intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI LÀM BÁO CỦA PHAN KHÔI

Chia sẻ: Mi Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

73
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lại Nguyên Ân Hội Nhà văn Việt Nam Các bản tiểu sử Phan Khôi (1887-1959) do thân nhân hoặc nhà nghiên cứu soạn thảo thường nêu một vài sự việc như Phan Khôi đi theo Phan Châu Trinh ra Hà Nội từ 1907 để tham gia công việc của Đông Kinh nghĩa thục và Đăng cổ tùng báo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI LÀM BÁO CỦA PHAN KHÔI

  1. ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI LÀM BÁO CỦA PHAN KHÔI Lại Nguyên Ân Hội Nhà văn Việt Nam Các bản tiểu sử Phan Khôi (1887-1959) do thân nhân hoặc nhà nghiên cứu soạn thảo thường nêu một vài sự việc như Phan Khôi đi theo Phan Châu Trinh ra Hà Nội từ 1907 để tham gia công việc của Đông Kinh nghĩa thục và Đăng cổ tùng báo. Tuy vậy, trên thực tế, phải sau đó mười năm, Phan Khôi mới bước vào nghề báo. Năm 1918, Phan Khôi bắt đầu viết cho tạp chí Nam phong với bút danh Chương Dân. Ở đây, ngòi bút Chương Dân bộc lộ tiềm năng của một cây bút viết cả chữ Hán lẫn chữ Việt, cả nghị luận, khảo luận lẫn sáng tác văn chương, tuy vậy, ngoài mục Nam âm thi thoại, tác giả chưa tỏ rõ được gì nhiều ở các bài mục khác.
  2. Chỉ hơn một năm sau, Phan Khôi rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho tờ Lục tỉnh tân văn. Ban đầu đăng sáng tác: hai bài ca Đưa chồng và Nhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là lính tòng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong. Nhưng những loạt bài đăng nhiều kỳ lại là thường thức xã hội hoặc khảo cứu ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (với những nội dung bài cho từng kỳ báo lần lượt là: ‒ Nước mẹ đẻ; ‒ Địa dư nước An Nam; ‒ Chính trị nước An Nam; ‒ Phong tục nước An Nam; ‒ Dân phải nộp thuế;...) và mục Ghi chép tiếng An Nam. Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn. Sau vài tháng, ông lại trở ra Hà Nội, cộng tác dịch Kinh Thánh Ki- tô giáo cho hội thánh Tin Lành, đồng thời cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, ‒ việc viết báo này rất ít hiệu quả. Vài năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, 1926-1927 ở Sài Gòn, không biết có viết cho tờ báo nào hay không; theo chính Phan Khôi, trong lời dẫn khi cho đăng bài thơ Chơi thuyền trên sông
  3. Tân Bình trên tuần báo Phụ nữ thời đàm số 3 (1.10.1933) thì, vào năm 1927, có thể là để tránh sự truy nã, Phan Khôi phải chạy xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn. Thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập tiếng Việt, cũng ít nhiều gắn với các tờ Quần báo hoặc Hoa kiều nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi, như chính lời ông được nữ ký giả Phan Thị Nga ghi lại: "Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam"(1). Những công trình biên khảo hồi 1954-75 ở Sài Gòn (của Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ) không nêu cụ thể bài vở Phan Khôi đăng Đông Pháp thời báo, có lẽ chỉ đơn giản do cách xuất hiện khá kín đáo của chính Phan Khôi: tất cả các bài đăng báo này, từ những
  4. bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII -XVIII, cả mục Nam âm thi thoại mà những bài đầu tiên từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-19, cả bài thơ Dân quạ đình công, v.v…, – tất cả, Phan Khôi đều ký tắt, có khi bằng K. hoặc Kh., nhưng thường khi bằng hai chữ C.D. – hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng trên Nam phong. Việc ký tắt kín đáo này hẳn có liên quan đến chính cái lý do đã khiến ông phải tạm lánh ít lâu xuống Cà Mau kể trên. Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy; Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là "cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII"; cạnh đó là những bài cũng phản bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928),
  5. nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt ở phương Đông, ở châu Á là phải "Âu hoá", phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà). Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ (Dân quạ đình công; Cái chết của con nhà nghèo), bình luận văn học (Cấm sách, sách cấm; Thi văn với thời đại; Văn chương và văn chương của nhà báo); khảo chứng (Cái dốt của triều Huế; Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: "Hà Nội chánh khí ca"); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài (Cái thế lực của nhà văn hào [nói về L. Tolstoy]; Hồ Thích với Quốc dân đảng; Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga); dịch thuật văn chương (dịch bài Quan về vườn, của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670]; dịch một số tác phẩm của Eroshenko (qua
  6. bản dịch chữ Hán của Lỗ Tấn); dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père (cũng qua một bản dịch chữ Hán) và cho đăng đều kỳ như một cuốn "tiểu thuyết chánh trị"). Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử nghiệm một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong mục Câu chuyện hằng ngày do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một "mặt nạ tác giả"(2) hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại "ảo" của nó là hệ quả kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung (1920-30). Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục "Câu chuyện hằng ngày" dưới bút danh Tân Việt (tôi đếm được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo). Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình chỉ từ 3.10.1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái
  7. ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, và sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về tiềm năng "giàu hơn Nam Kỳ" của vùng Tây Kỳ (Tây Nguyên ngày nay), về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v… Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò đáng kể của Phan Khôi(3). Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là
  8. một trong những người gắn bó đến mức được gọi là "đứng mũi chịu sào"(4) cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu họ Đào thường đảm nhận vai trò chủ bút thì họ Phan trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài ông viết đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2.5.1929 đến 21.4.1935 (chưa tính đến việc nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ). Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương bình đẳng nam nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết (Việt Nam phụ nữ liệt truyện; Tơ
  9. hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do; Chữ trinh: cái tiết với cái nết; Luận về phụ nữ tự sát; Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam); Nữ công; Hoàng đế với phụ nữ; Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình); Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ; Thân oan cho Võ Hậu; Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi; Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh; Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay; Lại nói về tam cang với ngũ luân; Tống nho với phụ nữ; Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu; Vấn đề cải cách cho phụ nữ; Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan; Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng; Thanh niên với tổ quốc; Câu chuyện lấy vợ đầm)… Phan Khôi đã nhân tính chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ (Về văn học của phụ nữ Việt Nam; Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh), và văn học về đề tài phụ nữ (Văn học với nữ tánh; Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh; Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra; Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh
  10. hoạt của phụ nữ nước ta, v.v…). Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim; Cảnh cáo các nhà học phiệt), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,… lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối và hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người em rể là Lê Dư trong chuyện nói chung chung "nước ta có quốc học", mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề
  11. lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến, Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ. Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v…), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với đủ loại công việc, từ việc đề xuất "viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng", "đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam", cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi), phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho,… Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong cho mình "vai ngự sử trên đàn văn". Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu "tạp trở" thông tin đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn từ
  12. 23.10 đến 30.11.1930, hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò "thày đồ" dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu ‒ phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre ‒ của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18.8 đến 29.12.1932, sau này Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37). Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại (Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật; Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký; Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan; Cái địa vị khôi hài trên đàn văn; Sử với tiểu thuyết; Lối văn học của bình dân), về văn chương và nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân; Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích; Cái bịnh ăn cắp của Tàu; Văn học chữ Hán của nước ta; Sách tiếu lâm đời xưa). Tất nhiên trong loạt bài vở đó ta không thể quên bài báo Một lối
  13. thơ mới trình chánh giữa làng thơ (đăng phụ trương Tết của Đông tây ở Hà Nội, sau đó đăng Phụ nữ tân văn 10.3.1932), bài báo đề xướng "thơ mới" được coi như tín hiệu phát động phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45). Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập. Lượng bài Phan Khôi viết và đăng tờ này có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm Những điều nghe thấy mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2.5.1930 đến ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục này. Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập – Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ của các giới tai mắt đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến dấu mặt im lặng…). Các bài viết tuy ký Trung
  14. Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến…) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng, chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ. Đối thủ của ngòi bút Phan Khôi lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Khi ông này trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường ngôn luận". Một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan
  15. đề Vấn đề cải cách trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt [= bắt đầu] từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước"; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ. Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được "Phụ trương văn chương", thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2.5.1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2.5.1931 đến 29.5.1933 ra được cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục nhỏ như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, "Giấy thừa mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam của Bùi Kỷ từ PTVC số 8 đến PTVC số 13), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện
  16. tượng như "đạo văn", hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá, v.v… Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Cũng trong những năm sống và viết báo tại Sài Gòn này, Phan Khôi còn đồng thời cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội. Trước hết là những bài viết có trọng lượng học thuật của ông đăng các báo trong Nam được không ít tờ báo ngoài Bắc như Ngọ báo, Đông tây, Thực nghiệp, v.v… đăng lại; thứ hai là loại bài ông viết riêng cho các báo ở Hà Nội. Đó, chẳng hạn là loạt bài trong mục Độc thư tùy bút đăng trên báo Phổ thông từ 2.9 đến 7.10.1930. Chủ bút Đông tây là Hoàng Tích Chu (1897-1933) đặc biệt ưa
  17. thích ngòi bút Phan Khôi, đưa đăng lại những bài viết tinh quái của Thông Reo (bài về "cái bót-phơi" dự đoán Phạm Quỳnh sẽ vào kinh làm bộ trưởng, bài so sánh cô Ba Trà với Nguyễn Văn Bá để trào lộng sự tiến hóa của những người nổi tiếng đất Sài Thành, v.v…), sau lần chủ nhiệm Đông tây vào Nam gặp gỡ đồng nghiệp, hồi cuối 1930, người ta bắt đầu thấy Phan Khôi có những bài viết riêng cho tờ báo này, khi ấy được coi như tờ báo của giới trẻ đất Bắc. Đó là loạt bài trích thư Nguyễn Pho kể chuyện ngành Trung Hoa học ở trường Đại học bên Pháp (Đông tây, 23.5; 30.5; 3.6.1931), tiếp đó là những bài về học thuật (Đôi điều nên biết về Nho giáo, ĐT, 26.8; 2.9; 5.9; 23.9; 30.9.1931), về việc trừng trị quan lại ăn hối lộ (ĐT, 21.10.1931; 28.11.1931), nhận xét về sự thiếu vệ sinh và văn hóa đô thị nói chung của người Việt (ĐT, 14.10.1931), bàn về quyền tự do ngôn luận (ĐT, 21.11.1931; 12.12.1931), đặc biệt là loạt bài tham gia luận bàn về "vấn đề quốc học" do những tranh cãi giữa Trịnh Đình Rư và Lê Dư khởi ra. Đây là cuộc tranh luận có quy mô rộng, thu hút chú ý của nhiều học giả khắp nơi, được nhiều tờ báo trong Nam ngoài Bắc
  18. đăng tải, song những cứ điểm của cuộc tranh luận này là ba tờ: Phụ nữ tân văn và Trung lập trong Nam, Đông tây ngoài Bắc. Phan Khôi tham gia cuộc tranh luận này chủ yếu bằng cách nêu phản đề (Luận về quốc học, ĐT, 12.8.1931; 15.8.1931; Nhân vấn đề quốc học, ĐT 24.10.1931; 7.11.1931; 14.11.1931; Bất điều đình, ĐT, 19.12.1931), v.v… Chính bài Một lối "thơ mới" trình chánh giữa làng thơ, Phan Khôi cũng đưa đăng lần đầu trên Tập văn mùa xuân, một phụ trương Tết (Nhâm Thân 1932) của báo Đông tây ở Hà Nội, hơn một tháng sau mới cho đăng lại trên Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn. Tháng 4 năm 1933, khi Phan Khôi từ Sài Gòn ra Hà Nội thì tờ Đông tây đã bị đóng cửa (sau số 222 ngày 25.7.1932), nhà báo Hoàng Tích Chu đã mất. Phan Khôi hầu như chỉ còn duy nhất một "cố nhân" là Thực nghiệp dân báo, lúc này bước vào năm thứ 14 nhưng đã đến hồi tàn tạ. Từ giữa tháng 5 năm ấy, ông bắt đầu tái xuất hiện trên tờ này, chủ yếu là trong vai Bướng Nhân của mục "Bướng Nhân nhật ký" (từ 25.5 đến 4.7.1933); tiếp đó, chừng như để đối phó với những thóc mách trong làng báo Hà
  19. Thành, ông bỏ mục cũ ấy lập mục mới "Chuyện dóc tổ", nhưng chỉ sau 2 kỳ (25.8; 26.8.1933) thì chấm dứt cộng tác với Thực nghiệp dân báo. Từ 17.9.1933, Phan Khôi bắt đầu xuất hiện trên tờ Phụ nữ thời đàm. Tờ này vốn ra mắt từ cuối 1930 như một nhật báo, thường bộc lộ quan niệm bảo thủ của giới nhà nho đất Bắc trên vấn đề phụ nữ; đến thời gian này, báo đang ở tình trạng ngắc ngoải. Nhận lời với ông bà Nguyễn Văn Đa, chủ nhân tờ này, Phan Khôi bắt tay cải tổ tờ báo, chuyển nó sang dạng tuần báo. Với tờ tuần báo Phụ nữ thời đàm, tập mới này, Phan Khôi có 22 tuần làm việc cật lực, cả trong vai trò chủ bút, cả trong vai trò cây viết chính. Một trong những điểm chủ yếu khi ông làm tờ "nữ báo" này là tờ báo đã trình ra một thái độ xã hội cấp tiến, khác hẳn thái độ bảo thủ của tờ báo cũ, nhất là trên vấn đề phụ nữ. Hầu như số nào cũng có một bài ngắn, ký Phan Khôi hoặc P.K., nêu một khía cạnh liên quan đến nữ giới: giảng giải về "ý nghĩa thật sự của vấn đề phụ nữ ở xứ ta" (PNTĐ, 17.9.1933), nêu các việc đáng quan
  20. tâm gắn với phụ nữ và trẻ em như: giáo dục tiểu học (PNTĐ, 1.10.1933), làm sách giáo khoa (PNTĐ, 8.10.1933), lập ấu trĩ viên (PNTĐ, 22.10.1933), khuyến khích phụ nữ học nghề thuốc (PNTĐ, 12.11.1933), cổ vũ phụ nữ chơi thể thao (PNTĐ, 24.12.1933), thậm chí đề xuất việc soạn sách giáo khoa riêng cho nữ sinh trong hệ thống trường nữ học (PNTĐ, 4.2.1934). Phan Khôi cho độc giả thấy, tờ "nữ báo" do ông chủ trì dứt khoát không hùa theo dư luận chế nhạo hay lên án "gái tân thời" (PNTĐ, 29.10.1933), không bài xích chuyện khiêu vũ (PNTĐ, 17.12.1933). Ở Phụ nữ thời đàm, tập mới, Phan Khôi tiếp tục công việc của ngòi bút bình luận thời sự với mục Dưới mắt chúng tôi; ông cũng không quên chọn dịch các sự tích nhân vật trong các truyện ký chữ Hán thời trước cho mục Chuyện cũ nước nhà. Nhưng điểm mới mẻ nổi bật ở ngòi bút ông thời kỳ này là các bài viết được gọi chung là "tiểu phê bình", từ "tiểu phê bình về nhân vật" đến "tiểu phê bình về phong tục", "tiểu phê bình về báo chí, sách vở". Đó là những trang viết sắc sảo mà hầu như chỉ cây bút từng trải, lọc lõi,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2