E-learning trong giảng dạy đại học ở Việt Nam trước xu thế của cách mạng công nghiệp 4.0
lượt xem 5
download
Bài viết mô tả khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và E –learning, ưu điểm khi triển khai giảng dạy E – learning ở các trường đại học, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển phương pháp giảng dạy ở các trường đại học tại Việt Nam trước xu thế của cách mạng 4.0.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: E-learning trong giảng dạy đại học ở Việt Nam trước xu thế của cách mạng công nghiệp 4.0
- E – LEARNING TRONG GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM TRƯỚC XU THẾ CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 NCS. Lê Thị Thanh Trà Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương Tóm tắt Cùng với sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, việc xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đại, xây dựng các nội dung giảng dạy trực tuyến được phát triển theo hướng ngày càng tiếp cận gần hơn với người học. Người học có thể khai thác nội dung học tập trực tuyến từ thiết bị di động, hay học tập trong mô hình trường đại học ảo…Học tập trực tuyến và xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đang được quan tâm chú ý và đưa vào triển khai trong nhiều trường đại học ở Việt Nam với phạm vi, mức độ khác nhau. E –learning là phương pháp giảng dạy có những yếu tố tiếp cần gần nhất với cuộc cách mạng 4.0. Chính vì vậy, trong bài viết này tác giả đã mô tả khái quát về cuộc các mạng công nghiệp 4.0 và E –learning, ưu điểm khi triển khai giảng dạy E – learning ở các trường đại học, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển phương pháp giảng dạy ở các trường đại học tại Việt Nam trước xu thế của cách mạng 4.0. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, E – LEARNING, giảng dạy. Đặt vấn đề Trường đại học là nơi dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh. Cần định vị cụ thể cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự thay đổi về quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo nói chung và đổi mới theo hướng giáo dục 4.0 nói riêng. Việc tìm kiếm một phương pháp giảng dạy mới để nâng cao chất lượng giáo dục đại học trước sự đột phá của cách mạng 4.0 là một điều trăn trở của những con người quan tâm tới sự nghiệp giáo dục. Phát triển chương trình giáo dục tương thích với xã hội trong xu thế hiện nay là việc làm cấp bách đối với các trường đại học. Nội dung 1. Vài nét về cuộc cách mạng công nghiệp và E – learning. Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử [6] Nói đến cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay đổi lớn lao mà nó mang lại trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế…. Nhìn lại lịch sử, con người đã trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn. Mỗi cuộc cách mạng đều đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự thay đổi này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Nhất từ khoảng năm 1784 sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hoá sản xuất. Cuộc CMCN lần thứ Nhất được bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước. Phát minh này của James Watt, được công bố vào khoảng năm 1775, đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ nh đến châu Âu và Hoa ỳ. Cuộc CMCN đầu 87
- tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Cuộc CMCN lần thứ nhất đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Để phục vụ cho cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, chương trình giáo dục được phát triển trên cơ sở cung cấp càng nhiều kiến thức càng tốt [6]. - Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra, sử dụng năng lượng điện để tạo nên nền sản xuất quy mô lớn. Cuộc CMCN lần thứ Hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và đặc biệt là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa. Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển 100 năm của các lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở kỹ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hoá 3 cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần tuý, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 này, chương trình giáo dục lấy mục tiêu làm cơ sở để phát triển, xác định trên 3 lĩnh vực: kiến thức, kỹ năng và thái độ[6]. - Cuộc CMCN lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hoá sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cuộc CMCN lần thứ 3 được thúc đẩy nhờ Cách mạng H&CN hiện đại. Trong giai đoạn này chương trình giáo dục lấy năng lực làm gốc[6]. - Cuộc CMCN lần thứ 4 (The Fourth Industrial Revolution) đang được hình thành trên nền tảng của CMCN lần thứ 3, đó là cuộc cách mạng số, đã bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ trước. Cuộc cách mạng này có đặc trưng là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của Cuộc CMCN lần thứ 4, đã bắt đầu vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ này và được xây dựng dựa trên cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến nhỏ và mạnh hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo. Các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng dụng trong xã hội. Nhờ công nghệ I, người máy làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở con người càng già càng yếu đi. So với các phương pháp giáo dục của các thế kỷ trước, cách mạng công nghiệp 4.0 chú trọng đến phương pháp giáo dục “cá thế”, “ lấy người học làm trung tâm”. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh mẽ và toàn diện đến giáo dục và đào tạo, sự liên 88
- kết giữa các lĩnh vực lý – sinh, cơ – điện tử - sinh, hình thành những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt những ngành nghề liên quan đến sự tương tác giữa con người với máy. hái niệm E-Learning sẽ trở thành xu hướng trong hoạt động giảng dạy ở các trường đại học. E – learning E-Learning (viết tắt của từ Electronic Learning) là thuật ngữ khá mới mẻ. Hiểu theo nghĩa rộng, E-Learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), đặc biệt là công nghệ thông tin. Hiện nay, theo các quan điểm và dưới các hình thức khác nhau có rất nhiều cách hiểu về E-Learning. Sau đây là một số định nghĩa E-Learning đặc trưng nhất: – E-Learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập (William Horton). – E-Learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (Compare Infobase Inc). – E-Learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lí sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục (M SIE Center). Theo quan điểm hiện đại, E-Learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Internet, Intranet,… trong đó nội dung học có thể thu được từ các website, đĩa CD, băng video, audio… thông qua một máy tính hay TV; người dạy và người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như : e-mail, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video… Có hai hình thức giao tiếp giữa người dạy và người học : giao tiếp đồng bộ (Synchronous) và giao tiếp không đồng bộ ( synchronous). Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó có nhiều người truy cập mạng tại cùng một thời điểm và trao đổi thông tin trực tiếp với nhau như: thảo luận trực tuyến, hội thảo video, nghe đài phát sóng trực tiếp, xem tivi phát sóng trực tiếp… Giao tiếp không đồng bộ là hình thức mà những người giao tiếp không nhất thiết phải truy cập mạng tại cùng một thời điểm, ví dụ : các khoá tự học qua Internet, CD-ROM, e-mail, diễn đàn. Đặc trưng của kiểu học này là giảng viên phải chuẩn bị tài liệu khoá học trước khi khoá học diễn ra. Học viên được tự do chọn lựa thời gian tham gia khoá học. Ưu điểm của E – learning trong dạy học [7] - E-Learning làm biến đổi cách học cũng như vai trò của người học, người học đóng vai trò trung tâm và chủ động của quá trình đào tạo, có thể học mọi lúc, mọi nơi nhờ có phương tiện trợ giúp việc học. - Người học có thể học theo thời gian biểu cá nhân, với nhịp độ tuỳ theo khả năng và có thể chọn các nội dung học, do đó nó sẽ mở rộng đối tượng đào tạo rất nhiều. Tuy không thể hoàn toàn thay thế được phương thức đào tạo truyền thống, E-Learning cho phép giải quyết một vấn đề nan giải trong lĩnh vực giáo dục đó là nhu cầu đào tạo của người lao động và số lượng sinh viên tăng lên quá tải so với khả năng của các cơ sở đào tạo. - E-Learning sẽ có sức lôi cuốn rất nhiều người học kể cả những người trước đây chưa bao giờ bị hấp dẫn bởi lối giáo dục kiểu cũ và rất phù hợp với hoàn cảnh của những người đang đi làm nhưng vẫn muốn nâng cao trình độ. 89
- - Các chương trình đào tạo từ xa trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phong phú về giao diện, sử dụng rất nhiều hiệu ứng đa phương tiện như âm thanh, hình ảnh, hình ảnh động ba chiều, kĩ xảo hoạt hình,… có độ tương tác cao giữa người sử dụng và chương trình, đàm thoại trực tiếp qua mạng. Điều này đem đến cho học viên sự thú vị, say mê trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như hiệu quả trong học tập. - E-Learning cho phép học viên làm chủ hoàn toàn quá trình học của bản thân, từ thời gian, lượng kiến thức cần học cũng như thứ tự học các bài, đặc biệt là cho phép tra cứu trực tuyến những kiến thức có liên quan đến bài học một cách tức thời, duyệt lại những phần đã học một cách nhanh chóng, tự do trao đổi mới những người cùng học hoặc giáo viên ngay trong quá trình học, những điều mà theo cách học truyền thống là không thể hoặc đòi hỏi chi phí quá cao. Tuy vậy, hiện nay, E-Learning chưa có thể thay thế hoàn toàn phương pháp giảng dạy truyền thống bởi các lí do sau đây: – Phương pháp dạy học truyền thống vẫn sẽ phải là phương thức chủ yếu và phổ biến bởi phù hợp với tất cả các người học và gắn liền với mỗi người học. Với cách học truyền thống, người học cảm thấy an toàn hơn khi được nghe giảng trực tiếp, được giải quyết vấn đề trực tiếp với giáo viên, phù hợp với nhiều đối tượng học viên khác nhau. Đối với những học viên không tự giác, không có thói quen tự làm việc hay chủ động làm việc thì cách học truyền thống ít nhiều cũng có tác động đến họ khi họ được học trực tiếp với giáo viên trên lớp. Giáo viên cũng có thể quan sát được thái độ học tập và khả năng học tập của mỗi học viên qua tiếp xúc trực tiếp. Trong khi đó, mô hình đào tạo trực tuyến không phải phù hợp với tất cả mọi người, nó chỉ phát huy hiệu quả khi người học có nhu cầu, có tính độc lập và tự giác cao. – Đối với bài học, không phải bất kì nội dung học nào cũng dễ dàng chuyển đổi sang E-Learning, có rất nhiều môn học, ngành học phần nội dung có tính thực hành, tính thực tế cao thì khó có thể dùng E-Learning để giảng dạy, ví dụ: các ngành liên quan đến chế tạo, y khoa, múa, nhạc, hội hoạ…; nhưng đối với những môn học thiên về rèn luyện kĩ năng và hoạt động theo quy trình, có sự thay đổi nhanh về nội dung học tập, có yêu cầu cập nhật kịp thời, sẽ là những nội dung thích hợp của E-Learning. E-Learning hiện nay và trong tương lai gần vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn cách học truyền thống, mà cần phải có sự kết hợp với nhau để đem lại kết quả tốt nhất cho quá trình dạy – học. Một khoá học sử dụng thành công phương pháp dạy học E-Learning đòi hỏi người dạy phải biết kết hợp cả hai phương pháp: dạy học E-Learning và dạy học truyền thống để đem lại hiệu quả cao nhất cho người học. 2. E-learning trong giảng dạy ở Việt Nam Trên thực tế, việc học trực tuyến đã không còn mới mẻ ở các nước trên thế giới. Song ở Việt Nam, nó mới chỉ bắt đầu phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết nối internet băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới tất cả các trường học. Sự hữu ích, tiện lợi của E-learning thì đã rõ nhưng để đạt được thành công, các cấp quản lý cần có những quyết sách hợp lý. CNTT đối với giáo dục Việt Nam phát triển mạnh mẽ khi bước vào thế kỉ 21. Chỉ thị 58 – CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nêu rõ “Đẩy mạnh công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, các ngành học. 90
- Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt, tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối mạng internet tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo”. Thực hiện Chỉ thị số 29/2001/CT-BGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo về việc tăng cường giảng dạy, đạo tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 - 2005 và Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong giai đoạn ngành giáo dục 2008 – 2012, trong những năm qua, hạ tầng CNTT trong ngành giáo dục được đầu tư mạnh mẽ với việc hoàn thành “mạng giáo dục Edunet” năm 2010 (chương trình hợp tác giữa Bộ giáo dục và đào tạo với tập đoàn viên thông quân đội viettel), kết nối Internet băng thông rộng đến tất cả các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã trang bị hạ tầng CNTT, thiết bị dạy học hiện đại và từng bước triển khai E-Learning. Một số khóa học trực tuyến, dạy học qua mạng được mở ra. Chủ trương của Bộ giáo dục và Đào tạo trong giai đoạn tới là tích cực triển khai các hoạt động xây dựng một xã hội học tập mà ở đó mọi công dân (từ THPT, SV, các tầng lớp người lao động…) đều có cơ hội được học tập, bất cứ lúc nào (any time), bất cứ nới đâu (any where) và học tập suốt đời (life long learning). Để thực hiện được mục tiêu trên, E-Learning có một vai trò chủ đạo trong việc tạo ra một môi trường học tập ảo. Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai E – Learning. Một số đơn vị đã bước đầu triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan: Đại học công nghệ - Đại học quốc Gia Hà Nội, Viên CNTT – ĐHQGHN, Đại học Bách hoa Hà Nội, ĐHQG TPHCM, Học viện Bưu chính viễn thông, Đại học Sư phạm Hà Nội… Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tung ra thị trường một số sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy nhiên khi triển khai giảng dạy E – Learning ở Việt Nam gặp phải một số khó khăn. Một là, về xây dựng nguồn tài nguyên bài giảng: Để soạn bài giảng E-Learning có chất lượng đòi hỏi tốn nhiều công sức của giảng viên. Hiện nay chế độ hỗ trợ chưa phù hợp với công sức bỏ ra để soạn bài giảng E- Learning, vì vậy chưa khuyến khích được giảng viên. Đời sống của giảng viên gặp nhiều khó khăn, áp lực thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục… hậu quả là giảng viên không có thời gian đầu tư cho E-Learning. Nhiều giảng viên giỏi về chuyên môn và khả năng sư phạm, sử dụng phần công nghệ (ghi hình, thu âm, sử dụng phần mềm) còn hạn chế nên chưa phát huy được đội ngũ này. Hai là, về phía người học: Học tập theo phương pháp E-Learning đòi hỏi người học phải có tinh thần tự học, do ảnh hưởng của cách học thụ động truyền thống, tâm lí học phải có thầy (không thầy đố mày làm nên), nội dung quá tải tại trường… dẫn đến việc tham gia học E-Learning chưa trở thành động lực học tập. Nhiều sinh viên nghèo, nhất là ở vùng sâu vùng xa, chưa thể trang bị máy vi tính kết nối Internet, nhiều thông tin trên mạng Internet dẫn đến gia đình lo lắng khi con em mình vào mạng cũng là lí do hạn chế E-Learning. Ba là, về cơ sở vật chất: Đòi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang, xây dựng Website trường học và Website E-Learning hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả năng của Web sẽ gây lãng phí. 91
- Bốn là, về nhân lực phục vụ Website E – Learning: Cần có cán bộ chuyên trách phục vụ sự hoạt động của hệ thống E-Learning. Tuy nhiên, theo quy định hiện tại chưa có cơ hế hoạt động này ở các trường. 3. Một số giải pháp phát triển E – learning trong giảng dạy tại một số trường đại học ở Việt Nam Để phát huy những ưu điểm của E – learning và khắc phục những khó khăn, tác giả đưa ra một số giải pháp kiến nghị sau: Một là, Tập huấn, bồi dưỡng năng lực dạy học qua E-learning cho GV Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng năng lực dạy học qua E-learning, đảm bảo mỗi GV có thể thực hành và ứng dụng trong thực tiễn dạy học môn học của mình đảm nhiệm giảng dạy. Qua đó giúp giảng viên nâng cao năng lực thiết kế, sắp xếp, tổ chức, giám sát, đánh giá các hoạt động học tập, thể hiện ở các kỹ năng: - ác định mục tiêu, nội dung cần phát triển cho người học; - Thiết kế các hoạt động hướng dẫn học tập cụ thể trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; - Tổ chức cho SV thực hiện các nhiệm vụ học tập, hướng dẫn cách thức hoàn thành, đề ra yêu cầu về sản phẩm hoạt động; - Tổ chức tương tác thường xuyên giữa GV–SV, SV–SV thông qua diễn đàn trực tuyến, e-mail; - Sử dụng các công cụ công nghệ thông tin và truyền thông giám sát, hỗ trợ thường xuyên trong quá trình SV thực hiện nhiệm vụ học tập; - Thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập với tiêu chí cụ thể; - Nhận xét, đánh giá kết quả tự họccủa SV; - Rút kinh nghiệm thường xuyên, cải tiến việc tổ chức hoạt động, đảm bảo năng lực tự học được tạo điều kiện phát triển tốt nhất… Hai là, Tập huấn, bồi dưỡng năng lực tự học qua E-learning cho SV SV vừa là đối tượng, vừa là chủ thể tự phát triển. Các hoạt động của SV giữ vai trò quyết định đến sự phát triển năng lực tự học ở bản thân họ, do đó tính tự giác, tích cực, chủ động luôn phải được người học phát huy cao độ. Điều đó thể hiện trong các nội dung: - Nhận nhiệm vụ, nghiên cứu yêu cầu học tập đề ra từ GV, xác định những cái đã biết, cái chưa biết để đề ra phương hướng giải quyết; - Lên kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ tự học, tìm kiếm tài liệu in hoặc các tài liệu điện tử có sẵn trong dữ liệu học tập trực tuyến hay các website khác; - Thường xuyên tham gia hệ thống học tập trực tuyến để trao đổi, chia sẻ với GV và các thành viên khác về nội dung học tập; - Chuyển sản phẩm học tập của mình vào kho dữ liệu điện tử; - Tự đánh giá và đánh giá chéo kết quả học tập của mình và SV khác trên cơ sở các câu hỏi, bài tập tự kiểm tra, đánh giá có sẵn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy một trong những khó khăn của SV trong học tập với E-learning là khả năng sử dụng công nghệ chưa tốt. Hạn chế này gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình tiếp cận các hỗ trợ từ GV thông qua hệ thống các phương tiện công nghệ, đặc biệt là website. Biện pháp cần thiết là nhà trường,GV phải 92
- dành thời gian tập huấn SV sử dụng website sau khi chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất và con người trong phát triển năng lực tự học qua E-learning. Tập huấn cho SV tập trung vào hướng dẫn cụ thể cách thức khai thác hiệu quả website tự học và tổ chức thực hành. Ba là, Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về E-learning phù hợp với thực tiễn đối vởi đội ngũ giáo viên, sinh viên, trường đại học, người lao động, doanh nghiệp tham gia đào tạo; hoàn thiện các cơ chế chính sách về phân bổ và sử dụng tài chính trong lĩnh vực giáo dục. Đầu tư trang thiết bị, hỗ trợ kinh phí, đào tạo, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm sử dụng công nghệ mới cho đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại nhất như có phương pháp, kỹ năng, khả năng ứng dụng CNTT vào dạy học, thiết kế bài giảng điện tò đạt chất lượng tốt, có khả năng sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại và quan trọng hơn cả là có năng lực tự học, tự nghiên cứu khoa học. Trong môi trường 4.0, phương pháp đào tạo cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở lấy người học làm trung tâm, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và truyền đạt bài giảng. Cùng với đó là sự đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra theo hướng đáp ứng năng lực làm việc và tính sáng tạo của sinh viên. Bốn là, Nhà nước và các trường đại học cần đầu tư cơ sở kỹ thuật hiện đại, đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu của CMCN 4.0 như: đường truyền Internet tốc độ cao, điện toán đám mây, máy tính, mạng nội bộ, phần mềm trí tuệ nhân tạo, phần mềm phục vụ E- learning, website, thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến, phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hoá, hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu công nghệ, phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý đào tạo. Hướng dẫn nline hóa nhà trường học bao gồm cả nline về dạy học và nline về quản lý, điều hành tác nghiệp và hỗ trợ giảng viên, sinh viên. Kết luận: Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có giáo dục - đào tạo. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục – đào tạo sẽ là nhân tố sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Hơn nữa, việc học tập không chỉ bó gọn trong việc học phổ thông, học đại học mà là học suốt đời. E-Learning chính là một trong những phương pháp giảng dạy tiếp cận gần nhất với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sự ra đời của E-Learning như là một hình thức học tập mới đã mang đến cho người học một môi trường học tập hiệu quả với tinh thần tự giác và tích cực. Phương pháp giảng dạy này đã được nhiều trường đại học ở Việt Nam áp dụng, tuy nhiên còn gặp phải những khó khăn, vì vậy, cần có những giải pháp hiệu quả để triển khai rộng rãi phương pháp giảng dạy này đáp ứng xu thế mới của thời đại. 93
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chỉ thị 55/2008/CTBGDĐT “Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008- 2012”. 2. Horton, W., Horton, K.: E-learning tools andtechnologies. Indianapolis: Wiley, (2003). 3. Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang (2011), E-learning vàứng dụng trong dạy và học. Trường Đại học Sưphạm Hà Nội. 4. Trịnh Văn Biều (2012), Một số vấn đề về đào tạo trựctuyến (e-learning), Tạp chí hoa học ĐHSPTPHCM. 5. Trung tâm Thông tin thư viện – Viện khoa học Giáo dục Việt Nam (2017), Thông tin chuyên đề: Giáo dục Việt nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. 6. https://vi.wikipedia.org/wiki/cach_mang_cong_nghiep 7. http://huc.edu.vn/e-learning-phuong-phap-day-va-hoc-hieu-qua-trong-thoi-dai-cong- nghe-so-1457-vi.htm 94
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sử dụng E-learning trong dạy học theo dự án cho học phần quản trị dự án đầu tư
7 p | 69 | 12
-
Áp dụng mô hình lớp học đảo ngược trong giảng dạy học phần tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Đại học Thủ đô Hà Nội hiện nay
8 p | 74 | 10
-
Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Lý luận chính trị cho sinh viên hệ đào tạo trực tuyến trong cách mạng công nghiệp 4.0
6 p | 44 | 9
-
Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Khoa học lý luận chính trị trong đào tạo E-Learning đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
5 p | 50 | 9
-
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập ở Trường Đại học Y Hà Nội
6 p | 60 | 8
-
Từ lecturer đến commentator - sự chuyển đổi vai trò của giảng viên trong đào tạo trực tuyến
6 p | 29 | 6
-
Ứng dụng Office 365 để nâng cao hiệu quả dạy và học trong môi trường học tập E-Learning
6 p | 30 | 5
-
E-Learning – phương thức đào tạo trực tuyến trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 một số trải nghiệm cá nhân khi tham gia giảng dạy E-Learning với tổ hợp công nghệ - giáo dục Topica
8 p | 30 | 4
-
Thư viện đại học và hoạt động thông tin trong môi trường học thuật số
8 p | 33 | 4
-
Đổi mới hình thức đào tạo từ xa – nhìn từ thực tiễn của hình thức đào tạo từ xa truyền thống chuyên ngành Luật tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân
9 p | 39 | 3
-
Triển khai hệ thống hỗ trợ học tập Elearning tại Trường Đại học Thủ Dầu Một
8 p | 4 | 2
-
Ứng dụng e-learning trong giảng dạy Vật lí đại cương theo giải pháp CDIO tại Đại học Bách khoa Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh
6 p | 43 | 2
-
Thuận lợi và khó khăn khi triển khai sử dụng E-learning trong giảng dạy
7 p | 54 | 2
-
Sử dụng E-learning trong hoạt động giảng dạy cho sinh viên thực tập toàn thời gian tại doanh nghiệp ở trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
6 p | 43 | 2
-
Ứng dụng hồ sơ điện tử trong đánh giá dạy và học trên nền tảng số
7 p | 3 | 2
-
Một số vấn đề dạy và học trên hệ thống E-Learning trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
7 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn