intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 2

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 2 gồm các nội dung chính như sau: Đảng bộ Hoàng Su Phì lãnh đạo nhân dân trong huyện tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (4/1965 - 4/1975); đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì trong thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc (1975 - 1985); đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì thực hiện đường lối đổi mới của đảng (1986 - 2017). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 2

  1. CHƯƠNG IV ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC HUYỆN HOÀNG SU PHÌ TRONG THỜI KỲ THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1985) I. TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ (1975 - 1978) Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Đất nước hoàn toàn thống nhất, từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau được nối liền một dải, cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Song, ngay sau đó biết bao khó khăn, thử thách đối với dân tộc ta. Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh. Miền Bắc bị tàn phá nặng nề, cơ cấu kinh tế mất cân đối do phải tập trung cho sự nghiệp bảo vệ và giải phóng đất nước. Khoa học và kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nhỏ. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 -1980), nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân, tăng cường nội lực cách mạng tạo tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo. Ngày 27/12/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về bỏ cấp khu, mở rộng quy mô cấp tỉnh cho phù hợp với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì phấn khởi hào hứng trong phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, xây dựng quê hương giàu đẹp và trở thành một pháo đài vững mạnh toàn diện góp phần bảo vệ biên cương Tổ quốc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên lần thứ nhất, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ X được triệu tập vào tháng 12/1976. Đồng chí Nguyễn Mạnh Tục được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy. Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ IX và chỉ rõ những khó khăn, thuận lợi, yếu điểm, những mặt đã làm được và tồn tại còn vướng mắc, đồng thời đề ra những biện pháp khắc phục đưa nền kinh tế huyện đi lên. Về khó khăn:Thời gian qua do yêu cầu công tác các đồng chí trong Ban lãnh đạo luôn thuyên chuyển nơi này, nơi khác; một số đồng chí cán bộ chủ chốt phải đi học văn hóa, đi học các trường lý luận trung, cao cấp dài hạn đã làm cho đội ngũ cán bộ bị xáo trộn liên tục, từ đó ảnh hưởng lớn đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào tại địa phương. Cùng lúc đó có nhiều sự kiện xảy ra như sự kiện người Hoa; sự kiện cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc xảy ra ở huyện bạn đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc điều chuyển cán bộ, đồng bào dân tộc biên giới vào nội địa gặp không ít cản trở do trình độ nhận thức của đồng bào còn thấp kém. Về thuận lợi: Toàn Ban Chấp hành Đảng bộ huyện nhất trí cao. Được sự chỉ đạo sát sao của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và sự đồng tình ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong huyện. Khi chiến sự xảy ra, Đảng bộ huyện đã chủ động thành lập Ban chỉ huy Quân sự thống nhất trong toàn huyện, bố trí lực lượng chiến đấu và triển khai phương án phòng thủ, thành lập các cụm chiến đấu liên hoàn, khẩn trương điều chuyển dân vùng biên giới vào nội địa an toàn, kịp thời. Trong khi một bộ phận nhân dân hoang mang, dao động, bỏ làng, bỏ bản lánh đi nơi khác, Đảng bộ đã tuyên truyền, vận động 57
  2. họ trở lại bám đất, bám làng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên cương của Tổ quốc, nhờ đó mà các hợp tác xã nông nghiệp vẫn tồn tại, không bị tan vỡ. Đại hội cũng nhận định rõ những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua, đặc biệt là trên mặt trận nông nghiệp với trọng tâm chỉ đạo là thâm canh tăng năng suất, huyện đã cử nhiều đợt cán bộ (có đợt đông tới 170 người) xuống các xã chỉ đạo sản xuất. Nhiều hợp tác xã đã chú ý làm tốt công tác thủy lợi và phân bón. Các giống lúa mới được bà con mạnh dạn đưa vào trồng cấy. Những cuộc hội hè, cưới xin, ma chay đều được vận động giảm bớt dành thời gian, công sức cho sản xuất. Về yếu điểm: Do sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu nên năng suất nông nghiệp chưa cao. Những đợt rét đậm kéo dài, hạn hán vào mùa xuân ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng các loại cây trồng và đàn gia súc. Trong các hợp tác xã hiện tượng khoán hộ lan rộng, quy trình thực hiện kỹ thuật thâm canh còn rất yếu, sự chỉ đạo của các cấp ủy chưa sâu sát, thiếu đồng bộ nên dẫn đến năm 1976 nhiều chỉ tiêu trồng trọt và chăn nuôi không hoàn thành, giảm so với năm 1975. Công tác sẵn sàng chiến đấu có lúc có nơi chưa được đề cao; lĩnh vực tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên lúc bình thường thì chủ quan, khi chiến sự xảy ra thì lúng túng, bị động, hoang mang muốn lui về phía sau. Nhiều cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trong công việc, khi được phân công nhiệm vụ thì chần chừ, thậm chí chống lại quyết định. Một số cơ quan chuyên môn tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu chưa cao. Đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng còn yếu. Lãnh đạo và chỉ đạo các đoàn thể quần chúng chưa tốt. Qua đánh giá tình hình, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ tới là tập trung xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, trực tiếp chỉ đạo các hợp tác xã tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, nghiệp vụ quản lý kinh tế cho cán bộ các hợp tác xã. Thực hiện chủ trương đa canh, đa con, bên cạnh cây lúa phát triển các loại cây màu, cây công nghiệp, chú ý các biện pháp về giống, kỹ thuật, phân bón nhằm ổn định và phát triển sản xuất. Chú trọng công tác trồng rừng phát huy thế mạnh của huyện. Phát triển chăn nuôi trong các hộ xã viên, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi ở các trại tập thể. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Coi trọng đúng mức sự nghiệp phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống tinh thần và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; quyết tâm xóa nạn mù chữ và tẩy sạch các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; xây dựng đời sống văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Chú trọng công tác an ninh, quốc phòng sẵn sàng chiến đấu và cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù. Làm tốt công tác xây dựng Đảng. Phát huy tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng bộ Hoàng Su Phì, các cấp ủy đã tổ chức học tập, quán triệt sâu rộng nội dung nghị quyết trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Biến Nghị quyết thành hiện thực, toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện hăng hái thi đua lao động sản xuất và đã đạt được những kết quả khả quan. So sánh kết quả sản xuất nông nghiệp trong hai năm 1977 - 1978: năng suất lúa tăng từ 18,7 tạ/ha lên 21,7 tạ/ha; năng suất ngô từ 6,2 tạ/ha lên 8 tạ/ha, sản lượng ngô từ 1.000 tấn lên 1.400 tấn. Từ chỗ năng suất tăng đã đưa tổng sản lượng lương thực tăng từ 4.200 tấn lên 5.300 tấn. Các loại cây trồng khác như chè, đậu tương, các loại cây hoa màu và đàn gia súc tăng hơn năm 1976. Đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, tình hình thiếu đói giảm hơn. Là huyện vùng cao, lại nằm đầu nguồn sông Chảy và sông Bạc, đất canh tác chủ yếu là ruộng, nương bậc thang, vì vậy nhiệm vụ trồng rừng luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm. Năm 1978, Đảng bộ đã đề ra biện pháp chỉ đạo công tác lâm nghiệp một cách chặt chẽ và liên tục. Huyện đã tiến hành phân bổ cho các lâm trường và các hợp tác xã 58
  3. trồng rừng theo kế hoạch, các hợp tác xã sẵn sàng nhận nhiệm vụ và triển khai từng bước có chất lượng. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp có nhiều cố gắng. Huyện ủy đã chỉ đạo thí điểm tổ chức lại sản xuất theo Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đảng bộ trực tiếp chỉ đạo các hợp tác xã hợp nhất nhiều hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã lớn, trong đó xã Tân Tiến từ 8 hợp tác xã hợp thành 2 hợp tác xã lớn, xã Đản Ván 2 hợp tác xã hợp thành 1 hợp tác xã. Qua đợt thí điểm, huyện đã rút ra bài học kinh nghiệm chỉ đạo rộng trong huyện. Đồng thời với mở rộng quy mô hợp tác xã, huyện cũng đặc biệt coi trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý kinh tế, phân phối cho đội ngũ cán bộ làm kế toán và ban quản trị hợp tác xã. Kết quả tình hình làm ăn trong các hợp tác xã đã có nhiều tiến bộ, thu nhập của xã viên tăng hơn trước. Tuy nhiên, quá trình hợp tác hóa trong nông nghiệp cũng tồn đọng nhiều vấn đề bức bách như việc hợp tác xã chỉ quản lý ruộng lúa, còn ngô, đậu tương giao cho xã viên làm riêng dẫn đến tình trạng nhân dân thi nhau đi làm nương rẫy, bỏ bê đồng ruộng; số ngày công giành cho hợp tác xã thấp; khâu tài vụ không được thanh toán dứt điểm dây dưa kéo dài năm này qua năm khác làm cho quần chúng nhân dân thiếu lòng tin. Công tác định canh, định cư, giao thông, thủy lợi có nhiều tiến bộ, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, ổn định đời sống nhân dân vùng cao, các công trình thủy lợi được tu sửa bảo đảm tưới tiêu. Toàn huyện đã sử dụng 38.650 kg xi măng, 1.652 kg thuốc nổ; cấp 6.061 kg lương thực; 35.932 đồng; huy động 27.759 công nghĩa vụ; đầu tư 81.850 công làm 47,8 km đường dân sinh; sửa 42,7 km đường cũ; làm mới 2 cầu treo Trung Thịnh và Bản Luốc, 8 km đường từ Nam Sơn đi Hồ Thầu và 15 km đường biên giới góp phần nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ cho sản xuất phát triển. Công tác tài chính, thương nghiệp, lưu thông phân phối, công nghiệp, bưu điện mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với tinh thần cách mạng cao, các cán bộ đã khắc phục mọi gian khổ, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện có chiến tranh. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nguyện vọng lớn nhất của người dân Việt Nam là được sống trong hòa bình, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tăng cường câu kết thực hiện mưu đồ chống phá cách mạng nước ta. Ở biên giới Tây Nam, bọn phản động Pôn Pốt-Iêng Xary tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam, gây ra những tổn thất to lớn về người và của đối với nhân dân ta, làm tổn hại đến quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống giữa hai nước. Ở biên giới phía Bắc tình hình trở lên ngày càng phức tạp. Từ đầu năm 1977, lực lượng vũ trang phía bên kia biên giới đã gây ra một số vụ bắt giữ người trái phép, di chuyển cột mốc, xâm canh lấn đất, cho người sang đất ta thăm hỏi để khai thác tin tức. Cuối năm 1977, họ tăng cường làm đường giao thông, diễn tập quân sự, xây dựng trận địa chiến đấu ở vùng giáp biên. Sang năm 1978, tình hình trên tuyến biên giới tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu. Lực lượng vũ trang đối phương tăng cường gây áp lực quân sự với các hoạt động gián điệp, biệt kích, khiêu khích vũ trang. Đối phương cố tình gây ra sự kiện “Người Hoa” dụ dỗ, lôi kéo hàng vạn Hoa Kiều và rút chuyên gia về nước, khu khống Việt Nam “Bài xích, xua đuổi, khủng bố người Hoa”. Hàng vạn người Hoa bị bọn phản động lừa gạt đã nhẹ dạ bán đất, bán nhà, bỏ công sở đưa cả gia đình về biên kia biên giới. Trước những diễn biến phức tạp ở khu vực biên giới, thực hiện sự chỉ đạo của của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Hà Tuyên, Huyện ủy Hoàng Su Phì đã lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng rộng khắp, mạnh mẽ, vững chắc. Huyện đã chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự huyện tiến hành củng cố lực lượng trinh sát, ở mỗi xã biên giới tổ 59
  4. chức một trạm thu thập tin tức. Lực lượng trinh sát của huyện phối hợp với đồn Biên phòng tăng cường hoạt động bám địa bàn, nắm tin tức. Lực lượng quân sự huyện phối hợp với đồn Biên phòng làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền huyện, xã tổ chức các lực lượng đấu tranh giữ vững chủ quyền biên giới với phương châm: “Có lý, có tình trên cơ sở hữu nghị, tránh bị khiêu khích, kích động”. Đến tháng 7/1977, huyện đã áp dụng trạng thái sẵn sàng chiến đấu thường xuyên theo chỉ thị của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Đồng thời tiến hành bổ sung phương án chiến đấu với đối tượng tác chiến mới, duy trì nghiêm ngặt chế độ nắm địch, chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, đảm bảo quân số sẵn sàng chiến đấu. Tháng 11/1977, huyện tiến hành thành lập đại đội bộ đội địa phương 102 theo quyết định của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Các công tác giáo dục quốc phòng, củng cố dân quân tự vệ, chính sách hậu phương quân đội được tăng cường. Trong những năm 1976 – 1977, huyện Hoàng Su Phì hoàn thành 2 đợt gọi 90 thanh niên nhập ngũ, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân số xây dựng lực lượng thường trực của cấp trên và của huyện. Tháng 7/1978, thực hiện Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, huyện Hoàng Su Phì tuyển 90 thanh niên nhập ngũ, tái ngũ. Đây là đợt động viên lớn nhất của huyện từ trước tới nay, thể hiện nguyện vọng thiết tha bảo vệ Tổ quốc của thế hệ trẻ. Ngày 8/7/1978, thực hiện quyệt định của Tư lệnh Quân khu II và của tỉnh, huyện Hoàng Su Phì thành lập tiểu đoàn 6 bộ đội địa phương trên cơ sở đại đội 102, biên chế thành 3 đại đội bộ binh và một đại đại hỏa lực, trang bị vũ khí đầy đủ. Ngay sau đó, Đảng ủy tiểu đoàn 6 được thành lập tăng cường công tác tổ chức lãnh đạo đơn vị huấn luyện nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật chiến đấu. Tháng 10/1978, tiểu đoàn 6 thực hiện nhiệm vụ chiếm lĩnh trận địa, sẵn sàng chiến đấu. Hỗ trợ cho các lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới, cuối năm 1978, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh điều trung đoàn 247 vào Hoàng Su Phì với nhiệm vụ cơ động chiến đấu bảo vệ 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Tháng 5/1978, cùng với việc thành lập tiểu đoàn tự vệ lâm trường, trang bị vũ khí, huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị, sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên được củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đến tháng 12/1978, lực lượng dân quân tự vệ chiếm tỷ lệ 12,6% dân số toàn huyện. Cùng với các lực lượng, Hội Phụ nữ huyện đã quyên góp hàng trăm tấn rau xanh, hàng trăm con dê, gà, lợn ủng hộ bộ đội trên tuyến biên giới. Ủy ban nhân dân huyện đã huy động hàng ngàn lượt dân công, dân quân tự vệ lên tuyến biên giới làm đường giao thông, xây dựng công sự chiến đấu. Thực hiện Quyết định của Bộ Quốc phòng và Thường vụ Tỉnh ủy, cuối tháng 12/1978, Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất huyện Hoàng Su Phì được thành lập gồm một số đồng chí trong cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo Ban Chỉ huy quân sự huyện, Công an huyện, đồn Biên phòng, chỉ huy tiểu đoàn 6, do đồng chí Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự huyện làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Bí thư Huyện ủy làm Chính ủy. Ban Chỉ huy quân sự huyện có nhiệm vụ thống nhất hành động và chỉ huy tác chiến, phòng thủ trên địa bàn huyện, chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang. Đến tháng 12/1978, công tác xây dựng trận địa chiến đấu ở tuyến biên giới cơ bản hoàn thành, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Như vậy, trong 3 năm (1976 – 1978), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đã hăng hái thi đua lao động sản xuất và đạt nhiều kết quả. Hoạt động kinh tế được duy trì và phát triển. Quan hệ sản xuất được củng cố thêm một bước. Đời sống nhân dân tuy còn nhiều khó khăn nhưng đã được cải thiện hơn trước. Các mặt văn hóa – xã hội có bước phát triển. Công tác xây dựng Đảng, chính 60
  5. quyền, Mặt trận và các đoàn thể được quan tâm. Quốc phòng – an ninh được tăng cường. Đặc biệt, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã tập trung lãnh đạo quân và dân trên địa bàn huyện hình thành thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, đảm bảo thế chủ động, không bị bất ngờ khi có tình huống xảy ra. II. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG HUYỆN VỪA ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, VỪA THAM GIA CHIẾN ĐẤU VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA TỔ QUỐC (1979 – 1985) Bước sang năm 1979, công tác an ninh, quốc phòng trong toàn huyện có sự chuyển biến mạnh mẽ theo kịp tình hình mới. Được sự chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy Hà Tuyên, nắm vững các xã giáp biên, Đảng bộ Hoàng Su Phì đã kịp thời chỉ đạo, giác ngộ quần chúng nâng cao cảnh giác cách mạng nhằm bảo vệ vững chắc an ninh biên giới và chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Cán bộ, đảng viên được học tập, quán triệt tình hình nhiệm vụ mới luôn đi đầu trong các phong trào phát triển, củng cố lực lượng vũ trang, lập các phương án tác chiến, xây dựng các cụm chiến đấu liên hoàn trong các xã. Các trung đội dân quân ở các xã đều do cấp ủy, chính quyền trực tiếp phụ trách. Các chủ trương công tác khác như: hậu cần, tải thương, sơ tán, thông tin liên lạc... đều được chuẩn bị khẩn trương. Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Hoàng Su Phì tiến hành chuyển hướng sản xuất để phù hợp với điều kiện có chiến tranh. Đảng bộ xác định: Hoàng Su Phì vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương tại chỗ; phát huy tinh thần tự lực, tự cường tiếp tục cải thiện đời sống nhân dân góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa. Công tác quân sự, an ninh là nhiệm vụ số một cần được quan tâm đặc biệt. Nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ Hoàng Su Phì là: Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức Nhà nước từ huyện đến cơ sở phải được kiện toàn trong sạch về chính trị, vững mạnh về tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn huyện, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Xây dựng kinh tế không ngừng phát triển, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, từng bước cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo đảm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm hậu cần tại chỗ. Ngày 17/2/1979, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra. Tại biên giới tỉnh Hà Tuyên, địch huy động 2 sư đoàn chủ lực, với cách đánh “Luồn sâu vu hồi” đồng loạt tiến công vào các huyện biên giới. Tại Hoàng Su Phì, ngày 6/3/1979, 1 tiểu đoàn địch tiến công vào xã Bản Máy, giết hại nhiều dân tường. 1 đại đội cơ động của tiểu đoàn 6 phối hợp với công an vũ trang và dân quân tại chỗ đã chiến đấu dũng cảm, đẩy lui quân địch về bên kia biên giới, diệt và làm bị thương trên 100 tên. Trong trận chiến đấu này, các lực lượng vũ trang Hoàng Su Phì đã phối hợp chặt chẽ, đánh thắng giòn giã, sau đợt chiến đấu, nhiều đồng chí được khen thưởng, 3 đồng chí được Chính phủ tặng huân chương. Dân quân tự vệ trên các địa bàn tham gia tốt việc thường trực chiến đấu và tích cực làm nhiệm vụ tải, cứu thương. Điển hình là dân quân tự vệ các xã Chiến Phố, Thàng Tín, Đản Ván, Thèn Chu Phìn. Sau một tháng kiên cường chiến đấu, từ ngày 17/2 đến ngày 18/3/1979, lực lượng vũ trang Hà Tuyên đã chiến đấu 61 trận, tiêu diệt 2.379 tên địch, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn địch, tiêu diệt gọn 1 đại đội địch. Ngày 12/4/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy họp và ra Nghị quyết đề ra nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: 61
  6. - Chặn bằng được địch ở tuyến đầu biên giới. Tiếp tục rà lại các phương án và kế hoạch tác chiến cụ thể để đánh bại các cuộc tấn công bằng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, không quân của địch. Tất cả sẵn sàng từ phía trước... - Nắm chắc địa bàn, kịp thời trấn áp những vụ bạo loạn phản cách mạng, những hành động phá hoại bằng gián điệp, biệt kích. Trừng trị những phần tử phản động xuyên tạc chính sách, dùng chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân. - Động viên mọi người thi đua lao động sản xuất bảo đảm vừa chiến đấu vừa sản xuất tạo ra hậu cần tại chỗ. Do vậy cần chăm sóc tốt vụ đông xuân, tiến hành làm vụ mùa thắng lợi. Quyết tâm làm hết toàn bộ diện tích theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã giao, bảo đảm đúng thời vụ, đúng kỹ thuật… - Từ đảng viên đến quần chúng cần nhận thức rõ âm mưu lâu dài của địch...Cần tăng cường bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chống mọi tư tưởng sợ địch, vô ý thức, vô kỷ luật, bỏ vị trí chiến đấu. Nội dung của Nghị quyết đã được các cấp ủy, chính quyền phổ biến, quán triệt sâu rộng trong toàn quân và toàn dân. Chỉ trong một thời gian ngắn công tác an ninh chính trị, tinh thần sẵn sàng chiến đấu phát triển mạnh mẽ. Biên chế dân quân từ 4 trung đội cơ động trong toàn huyện tiến tới mỗi xã đã thành lập 1 trung đội cơ động, chiếm từ 8 - 12% dân số; từ 1 đại đội đã phát triển lên 1 tiểu đoàn dân quân tự vệ và cũng từ 1 đại đội tiến lên thành lập 1 tiểu đoàn bộ đội địa phương. Trong những ngày dốc sức bảo vệ biên giới, Đảng bộ Hoàng Su Phì vẫn không ngừng quan tâm đến phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Các hoạt động văn hóa nhằm tuyên truyền cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn được duy trì và phát triển. Các trường học, bệnh viện vẫn bảo đảm dạy, học, khám và chữa bệnh được thường xuyên. Đi đôi với công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội, lãnh đạo quân dân sẵn sàng chiến đấu, Đảng bộ Hoàng Su Phì luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng, quyết tâm xây dựng Đảng bộ thành một đơn vị trong sạch, vững mạnh. Tháng 8/1979, đồng chí Nguyễn Mạnh Tục - Bí thư Huyện ủy xin nghỉ công tác. Tỉnh ủy Hà Giang đã điều động đồng chí Hoàng Ngọc Lâm - Tỉnh ủy viên, Trưởng Ban Định cư của tỉnh về giữ chức Bí thư Huyện ủy Hoàng Su Phì. Tính đến tháng 8/1979, toàn huyện có 33 chi bộ, 4 đảng bộ với 628 đảng viên (19 chi bộ, 2 đảng bộ xã và 14 chi bộ, 2 đảng bộ cơ quan), trong đó 57 đồng chí nữ. Riêng khối cơ quan có 243 đảng viên, trong đó có 16 nữ. Trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ đã kết nạp được 15 đảng viên mới. Qua phân loại, toàn Đảng bộ có 9 chi bộ, 3 đảng bộ xếp loại phấn đấu tốt, 14 chi bộ, 1 đảng bộ xếp loại phấn đấu trung bình, 8 chi bộ xếp loại kém và 2 chi bộ yếu kém. Trong hoàn cảnh có chiến tranh, cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể quần chúng huyện Hoàng Su Phì không ngừng vươn lên, phát huy mọi khả năng công tác và đạt được những tiến bộ rõ rệt. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã lãnh đạo tổ chức tốt hai kỳ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và Hội đồng nhân dân huyện đạt kết quả cao. Qua bầu cử đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, động viên được quần chúng hăng hái thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai. Chính quyền dân chủ nhân dân được kiện toàn củng cố tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và chiến đấu góp phần bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Công tác Mặt trận, Phụ nữ, Thanh niên luôn được duy trì và phát triển. Các đoàn thể đã tham gia tích cực hưởng ứng phong trào giúp đỡ bộ đội phục vụ chiến đấu. Thanh niên làm lán trại cho bộ đội C3, góp 2.335 ngày công làm đường biên giới. Chị em hăng hái sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, ủng hộ rau xanh, thực phẩm cho bộ đội trị giá 62
  7. 9.920 đồng. Thăm hỏi bộ đội trong dịp tết và bộ đội đóng trên chốt, tặng và biếu 1.225 kg gạo nếp, 496 kg thịt các loại, 103 kg gà, vịt. Toàn huyện có 7 chi hội phụ nữ tiên tiến, 10 chi hội khá, 7 chi hội trung bình và 711 chị em có thành tích xuất sắc. Trong 3 năm (1977 - 1979), toàn huyện có 353 đoàn viên, thanh niên viết đơn xin nhập ngũ (trong đó có 2 lá đơn ký bằng máu), 100% đoàn viên, thanh niên tham gia dân quân tự vệ, tham gia phong trào 3 xung kích và làm chủ tập thể. Có được những thành tích trên đây là do Đảng bộ Hoàng Su Phì đã triển khai kịp thời, nhanh chóng các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Chính phủ và của tỉnh, quán triệt đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, đi đúng đường lối, thống nhất trong lãnh đạo và chỉ đạo. Song trong quá trình phấn đấu, Đảng bộ cũng còn bộc lộ những khuyết điểm đó là một số ít đảng viên, cán bộ còn mơ hồ về chủ trương, đường lối của Đảng, bỏ vị trí công tác, thiếu tinh thần tiên phong gương mẫu, vi phạm quyền làm chủ tập thể của quần chúng; quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham ô, lợi dụng công quỹ, vi phạm pháp luật... đó là những nhức nhối mà Đảng bộ cần khắc phục trong những chặng đường tiếp theo. Ngày 15/8/1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XI được tổ chức. Đại hội đã thông qua báo cáo chính trị kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X, báo cáo kiểm điểm Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa X và thông qua Nghị quyết 2 năm (1979 - 1980) với phương hướng chung là: Nâng cao đời sống văn hóa cho cán bộ và nhân dân lên một bước, đồng thời làm tốt công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn của địch, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, tổ chức chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu thắng lợi, nâng cao quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhằm củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của quân và dân Hoàng Su Phì lúc này là phát triển vững chắc nền quốc phòng toàn dân, nắm vững phương châm: “Làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường”. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Đại hội xác định 5 cây trồng chính cần tập trung phát triển là cây lúa, ngô, đậu tương, chè, cây rừng và 3 con trọng tâm cần đầu tư chăn nuôi là con trâu, lợn, ngựa. Mục tiêu phấn đấu đến năm 1980 đạt: diện tích gieo trồng cây lương thực 6.020 ha. Tổng sản lượng lương thực quy thóc 7.900 tấn. Đậu tương mỗi năm trồng 1.300 ha, sản lượng 585 tấn/năm. Chè trồng 40 ha. Bình quân lương thực đầu người 19 kg/tháng. Đàn trâu, bò 8.050 con, ngựa có 5.700 con, lợn có 4.800 con, dê có 5.800 con và 75.000 con gia cầm các loại. Trồng rừng tập trung đạt 900 ha, trong đó rừng quốc doanh 500 ha và định canh, định cư 400 ha. Trong nhân dân trồng 420.000 cây phân tán. Đại hội đã bầu 29 đại biểu ưu tú vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XI. Đồng chí Hoàng Ngọc Lâm được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Qua phân tích xem xét tình hình đất đai, khí hậu, tập quán canh tác và dân cư, đầu năm 1980, huyện tiến hành phân vùng chuyên canh cây trồng. Toàn huyện chia thành 2 vùng. Vùng 1 có 12 xã chuyên trồng cây lúa, ngô, đậu tương; vùng 2 trồng lúa, ngô, đậu tương và chè. Đảng bộ xác định cây đậu tương và cây chè là cây chủ yếu để kinh doanh hàng hóa. Theo đó các hợp tác xã đã đầu tư giống, phân bón, phổ biến kỹ thuật canh tác, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất các cây trồng thích hợp trong vùng xác định. Sau 1 năm phân vùng trồng trọt, năng suất các loại cây trồng hầu như tăng lên, sản xuất nông nghiệp thu được nhiều kết quả tốt. 63
  8. Về cây lương thực, năm 1980 (không kể lúa nương) đạt 2.366 ha, năng suất đạt 21,26 tạ/ha, năm 1981 đạt 21,6 tạ/ha. Tổng sản lượng thóc năm 1980 đạt 4.947 tấn, ngô đạt 807 tấn, đưa tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1980 lên 7.121,9 tấn, đến năm 1981 tăng lên 7.670,91 tấn. Cây công nghiệp, đặc biệt cây đậu tương và cây chè bước đầu đã tạo chỗ đứng trên thị trường. Năm 1980, 1981, mỗi năm huyện trồng từ 426 đến 577 ha đậu tương, năng suất đạt 4,15 tạ/ha, sản lượng tăng từ 162,9 tấn (1980) lên 237,45 tấn (1981). Diện tích chè toàn huyện có 345 ha, nhiều vùng đã cho thu hoạch. Công tác chăn nuôi từng bước được đẩy mạnh, đàn gia súc tăng lên rõ rệt. Năm 1980, đàn trâu, bò là 8.232 con, trong đó 3.121 con trâu, bò cày kéo. Năm 1981, đàn trâu, bò có 8.294 con, trong đó có 5.189 con trâu, bò cày kéo chủ yếu là chăn nuôi trong các hộ gia đình, đàn trâu, bò tập thể chiếm 1,3%. Đàn lợn tăng từ 12.908 con (năm 1980) lên 13.162 con (năm 1981). Bình quân mỗi hộ gia đình có một con ngựa. Toàn huyện có 44.290 con gia cầm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Đến cuối năm 1981, toàn huyện trồng được 2.000 ha rừng, ngành lâm nghiệp huyện phối hợp với cấp ủy, chính quyền các xã tổ chức tuyên truyền, giáo dục lâm luật cho 5.100 lượt người. Củng cố và xây dựng 50 tổ bảo vệ rừng. Thực hiện chủ trương Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, ngành Giáo dục huyện đã vươn lên đạt được những kết quả rõ rệt. Năm học 1980 - 1981, số học sinh đến trường đông hơn trước, toàn huyện có 78 lớp vỡ lòng với 2.398 em học sinh; 21 trường cấp I gồm 62 lớp với 1.245 học sinh. Ngoài ra, huyện còn có 11 lớp học ở các trường tập trung với 221 học viên, 108 điểm ánh sáng văn hóa với 4.383 học viên, bình quân cứ 5 người dân có 1 người đi học. Trong tình hình mới, công tác an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và quân dân Hoàng Su Phì. Huyện đội đã bố trí 7 cụm chiến đấu; xây dựng 22 trung đội cơ động chiến đấu, 25 trung đội tổ chức chiến đấu tại chỗ, 3 trung đội dân quân tập trung thuộc các xã biên giới, 15 trung đội bảo vệ sơ tán cho nhân dân, 3 đại đội dân quân dự bị của cơ quan và nông thôn. Các điểm tựa đều được bố trí các lực lượng phù hợp với yêu cầu chiến đấu. Từ huyện đến các xã đều có phương án tác chiến hoàn chỉnh, luôn có ý thức sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Riêng năm 1980, toàn huyện đã huy động 2.300 người làm đường hỏa tuyển, 500 người lên đường củng cố xây dựng các trận địa phía trước và 100 người đi giúp huyện Xín Mần. Huyện huy động dân công phối hợp với bộ đội và ngành giao thông tu sửa 32 km đường giao thông; huy động 400 cán bộ, nhân viên và học sinh ra làm nơi tạm lánh và hầm hào khu vực huyện lỵ; thực hiện di chuyển dân khu vực giáp biên về tuyến 2, nhằm đảm bảo đời sống mọi mặt cho nhân dân, góp phần giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Thực hiện chủ trương rào rấp biên giới, huy động hơn 300 người, 9.070 gốc tre, làm 1.977 bàn chông, thu nhặt 46 kg hạt găng, 225 hạt mây. Đến năm 1981, toàn huyện đã rào rấp được 1.725 m đường biên, trồng được 20.812 bầu mây bằng 20,8 ha và 20 kg hạt găng. Ngoài ra còn đào hơn 1.200 m giao thông hào và đặt hơn 10 km vật cản đường biên, đẩy lùi nhiều đợt xâm lấn của địch sang biên kia biên giới, giữ vững biên thùy. Nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Đảng bộ không ngừng tuyên truyền nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc giáp biên đề cao cảnh giác chống lại mọi âm mưu thâm độc của bọn phản động. Toàn huyện thành lập được 526 tổ an ninh nhân dân. Ngành công an nắm chắc địa bàn, phân loại đối tượng theo dõi, ngăn chặn kịp thời các hoạt động phá quấy. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể luôn được Đảng bộ quan tâm. Trong nhiệm kỳ 1979 - 1981, Đảng bộ đã tiến hành 4 đợt phát thẻ Đảng cho 513 64
  9. đảng viên của 29 cơ sở Đảng trong huyện. Qua đó đã chọn được 441 đảng viên đủ tư cách nhận thẻ, đạt 85,9%. Cũng trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ đã chỉ đạo Hội đồng nhân dân và các xã sinh hoạt đều đặn, phát huy được chức năng là người đại biểu của dân, động viên kịp thời tinh thần sẵn sàng chiến đấu và nâng cao đời sống nhân dân. Những thành tựu mà Đảng bộ và quân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đạt được trong những năm 1976 - 1980 đã góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai trên địa bàn huyện, đóng góp sức người, sức của, bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy Hà Tuyên, năm 1981, toàn Đảng bộ và quân dân huyện Hoàng Su Phì tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân ba cấp (tỉnh, huyện, xã). Toàn huyện lập 9 đơn vị bầu cử cấp huyện, 21 đơn vị bầu cử cấp xã, đã có 15.700 cử tri đi bỏ phiếu đạt 99%. Kết quả bầu được 7 đại biểu Quốc hội, 5 đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, 47 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện. Huyện tổ chức họp Hội đồng nhân dân kỳ đầu bầu được 13 ủy viên Ủy ban nhân dân huyện, 153 ủy viên Ủy ban nhân dân xã. Đến quý I năm 1982 đã kiện toàn và xem xét được 356 cán bộ vào các ban ngành chuyên môn xã. Qua đợt bầu cử, chất lượng lãnh đạo của Ủy ban nhân dân các xã được nâng lên một bước, cơ cấu cán bộ hợp lý hơn, 19 xã có Chủ tịch Ủy ban là đảng viên và 16 xã có Chủ tịch vừa là đảng viên lại vừa nằm trong cấp ủy; 17 xã có Trưởng Công an là đảng viên, 9 xã có Xã Đội trưởng là đảng viên. Thành công của cuộc bầu cử đã góp phần động viên và khích lệ nhân dân hăng hái lao động, thi đua sản xuất và chiến đấu, ngày càng vững tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Ngày 13/01/1981, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (gọi tắt là Khoán 100). Đây là một chủ trương đúng đắn kịp thời, là giải pháp tình thế tạo ra động lực mới cho phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của xã viên. Nội dung Khoán 100 có ưu điểm hơn các cách khoán trước, đó là khôi phục lại quyền tự chủ trong sử dụng ruộng đất và lao động của hộ xã viên. Kích thích lao động, đầu tư, thâm canh để thu phần vượt khoán. Bước vào thực hiện Khoán 100, nhiều hiện tượng tiêu cực trong sản xuất, quản lý và phân phối; tình trạng rong công, phóng điểm, tham ô công quỹ...tồn tại lâu nay dần dần được khắc phục. Chính vì vậy, Khoán 100 đã mở ra thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp trên mảnh đất Hoàng Su Phì nói riêng và cả nước nói chung. Tháng 09/1981, đồng chí Hoàng Ngọc Lâm - Bí thư Huyện ủy nghỉ hưu. Thực hiện Quyết định số 184-QĐ/TU ngày 29/9/1981 của Tỉnh ủy Hà Giang về công tác cán bộ, đồng chí Triệu Đức Thanh - Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Định canh định cư tỉnh được điều động về giữ chức Bí thư Huyện ủy Hoàng Su Phì từ tháng 10/1981. Trong 2 ngày 16 và 17/6/1982, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã tổ chức hội nghị nhằm nghiên cứu, quán triệt Chỉ thị 100 của Trung ương, Nghị quyết số 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, hướng dẫn của Sở nông nghiệp tỉnh, đồng thời ra Nghị quyết số 10 “Về việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng”. Hội nghị đã nhận định về phong trào hợp tác hóa và tình hình khoán trên địa bàn huyện như sau: Hợp tác xã nông nghiệp của huyện đều được xây dựng từ năm 1959, trải qua cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, tổ chức lại sản xuất đến năm 1982, toàn huyện có 103 hợp tác xã, 3 tổ hợp tác, trong đó có 2 xã Nặm Dịch và Đản Ván là hợp tác xã toàn xã luôn giữ được phong trào từ khi hợp nhất. 65
  10. Xã Tân Tiến được tổ chức lại thành 2 hợp tác xã theo quy mô thôn, chủ yếu là hợp tác xã có từ 40 - 60 hộ, số hợp tác xã dưới 20 hộ chiếm 10%, có 65% hợp tác xã đạt loại khá, giữ vững phong trào kể từ ngày thành lập. Hội nghị còn nhấn mạnh 5 nguyên tắc cơ bản mà mỗi hợp tác xã khi thực hiện Khoán 100 cần nắm vững. Các nguyên tắc đó là: a - Hợp tác xã phải quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất như đất, ruộng, sức kéo, phân bón, nông cụ và cơ sở sản xuất kỹ thuật của tập thể. b - Hợp tác xã phải tổ chức tốt việc quản lý điều hành, phát huy sự hơn hẳn của hợp tác xã có phân công, đồng thời phát huy tính tích cực lao động của tập thể xã viên và của từng người lao động. c - Hợp tác xã phải có quy hoạch và kế hoạch phù hợp với vùng sản xuất và kế hoạch sản xuất của huyện, có quy hoạch sản xuất và có định mức kinh tế kỹ thuật. d - Hợp tác xã phải nắm được sản phẩm. e - Phải phát huy quyền làm chủ tập thể trong hợp tác xã của xã viên. Nội dung và mục đích của Khoán 100 được quán triệt sâu rộng trong xã viên, toàn huyện có 98 hợp tác xã nhận khoán, trong đó có 77 hợp tác xã chính thức xây dựng mức khoán. Nội dung Nghị quyết 10 của Huyện ủy được triển khai rộng rãi trong các hợp tác xã. Riêng xã Nam Sơn trong cuộc vận động này chưa thực hiện khoán. Những yếu tố tích cực của cơ chế khoán 100 trong nông nghiệp đã lôi cuốn được mọi người dân hăng hái tham gia, kích thích tăng năng suất lao động; xã viên đã vượt lên khắc phục mọi khó khăn về giống, vốn, vật tư, sử dụng tốt đất đai và cơ sở vật chất kỹ thuật và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất. Kết quả sau 1 năm thực hiện khoán theo Chỉ thị 100, tổng sản lượng lương thực đạt 8.495 tấn, tăng 728 tấn so với trước đó. Năm 1980, huyện mới chỉ tự giải quyết lương thực được 1 tháng, sang năm 1981 tự túc được 2 tháng và năm 1982 tăng lên 3 tháng. Sản lượng lương thực tăng đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giảm việc chu cấp lương thực cứu đói của tỉnh. Đến tháng 6/1982, toàn huyện đã thu mua được 169.887 tấn lương thực. Tỉnh không còn phải cứu đói cho dân nữa, chỉ cứu tế, cấp cho công tác trồng rừng và thu mua chè. Ngày 07/10/1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XII được triệu tập. Về dự Đại hội có 91 đại biểu đại diện cho hơn 30 chi, đảng bộ trong toàn huyện. Đại hội đã thông qua báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, nhận xét, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu; chỉ ra những tồn tại, nguyên nhân tháo gỡ. Trên cơ sở đó, Đại hội nhất trí thông qua Nghị quyết thực hiện trong nhiệm kỳ tới. Đại hội nhận định: trong 3 năm qua (1980- 1982), Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện đã đạt được những thành tích to lớn. Từng đợt, từng vụ, từng thời kỳ có những biện pháp thích hợp chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời và đều khắp, nhiều chiến dịch làm tốt, dứt điểm như chiến đấu, sản xuất, thu mua lương thực, trồng cây đặc sản, khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Một số kinh nghiệm được Đại hội nhấn mạnh: Phải thực hiện lãnh đạo tập trung, thống nhất trong toàn Ban Chấp hành Đảng bộ. Mọi chỉ thị, nghị quyết của trên xuống phải được triển khai đầy đủ, kịp thời. Đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể từ huyện xuống các xã có nhiệt tình, có trách nhiệm. Những chính sách, chế độ đề ra cần tổ chức thực hiện cho tốt, đầu tư phải đồng bộ và kịp thời. Làm tốt công tác tư tưởng trong nhân dân, để đồng bào thấy được âm mưu thâm độc của địch và những khó khăn của tỉnh, huyện, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp thích hợp, nhất là các xã biên giới. 66
  11. Phải coi trọng vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng viên; tổ chức bồi dưỡng trình độ văn hóa, chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, chăm lo đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số để có đội ngũ cán bộ kế cận sau này. Đại hội đề ra mục tiêu trong 3 năm (1983 - 1985) là: Quyết tâm xây dựng huyện Hoàng Su Phì vững mạnh về chính trị, phát triển về kinh tế, từng bước ổn định đời sống, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân. Phấn đấu đến hết năm 1984 phải đạt được mục tiêu: khai thác và sử dụng có hiệu quả 6.782 ha ruộng. Sản lượng lương thực quy thóc là 9.096 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 256 kg/năm. Thịt các loại đạt 400 tấn; đậu tương đạt 530 tấn, chè búp khô 115 tấn, cố gắng tự túc mỗi người 2m vải. Đại hội lần thứ XII đã thành công rực rỡ. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa mới gồm 29 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí dự khuyết, 9 đồng chí vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Đồng chí Triệu Đức Thanh được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Thực hiện Nghị quyết số 136/HĐBT ngày 18/11/1983, của Hội đồng Bộ trưởng, xã Nàng Đôn, Trung Thịnh của huyện Hoàng Su Phì được tách ra để nhập vào huyện Xín Mần; xã Bản Máy (huyện Xín Mần), xã Thông Nguyên, xã Tiên Nguyên (huyện Bắc Quang) nhập vào huyện Hoàng Su Phì và thành lập xã Xuân Minh, nâng tổng số đơn vị hành chính của huyện là 23 xã. Sau khi hoàn thành việc điều chỉnh địa giới, dân số của Hoàng Su Phì đã tăng từ 2,8 vạn lên 4,1 vạn người. Toàn huyện có 4 xã biên giới với chiều dài đường biên là 34,5 km. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII với khá nhiều điều kiện thuận lợi. Được các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa III) soi sáng, với sự chỉ đạo sát sao của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự giúp đỡ của các ngành trong tỉnh, các huyện phía sau và sự động viên của cả nước. Toàn huyện có một lực lượng lao động dồi dào, tiềm năng đất đai lớn, nhân dân các dân tộc có tình đoàn kết, lao động cần cù, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí căm thù giặc sâu sắc. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư tưởng vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên huyện cũng gặp phải không ít những khó khăn thách thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Bọn phản động Trung Quốc vẫn không từ bỏ dã tâm phá hoại ta về nhiều mặt, chúng dùng một lực lượng lớn áp sát biên giới, thường pháo kích sang địa phận của ta làm ảnh hưởng đến sản xuất, gây thiệt hại về người và của, gây khó khăn cho đời sống nhân dân các xã giáp biên. Chúng còn tổ chức hoạt động tình báo, tung biệt kích sang thâm nhập vào làng bản, ngõ xóm, tuyên truyền chiến tranh tâm lý, xúi giục phần tử xấu gây bạo loạn, ngấm ngầm hoạt động tìm cách chui vào các tổ chức của ta để thực hiện âm mưu lấn chiếm, phá hoại về mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức… Mặt khác do điều kiện tự nhiên phức tạp, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ dân trí thấp, trình độ quản lý còn yếu, thực tế sản xuất chậm phát triển, năng suất cây trồng chưa cao, đời sống nhân dân bấp bênh đã trực tiếp ảnh hưởng đến bước đi lên của huyện Hoàng Su Phì. Nhận rõ những thuận lợi, khó khăn trên, toàn Đảng bộ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý chí chiến đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ bám sát mục tiêu và nhiệm vụ chính trị mà Đại hội Đảng bộ lần thứ XII đã đề ra. Đảng bộ luôn quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định đúng nhiệm vụ chính trị, nhận thức rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, từ đó thấy được vị trí chiến lược của huyện, ý thức cao hơn trách nhiệm bảo vệ biên cương. Trong thời gian này, công tác quân sự, an ninh là nhiệm vụ số một được Đảng bộ đặc biệt quan tâm, các lực lượng vũ trang từng bước được xây dựng và củng cố vững 67
  12. mạnh, qua thử thách, luôn hướng về phía trước, kiên cường bám trụ, đứng vững trên điểm tựa tiền tiêu bảo vệ biên giới. Huyện chủ động xây dựng tuyến phòng thủ kiên cố, xây thế trận chiến tranh nhân dân, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, củng cố phương án tác chiến phù hợp, tăng cường cụm chiến đấu liên hoàn. Bên cạnh đó, Đảng bộ xác định chú trọng củng cố và phát triển lực lượng dân quân ở cả tuyến trước và tuyến sau, trang bị vũ khí đầy đủ, luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu và thực hiện giao tuyển quân đầy đủ đúng thời hạn. Trước tình hình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở toàn tuyến biên giới tỉnh Hà Tuyên với Trung Quốc ngày càng ác liệt, tỉnh chỉ đạo các huyện biên giới sơ tán về phía sau để bảo toàn lực lượng. Thực hiện sự chỉ đạo đó, tháng 02/1985, huyện lỵ Hoàng Su Phì chuyển về xã Nam Sơn, nhằm bảo toàn lực lượng lãnh chỉ đạo sản xuất và chiến đấu. Thời gian này, huyện duy trì bộ phận tiền phương ở Vinh Quang để trực tiếp chỉ đạo công tác sẵn sàng chiến đấu, lực lượng quân đội có chỉ huy tiền phương tại Bản Páng (xã Bản Máy) để chỉ đạo các chốt bám giữ vùng đất biên cương. Tất cả các xã đều có trung đội dân quân tập trung làm nhiệm vụ sẵn sàng ứng cứu phía trước. Trong những năm tháng nổ ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, Đảng bộ lãnh chỉ đạo hai nhiệm vụ song song, các xã phía trước đưa nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu lên hàng đầu, các xã phía sau đưa nhiệm vụ sản xuất để lo hậu cần tại chỗ lên hàng đầu. Trong điều kiện hết sức khó khăn của thời chiến nhưng Đảng bộ cùng với toàn quân, toàn dân trong huyện đã đảm bảo chiến đấu giữ vững biên cương Tổ quốc, và chăm lo đời sống của nhân dân về mọi mặt. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ trưởng thành lên, vững vàng hơn bao giờ hết. Nhằm động viên sức người, sức của thực hiện nhiệm vụ hậu phương tại chỗ, trong thời gian 3 năm từ năm 1983 đến năm 1985 đã huy động đồng bào các dân tộc trong huyện đóng góp được hơn 96.447 ngày công, làm mới 16 km đường ô tô lên các trận địa, kéo được 125 km đường dây thông tin liên lạc phục vụ công tác chỉ đạo chiến đấu và sản xuất. Cuộc vận động “Quân với dân một ý chí” được các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Nhân dân các xã trong huyện đã đóng góp hàng ngàn ngày công phục vụ chiến đấu. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện vận động hội viên quyên góp bằng hiện vật, có trị giá hàng ngàn đồng, để ủng hộ các lực lượng vũ trang trực tiếp chiến đấu. Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp của các đoàn thể quần chúng. Công tác an ninh chính trị trong ba năm từ năm 1983 đến năm 1985 đã giành được nhiều thắng lợi lớn. Lực lượng an ninh nhân dân được xây dựng và củng cố rộng khắp, kịp thời ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu và thủ đoạn của địch; nắm chắc phân loại các đối tượng, điều chuyển một số đối tượng về tuyến sau, bước đầu đã bóc tách được chân tay và cơ sở của địch cài cắm, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Cũng trong 3 năm, Huyện ủy đã chỉ đạo trực tiếp các ngành thi hành pháp luật tổ chức học tập quán triệt Bộ luật hình sự, kiểm tra và kết luận các vụ án, thu hồi cho Nhà nước 84.735 đồng và 9.738 kg gạo. Ngành Công an đã thụ lý và chuyển sang Tòa án 9 vụ, qua đó giải quyết được 25 đơn khiếu tố. Từ những thành tích đã đạt được trong thời gian qua, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Công an nhân dân, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tặng thưởng lực lượng Công an nhân dân huyện Hoàng Su Phì “Huân chương Chiến công Hạng nhất”. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp trong 3 năm (1983 - 1985), Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng vụ gắn với khai hoang, 68
  13. phục hóa. Triển khai đồng bộ Nghị quyết 10 của Huyện ủy về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Khoán 100 đã phát huy được hiệu quả trên mảnh đất Hoàng Su Phì, đã khuyến khích được người nông dân phấn khởi sản xuất, sản phẩm làm ra ngày một tăng, quan hệ sản xuất ngày càng được củng cố, các hợp tác xã nông nghiệp được giữ vững. Tổng diện tích gieo trồng tăng từ 5.145 ha (1983) lên 6.991 ha (1985). Tổng sản lượng quy thóc tăng từ 7.905,6 tấn lên 9.977 tấn. Năng suất ngô cả năm tăng từ 6,4 tạ/ha lên 7 tạ/ha. Khai hoang ruộng bậc thang trong 3 năm được 218,44 ha. Tuy nhiên do thời tiết khắc nghiệt và sâu bệnh lan rộng đã làm cho năng suất lúa giảm từ 21,99 tạ/ha (1983) xuống 21,1 tạ/ha (1985). Trong lĩnh vực chăn nuôi, Đảng bộ huyện luôn bám sát nội dung Nghị quyết Đại hôi XII, “Phát triển mạnh đàn gia súc và gia cầm”. Đây là thế mạnh của huyện vừa để tự túc thực phẩm tiêu dùng, vừa làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, lại bảo đảm lượng phân bón cho cây trồng. Vì lẽ đó, kết hợp với 4 xã mới sáp nhập vào huyện cuối năm 1983, số đàn gia súc, gia cầm trong năm 1985 tăng lên một lượng lớn. Đàn trâu tăng từ 7.401 con (1983) lên 10.842 con (1985), đàn bò từ 417 con lên 500 con (1985), đàn ngựa từ 4.964 con lên 5.315 con, đàn lợn 13.176 con lên 17.208 con, đàn dê tăng từ 4.336 lên 7.870 con, gia cầm các loại tăng từ 46.336 lên 60.759 con. Đi đôi với phát triển nông nghiệp, Đảng bộ huyện còn chú trọng công tác lâm nghiệp. Đến năm 1983, diện tích rừng tự nhiên còn quá ít, do bị khai thác bừa bãi. Trước tình hình đó, Huyện ủy chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền tuyên truyền sâu rộng Pháp lệnh bảo vệ rừng cho 27.323 lượt người, giải thích cho đồng bào các dân tộc hiểu rõ giá trị của rừng, nhận thức rõ rừng là một bộ phận của môi trường sống, là tài nguyên quý giá của đất nước, có giá trị rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, phục vụ quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân. Qua đó, nhân dân hiểu rõ và ý thức hơn về trách nhiệm trồng rừng và bảo vệ rừng. Trong 3 năm (1983 - 1985), toàn huyện quyên góp được 481.000 đồng tiền bảo vệ rừng, trồng được 1.205 ha rừng, trong đó có 165 ha trẩu, ngoài ra còn trồng cây thông và sa mộc. Cũng trong 3 năm, huyện tiến hành giao đất, giao rừng cho xã viên và tập thể hợp tác xã quản lý được 4.261 ha, đạt 85% kế hoạch. Công tác xuất khẩu cây đặc sản trong thời gian này đã có nhiều cố gắng. Đặc biệt chè là cây xuất khẩu chủ yếu của huyện. Trong 3 năm huyện đã trồng mới 100 ha chè, đưa diện tích chè toàn huyện lên 1.200 ha. Đảng bộ đã chú ý khai thác và có chính sách khuyến khích người trồng và người sản xuất chè khô. Nhờ vậy, sản lượng chè khô xuất khẩu tăng từ 100 tấn (1983) lên 342 tấn (1985). Đối với các loại cây xuất khẩu khác như đậu tương, trẩu... Đảng bộ huyện chỉ đạo ngành ngoại thương tăng cường vận động nhân dân thu hái và chế biến bán cho Nhà nước hoặc đổi hàng hai chiều. Năm 1985, doanh thu xuất khẩu đạt 8 triệu đồng, gấp 2 lần so với năm 1983, bình quân đầu người thu 200 đồng/năm, vượt 30 đồng so với chỉ tiêu tỉnh giao. Công tác giao thông, xây dựng, thủy lợi trong 3 năm (1983-1985) đã đạt được những kết quả khả quan, các ngành liên quan đã sử dụng vốn vật tư hợp lý, đầu tư vào những công trình trọng điểm có hiệu quả với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong 3 năm, huyện đã đầu tư trên 10 triệu đồng và 10 tấn gạo, huy động nhân dân đóng góp trên 2 triệu ngày công để làm đường giao thông, làm thủy lợi, xây dựng công sở, khai phá ruộng bậc thang, trồng cây gây rừng. Kết quả huyện làm mới được 37 km và tu sửa 20 km đường ô tô, làm 156 km đường dân sinh, tu sửa các cầu cống bảo đảm giao thông thông suốt phục vụ chiến đấu và sản xuất; tu sửa nạo vét hàng trăm mét mương, máng dẫn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Xây dựng huyện lỵ 69
  14. mới, trạm xá, trường học, trụ sở làm việc cho các xã như Tả Sử Choóng, Túng Sán, Pờ Ly Ngài, Thàng Tín; xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt ở Pố Lồ, huyện lỵ, các điểm tựa, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Về quan hệ sản xuất, nhìn chung phong trào hợp tác xã được duy trì và phát triển. Trừ 4 xã mới nhập vào đang ổn định tổ chức, hầu hết các hợp tác xã đã đi vào thực hiện khoán 100 theo sự chỉ đạo của Huyện ủy. 100% các xã đều có hợp tác xã mua bán, song hoạt động còn yếu, một phần kinh tế còn mang tính tự cấp, tự túc. Một số hợp tác xã mua bán làm ăn có hiệu quả như hợp tác xã mua bán huyện, xã Nam Sơn, Nậm Dịch, Vinh Quang, với các mặt hàng thiết yếu như dầu hỏa, muối, vải, đồ gia dụng... đã đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng của đồng bào địa phương. Các hợp tác xã tín dụng hoạt động còn yếu, số dư tiết kiệm trong 3 năm (1983 - 1985) mới chỉ đạt bình quân 50 đồng/người. Công tác phân phối lưu thông còn nhiều bất cập. Với điều kiện của một huyện sản xuất chậm phát triển, đường sá đi lại khó khăn, phương tiện vận tải còn ít, trình độ quản lý kinh tế còn yếu kém, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã thấy hết những khó khăn trên và chú ý gắn sản xuất với phân phối lưu thông, quản lý thị trường, giá cả. Các ngành kinh tế đã cố gắng vươn lên khắc phục khó khăn trong công tác thu, chi ngân sách, thu mua nông sản. Đến năm 1985, công tác tài chính, ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Thu tiền mặt từ 17,884 triệu đồng (1983) lên 21,546 triệu đồng (1985), chi tiền mặt từ 13,361 triệu đồng lên 26,740 triệu đồng. Số dư công trái tăng từ 456.000 đồng lên 473.000 đồng. Số dư tiết kiệm tăng từ 1,294 triệu đồng (1983) lên 2,745 triệu đồng (1985). Tuy vậy, trong khi thu ngân sách từ 6,036 triệu đồng (1983) xuống còn 5,619 triệu đồng (1985), thì chi ngân sách lại tăng vọt từ 4,394 triệu đồng lên 9,315 triệu đồng. Công tác thu mua nông sản thực phẩm đã thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Các mặt hàng chủ yếu được trao đổi như lương thực, chè búp khô, lợn hơi, trâu hơi, dê, đậu tương, gia cầm. Với tổng giá trị mua vào ở địa phương từ 11,5 triệu đồng (1983) lên 18,545 triệu (1984), tổng giá trị bán ra từ 10,851 triệu đồng (1983) lên 18,553 triệu đồng (1984). Công tác thu mua nông sản thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển ở địa phương. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ luôn xác định công tác văn hóa xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền và các cơ quan tham mưu, công tác văn hóa xã hội của huyện luôn giữ được phong trào. Ngành văn hóa đã vận dụng nội dung của Nghị quyết Đại hội XII vào tình hình thực tế, làm tốt công tác tuyên truyền, cổ động về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng nhiều hình thức; tổ chức nói chuyện thời sự, hội diễn văn nghệ, kẻ vẽ khẩu hiệu, viết tin ngắn cho đài phát thanh... Xây dựng được quy ước việc cưới, việc tang, xây dựng nếp sống mới và tổ chức điều tra cơ bản về đời sống văn hóa cơ sở. Qua đó đã phân loại được 98,5% đơn vị đạt danh hiệu “Đời sống văn hóa”. Mắc thêm hệ thống loa, đài truyền thanh ở các cơ sở nhằm tuyên truyền sâu rộng nhiệm vụ chính trị của địa phương. Công tác chiếu bóng có những chuyển biến rõ rệt. Đội chiếu bóng lưu động xuống các cơ sở phục vụ nhân dân và các đơn vị bộ đội ở phía trước. Hiệu sách của huyện bước đầu đã có những phương thức phục vụ mới đáp ứng yêu cầu đông đảo của bạn đọc. Song song với việc chỉ đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ không ngừng quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục và chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Trong 3 năm (1983 - 1985), huyện đã xây dựng một trường phổ thông trung học có 3 lớp với gần 100 học 70
  15. sinh và 3 trường tập trung gồm Trường Phổ thông lao động, Trường Thanh niên dân tộc, Trường Thiếu nhi rẻo cao. Bên cạnh đó huyện còn mở Trường Sư phạm 4+3 để đào tạo cấp tốc giáo viên người địa phương, lớp đầu tiên đã đào tạo được 22 giáo viên. Đây là thành tích lớn đáng tự hào, là mốc son chói lọi trong lịch sử giáo dục của Hoàng Su Phì. Tuy vậy, đối với ngành học phổ thông cơ sở, năm 1985 toàn huyện có 107 lớp với 1.961 học sinh, số học sinh đến trường giảm 39,2% so với năm 1983, bình quân 20 người mới có một người đi học. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em trong các nhà trẻ, mẫu giáo được thực hiện tốt giúp các bậc phụ huynh yên tâm lao động sản xuất và làm việc. Ngành y tế đã có nhiều cố gắng trong việc khám và chữa bệnh cho nhân dân, ngành đã phối hợp chặt chẽ với quân y trong việc cấp cứu bệnh nhân. Các trạm 156 duy trì hoạt động thường xuyên, nhiều cán bộ, y, bác sĩ đã tận tụy chăm sóc bệnh nhân như người thân của mình, mỗi người cán bộ y tế đã thực sự thực hiện đúng khẩu hiệu “lương y như từ mẫu”. Trung tâm y tế huyện liên tục tổ chức các đợt tuyên truyền nếp sống ăn ở vệ sinh, “phòng bệnh hơn chữa bệnh” trong nhân dân. Công tác thương binh xã hội, trong 3 năm (1983 - 1985) đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, cán bộ hưu trí... Từng bước đưa cuộc vận động xây dựng gia đình cách mạng gương mẫu và người công dân kiểu mẫu vào nề nếp. Thực hiện quy chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ”, trong nhiệm kỳ này công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể đã thu được những thành tựu to lớn. Từng đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ huyện được phân công phụ trách một khối, một cụm ngành và giành 1/3 thời gian xuống cơ sở. Qua thực hiện, các đồng chí đã phát huy đươc tính năng động sáng tạo của mình và chịu trách nhiệm trước tập thể về sự chỉ đạo ở cơ sở. Trong đợt thi hành Chỉ thị 79 của Ban bí thư Trung ương Đảng về phê bình và tự phê bình trong Đảng, từng đồng chí đã kiểm điểm nghiêm túc về những ưu, khuyết điểm của mình, sẵn sàng tiếp thu những ý kiến phê bình của tập thể và quần chúng. Đại đa số các đồng chí ủy viên trong Ban Chấp hành đoàn kết, thống nhất quan điểm, nhận thức và hành động, lãnh đạo và chỉ đạo toàn Đảng bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Về công tác bảo vệ Đảng. Do địa bàn huyện Hoàng Su Phì có nhiều đối tượng chính trị, lại là huyện biên giới, nên bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ và làm trong sạch nội bộ, nhằm kiện toàn bộ máy lãnh đạo từ cơ sở, quyết tâm đẩy mạnh sản xuất, củng cố các lực lượng vũ trang, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch là công tác hết sức quan trọng. Công tác bảo vệ Đảng được tiến hành từ giữa năm 1982, thực hiện Nghị quyết số 31, 32, và 36 của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng bộ Hoàng Su Phì trực tiếp tiến hành công tác bảo vệ Đảng ở 13 chi, đảng bộ và đạt kết quả tốt. Còn 19 chi, đảng bộ hoàn thành vào cuối năm 1987 và tổng kết toàn bộ cuộc vận động. Về công tác kiểm tra Đảng, thực hiện Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), quý 4 năm 1984, toàn Đảng bộ đã triển khai đồng loạt trong 2 tháng sau khi làm thí điểm ở hai cơ sở Đảng là Chi bộ Hồ Thầu và Nội Thương. Qua kiểm tra, kiểm soát, Đảng bộ đã đánh giá tương đối đầy đủ tình hình bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, việc lãnh đạo, chỉ đạo ở các cơ sở Đảng. Đánh giá được tài sản, vật tư, tiền vốn và các hoạt động khác của cơ sở và cơ quan. Huyện đã nắm chắc và phân loại các đối tượng, về chính trị, hình sự để có đối sách đúng đắn. Các vụ vi phạm chính sách 71
  16. được xử lý nghiêm minh bằng các hình thức kỷ luật và bồi thường tài sản cho Nhà nước. Cũng qua đợt kiểm tra, Huyện đã phát hiện một số cơ sở thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa nghiêm túc, nhiều lệch lạc cũng được uốn nắn kịp thời như chỉ đạo thực hiện Khoán 100, chất lượng dạy và học trong các nhà trường phổ thông... Đặc biệt là qua đợt kiểm tra ở Chi bộ Bản Máy, Đảng bộ đã xác minh và kết luận một vụ gồm có đảng viên và nhiều quần chúng nhận làm tay sai cho địch, móc nối với bọn phản động Trung Quốc nhằm lật đổ chính quyền xã Bản Máy. Bọn chúng đã bị tóm gọn trước khi hành động. Sau vụ án, huyện tiến hành chuyển dân xã Bản Máy về tuyến sau, tổ chức cho dân học tập và quán triệt quy chế bảo vệ biên giới. Sáu đồng chí đảng viên phải nhận hình thức kỷ luật của Đảng trong vụ án này, góp phần làm trong sạch nội bộ và nâng cao sức chiến đấu của chi bộ. Qua vụ Bản Máy, Đảng bộ càng thấm nhuần hơn bài học về cảnh giác cách mạng và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Năm 1985, thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, 40 chi, đảng bộ trực thuộc huyện tiến hành Đại hội theo nhiệm kỳ. Sau đại hội đã có 10 cơ sở bầu bí thư mới. Qua phân loại, 40 chi bộ có 35 chi bộ khá và 5 chi bộ yếu; số cơ sở Đảng vững mạnh năm 1985 tăng 28% so với năm 1983, cơ sở yếu giảm 20%, số đảng viên đủ tư cách tăng 54 đồng chí, đạt 92% so với tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Số đảng viên được phân công nhiệm vụ cụ thể tăng 110 đồng chí. Công tác phát triển Đảng luôn được Đảng bộ chú trọng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII. Huyện ủy chỉ đạo chặt chẽ các cơ sở Đảng mở được 10 lớp cảm tình cho 335 đối tượng là đoàn viên, quần chúng ưu tú trong các phong trào. Trong 3 năm (1983 - 1985) toàn Đảng bộ đã kết nạp được 133 đảng viên mới. Các cơ sở Đảng có thành tích trong công tác phát triển Đảng như Đảng ủy Nam Sơn, ngành Quân sự, Chi bộ Nậm Dịch, Sán Sả Hồ, Xuân Minh... Bên cạnh đó cũng còn không ít chi bộ yếu kém trong công tác phát triển Đảng như Chi bộ Thèn Chu Phìn, Chi bộ Vinh Quang. Nhằm từng bước nâng cao trình độ cho đảng viên, trong 3 năm từ năm 1983 đến năm 1985, được sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, Đảng bộ đã mở lớp bồi dưỡng cho 379 đảng viên quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V; tuyển chọn 15 thành viên ưu tú là con em các dân tộc đi dự bồi dưỡng văn hóa - chính trị tại trường Đảng tỉnh; cử 5 đồng chí cán bộ lãnh đạo đi học chuyên tu Đại học Kinh tế và 7 đồng chí đi học lớp trung cấp lý luận ở tỉnh. Ngoài ra huyện còn cử nhiều đảng viên đi học các lớp văn hóa, nghiệp vụ nhằm nâng cao chuyên môn, về phục vụ trong các ngành và các cơ sở xã. Thời gian qua, chính quyền hai cấp huyện và xã luôn được kiện toàn từng bước, cải tiến công tác điều hành, phân công trách nhiệm cụ thể, duy trì các cuộc giao ban hàng tuần, tháng, quý, năm theo luật định. Thường trực Ủy ban nhân dân hoạt động đồng đều, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Các đoàn thể quần chúng luôn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ chính trị của huyện để động viên mọi thành viên trong ngành, giới mình thi đua sôi nổi, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng. Các đoàn thể đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch chỉ đạo cơ sở và vận động đông đảo quần chúng phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước như quyên góp ủng hộ bộ đội nhân ngày lễ tết trong năm, chăm sóc diện tích lúa cao sản, động viên con em lên đường làm nghĩa vụ quân sự, mua công trái, gửi tiền tiết kiệm xây dựng Tổ quốc, làm tốt công tác hậu phương quân đội, củng cố tình đoàn kết quân dân. Có thấy hết những khó khăn trở ngại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra trong thời kỳ1976 đến 1985 mới thấy nổi bật ý nghĩa lớn lao, tác động nhiều mặt của những thành tựu mà Đảng bộ, quân dân Hoàng Su Phì đã đạt được, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta của bọn phản động 72
  17. Trung Quốc. Tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân ta được giữ vững; địa bàn các xã được thường xuyên sàng lọc trong sạch đủ sức làm thất bại âm mưu xâm lược và phá hoại của địch. Đời sống kinh tế - văn hóa của nhân dân nhiều mặt ổn định và phát triển. Năm 1985, nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội tăng vọt so với năm 1976. Tổng sản lượng lương thực tăng từ 7.147 tấn lên 12.141 tấn. Trong đó sản lượng lúa nước tăng từ 4.619 tấn lên 7.203 tấn. Năng suất lúa nước từ 20,61 tạ/ha lên 23,40 tạ/ha. Sản lượng lúa nương tăng từ 66 tấn lên 325 tấn. Năng suất lúa nương tăng từ 9,3 tạ/ha lên 13 tạ/ha. Tổng đàn trâu tăng từ 8.259 con lên 14.712 con, đàn bò tăng từ 249 con lên 665 con, đàn lợn tăng từ 13.690 lên 19.471 con. Tiền tiết kiệm có số dư cuối năm tăng từ 117.000 đồng lên 1.227.000 đồng. Một số cơ sở vật chất của huyện được xây dựng, nhất là đường giao thông và hệ thống thủy lợi, khai hoang ruộng nương bậc thang được tiến hành không ngừng. Quan hệ sản xuất được giữ vững và góp phần tích cực phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Mối quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau giữa kinh tế với quốc phòng, giữa quốc phòng với kinh tế và văn hóa xã hội đã hình thành và hoạt động có hiệu quả trên địa bàn huyện. Rõ ràng nguồn trí tuệ, sức lao động và khả năng tài nguyên, thiên nhiên của Hoàng Su Phì đã được tập trung nhiều hơn, nhanh hơn, chính xác hơn vào hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Hoàng Su Phì không những lập nên những thành tích vẻ vang trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai và ba mà còn tạo ra những nhân tố mới rất quan trọng và quý báu đó là hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng được củng cố và hoàn thiện hơn. Nhiều kinh nghiệm hay, bài học quý đã hình thành trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Điều quý giá hơn là từ phong trào cách mạng sôi nổi, hàng nghìn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ở huyện Hoàng Su Phì đã trưởng thành và nâng cao về phẩm chất chính trị, trình độ văn hóa và năng lực công tác, đoàn kết, tận tụy hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. 73
  18. CHƯƠNG V ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC HUYỆN HOÀNG SU PHÌ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 2017) I. ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG HUYỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG – AN NINH TRONG THỜI KỲ ĐẦU THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 – 2000) Kết thúc kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhìn chung tình hình kinh tế- xã hội của đất nước đã đạt được một số thành tựu. Tuy nhiên, do cơ chế bao cấp, việc thực hiện chính sách giá - lương - tiền (10/1985) cùng nhiều nguyên nhân khác đã đưa nền kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Bước vào năm 1986, Hoàng Su Phì vẫn là một huyện biên giới nghèo, đời sống nhân dân bấp bênh. Những nguyên nhân làm cho nền kinh tế của huyện chậm phát triển đã được Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII họp từ ngày 15 đến ngày 18/9/1986 chỉ rõ: diện tích canh tác ít, độ dốc lớn; thời tiết diễn biến phức tạp; phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; chậm cụ thể hóa cơ cấu kinh tế và tổ chức lại sản xuất trong quản lý và điều hành; nặng về quốc phòng, an ninh, coi nhẹ nông nghiệp và các công tác khác; bệnh quan liêu xa rời thực tế, ít xuống cơ sở…Đảng bộ đã nghiêm túc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ trong nhiệm kỳ này. Với thái độ thẳng thắn trung thực, nhìn thẳng vào sư thật, Đảng bộ kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, vượt qua mọi khó khăn thử thách, đoàn kết nhất trí bước vào thời kì đổi mới. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành khóa mới với 39 đồng chí ủy viên chính thức, 8 ủy viên dự khuyết, 11 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Đồng chí Triệu Đức Thanh được bầu làm Bí thư Huyện ủy(1). Tháng 8/1987, đồng chí Triệu Đức Thanh chuyển công tác lên tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Trân được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy. Tháng 3/1988, Tỉnh ủy Hà Giang điều động đồng chí Hoàng Minh Nhất - Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy về giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Hoàng Su Phì. Tháng 8/1988, đồng chí Nguyễn Văn Trân nghỉ hưu, đồng chí Hoàng Minh Nhất được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy. Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định bước ngoặt quan trọng trên con đường cách mạng nước ta: đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng, mở ra bước phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội nhấn mạnh sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội còn đề ra 3 chương trình kinh tế lớn về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, thời kỳ này Tỉnh ủy và Huyện ủy cũng đề ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Qua hơn 6 năm thực hiện Khoán 100, thực tế cho thấy công tác quản lý của các hợp tác xã không theo kịp tình hình mới. Theo cơ chế khoán này hộ xã viên làm chủ 3 khâu (gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch), 5 khâu còn lại do hợp tác xã đảm nhiệm. Lúc đầu động cơ vượt khoán đã kích thích các hộ gia đình đầu tư thâm canh để thu phần sản phẩm vượt khoán. Song trong quá trình thực hiện, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật (1). Theo Báo cáo số 01-BC/HU ngày 20/9/1986 của Huyện ủy Hoàng Su Phì về kết quả đại hội và bầu cấp ủy khóa mới. 74
  19. vào sản xuất còn chậm trễ, hệ thống dịch vụ nông nghiệp hiệu quả phục vụ thấp, việc cung ứng vật tư, giống, phân bón, thuốc trừ sâu không kịp thời; sản xuất tuy phát triển nhưng tốc độ chậm lại không đáp ứng được yêu cầu chung, tình trạng khê đọng sản phẩm trong hộ gia đình xã viên còn nhiều, đời sống của nhân dân còn bấp bênh. Như vậy, những kết quả thu được từ Khoán 100 tỏ ra không vững vàng. Đứng trước thực tế đó, Đảng ta lại tìm biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế, bế tắc của việc thực hiện Khoán 100, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nông nghiệp, đưa nông nghiệp phát triển lên một bước. Từ tổng kết kinh nghiệm của một số địa phương thí điểm, ngày 05/4/1988, Bộ chính trị ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý nông nghiệp, mở đầu thời kỳ đổi mới nông nghiệp và nông thôn nước ta (gọi tắt là Khoán 10). Trước khi tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã tiến hành Đại hội lần thứ XIV vào tháng 01/1989 nhằm đánh giá lại những kết quả đạt được cũng như những tồn tại hạn chế qua 2 năm thực hiện nhiệm vụ và đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu trong 2 năm 1989 - 1990. Đại hội đã nhận định: Cùng với việc đẩy mạnh các mặt công tác quốc phòng, an ninh, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua nhiều khó khăn để xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Là một huyện vùng cao biên giới, thường xuyên bị kẻ thù quấy phá, Đảng bộ huyện đã làm tốt việc gắn phát triển kinh tế với an ninh - quốc phòngđể phát triển sản xuất và ổn định đời sống. Về thực hiện ba chương trình kinh tế lớn của Đảng, Đại hội tổng kết: Thực hiện chương trình lương thực, huyện đã tập trung chỉ đạo các hợp tác xã sản xuất theo hướng thâm canh tăng vụ, tăng cường khai hoang, phục hóa ruộng bậc thang mở rộng diện tích gieo cấy, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống mới, phân bón...vào sản xuất. Tổng diện tích gieo trồng năm 1988 đạt 6.831,67 ha, tăng hơn năm 1987 là 864,62 ha và tăng hơn năm 1986 là 615,31 ha. Trong đó diện tích khai hoang phục hóa đạt 86 ha, tăng hơn năm 1986 là 20 ha. Về năng suất lúa nước năm 1988 đạt 24,28 tạ/ha, tăng hơn năm 1986 là 0,26 tạ/ha. Năng suất lúa nương đạt 14 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha. Năng suất ngô đạt 8tạ/ha, tăng 0,15tạ/ha. Từ chỗ diện tích và năng suất đều tăng đã cho tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1988 đạt 10.761,64 tấn, tăng hơn năm 1987 là 890 tấn. Bình quân lương thực đầu người năm 1988 đạt 288,3 kg. Thực hiện chương trình thực phẩm, Đảng bộ chỉ đạo hợp tác xã và các hộ nông dân tập trung phát triển đàn gia súc, gia cầm, áp dụng những biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào chăn nuôi. Năm 1988, toàn huyện có 13.525 con trâu, so với năm 1987 tăng 3%; 466 con bò tăng 9,33%; 20.699 con lợn tăng 1,5%. Thực hiện chương trình hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, huyện duy trì và phát triển các lò rèn, lò đúc ở các hợp tác xã và các hộ gia đình để sản xuất các nông cụ cầm tay, đáp ứng một phần nhu cầu, phục vụ sản xuất. Huyện còn có các chính sách khuyến khích các hộ gia đình phát triển các nghề thủ công truyền thống của địa phương như trồng bông, diệt vải tả pủ để giải quyết nhu cầu mặc trong nhân dân; từng bước xây dựng cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, xi măng... Năm 1988, toàn huyện sản xuất được 19.092 viên ngói; 11.600 nông cụ cầm tay; 2,5 tấn đinh móng ngựa, 3.560 bộ móng ngựa. Đưa giá trị tiểu thủ công nghiệp địa phương năm 1988 lên 4.200.000 đồng tăng 1.948.444 đồng so với năm 1987. Trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, huyện đã tập trung phát triển cây chè. Đến hết năm 1988, có 24/24 xã trồng chè (trước đó, năm 1986 chỉ có 9 xã trồng) đưa diện tích chè tăng từ 124 ha (1986) lên 1.148 ha (1988), trong đó có 977 ha đã cho thu hoạch. Tổng sản lượng chè thu hoạch năm 1988 đạt 3.464 tấn chè (búp tươi) tăng so với năm 1986 là 582 tấn. Đưa vào sản 75
  20. xuất chế biến và xuất khẩu đạt 445,819 tấn chè khô, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra là 5,819 tấn. Bên cạnh chè còn có cây đậu tương cũng là cây xuất khẩu thế mạnh của huyện. Năm 1988, năng suất đậu tương đạt 4,82 tạ/ha, tăng so với năm 1986 là 0,02tạ/ha. Nguồn lợi thu được từ cây chè và cây đậu tương đã cho giá trị xuất khẩu bình quân đầu người dân Hoàng Su Phì đạt 6,6 đô la/năm. Với phương châm nông- lâm kết hợp, nhiệm kỳ này Đảng bộ đã chỉ đạo các địa phương tổ chức trồng rừng ở ba khu vực: quốc doanh, tập thể và gia đình. Năm 1988, quốc doanh trồng được 50 ha; tập thể trồng được 150 ha, tăng 50 ha so với năm 1986; gia đình với mô hình kinh tế vườn rừng đã trồng được 2,5 triệu cây, tăng 0,6 triệu cây so với năm 1986. Đảng bộ chỉ đạo sản xuất lâm nghiệp gắn với cuộc vận động định canh, định cư có hiệu quả. Đồng thời tổ chức giao đất, giao rừng cho các hợp tác xã và các hộ gia đình quản lý và bảo vệ rừng. Qua nhận định tình hình, Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát: đến năm 1990, Đảng bộ phải ra sức phấn đấu thực hiện bằng được “Dân đủ lương thực ăn, các con em đều có trường học, hàng hóa tiêu dùng ngày một nhiều”. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành khóa mới với 34 đồng chí ủy viên, 5 ủy viên dự khuyết, 9 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Đồng chí Hoàng Minh Nhất được bầu làm Bí thư Huyện ủy khóa XIV. Với cơ chế khuyến khích kinh tế cá thể hộ gia đình phát triển, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác khoán và quản lý trong nông nghiệp như tiếp thêm sức mạnh cho bà con các dân tộc Hoàng Su Phì phấn khởi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới. Đảng bộ đã tổ chức làm điểm ở Hợp tác xã Lê Hồng Phong, xã Nam Sơn theo tinh thần coi trọng thâm canh, gối vụ; phát huy năng lực sản xuất của các hộ gia đình, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; điều chỉnh quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong hợp tác xã, thực hiện giao đất, ruộng ổn định; chuyển nhượng đàn trâu, bò, máy móc, nông cụ sản xuất cho các hộ nông dân; khuyến khích hộ gia đình làm kinh tế giỏi, tìm giải pháp giúp đỡ hộ nghèo vươn lên. Rút kinh nghiệm từ Hợp tác xã Lê Hồng Phong, Đảng bộ đã chỉ đạo triển khai Khoán 10 trên diện rộng. Hầu hết các hợp tác xã đã được học tập về nội dung khoán, quán triệt và triển khai nhanh chóng. Qua thực hiện Khoán 10, kinh tế hộ gia đình ở Hoàng Su Phì bước đầu phát huy tác dụng, hiệu quả kinh tế khá. Một bộ phận nông dân có vốn, có kiến thức làm ăn đã chủ động bố trí lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa. Ruộng, nương, ao hồ, các tư liệu và công cụ sản xuất được người nông dân sử dụng có hiệu quả hơn. Các ban quản lý hợp tác xã đã từng bước chuyển sang kinh doanh các loại mặt hàng như: phân bón, giống mới, tưới tiêu, bảo vệ thực vật, bảo vệ sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật, thời vụ gieo trồng...làm cho kinh tế hộ và kinh tế tập thể có liên hệ mật thiết. Năm 1990, tổng diện tích gieo trồng của toàn huyện đạt 6.689 ha, so với năm 1989 giảm 6,3% và 0,7% so với năm 1988, trong đó diện tích lúa cả năm là 3.243 ha, tăng 2,8% so với năm 1989, giảm 6,2% so với năm 1988; ngô là 1.484 ha, tăng 5,8% so với năm 1989 và 14% so với năm 1988. Diện tích các loại cây hoa màu khác có tăng nhưng không đáng kể. Năng suất một số cây trồng chính trong năm 1990 giảm so với năm 1989. Lúa mùa năm 1989 là 25,5 tạ/ha, đến năm 1990 giảm xuống còn 23,9 tạ/ha. Ngô từ 8,82 tạ/ha giảm xuống còn 8,2 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1990 là 11.400 tấn, đạt 87% mục tiêu đại hội đề ra. 76
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2