến từ sức ép cạnh tranh với hàng Trung Quốc trên thị trường thế giới. Đó là chưa kể đến việc chi phí sản xuất và nhân lực cũng tăng cao. Phố Xinh buộc phải tăng hơn 60% lương và phụ cấp cho người lao động trong hơn một năm qua để có thể giữ chân nhân viên khi các đơn hàng xuất khẩu buộc phải hoàn thành đúng hạn. Trong lúc chờ một tín hiệu mới về tỉ giá, ông Nam, Phố Xinh, phải xoay xở bằng cách tiếp tục tích lũy ngoại tệ để thanh toán các đơn hàng nhập khẩu nguyên liệu, giữ giá xuất khẩu nhưng tăng thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm để giữ thế cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Và kết quả là ông Nam có thể sẽ phải chấp nhận mức lợi nhuận thấp hơn mong đợi.
  3. Câu chuyện của May Nhà Bè cũng không khác mấy so với Phố Xinh. Cùng với sự khan hiếm nguyên liệu bông trên thế giới do tác động của thời tiết, sự giảm giá của VND càng khiến cho bài toán giá nhập khẩu nguyên liệu của các doanh nghiệp may trở nên khó khăn hơn. Và giống như Phố Xinh, May Nhà Bè phải tăng thêm 15% chi phí lương do tác động trượt giá đồng tiền. Tuy nhiên, trong khi Phố Xinh chấp nhận lợi nhuận thấp thì ông Phạm Phú Cường, Tổng Giám đốc Công ty May Nhà Bè, lại cố gắng đàm phán với các bạn hàng xuất khẩu để tăng thêm phí gia công. Nhưng việc này không hề dễ dàng. Nhà Bè, cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam, chủ yếu vẫn làm gia công. Và ưu thế trong đàm phán của các doanh nghiệp gia công thường không nhiều. Phải chăng vì vậy mà sau nhiều nỗ lực đàm phán, ông Cường chỉ đạt được thỏa thuận tăng phí gia công khoảng 15%, trong khi ông dự tính ít nhất là 20% và mong đợi mức 40%. Tiếp đó, ông Cường còn nghĩ ra thêm nhiều cách khác. Ông cắt giảm chi phí năng lượng (giảm nửa tiếng đồng hồ mỗi ngày trên tổng số giờ hành chính để tiết kiệm điện năng,
  4. trong khi sản lượng vẫn đảm bảo không thay đổi), kiểm soát quy trình lao động chặt chẽ hơn. Kết quả là sau một năm thực hiện, May Nhà Bè đã tiết kiệm được 10 tỉ đồng. Rõ ràng, khả năng ứng phó của Phố Xinh và May Nhà Bè chỉ có thể tập trung ở khâu đầu vào và sản xuất, rất khó để có thể “chuyển giao” hệ quả của việc đồng tiền giảm giá lên giá bán. Bởi đối với doanh nghiệp trong những ngành có mức cạnh tranh cao, thị phần nhỏ, sản phẩm thay thế trên thị trường nhiều, việc “chuyển giao” chi phí sang người tiêu dùng bằng cách tăng giá bán là điều không dễ dàng. Trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu như Phố Xinh hay May Nhà Bè có nguồn thu ngoại tệ phần nào giúp cân bằng thiệt hại thì các doanh nghiệp chủ yếu bán hàng trong nước nhưng phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu còn khó khăn hơn. Và nếu họ không thể chống chọi thành công với bài toán chi phí do tỉ giá tăng, thị trường tiêu dùng có thể sẽ bị xáo trộn. Có thể lấy thêm trường hợp của Vinamilk làm ví dụ. Vinamilk hiện chiếm gần 75% thị trường sữa cả nước,
  5. trong lúc hơn 60% nguyên liệu sữa để chế biến thì phải nhập khẩu, chủ yếu từ New Zealand và Úc. Bắt đầu từ tháng 8.2010, khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỉ giá liên ngân hàng VND/USD tăng thêm 2,1% (từ 18.544 VND/USD lên 18.932), chi phí đầu vào của doanh nghiệp này cũng tăng theo. Để bù đắp chi phí, Vinamilk đã tăng giá khoảng 6% trên một số sản phẩm (các công ty sữa khác có mức tăng xấp xỉ 10%). Sữa Việt Nam, vì vậy, luôn bị xem là quá đắt so với thế giới. Bài toán tỉ giá đã buộc Vinamilk phải tính tới một giải pháp căn cơ hơn là chủ động nguồn nguyên vật liệu, trong đó có việc tăng cường nhập khẩu bò sữa thời gian qua. Tỉ giá tăng còn là nỗi nhức nhối của hàng loạt doanh nghiệp có khoản vay bằng ngoại tệ, đặc biệt là USD, kể cả trong ngắn hạn. Theo lý giải của ông Trần Quốc Mạnh, Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Sài Gòn (Sadaco), trước đây, khi lãi vay ngân hàng bằng VND tăng cao, các doanh nghiệp đã đổ xô sang vay USD. Sắp tới đây, khi các khoản vay đến hạn thanh toán, áp lực phải mua
  6. USD với giá cao hơn để trả nợ ngân hàng là điều khó tránh khỏi. Chẳng hạn, Công ty Truyền thông Số 1 (Hà Nội) từng vay một khoản ngoại tệ lớn trong ngắn hạn để trả cho nhà cung ứng nước ngoài. Ngay sau đó tỉ giá tăng đã tạo nên khoản lỗ chênh lệch tỉ giá đến 1,8 tỉ đồng. Điều này cũng xảy ra đối với rất nhiều công ty niêm yết trên cả 2 sàn HoSE và HNX như Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô, Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam, Vận tải Xăng dầu Vipco, Nhiệt điện Bà Rịa. Nhìn chung, theo nhận định của Công ty Chứng khoán SSI, các ngành bị tác động mạnh bởi tỉ giá do áp lực về nguyên liệu đầu vào tăng là sữa (80% nguyên liệu nhập khẩu), nhựa (100% hạt nhựa nhập khẩu), thép (do biến động giá thép thế giới). Riêng ngành xi măng bị tác động nặng nhất bởi tình trạng vay nợ bằng ngoại tệ. Nhiều doanh nghiệp xi măng có khoản vay bằng USD và EUR cao, nên nếu tỉ giá tăng sẽ hình thành khoản lỗ từ các khoản vay này. Tuy nhiên, vẫn theo SSI, nhìn một cách lạc quan hơn, việc tỉ giá tăng từ tháng 8 cũng có tác động tích cực đến một số
  7. ngành xuất khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh và khả năng tăng được giá bán như thủy sản, dược phẩm, sữa. Các doanh nghiệp vận tải biển cũng được hưởng lợi do có tỉ lệ doanh thu bằng ngoại tệ lớn (chiếm 70-100%). Như vậy, bức tranh VND giảm giá đang mang 2 màu tương phản rõ rệt. Đó là khoảng tối đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nhưng lại là điểm sáng cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ dồi dào. Vậy, câu hỏi đặt ra lúc này là làm thế nào để cân bằng quyền lợi giữa các bên, trước thực trạng VND đang được cho là bị định giá cao? Và Nhà nước, như một người mẹ, làm thế nào để san sẻ trách nhiệm đồng đều cho từng khu vực doanh nghiệp, để bên nào cũng cảm thấy công bằng? Giải pháp nào cho định giá VND? Trong khi doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau đang sống với tỉ giá với cảm xúc vui, buồn khác nhau thì không ít chuyên gia kinh tế cũng đã bắt tay nghiên cứu tác động của tỉ giá đến toàn bộ nền kinh tế. Đa số đều nhận định VND đang bị định giá cao và cho rằng: “VND nên được định giá thấp”.
  8. Một chuyên gia kinh tế cho rằng, với tỉ giá VND/USD là 19.500, NDT/USD là 6,93 và VND/NDT là 2.815 thì VND đang bị định giá cao hơn 60% so với NDT (trong khi NDT được định giá thấp hơn so với USD 30%), khiến doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hoàn toàn mất lợi thế về giá so với hàng Trung Quốc. Chuyên gia này nói: “VND được định giá thấp luôn có tác dụng tích cực đối với xuất khẩu, dù tỉ trọng nhập khẩu nguyên liệu đầu vào vẫn còn cao”. Ông còn bày tỏ thêm rằng, việc giảm giá VND lại giúp cải thiện khả năng trả nợ của Việt Nam, vì khi đó xuất khẩu có lợi sẽ giúp cải thiện cán cân ngoại thương. Tuy nhiên, nhìn sâu hơn, việc giảm giá VND chưa hẳn đã kích thích khu vực xuất khẩu tăng trưởng mạnh, đặc biệt là với nhóm doanh nghiệp có tỉ trọng nguyên liệu nhập khẩu cao. Trên thực tế, nhiều ngành xuất khẩu chủ chốt của quốc gia đang phải nhập khẩu một số lượng lớn nguồn nguyên vật liệu từ nước ngoài như dệt may, da giày (khoảng 70%); thủy sản (80%); gỗ (80%); dược phẩm (90%). Họ cũng là những doanh nghiệp chịu nhiều khoản nợ bằng ngoại tệ và
  9. có lượng dự trữ ngoại tệ ít ỏi. Suy cho cùng, chính nhà cung ứng nguyên liệu mới là người được hưởng lợi từ việc tỉ giá tăng, trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu có khác chi gia công, bán rẻ sức lao động và hưởng một khoản lợi tức ít ỏi trong chuỗi giá trị. Trong thời gian tới, dự báo VND sẽ tiếp tục chịu áp lực mất giá khi tình trạng thâm hụt thương mại vẫn chưa được cải thiện. Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tiếp tục giảm giá VND. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp sẽ buộc phải linh hoạt điều chỉnh cơ cấu vốn và tìm giải pháp thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Dù thế nào đi chăng nữa, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc đua với người láng giềng Trung Quốc sẽ còn khốc liệt chừng nào tỉ giá chưa tiến gần tới mức giá hợp lý hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1