Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam - MS9 '
lượt xem 36
download
Quá trình đánh giá dự án được tiến hành từ tháng 12 năm 2009 và hoàn thành vào tháng 3 năm 2010. Vào tháng 11 năm 2009, Robert Spooner-Hart và cán bộ của FAVRI đã thăm các lớp huấn luyện nông dân (FFS) tại 6 tỉnh để gặp gỡ trao đổi với cán bộ chi cục BVTV, nông dân tham dự khóa học và thăm mô hình. Những hoạt động đó thực hiện để đánh giá kết quả và những kết quả này tác động như thế nào đến đầu ra của dự án. Kết quả này được thực hiện trước đó trong vụ huấn...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam - MS9 '
- Ministry of Agriculture & Rural Development BÁO CÁO TIẾN ĐỘ DỰ ÁN CARD 025/06VIE Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam MS9: TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
- Giới thiệu Quá trình đánh giá dự án được tiến hành từ tháng 12 năm 2009 và hoàn thành vào tháng 3 năm 2010. Vào tháng 11 năm 2009, Robert Spooner-Hart và cán bộ của FAVRI đã thăm các lớp huấn luyện nông dân (FFS) tại 6 tỉnh để gặp gỡ trao đổi với cán bộ chi cục BVTV, nông dân tham dự khóa học và thăm mô hình. Những hoạt động đó thực hiện để đánh giá kết quả và những kết quả này tác động như thế nào đến đầu ra của dự án. Kết quả này được thực hiện trước đó trong vụ huấn luyện nông dân đợt 1 và đào tạo tiểu giáo viên (TOT) vào cuối vụ FFS đầu tiên. Tháng 2-3 năm 2010, Robert Spooner-Hart, cùng với Tony Haigh (UWS) và Peter Hanson (AVRDC) đã đánh giá sự phát triển và hiện trạng sản xuất của giống rau lai đặc biệt là công ty Cổ phần giống cây trồng miền Nam và Viện Nghiên cứu Rau quả. Họ đã đi thăm miền Nam, cao nguyên và miền Bắc Việt Nam. Robert Spooner-Hart và cán bộ của FAVRI đã điều tra nông dân và cán bộ chi cục BVTV (SPPD) tại 4 tỉnh: 2 ở đồng bằng sông Hồng (Hải Phòng và Thái Bình) và 2 ở duyên hải miền Trung (Quảng Nam và Đà Nẵng). Trong tháng 6 năm 2007, Robert Spooner-Hart, Oleg Nicetic và cán bộ của FAVRI cùng với nhân viên SPPD tại 3 miền của Việt Nam: Đồng bằng Sông Hồng, (Hưng Yên và Vĩnh Phúc), duyên hải miền trung ( Quảng Nam và Đà Nẵng) và Lâm Đồng tiến hành điều tra cơ bản về giống và sản xuất cây giống. Tại mỗi tỉnh, bảng câu hỏi khảo sát được sử dụng để thu thập thông tin từ sản xuất giống, cây giống cà chua, dưa chuột, sử dụng phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của nông dân (PRA). Dữ liệu thu thập bao gồm các giống cây trồng sử dụng hiện nay, sâu bệnh chính, năng suất, chất lượng, tổng chi phí và hiệu quả. Ngoài ra, các kiến thức, kỹ năng, thái độ và thực tiễn của nông dân với thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trong sản xuất rau. Các hình thức phỏng vấn nông dân, là sự kết hợp của các câu hỏi trước đây hỏi trong cuộc điều tra cơ bản, cùng với quan điểm của họ trên kết quả dự án liên quan đến chính họ. Xem xét các hoạt động và tình trạng hiện tại của các hoạt động vào cuối dự án 1. Công ty Giống cây trồng Miền Nam Các thành viên của nhóm dự án đã gặp cán bộ của SSC trong tháng 12 năm 2009 và tháng hai năm 2010 và, cả hai lần gặp này đều thảo luận tiến bộ có liên quan đến xây 2
- dựng năng lực sản xuất hạt giống cà chua lai F1 và sự hiểu biết về GAP trong công ty cũng như các tiến bộ về đăng ký và cung cấp các giống cà chua kháng bệnh mới từ dự án. Hình ảnh hoạt động của SSC, xin vui lòng xem Hình 1. Nhóm cán bộ dự án cũng đi thăm 3 nơi của SSC như đã mô tả trong phần điều tra cơ bản cụ thể là Long An, Lâm Đồng và Hưng Yên, vào cuối tháng 2 năm 2010. Chất lượng của thí nghiệm đánh giá được đánh giá là rất tốt, và mô hình được cán bộ của SSC thực hiện với trình độ cao. Hai vấn đề được xác định là thiếu sót trong mô hình là không sử dụng giống cà chua ghép và không sử dụng các giống thương mại làm đối chứng mà chỉ so sánh giữa giống nghiên cứu với giống chưa thương mại. Đây không được coi là vấn đề lớn của SSC, vì đất thí nghiệm này trước đó đã không được sử dụng cho sản xuất cà chua, bệnh héo xanh vi khuẩn không là vấn đề. Tuy nhiên, đây sẽ là một vấn đề mà họ sẽ xem xét trong các thí nghiệm trong tương lai. Đã có 3 vụ thí nghiệm đánh giá của SSC trong thời gian thực hiện dự án. Dự án đã có thể xác định, thông qua các hoạt động SSC, hai giống lai F1 từ Trung tâm Rau Thế giới (AVRDC), WVCT2 và WVCT8, có được chứng minh là tốt như nhiều giống SSC hiện hành, tương đương với giống Savior (RRD và TP HCM) và Anna (Lâm Đồng), và đã được thị trường chấp nhận. Chúng có khả năng chống chịu tốt với xoăn vàng lá do virus TYLCV. Trong khi ở Lâm Đồng, các nhóm dự án kiểm tra các trang web sản xuất hạt giống lai. Một lần nữa, cán bộ SSC đã gây ấn tượng tốt về trình độ chuyên môn của họ. Chúng tôi có hỏi SSC về giá của giống cà chua mới của họ so với các giống như Savior (ở miền Nam) hoặc Anna (Lâm Đồng). Họ nói rằng giá hạt giống mà họ bán cho nông dân là 70.000 đồng (~ 3,50 USD) một gói hạt giống gam 5, so với 120.000 đồng (~ 6,00 USD) 1 gói Savior. Họ ước tính chi phí khoảng chừng 100-120 USD / kg để sản xuất hạt giống. Họ cũng không rõ lắm về thị phần đối với giống của họ. Họ sẽ bán cả hai hạt giống lai F1 và giống gốc ghép kháng héo vi khuẩn, và sẽ đề nghị sử dụng cây giống cà chua ghép tại vùng có bệnh. Công ty này khẳng định cam kết của mình để nộp đơn xin đăng ký ít nhất một trong những giống thông qua Bộ NN & PTNT, hy vọng vào tháng 12 năm 2010. Để đạt được mục tiêu này, SSC hiện đang (giữa 2010) tiến hành các thí nghiệm đánh giá cuối cùng với 2 giống để có hồ sơ cho đơn đăng ký nộp Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá, và thiết lập 10 mô hình trình diễn cho nông dân và người mua hạt giống ở miền 3
- Bắc Việt Nam, Lâm Đồng và đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, họ chỉ ra rằng chúng được tích hợp các gen kháng bệnh (đặc biệt là gen chống bệnh TYLCV- mục tiêu chính của dự án CARD 06/025) và mở ra một chương trình tạo giống cà chua cho Việt Nam. Không có gì phải nghi ngờ rằng đã có sự phát triển năng lực đáng kể trong việc đánh giá giống cà chua của SSC, tạo giống và sản xuất giống lai F1 trong thời gian dự án. Điều này được thể hiện rõ nét nhất ở ông Tuấn, người đã liên hệ chính với chúng tôi trong và là người đại diện SSC đến thăm Úc trong chuyến tham quan học tập. Công ty này cũng công nhận sự cần thiết phải phát triển năng lực trong đội ngũ nhân viên của họ, và trả lương rất cao cho một chuyên gia chọn tạo giống cà chua - ông Tăng Đức Hùng, người đã thăm AVRDC trong chuyến đào tạo về kỹ thuật tạo giống tiên tiến, chẳng hạn như sử dụng công nghệ sinh học phân tử, đánh giá dòng thuần, tạo giống chống bệnh quan trọng như vi khuẩn và sương mai. Khóa đào tạo này hiện đã được hoàn thành, và SSC đang hướng tới việc tạo ra những giống cà chua lai F1 mới kháng được nhiều bệnh cho Việt Nam. 3. Trung tâm Rau hoa khoai tây Đà Lạt (PVFC) Trong chuyến thăm của chúng tôi đển Lâm Đồng, nhóm dự án đã gặp điều phối viên dự án Tiến sĩ Phạm Xuân Tùng. Trong khi quan tâm chính của Tiến sĩ Phạm Xuân Tùng là sản xuất khoai tây, nhưng ông cũng đã rất hài lòng vì đến cuối dự án, một giống cà chua kháng bệnh sương mai và xoăn vàng lá do virus được phát triển. Ông ấy đã tiến hành thí nghiệm với các giống cà chua này 2 vụ đánh giá trong nhà lưới và ngoài đồng. Ông cho chúng tôi thấy thí nghiệm đánh giá giống do bà Hằng, một học viên cao học từ trường đại học Đà Lạt chịu tách nhiệm (Xem hình 1).. Chương trình tạo giống được bắt đầu với 36 tổ hợp lai, trong đó 16 tổ hợp đã được lựa chọn để đánh giá tiếp. Hiện nay còn 34 tổ hợp phục vụ cho thí nghiệm đánh giá. Thí nghiệm chọn tạo nhằm vào năng suất, chất lượng quả và khả năng kháng bệnh. Kết quả này đã không thuộc yêu cầu của dự án nhưng nó thể hiện việc tăng cường năng lực của PVFC và sự quan tâm phát triển các giống cà chua chất lượng tốt trong điều kiện Việt Nam. Nó cũng chứng tỏ kết quả vượt ra ngoài dự kiến ban đầu về giống cà chua chịu bệnh TYLCV, theo kinh nghiệm thực tế từ các hoạt động dự án (chỉ quan tâm đến giống cà chua chịu bệnh sương mai). Sự tăng cường năng lực còn thể hiện ở việc đào tạo học viên cao học về đánh giá 4
- giống cà chua chịu bệnh tại Việt Nam và AVRDC.UWS sẽ hỗ trợ tài chính cho bà Hằng để trang trải cho khóa đào tạo về chọn tạo về giống cà chua và đánh giá giống kháng bệnh sương mai vào Tháng 11 năm 2010. 4. Sản xuất cây giống Nhóm dự án cũng đã gặp Nguyễn Hồng Phong, huyện Đức Trọng - Lâm Đồng, chủ trang trại sản xuất cây giống rau, người hỗ trợ đắc lực trong dự án. Ông cung cấp các thông tin về trang trại, các trang thiết bị, mô hình phục vụ cho tập huấn TOT và hội thảo ở Lâm Đồng, cũng như sản xuất cây giống cà chua ghép cho FFS ở Lâm Đồng và, trong vụ thứ hai, đối với Đà Nẵng và Quảng Nam. Nhóm dự án đã rất ấn tượng khi thấy kinh doanh của ông Phong đã phát triển nhanh, trong thời gian chỉ hơn ba năm của dự án, trang trại đã mở rộng với công nghệ được cải thiện, mà còn sơ lưu giữ hồ và cải thiện việc khám sức khỏe cho công nhân. Tuy nhiên, rất khó để xác định được sự đóng góp của dự án đối với sự phát triển của trang trại là bao nhiêu. Chúng tôi thảo luận với ông Phong những gì ông đã đạt được từ sự tham gia của ông trong dự án. Ông nói rằng ông đã mở rộng quanheej của mình với các nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến nông, ông đã tăng nhận thức của mình về ngành sản xuất cà chua không chỉ ở Lâm Đồng. Ông cũng nói rằng các cuộc thảo luận về GAP, đặc biệt là thực tế thực hiện, đã giúp ông và vợ ông để cải thiện hồ sơ lưu giữ. Ông chưa thấy rõ ràng về việc thực hiện GAP, cấp chứng nhận GAP cho công ty của ông, vì ông là bán cây giống cho nông dân khác và chứng nhận không có vẻ có liên quan vào lúc này. Ông mời chúng tôi vào nhà của ông, ngôi nhà ông mới xây rất ấn tượng, và bày tỏ lòng biết ơn của mình vì đã được tham gia vào dự án. Không có gì nghi ngờ rằng kinh doanh của ông sẽ tiếp tục dẫn đầu các nhà sản xuất cây giống rau ở Lâm Đồng, và có thể ở Việt Nam, và rằng nó sẽ là một mô hình về các công nghệ sản xuất, kinh doanh và khả năng tổ chức tốt. Hình ảnh của cơ sở sản xuất của ông Phong được trình bày trong hình. 2. 5. Viện Nghiên cứu Rau quả (FAVRI) Nhóm nghiên cứu thẩm định dự án thăm FAVRI ngày 24, 25 và 26 tháng hai, , năm 2010. Chúng tôi nhận được bài trình bày của các hoạt động và đầu ra của FAVRI đối với dự án, và thăm nơi sản xuất hạt giống cà chua và dưa chuột lai. Sản xuất giống cà chua Chúng tôi đầu tiên xem xét đánh giá giống cà chua và sản xuất giống lai F1. Một số 5
- giống AVRDC (đặc biệt WVCT2 và WVCT8) sinh trưởng tốt khi so sánh với các giống đối chứng như P375 (Know you seed) và perfect (Syngenta Seeds). Trong vụ đầu tiên, FAVRI đã thu được năng suất tổng số, năng suất thương phẩm, nhưng trong vụ thứ hai, chỉ thu được năng suất tổng số do bệnh sương mai nặng. Vấn đề này, tương tự như báo cáo thí nghiệm đánh giá giống tại Lâm Đồng, thể hiện sự cần thiết phải có giống cà chua chống nhiều bệnh, đặc biệt mùa mưa. Vấn đề này có thể làm trầm trọng hơn (và như vậy cần biện pháp tốt hơn để quản lý nó) nếu lượng mưa theo mùa ở Việt Nam đang thay đổi là kết quả của biến đổi khí hậu. Nhóm nghiên cứu sau đó khu sản xuất hạt giống lai nơi mà Robert Spooner-Hart đã thăm trong tháng mười một. Mức độ bệnh nặng hơn (không phải bệnh TYLCV), đặc biệt là trên lá / trái do bệnh thán thư (nấm Alternaria) và bệnh sương mai. Điều này có lẽ là do thời tiết không thuận lợi và gần với vụ cà chua khác. Vấn đề này sẽ phải được khắc phục nếu FAVRI mong muốn sản xuất số lượng lớn hạt giống cà chua chất lượng cao để bán cho nông dân. Nó đã được thể hiện rõ qua mô hình sản xuất giống lai F1 trước đó, trong dự án FAVRI là cơ quan có chuyên môn cao trong sản xuất hạt giống cà chua lai. Tuy nhiên, cho đến nay họ đã không bán hạt giống cà chua, trong khi đó công ty SSC đã chứng minh rằng họ sẵn sàng và có khả năng thương mại hạt giống cà chua lai sản xuất được, đó là một kết quả tốt hơn so với năng lực của FAVRI. Hình ảnh của (giai đoạn đầu) của mô hình sản xuất cà chualai trong tháng mười một năm 2009 được trình bày trong Hình.3. Sản xuất hạt giống dưa chuột Nhóm nghiên cứu cũng xem xét giới thiệu tóm tắt về đánh giá giống dưa chuột và sản xuất giống lai F1. Thí nghiệm đánh giá được thực hiện bởi FAVRI trong 3 vụ, và nhắm đến giống ăn tươi không quan tâm đến giống cho chế biến. giống lai CV5 của FAVRI đã cho năng suất cao, thị trường chấp nhận và khả năng kháng bệnh, vượt trội so với các giống phổ biến như Amata (Chiatai Seed Co), cũng như hai giống của SSC, CUC777 và Cúc 6.110. Tuy nhiên, rằng những đánh giá trên chỉ được thực hiện tại miền Bắc Việt Nam, và CV5 đã không phù hợp với thị trường ở miền Nam Việt Nam (như kết quả đánh giá của tiến sĩ Vinh ở Củ Chi). CV5 đã được Bộ NN & PTNT 6
- công nhận là giống Quốc gia và sử dụng trong dự án. Một số đánh giá trước đã được thực hiện bởi FAVRI trước khi bắt đầu CARD 06/025. Kết quả sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất cao nó đã được chọn là một giống phục vụ cho nhiều thí nghiệm đánh giá rộng thực hiện như một phần của dự án hiện hành. Nhóm nghiên cứu sau đó đã thăm trang thiết bị sản xuất hạt giống tại FAVRI. Nhóm nghiên cứu đã được ấn tượng với các cơ sở, chất lượng của sản xuất cũng như xử lý sau thu hoạch (xem hình 3).. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, FAVRI đã có công nghệ hàn kín hạt giống dưa chuột lai trong gói có nhãn, trong khi lúc bắt đầu hạt thường được phân phối trong tứi nylon không nhãn mác. Ngoài ra, doanh số bán hàng của CV5 có cải thiện đáng kể trong thời gian của dự án, một phần do sự chiếm ưu thế trên chứng minh của giống này trong các thử nghiệm đánh giá và các thí nghiệm phục vụ lớp huấn luyện nông dân FFS trình diễn đó là một thành phần quan trọng của dự án.FAVRI bán được khoảng 50 kg hạt giống CV5 trong 12 tháng qua, và sẽ tăng ít nhất 20-25% trong năm tới.Sự thu hút nhiều nông dân này đã tạo điều kiện chắc chắn bởi tính chuyên nghiệp về bán sản phẩm này và cung cấp các lời khuyên và hỗ trợ từ cán bộ của FAVRI. Fig 1. Thí nghiệm đánh giá giống Thí nghiệm đánh giá và tạo giống cà chua lai của SSC tại Lâm Đồng 7
- Thí nghiệm đánh giá giống cà chua lai của SSC tại Hưng Yên Dr Tùng mô tả thí nghiệm đánh giá giống cà chua mới chọn tạo của mình tại Lâm Đồng với Dr.Peter Hanson (AVRDC) và Tony Haigh (UWS) 8
- Fig 2. Vườn cây giống của ông Phong tại Lâm Đồng Sản xuất cây cà chua giống Ghép cà chua Cây cà chua ghép Nông dân lựa chọn cây con từ những túi hàng gửi đi 9
- Fig.3. Sản xuất hạt lai tại FAVRI Khu sản xuất cà chua lai, FAVRI (tháng 11/ 2009) Công nghệ sản xuất cà chua lai tại Viện NCRQ với nhà tạo giống của dự án CARD, Ms Thuy (11/2009) Sản xuất hạt giống dưa chuột lai CV5 tại VNCRQ FAVRI, nhà tạo giống của dự án CARD, ThS. Hanh 10
- Sản xuất cây giống Khi bắt đầu dự án, chúng tôi dự kiến rằng CIDHOP sẽ là công ty thương mại hạt giống cho FAVRI, thông qua các dự án, trở thành một nhà sản xuất cây giống cà chua chính cho vùng đồng bằng sông Hồng. CIDHOP có phương tiện cho sản xuất cây giống cà chua và đã bán được vài ngàn cây giống trong năm trước. Ngay sau khi bắt đầu dự án, CIDHOP được tái cấu trúc để chủ yếu tập trung vào cây cảnh và trồng hoa. Điều này có nghĩa rằng các cây giống cà chua thành phần sản xuất kinh doanh của mình lại trở lại về cho FAVRI. Là một phần của dự án, FFS có xây dựng mô hình, FAVRI cung cấp cây cà chua ghép và cây giống cà chua không ghép cho tất cả các FFS của 6 tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng, cũng như Quảng Nam và Đà Nẵng trong vụ đầu tiên. Những gốc ghép được FAVRI sử dụng cho tất cả cà chua ghép là cà tím. Các cây giống đã được vận chuyển đến vùng duyên hải miền Trung bằng xe lửa, và đến trong tình trạng kém. Những vết ghép giữa cây cà chua và cây cà tìm đã không được như những cây trồng ngay ở đồng bằng sông Hồng. Đến vụ thứ hai chúng tôi đã quyết định lấy cây giống cà chua từ trang trại của ông Phong ở Lâm Đồng (xem thông tin ở trên) chuyển cho miền trung. Trong trường hợp này, các cây con được ghép trên gốc ghép cà chua kháng bệnh, đã đến trong tình trạng rất tốt, và tốt hơn cả giống cà chua không ghép. Điều này chứng tỏ hai điều: • các công nghệ ghép cà tím thích hợp cho vùng đồng bằng sông Hồng không thích hợp vùng duyên hải miền Trung hoặc Tây Nguyên. • Cung cấp cây giống cà chua chất lượng bị hạn chế bởi khoảng cách và phương tiện vận tải. Ngay cả những dịch vụ vận chuyển cây giống thương mại cho các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng xa FAVRI, chẳng hạn như Thái Bình, Hải Phòng, làm cho chúng tôi đặt ra câu hỏi liệu có nên có một chiến lược tốt hơn là để thiết lập cơ sở sản xuất cây ghép ngay tại địa phương và để đào tạo nhân viên SPPD và nông dân kỹ thuật này để tự sản xuất. Như được mô tả trong nghiên cứu cơ bản, Quảng Nam và Đà Nẵng không có người chuyên sản xuất cây giống tại địa phương (nông dân tự sản xuất riêng cho họ) và ở đồng bằng sông Hồng, đã có vài nhà sản xuất cây giống với công 11
- suất nhỏ, và không có khả năng sản xuất cây giống ghép. Như vậy chỉ ở Lâm Đồng mới thực sự chuyên nghiệp và thương mại sản xuất cây giống rau, và nhiều người trong số này đã có thể sản xuất cà chua ghép. Hai cuộc hội thảo về ngành sản xuất hạt giống và cây giống rau, một trong những tổ chức tại Hà Nội và một tại Đà Lạt, nhằm nâng cao năng lực trong các nhà sản xuất cây giống, đặc biệt liên quan đến GAP. Cả hai cuộc hội thảo bao gồm cà chua ghép trong chương trình, và cả hai đều chú trọng đến việc cung cấp kinh nghiệm trong hoạt động này. Tuy nhiên, các bằng chứng cho thấy rằng ít nhất tại thời điểm chúng tôi xem xét, chỉ có một nhà sản xuất cây giống (ở Vĩnh Phúc) đã nhận được công nghệ này với sự hỗ trợ từ FAVRI. Điều này hạn chế sự phát triển sản xuất cà chua ghép yêu cầu đầu tư ở một số cơ sở hạ tầng, như các khu vực thích hợp cho ghép và nhà ghép bảo vệ cho cây sau ghép, cũng như kỹ năng cho công nhân lành nghề. Sau cuộc thảo luận với cán bộ của FAVRI và PPD (Ông Ngô Tiến Dũng), chúng tôi cho rằng tập huấn và cung cấp trang thiết bị cho các cơ sở ở vùng đồng bằng sông Hồng và Trung bộ sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ chất lượng và số lượng cây với mức giá hợp lý với nông dân. Nó đã được rõ ràng từ các thông tin phản hồi của nông dân, và nhân viên SPPD (xem sau này trong báo cáo này) mà nông dân đã rất quan tâm thông qua việc sử dụng cây giống cà chua ghép. Chúng tôi nhận được cơ hội để thực hiện sáng kiến này thông qua đơn xin Dự án Tăng cường CARD kết quả đầu ra và kết quả, bao gồm cung cấp các trang thiết bị cho ghép ở cấp tỉnh và đào tạo nhân viên SPPD và nông dân trong sản xuất và quản lý cà chua ghép. Mặc dù, như đã làm rõ ràng rằng FAVRI đã cải thiện đáng kể năng lực của mình trong sản xuất và phân phối cây cà chua ghép trong dự án. Số lượng cây giống của họ trong năm qua được khoảng 2.000.000 ghép, tăng đáng kể so với sản xuất của CIDHOP nêu ra từ đầu của dự án, và đang bắt đầu tiếp cận cách sản xuất của một số trang trại tại Lâm Đồng (nhưng không có nghĩa là sản xuất như của ông Phong) . Cây giống cà chua ghép được bán với giá 850 đồng / cây, so với khoảng 300 đồng đối với cây không ghép. Phần lớn các cây giống ghép được sản xuất cho trái vụ. Có 1 hạn chế nhỏ, thu hoạch quả của cây cà chua ghép lên cà tím bị chậm lại vài tuần so với cà chua không ghép, Trong điều kiện thời tiết tốt và khu vực trồng cà chua không có nguồn bệnh héo xanh vi khuẩn, trong trường hợp này sẽ được thảo luận thêm trong phần báo cáo về mô hình 12
- FFS, mô hình và phỏng vấn cán bộ SPPD Các thành viên của nhóm dự án đến thăm các lớp FFS và mô hình tại tất cả các tỉnh ít nhất một lần trong thời gian dự án, trừ Lâm Đồng. Trong trường hợp này, Tiến sĩ Tùng từ PVFC (một cộng tác viên chủ chốt trong dự án) đã đến thăm và báo cáo kết quả. Có tổng cộng 36 FFS (16 dưa chuột và cà chua 20) tiến hành qua 2 vụ (18 mỗi vụ) trong 9 tỉnh: Thái Bình (2 cà chua, dưa chuột 2), Hải Phòng (2 cà chua, dưa chuột 2), Hà Nam (2 dưa chuột, 2 cà chua), Hà Nội (2 cà chua, dưa chuột 2), Vĩnh Phúc (2 cà chua, dưa chuột 2), Hưng Yên (2 cà chua, dưa chuột 2), Quảng Nam (2 cà chua, dưa chuột 2), Đà Nẵng (2 cà chua, dưa chuột 2) và Lâm Đồng (4 cà chua), với tổng số 860 người nông dân tham gia. Nông dân tham gia các FFS khác nhau 20-30, và có sự khác biệt về tỷ lệ nam/nữ giữa các tỉnh, khoảng 58% tổng số người tham gia là phụ nữ. Mô hình trình diễn là một phần quan trọng của tất cả các FFS, và nó đã được điều hành bởi các chi cục BVTV (SPPD) ở mỗi tỉnh. Trong khi có sự khác nhau (như thời gian, khí hậu và các giống địa phương là khác nhau), tất cả các mô hình cà chua trình diễn nói chung bao gồm các giống của AVRDC giống lai F1 kháng TYLCV (WVCT2 và / hoặc WVCT8-tốt nhất thực hiện trong các thí nghiệm đánh giá). Ở hầu hết các tỉnh, các "giống địa phương" đã được sử dụng là các giống lai F1 (ví dụ như Lâm Đồng-Anna, đồng bằng sông Hồng, Perfect hoặc P375) trong khi ở Quảng Nam và Đà Nẵng họ đã sử dụng giống thụ phấn tự do. Đối với dưa chuột, giống lai F1 (CV5 và CV11) của FAVRI kháng sương mai đã được sử dụng cùng với các giống địa phương (Amata, Trang Nông 20, và giống thụ phấn tự do. Cán bộ SPPD và nông dân sử dụng các mô hình trình diễn như một dụng cụ học tập và giảng dạy (ví dụ như các giai đoạn của tăng trưởng của cây, sâu bệnh hại và các quan sát phát hiện bệnh, cắt tỉa, vv) và được so sánh giống như năng suất, chất lượng quả và khả năng kháng bệnh. Ngoài ra để so sánh các giống khác nhau, tất cả các mô hình trình diễn đều so sánh giữa cà chua ghép và không ghép. FAVRI sản xuất và cung cấp cây giống cà chua ghép (trên cà tím kháng bệnh) cho tất cả các lớp FFS trình diễn tại đồng bằng sông Hồng, Đà Nẵng và Quảng Nam trong vụ đầu tiên. Ông Phong, sản xuất cây giống rau ở Lâm Đồng, đã sản xuất cây giống cà chua ghép (ghép trên gốc cà chua kháng bệnh) cho FFS ở Lâm Đồng, Đà Nẵng và Quảng Nam trong vụ thứ hai. Cây giống ghép và không ghép được so sánh với nhau về năng suất, chất lượng quả, chống chịu bệnh 13
- truyền qua đất hoặc ngập úng, và các yếu tố khác (như sự khác biệt về thời gian thu hoạch, quản lý vv) Trong đầu tháng Ba, 2010, Robert Spooner-Hart và cán bộ của FAVRI (Tiến sĩ Trần Khắc Thi, Phạm Mỹ Linh, Phạm Văn Dùng, Lê Thị Thủy và Ngô Thị Hạnh) thăm 5 tỉnh như Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam để xem xét việc thực hiện FFS và xây dựng mô hình. Hưng Yên và Đà Nẵng vẫn mô hình trình diễn để xem, bởi vì FFS vụ thứ 2 tại các tỉnh này bắt đầu chậm. Nhóm cán bộ dự án đã gặp cán bộ SPPD, và thảo luận quan điểm của họ về việc thực hiện các FFS, và về lợi ích của dự án cho họ. Họ cũng chọn ra 4 người nông dân tham gia lớp học để trả lời các câu hỏi của chúng tôi. Phần dưới đây là báo cáo về kết quả cuộc thảo luận với nhân viên SPPD, và một phần tiếp theo báo cáo về các cuộc điều tra nông dân. Các bảng câu hỏi khảo sát các cán bộ SPPD được trình bày trong Phụ lục 1. Hưng Yên Chúng tôi đến thăm mô hình trình diễn FFS thứ hai tại huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên, mô hình vẫn còn, vì tại đây FFS (với 20 nông dân) bắt từ 15 tháng 1 năm 2010. mô hình trình diễn với diện tích 1.200 m2. Trong mô hình trình diễn này, đã có so sánh giữa cà chua có ghép và không ghép, với giống WVCT8, bởi vì giống này được xem là tốt nhất trong vụ đầu tiên. Với cà chua không ghép, đã có 50% cây trồng bị mất với 20% chết do ngập úng và 30% tiếp tục chết vì héo xanh vi khuẩn, đó cũng là hậu quả của trận mưa lớn. Dự kiến năng suất của khu cà chua ghép thu được khoảng 54 tấn/ha, nhưng cà chua không ghép chỉ thu được dưới 20 tấn/ha. Trong khi bệnh héo xanh vi khuẩn là nguy hiểm nhất thì bệnh đốm mắt cua (Pseudomonas syringae), cũng có mặt và không kém nguy hiểm. Không có dấu hiệu nào của bệnh vi rút (TYLCV hoặc TSWV), và bệnh sương mai. Cả hai mô hình đã được xử lý bằng loại thuốc diệt nấm Xanized Cymoxanil + Mancozeb 72WP WP (loại thuốc diệt nấm), và với các loại thuốc diệt nấm kháng sinh / diệt khuẩn Kasuran (Kasugamycin) cho bệnh đốm mắt cua. Chỉ phun PSO 1 lần để trừ sâu (đặc biệt là bọ phấn). Trong mô hình này không có sự khác nhau về lượng thuốc trừ sâu. Trong (chính) FFS vụ trước, mô hình cà chua ghép đã đạt được năng suất tổng số đáng ngạc nhiên 100 tấn/ha, với cà chua không ghép năng suất 76 tấn / ha. Tuy nhiên, 14
- nông dân báo cáo rằng cà chua ghép phát triển châm hơn so với cà chua không ghép. Thời gian thu hoạch chậm khoảng 2 tuần trong, và kích thước quả hơi nhỏ hơn. Giá của quả cà chua ghép khoảng 4.000 - 5.000 đồng / kg. Điều này có nghĩa là trong chính vụ sử dụng cà chua ghép không hiệu quả mà chỉ nên sử dụng cà chua ghép vào trái vụ. Chúng tôi đến thăm một gia đình làm đầu mối thu gom cà chua ở Hưng Yên, gần mô hình. Ông đã nhận được hỗ trợ từ cả hai FAVRI và SPPD, và báo cáo rằng ông đã có được lợi ích từ dự án. Ông nay đã có 300 nông dân cung cấp cà chua cho mình, và trong Tháng Mười Một-Tháng Mười Hai, mùa thu hoạch chính, ông thu mua được khoảng 100 tấn cà chua mỗi ngày. Cà chua được phân loại, và nông dân được trả giá cà chua dựa vào chất lượng cũng như khối lượng quả. Quả cà chua tươi được bán trong vòng 3 ngày kể từ ngày đóng gói, với toàn bộ quả có kích cỡ nhỏ không bán tươi được thì bán để nhà máy đóng lọ thủy tinh, thông qua một hợp tác với nhà máy chế biến dưa chuột. Ông bán quả tươi tại Hưng Yên, Hải Phòng và Hà Nội và còn xuất khẩu cà chua chế biến sang Nga, Mông Cổ và Đức. Chúng tôi thảo luận với anh ta về việc thay đổi thị trường cà chua. Ông giải thích rằng vài tuần trước đây, ông chỉ bán được giá 1.000 đồng / kg, nhưng bây giờ nó đã được gần 4.000 đồng/kg. Điều này giải thích tại sao giá nông dân rất quan tâm đến việc thời gian cho thu quả vào mùa chính. Ông cũng cung cấp thuốc trừ sâu và các vật tư khác cho nông dân. Chúng tôi thảo luận với ông ta về việc cung cấp giống và cây giống, và ông đã cho thấy được sựu quan tâm của mình trong khi làm điều đó. FAVRI hợp đồng với anh trong vụ tới. Hình ảnh về cơ sở của ông được trình bày trong hình 4.) Thái Bình Thái Bình là một trong những tỉnh được chọn để phỏng vấn nông dân và cán bộ SPPD. Chúng tôi gặp với ông Phí Ngọc Hùng, trưởng nhóm rau trong SPPD, và Bà Trần Thị Huệ, một trong những giảng viên FFS. Họ báo cáo rằng FFS và mô hình rất tốt. Đối với cà chua, họ báo cáo rằng nông dân rất quan tâm đến cà chua ghép, cắt tỉa và chăm sóc cây trồng, quản lý sâu bệnh hại và sử dụng an toàn thuốc BVTV. Họ cũng cho biết rằng những người nông dân thích học về GAP, GAP đã được nhấn mạnh rõ ràng về việc lưu giữ hồ sơ, lựa chọn và sử dụng thuốc trừ sâu an toàn. Họ đã báo cáo 15
- một vài cái khác so với nông dân ở Hưng Yên-mà nông dân sử dụng cây giống ghép có thể trồng vào đất úng trong vụ sớm và do đó có thể có được giá cao hơn. Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra rằng, dựa trên mô hình trình diễn, thời gian cho thu hoạch của cà chua ghép được lâu hơn, ít nhất vài tuần và có thể bán được giá cao hơn. Họ cũng nói rằng bây giờ người nông dân có thể tự tin để trồng cà chua ghép ở trái vụ và bán quả cà chua của họ với giá cao. Việc cây cà chua ghép phát triển chậm hơn cây không ghép có thể là do của đường kính thân của cà chua nhỏ hơn của gốc ghép cà tím (xem hình 4) Khi được hỏi về những gì mà nông dân thích áp dụng từ kết quả của dự án thì họ nói họ thích ghép cà chua. Tuy nhiên, nông dân muốn học ghép cho chính họ thì cần phải đào tạo. Họ cho rằng họ có thể học được tại FAVRI. Khi chúng tôi hỏi làm thế nào có thể sản xuất được cà chua ghép tại Thái Bình, họ gợi ý rằng họ sẽ khuyến khích người nông dân để thành lập một hợp tác và xây dựng một nhà lưới để sản xuất cây giống ghép. Chúng tôi cũng thảo luận về các lựa chọn của SPPD tổ chức nông dân sản xuất cây giống ghép và vận chuyển từ FAVRI. Đối với dưa chuột, các cán bộ SPPD báo cáo rằng nông dân đã rất hài lòng về chất lượng và năng suất của giống CV5 FAVRI. Họ chỉ ra rằng giống CV5 cho năng suất tăng gấp đôi từ 30 tấn / ha đến 60 tấn / ha so với giống địa phương hoặc giống F1 khác. Họ cũng báo cáo rằng họ sử dụng ít thuốc trừ sâu hơn (4 cf 5) vì sức giống CV5 có khả năng chống chịu bệnh tốt hơn. Quả của giống CV5được thị trường chấp nhận và bán được giá cao hơn so với các giống dưa chuột khác. Các lợi ích khác là nông dân tăng được hiểu biết về sử dụng thuốc BVTV an toàn, đúng đối tượng sâu bệnh hại. Một lần nữa, họ đã không báo cáo bất kỳ khía cạnh tiêu cực nào của FFS. Khi được hỏi là nông dân thích sử dụng giống dưa chuột nào của dự án thì họ nói rằng họ thích sử dụng giống CV5. Hải Phòng Chúng tôi gặp cán bộ SPPD là bà Nguyễn Thị Lan và Phạm Thị Hoa và thảo luận xem FFS đã diễn ra như thế nào. Họ báo cáo rằng nông dân trong lớp FFS ở xã Tân Tiến - huyện An Dương đã rất hạnh phúc. FFS tại Hải Phòng được đa phần là nữ tham gia (85% cho cà chua và 100% cho dưa chuột phản ánh được đánh giá trước đây của 16
- chúng tôi về giới tính của nông dân trong sản xuất nông nghiệp, và được báo cáo trong nghiên cứu cơ bản). Các cán bộ SPPD báo rằng các xã đã nhận được lợi ích từ FFS vượt ra ngoài mục tiêu của cây cà chua và dưa chuột và kinh nghiệm của họ, đặc biệt là trong IPDM và sử dụng an toàn thuốc trừ sâu đã đạt được thông qua FFS, đã hình thành một sáng kiến thành lập một khu vực sản xuất rau an toàn quy mô 20 ha. Họ báo cáo rằng sản xuất cà chua ghép trong mô hình thu được năng suất 100 tấn / ha, còn cà chua không ghép thì mất 100% do bệnh héo vi khuẩn. Trong vụ trước, năng suất cà chua ghép cao hơn 40% ( 55 - 78 tấn / ha) cà chua không ghép. Họ phàn nàn, sau khi nông dân tham dự FFS đầu tiên đã muốn sử dụng cà chua ghép vào trang trại của mình, họ đã đặt mua cây giống cho 3 ha, nhưng họ đã nhận được số cây chỉ đủ cho 1 ha. Họ cho rằng SPPD nên đóng một vai trò quan trọng trong việc phối hợp để đảm bảo rằng đơn đặt hàng của họ được đáp ứng đầy đủ trong tương lai. Chúng tôi cũng thảo luận khả năng của bản thân người nông dân tự ghép cà chua cho mình, nhưng chúng tôi nhận ra những trở ngại, trong đó nông dân không được đào tạo đầy đủ và không được hỗ trợ cơ sở hạ tầng. Nhân viên nghĩ rằng họ có thể giúp một nhà lưới ghép cây. Đối với dưa chuột, các cán bộ SPPD báo cáo rằng nông dân đã rất hài lòng với FFS. Họ cũng báo cáo rằng trong mô hình trình diễn, CV5 có năng suất cao hơn khoảng 50% (20 tấn / ha cf> 30 tấn / ha) so với năng suất của giống thụ phấn tự do của nông dân trong mô hình. CV5 đã có thời gian cho thu hoạch dài hơn 7-10 ngày, mặc dù thời điểm bắt đầu thu hoạch được giống hệt nhau. Ngoài ra, thuốc trừ sâu ít sử dụng cho CV5 ít hơn. Trong vụ FFS thứ 2, sử dụng thuộc BVTV 2-3 lần so với 4-5 lần của giống đối chứng. Tuy nhiên, có một vấn đề, ban đầu thị trường tại Hải Phòng không chấp nhận loại quả của giống CV5, vì vẻ bề ngoài và hương vị khác so với giống địa phương. Tuy nhiên, sau đó thị trường đã chấp nhận và đã mở rộng vào siêu thị. Vào thời điểm đó chúng tôi đến (đầu tháng ba) nông dân đã bán được 10.000 đồng / kg, vì thời điểm này nguồn cung bị khan hiếm. Vào thời điểm này giá bán thấp hơn 1000 đồng so với giống dưa chuột địa phương. Các nhân viên SPPD chỉ ra rằng CV5 sẽ có thể được sản xuất ở trái vụ, các giống khác rất khó phát triển do bị bệnh hại nhiều đặc biệt là sương mai và phấn trắng. 17
- Chúng tôi sau đó đã gặp chủ tịch xã, Nguyễn Văn Hinh. Ông cảm ơn chúng tôi về những việc mà dự án đã dành cho, đặc biệt là nông dân được tiếp xúc với FAVRI, với công nghệ "cà chua ghép", và cho các lý thuyết và thực hành sản xuất rau an toàn trong FFS. Ông khẳng định rằng các nông dân đã rất hài lòng với các hoạt động FFS, và đặc biệt đối với khả năng của họ để phát triển (ghép) cà chua trong trái vụ hoặc vụ sớm, giúp họ bán được giá cao hơn. Về giống cà chua, ông báo cáo rằng từ mô hình trình diễn, nó đã chỉ ra rằng các giống cà chua mà người nông dân đã sử dụng trước đó không thích hợp cho sản xuất tại Hải Phòng, và ông sẽ khuyến khích nông dân trồng giống cà chua của AVRDC – giống WVCT2. Chúng tôi tiếp tục thảo luận về sáng kiến phát triển một cơ sở sản xuất rau an toàn. Ông nói với chúng tôi rằng đó là ý định của hợp tác xã phát triển lên đến 60 ha "Rau sach an toàn" vào cuối năm 2012, và quyết định này một phần dựa trên các kết quả tích cực của dự án CARD. Sau đó chúng tôi thăm một số địa phương các xã xung quanh Hải Phòng không liên quan đến FFS, nhưng đang phát triển cà chua hoặc dưa chuột. Mức độ thiệt hại cây trồng, đặc biệt là cà chua, rất nhiều ruộng cà chua bị tàn phá và chúng tôi ghi nhận tổn thất là do không sử dụng cà chua ghép (xem hình. 5). Hy vọng rằng, sự thành công của các xã được tham gia FFS, và SPPD sẽ hỗ trợ để công nghệ này được phát triển rộng rãi hơn Đà Nẵng Ở đây chúng tôi đã gặp cán bộ SPPD, giám đốc Phạm Hồng Vân, và giảng viên Lê Mỹ và Lê Năm và thảo luận xem FFS diễn ra như thế nào. Họ báo cáo rằng cả nhân viên và nông dân rất hài lòng về kết quả của dự án, đặc biệt là trong vụ thứ hai. Họ thảo luận vấn đề với chất lượng cây giống cà chua ghép kém do vận chuyển từ FAVRI trong vụ đầu tiên, nhưng chất lượng của các cây con từ Lâm Đồng trong vụ thứ hai rất tốt. Nói chung, cây giống ghép tốt hơn nhiều so với cây không ghép, nhưng trong vụ đầu tiên, họ chậm tổ chức FFS hơn sau khi trồng cây. Sự khác biệt về năng suất được ước tính khoảng 25% (36 cf 45 tấn / ha), nhưng cán bộ SPPD chỉ ra rằng những khác biệt này sẽ nhiều hơn với cây giống chất lượng cao và điều kiện thời tiết bất lợi hơn. Các giống WVCT8 của AVRDC sinh trưởng tốt hơn so với giống BOM về năng suất và thị trường chấp nhận. Không có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh trên lá và hoa quả (đặc biệt các bệnh virus) giữa hai giống.. Các cán bộ cho rằng nông dân rất thích được áp dụng công nghệ ghép, nhưng sẽ tiếp tục sử dụng giống BOM. Họ 18
- trao đổi với chúng tôi về cách thức đào tạo công nghệ ghép tại địa phương, vì Lâm Đồng là quá xa, vận chuyển sẽ khó khăn không thường xuyên và kịp thời. Chúng tôi thăm mô hình trình diễn dưa chuột phục vụ FFS (xem Hình. 4). Khi FFS đã bị chậm lại vì mưa lớn và lũ lụt, các giống đang vào thời kỳ ra trái. Chúng tôi thảo luận việc thực hiện 2 FFS với nhân viên SPPD, và quan sát các loại cây trồng và cùng lựa chọn nông dân tham gia FFS để phỏng vấn. Giống CV5 của FAVRI sinh trưởng tốt hơn nhiều so với giống địa phương và thu hoạch bắt đầu 45 ngày sau khi trồng, tương tự các giống khác. Trong FFS trước đó, các giống FAVRI cũng vượt trội so với nhiều giống của địa phương, năng suất đạt gần 60 tấn/ha so với 36 tấn/ha của giống địa phương. CV5 cũng được chấp nhận trên thị trường, Chúng tôi được cho biết rằng người tiêu dùng Đà Nẵng thích những loại dưa chuột quả lớn, lên đến 500g (đặc trưng của CV5). Nông dân có thể bán dưa chuột tại thị trường của Đà Nẵng và có thể bán trực tiếp cho Metro, với giá 2.500 đồng / kg. Sau đó giám đốc đã thảo luận về một dự án lớn bắt đầu vào năm 2011, mà dự án đó được ảnh hưởng bởi kết quả của dự án CARD. Dự án lớn đó có mức đầu tư 60 tỷ đồng ($ US4.5 M) dự án được tài trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á sẽ tập trung vào phát triển 5 ha nhà kính và 40 ha sản xuất rau an toàn ngoài đồng. Nhà kính sẽ sản xuất có dùng đất (không thủy canh), và một trong những cây trồng chủ yếu sẽ được phát triển là cà chua. Cây trồng khác sẽ được trồng là dưa chuột. Hiện nay Đà Nẵng chỉ sản xuất được 10% nhu cầu rau của thành phố, và phần còn lại phải nhập khẩu. Do đó, dự án này, nhằm mục đích bán sản phẩm của mình tại thị trường địa phương ở Đà Nẵng, và cũng có thể vào Metro. Ông đã thảo luận về tầm quan trọng của việc áp dụng công nghệ ghép ngay từ đầu của dự án mới này. Ông cũng bày tỏ sự cần thiết phải sử dụng giống dưa chuột kháng bệnh. Đào tạo IPM và công nghệ thích hợp là một phần của dự án, và sẽ cần phải được đào tạo về GAP để đảm bảo cung cấp rau cho Metro. Chúng tôi đã thảo luận về vai trò có thể của FAVRI và một số các đối tác dự án khác có thể tham gia trong tương lai, và chúng tôi lên kế hoạch cho TS. Phạm Mỹ Linh đến làm việc tại Đà Nẵng sau này trong năm 2010. Quảng Nam Tại Quảng Nam chúng tôi đã gặp gỡ cán bộ SPPD Phạm Đình Tĩnh, Phạm Thị Thu 19
- Thủy, Phạm Xắn, Trần Thị Bích và Trần Út và thảo luận về FFS đã triển khai. Họ báo cáo với chúng tôi rằng cả họ và những người nông dân đã rất hài lòng với kết quả của FFS cho cả cà chua và dưa chuột. Đối với cà chua, lợi ích chính được sử dụng công nghệ ghép. Trong xã nơi đã tiến hành FFS, Phường Trường Xuân huyện Tam Kỳ, nông dân đã không thể phát triển cà chua trong 10 năm qua, vì héo xanh vi khuẩn. Lớp FFS là lần đầu tiên trồng cà chua đã được thử lại ở đó. Như với Đà Nẵng, các nhân viên cũng báo cáo vấn đề với cây giống cà chua ghép vụ đầu tiên lấy từ FAVRI nhưng mức độ ít hơn so với Đà Nẵng. Điều này là do họ đã trồng hai lần (họ giâm lại trong vườn ươm sau đó mới đem trồng ra ngoài đồng). Như với Đà Nẵng, các giống OP như BOM không tốt bằng giống lai của AVRDC trong mô hình ở cả 2 FFS (khoảng 42 tấn / ha), và hầu hết nông dân cho rằng quả cà chua giống BOM luôn được thị trường chấp nhận. Tuy nhiên một số nông dân ưa thích loại quả nhỏ như của WVCT8 và họ muốn thử nghiệm trong trang trại của mình. Hiện tại họ có thể bán quả cà chua giống BOM với giá 6.000 đồng / kg, nhưng giá của WVCT8 không ổn định, rõ ràng. Các nhân viên chỉ ra rằng hầu hết nông dân trong FFS muốn sử dụng cây giống cà chua ghép, đặc biệt trong trái vụ nhưng ngọn ghép phải là giống BOM và các chi phí cho cây giống ghép không được quá cao. Ngân sách dự án được thanh toán cho việc sản xuất và vận chuyển cây con từ ông Phong. Chi phí cho cây giống ghép từ ông Phong (450 đồng), và nông dân ở Quảng Nam nói chung sản xuất cây giống riêng cho mình sẽ giảmchi phí tới mức tối thiểu. Đối với dưa chuột, người nông dân ưa thích giống Trang Nông 133. Nó sinh trưởng tốt ở cả hai vụ (năng suất đạt khoảng 30 tấn / ha, tương tự với CV5) và thị trường đã chấp nhận. Trái của CV5 là quá lớn cho thị trường địa phương (mặc dù trái to đang được ưa thích ở Đà Nẵng). Trái của giống Trang Nông được bán với giá 5000-6000 đồng / kg. Các nhân viên SPPD cũng thảo luận với chúng tôi về việc có thể đào tạo nông dân sản xuất mướp đắng vì lợi ích của nông dân. Chúng tôi đã nói rằng đây không phải là đối tượng của dự án. Dưa chuột và cà chua là một số loại cây trồng có lợi nhất để phát triển ở Quảng Nam, do đó, SPPD hy vọng rằng người nông dân sẽ thu được kết quả tốt từ dự án. Họ cũng bày tỏ lòng biết ơn về lớp đào tạo sản xuất rau an toàn, mặc dù có một khu sản xuất 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Quy trình nông nghiệp an toàn GAP ... chìa khóa thành công cho rau quả tươi Việt Nam "
7 p | 128 | 26
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Thiết lập vườn ươm và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng cây giống mắcca và xây dựng những mô hình trồng Mắcca tại 03 tỉnh miền bắc việt nam - MS2 '
11 p | 177 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ TRỒNG CỎ, CHẾ BIẾN, DỰ TRỮ THỨC ĂN CHO DÊ TRONG CÁC HỘ DỰ ÁN - PHẦN 1 "
48 p | 132 | 23
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu để tăng thu nhập cho nông dân và bảo vệ môi trường - MS7 '
73 p | 133 | 22
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng chiến lược nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi - MS10 '
14 p | 111 | 21
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng chiến lược nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi giá trị nông nghiệp: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi '
94 p | 110 | 20
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: TĂNG CƯỜNG KỸ NĂNG VÀ CẢI TIẾN CÔNG NGHỆ CHO CÁC XƯỞNG XẺ QUY MÔ NHỎ Ở VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM ' MS6
9 p | 121 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Nghiên cứu tham dò khả năng trồng cà chua, dựa chuột dựa trên giá cụ thể trong nhà màng Polyethylene tại Lâm Đồng "
3 p | 126 | 14
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam ' MS6
16 p | 110 | 13
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng chiến lược nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi ' Ms5
9 p | 111 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS7 "
10 p | 106 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Xây dựng chiến lược nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi " MS7
13 p | 105 | 9
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Tạo giống cá chép (Cyprinus carpio L.) chất lượng cao Phục vụ nuôi cá quy mô nhỏ - MS8 '
9 p | 83 | 8
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Xây dựng biện pháp nuôi tốt cho cá Tra ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam ' MS6
14 p | 98 | 7
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS4 Thiết lập và thực hành hệ thống quản lý theo dõi dữ liệu tại trang trại "
8 p | 88 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS10 "
10 p | 85 | 5
-
Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Tăng cường năng lực của cán bộ khuyến nông trong việc đánh giá những mặt hạn chế của đất để sản xuất bền vững qua việc sử dụng hệ thống các quyết định hỗ trợ SCAMP '
8 p | 60 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn