intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962-2015): Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:191

10
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962-2015): Phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Đảng bộ huyện Mèo Vạc lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1986); Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Mèo Vạc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-2015). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962-2015): Phần 2

  1. CHƯƠNG III ĐẢNG BỘ HUYỆN MÈO VẠC LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TRONG HUYỆN THỰC HIỆN 2 NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1976 - 1986) I- Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh Tổ Quốc (1976 - 1978) Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nước ta chuyển sang thời kỳ mới; thời kỳ độc lập dân tộc, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đáp ứng yêu cầu chuyển tiếp của sự nghiệp cách mạng, tháng 8 năm 1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá III đã họp hội nghị toàn thể lần thứ 24. Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; Miền Bắc phải tiếp tục hoàn thành sự nghiệp 75
  2. xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quán triệt, vận dụng Nghị quyết lãnh đạo của Trung ương và Tỉnh uỷ, Đảng bộ huyện Mèo Vạc đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực lãnh đạo nhân dân các dân tộc bước vào giai đoạn cách mạng mới: Khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là: Tăng cường củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, vận động đồng bào các dân tộc định canh, định cư, ổn định sản xuất. Đẩy mạnh củng cố phát triển hợp tác xã nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, nghề rừng, tăng diện tích, năng suất, sản lượng nông nghiệp nông thôn. Chấn chỉnh hệ thống giáo dục, y tế, thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội sau chiến tranh và công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, cùng với đồng bào cả nước, nhân dân các dân tộc Mèo Vạc nô nức đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội nước Việt Nam thống nhất và Hội đồng nhân dân các cấp; 98,4/% cử tri đã tham gia bầu cử. Nhằm tăng cường củng cố Hợp tác xã nông nghiệp và chỉ đạo một số công tác trọng tâm cấp bách của Đảng bộ, đầu năm 1976, Đảng bộ huyện đã trưng tập 20 cán bộ cốt cán của các ban, ngành để bồi dưỡng và tăng cường cho cơ sở. Đến tháng 8 năm 1976, tại 15/16 xã của huyện đã củng cố được 27 hợp tác xã với tổng số 2.439 hộ, 14.589 khẩu. Việc củng cố Hợp tác xã đã có tác dụng thúc đẩy phong trào 76
  3. sản xuất nông nghiệp trong toàn huyện, các mục tiêu kinh tế xã hội do Đại hội VII Đảng bộ huyện đề ra cơ bản hoàn thành. Diện tích sản suất nông nghiệp năm 1976 đạt 1.387 ha, đạt 97,5% kế hoạch, tăng 2% so với năm 1975. Riêng diện tích cây lương thực vượt 1% so với kế hoạch, tăng 3% so với năm 1975. Năm 1976, huyện chỉ đạo thâm canh 1.436 ha cây ngô ở 4 xã (Mèo Vạc, Pả Vi, Lũng Phìn, Lũng Pù). Trong đó có 25 ha thâm canh giống ngô cao sản, năng suất đạt 17 tạ /ha. Năm 1976 là năm đạt năng suất cao nhất so với trước đây, năng suất lúa đạt 22 tạ/ha, ngô đạt xấp xỉ 10 tạ /ha. 4 xã có năng suất ngô cao nhất đạt 11 tạ/ha (Mèo Vạc, Lũng Chinh, Lũng Phìn, Lũng Pù). Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 6.502 tấn, tăng 5,9% so với năm 1975. Thực hiện Nghị quyết 38 của Hội đồng chính phủ về công tác định canh, định cư, trong năm 1976, Đảng bộ, chính quyền huyện Mèo Vạc đã mở 3 hội nghị tại khu vực khai hoang ở các xã Xín Cái, Sơn Vĩ, Khâu Vai để kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chính sách định canh, định cư đồng thời tổ chức cho Đảng viên, quần chúng học tập các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về định canh định cư. Đến cuối năm 1976 đã có 395 hộ với 2.698 khẩu định cư lại các xóm khai hoang, toàn huyện làm được 336 ha nương, ruộng bậc thang. Về chăn nuôi, do chỉ đạo tốt công tác phòng trừ dịch bệnh và quản lý tốt khâu giết mổ, ngăn ngừa buôn bán trái phép qua biên giới, năm 1976 đàn trâu tăng 3,1%, đàn bò tăng 1,5%, đàn lợn tăng 2,8%, đàn ngựa tăng 23% so với 77
  4. năm 1975. Đời sống nhân dân tương đối ổn định. Mức ăn bình quân đạt 15,6kg/người/tháng, tăng 4% so với 1975. Tổng giá trị nông sản bán cho Nhà nước đạt 412.000đ, tăng 25% so với năm 1975. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, công tác xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được đẩy mạnh. Trong 2 năm (1975- 1976), toàn huyện đã làm mới 6 km đường ô tô 10 từ Sủng Máng đến Lũng Phìn và chính thức làm lễ thông xe tuyến đường Mèo Vạc đi Lũng Phìn dài 18 km. Đến cuối năm 1976, huyện Mèo vạc có 8/16 xã có đường ô tô tới trung tâm xã. Với thành tích trên, huyện Mèo Vạc được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba. Được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương và tỉnh, Đảng bộ huyện đã có nhiều cố gắng trong việc lãnh đạo giải quyết nước sản xuất, nước sinh hoạt cho vùng cao. Năm 1976 đã hoàn thành chỉ tiêu xây dựng bể chứa nước ở hầu hết các xóm của 11 xã núi đá phục vụ cho 9.462 người. Đến cuối năm 1976, toàn huyện đã xây dựng 885 bể nước ăn với tổng dung tích 26.658m3 giải quyết cơ bản khó khăn về nước, đặc biệt là những tháng mùa khô. Huyện đã huy động hơn 3.000 ngày công hoàn thành lắp đặt 3km đường ống dẫn nước từ Tò Dú về huyện lỵ, bảo đảm phục vụ nước sinh hoạt cho cán bộ và nhân dân thị trấn Mèo Vạc. Được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo, lĩnh vực lưu thông phân phối có bước phát triển khá. Năm 1976 tổng mức bán ra tăng 3,7% so với năm 1975, vượt 1,5% so với kế hoạch. Tuy sức mua còn thấp nhưng đã tăng hơn so với những năm 78
  5. trước đây, đời sống nhân dân khá hơn trước. Doanh thu năm 1976 vượt kế hoạch 64%, tăng 65% so với năm 1975. Việc quản lý được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ tránh được tham ô, lãng phí. Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phong trào bán nông sản cho Nhà nước chuyển biến tích cực. Năm 1976, Nhà nước mua vào lượng nông sản thực phẩm đạt 391.000 đồng, tăng 60% so với năm 1975. Giá mua thực phẩm tăng lên đã có tác dụng kích thích chăn nuôi phát triển. Năm 1976, nhân dân đã bán cho Nhà nước 108 tấn lợn hơi, 34 tấn bò hơi. Thực hiện Nghị quyết 02 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, phong trào giáo dục ở Mèo Vạc đã có nhiều chuyển biến mới. Năm học 1976, toàn huyện có 47 điểm trường, 95 lớp học. Số học sinh từ tất cả các cấp học tăng 33% so với năm 1975; Tỷ lệ học sinh so với dân số đạt 39%. Trường thiếu nhi có 102 học sinh; Trường phổ thông lao động có 40 học sinh. Toàn huyện huy động được 23% số trẻ đi học. Các lớp bổ túc văn hóa bán tập trung tại xã có 243 học viên. Lĩnh vực văn hóa xã hội phát triển mạnh, các Ban Thông tin văn hóa ở các xã được thành lập, các thôn, bản thành lập các tổ hòa giải, hàng ngàn hộ gia đình đăng ký thực hiện xây dựng “gia đình văn hóa mới”. Trong 2 năm (1975-1976), Đảng bộ huyện Mèo Vạc liên tục mở các cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên tinh thần Nghị quyết 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 195, 228 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung 79
  6. ương. Kết hợp chặt chẽ giữa các cuộc vận động bảo vệ và xây dựng Đảng gắn với nhiệm vụ chính trị cụ thể của địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện. Trong cuộc vận động này, Đảng bộ huyện đã tuyên truyền vận động nhân dân hăng hái tham gia đóng góp ý kiến với đảng viên và tổ chức Đảng. Trong 2 năm (1975- 1976) đã có 132 ý kiến của quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng bộ đã kiên quyết xử lý kỷ luật 142 đảng viên (khai trừ 36, lưu Đảng 73, cách chức 4, cảnh cáo 3, khiển trách 20, xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị 6). Trong đó có đồng chí ở cơ quan, 104 đồng chí ở nông thôn, chiếm 34,8% tổng số đảng viên của Đảng bộ. Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên lần thứ I; ngày l tháng 6 năm 1976, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VIII huyện Mèo Vạc được triệu tập. Đại hội đã thảo luận báo cáo bổ sung nhiệm kỳ và kiểm điểm việc thực hiện các nhiệm vụ từ Đại hội lần thứ VII đến nay. Đại hội xác định các mục tiêu kinh tế - xã hội những năm trước mắt là “Đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân; Tích cực sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tập trung chỉ đạo hoàn thiện quan hệ sản xuất; Tăng cường phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục, quốc phòng - an ninh. Đại hội đã bầu 32 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Sùng Tài Dùng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết khí hậu, hạn 80
  7. hán nghiêm trọng, nhưng diện tích, năng suất, sản lượng ngô các năm (1977-1978) vẫn vượt chỉ tiêu 7% Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện đề ra. Trong đó các chỉ tiêu diện tích, năng suất ngô cao sản đều tăng so với năm 1976. Riêng về cây lúa do hạn hán nên cả 2 năm đều không đạt chỉ tiêu. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1977 đạt 6.090 tấn (giảm 412 tấn so với năm 1976); Năm 1978 đạt 6.390 tấn, đạt 82,2% kế hoạch. Năng suất lúa ruộng năm 1977 chỉ đạt 14,5 tạ/ha, giảm 5,5 tạ/ha so năm 1976, năm 1978 đạt 18,5 tạ/ha, bằng 90% so với năm 1976. Việc chỉ đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới đối với hợp tác xã nông nghiệp ở Mèo Vạc luôn gặp nhiều khó khăn phức tạp. Do điều kiện sản xuất nhỏ lẻ, phân tán chưa có điều kiện tập trung lao động và đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn. Về mặt chủ quan, khó khăn trước hết là trình độ dân trí, khả năng tư duy nhận thức, trình độ hiểu biết của đồng bào các dân tộc còn hạn chế, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Quan hệ sản xuất mới trên thực tế chỉ bước đầu hình thành trên lý thuyết. Vì vậy đến cuối năm 1977, hoạt động ở các Hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Mèo Vạc chỉ ở mức góp ruộng đất, công sức chứ chưa hình thành lối làm ăn tập thể. Ngay trong Hợp tác xã, việc “hợp tác” cũng chỉ được tiến hành đối với đất gieo trồng ngô, lúa, chưa “Hợp tác” được đất đai, mùa vụ gieo trồng các loại cây trồng khác. Trong nông nghiệp, kinh tế tập thể không những không chiếm được vị trí chủ đạo mà ngược lại còn rất non kém. Nông cụ lao động, kỹ thuật thâm canh vẫn còn thô sơ, đơn giản, thủ công nên năng suất lao 81
  8. động còn thấp. Vì vậy, phong trào Hợp tác xã có chiều hướng sa sút. Năm 1977 toàn huyện có 77 Hợp tác xã quản lý 2.236 ha ngô, lúa, bằng 42,6% diện tích đất canh tác toàn huyện. Trong đó chỉ có 6 Hợp tác xã đạt loại khá, 8 Hợp tác xã loại trung bình, còn 63 Hợp tác xã loại yếu kém. Trước tình hình trên, đầu năm 1978, Đảng bộ Mèo Vạc đã tiến hành một cuộc vận động củng cố, xây dựng Hợp tác xã đồng thời chỉ đạo điểm về tổ chức lại sản xuất ở 2 xã Mèo Vạc và Lũng Phìn với phương châm “Chọn điểm xây dựng một Hợp tác xã mang tính mô hình cho vùng cao”. Cùng với việc xây dựng điểm, Đảng bộ huyện tập trung củng cố 23 Hợp tác xã yếu kém có nguy cơ tan vỡ. Đến cuối năm 1978, phong trào Hợp tác xã ở Mèo Vạc được củng cố một bước khá vững chắc. Nhờ đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích chăn nuôi đi đôi với tăng cường quản lý đàn gia súc, gia cầm và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trong 2 năm (1977- 1978), các chỉ tiêu chăn nuôi đều đạt và vượt so với kế hoạch. Chỉ tiêu bán lương thực, thực phẩm cho Nhà nước đều vượt kế hoạch. Năm 1977, huyện Mèo Vạc bán cho Nhà nước 196 tấn lương thực, 122 tấn lợn hơi. Năm 1978 toàn huyện bán cho Nhà nước 202 tấn lương thực và 107 lấn lợn hơi. Thực hiện Nghị quyết 06 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tuyên về việc làm đường ô tô cho các xã vùng cao, Đảng bộ đã chỉ đạo tập trung lực lượng cho mặt trận làm đường giao thông. Tháng 10 năm 1977, huyện Mèo Vạc thành lập Ban Chỉ huy công trường giao thông và khởi công xây dựng tuyến đường ôtô Pả Vi - Xín Cái - Thượng Phùng. 82
  9. Chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp tăng cường vận động đồng bào các dân tộc tham gia làm đường. Được sự tham gia tích cực của toàn dân, đến đầu năm 1978, các tuyến đường giao thông lên 3 xã vùng cao biên giới cơ bản hoàn thành. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về “Đưa huyện trở thành đơn vị Nông - Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp”, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện. Trong các năm 1977-1978, có 7 xã có lò ngói máng, xã Mèo Vạc có 1 lò gạch. Các nghề rèn, đúc tuy không tồn tại hình thức tập thể nhưng phát triển mạnh ở các cơ sở sản xuất tư nhân và sản suất được nhiều nông cụ, đồ gia dụng phù hợp với thị hiếu và điều kiện sản xuất ở địa phương. Năm 1978 đã làm được 1.225 lưỡi cày (vượt 22,5% so với mục tiêu Đại hội VIII đề ra), 2.625 lưỡi cuốc, 1.855 con dao và nhiều dụng cụ khác. Năm 1977, huyện thành lập 2 Hợp tác xã may mặc và nhuộm ở huyện lỵ. Ngay năm đầu thành lập và hoạt động, 2 Hợp tác xã trên đã may gia công tại chỗ được 25.703m vải (vượt chỉ tiêu 3,5%), nhuộm được 15.017m vải (vượt chỉ tiêu 27%). Đầu năm 1978, Lâm trường Mèo Vạc được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là trồng và phát triển rừng, ngay trong năm đầu thành lập, Lâm trường đã trồng được 100 ha rừng tập trung. Thực hiện Chỉ thị số 33, ngày 24/1/1978 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “xây dựng và tăng cường cấp huyện”, được cấp trên tăng cường 90 cán bộ, Đảng bộ Mèo 83
  10. Vạc đã trưng tập, bồi dưỡng thêm hơn 100 cán bộ cho nhiệm vụ “xây dựng và tăng cường cấp huyện”. Việc triển khai thực hiện chỉ thị trên được gắn với nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn huyện. Trong quá trình xây dựng và tăng cường cấp huyện, Đảng bộ rất chú trọng tăng cường, nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, Đảng bộ huyện đã cử 7 đồng chí đi học tại trường Nguyễn Ái Quốc, 8 đồng chí đi học tại trường Đảng tỉnh Hà Tuyên, 12 đồng chí đi học tại các trường chuyên môn nghiệp vụ ở Trung ương và tỉnh, 13 đồng chí đi học văn hoá. Đảng bộ huyện còn mở được các lớp bồi dưỡng chương trình lý luận cơ sở cho 232 đảng viên. Bước sang năm 1978, tình hình an ninh chính trị biên giới trở nên phức tạp do chính sách thù địch của Chính phủ Trung Quốc. Lực lượng vũ trang Trung Quốc áp sát dần ra biên giới; Tình trạng xâm canh, xâm cư, khiêu khích, lấn chiếm xảy ra ngày càng căng thẳng. Từ tháng 5 năm 1978, hàng vạn người Hoa trên khắp mọi miền đất nước bị bọn phản động tuyên truyền lôi kéo, đã nhẹ dạ cả tin bán đất, bán nhà, rời bỏ công sở, ruộng vườn, đưa cả gia đình về Trung Quốc, gây nên cảnh màn trời chiếu đất ở biên giới. Huyện Mèo Vạc có trên 100 hộ bỏ về Trung Quốc trong hoàn cảnh này. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Tỉnh uỷ Hà Tuyên, Đảng bộ Mèo Vạc đã lãnh đạo nhân dân vừa đẩy mạnh sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chuẩn bị đối 84
  11. phó với cuộc chiến tranh xâm lược có thể xảy ra. Đảng bộ đã tuyên truyền giáo dục cho cán bộ và nhân dân các dân tộc hiểu rõ và nhất trí với Đảng và Chính phủ về chủ trương giải quyết đối thoại hoà bình mối quan hệ bất hoà Việt-Trung. Tháng 7 năm 1978, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện họp, ra Nghị quyết lãnh đạo về công tác quân sự địa phương, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh xâm lược ở biên giới. Nghị quyết đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, nâng cao sức chiến đấu của các LLVT, chuẩn bị các phương án đánh địch trong mọi tình huống. Nghị quyết của Đảng bộ huyện được tổ chức học tập, quán triệt rộng rãi cùng với các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và Tỉnh uỷ về công tác quân sự quốc phòng trong tất cả các chi, Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, các LLVT và nhân dân. Từ đó, cán bộ, LLVT và nhân dân các dân tộc hiểu rõ âm mưu thủ đoạn của giới cầm quyền Trung Quốc, xác định rõ nhiệm vụ củng cố quốc phòng trong tình hình mới, ra sức chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi sắp xảy ra. Đảng bộ đã huy động gần 2 vạn lượt dân công và dân quân tự vệ lên biên giới xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; Đào đắp 24.000 m giao thông hào, 300 hầm tránh pháo. Đồng bào các dân tộc đã vót 20 vạn mũi chông tre, làm hàng trăm bàn chông sắt gửi lên các xã biên giới. Đảng bộ rất chú trọng công tác xây dựng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng lớn mạnh. Cuối năm 1978, tỷ lệ dân quân tự vệ chiếm 8,6% dân số toàn huyện. Các xã trong huyện đều 85
  12. thành lập các trung đội dân quân cơ động. Lực lượng tự vệ ở khu vực cơ quan và Lâm trường được củng cố, huấn luyện, biên chế thành 3 đại đội, được trang bị vũ khí, sẵn sàng chiến đấu. Bộ đội địa phương huyện được củng cố, mở rộng tới 2 tiểu đoàn và một số đại đội binh chủng trực thuộc. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu trên giao. Lực lượng an ninh được tăng cường củng cố từ huyện đến xóm, bản, đảm bảo giữ vững an ninh trật tự, đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại của địch. Đảng bộ huyện đã lãnh đạo chặt chẽ cuộc vận động xây dựng “gia đình văn hóa mới”, thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh Tổ quốc, bài trừ các hiện tượng tiêu cực, mê tín dị đoan. Gắn cuộc vận động này với việc phát triển sự ngiệp văn hoá, giáo dục, y tế. Trên cơ sở đó phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, xây dựng chế độ mới, nền văn hoá mới, con người mới XHCN. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng được củng cố, kiện toàn, hoạt động có nề nếp. Đoàn thanh niên cộng sản thi đua học tập, lao động với phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Năm 1978, đoàn viên thanh niên toàn huyện đã đóng góp 7.200 công lao động cộng sản. Sau khi học tập Nghị quyết quân sự của Huyện uỷ, có trên 1000 đoàn viên thanh niên tham gia các đội xung kích sẵn sàng làm tốt nhiệm vụ quân sự của Đảng. Hội Phụ nữ có phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”; Phụ nữ Mèo Vạc đã đóng góp hàng ngàn ngày công xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, quyên góp 86
  13. gần 2 tấn rau xanh ủng hộ bộ đội. Mặt trận Tổ quốc có phong trào “Phụ lão tiên tiến”; Công đoàn có phong trào “Lao động, sản xuất, công tác học tập đạt năng suất cao”. Thiếu niên nhi đồng có phong trào “Cháu ngoan Bác Hồ”. Những phong trào trên thực sự cổ vũ lôi cuốn mọi ngành, mọi giới vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc XHCN. Sau hơn 3 năm phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên lần thứ nhất, Nghị quyết Đảng bộ huyện Mèo Vạc lần thứ VIII; Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Mèo Vạc đã giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng. Nền kinh tế địa phương tuy còn nghèo nàn, nhưng bước đầu đã tạo ra thế và lực cho sự phát triển tiếp theo. Quan hệ sản xuất mới hình thành, giá trị sản lượng qua các năm đều tăng trưởng. Đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xẩy ra. II. Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ Quốc (1979 - 1986). Bước sang năm 1979, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng thẳng. Lấy cớ trừng phạt Việt Nam, ngày 17/2/1979, Trung Quốc huy động trên nửa triệu quân tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên khắp tuyến biên giới. Tại Hà Tuyên, Trung Quốc huy động 2 sư đoàn chủ lực đánh vào cả 7 huyện biên giới của tỉnh. Bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ lâm trường các huyện biên giới đã 87
  14. dũng cảm chiến đấu, bước đầu ngăn chặn các cuộc tiến công của địch. Tại Mèo Vạc, ngay từ ngày 14/1/1979 phía Trung Quốc cho quân áp sát biên giới, khiêu khích, lấn sâu vào đất ta. Ngày 2 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc sử dụng 1 tiểu đoàn đánh vào khu vực Đồn biên phòng Săm Pun và Lâm trường Săm Pun. Lực lượng vũ trang và tự vệ Lâm trường đánh trả quyết liệt, buộc địch phải rút về bên kia biên giới. Công tác chuẩn bị chiến đấu được tiến hành khẩn trương. Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất của huyện được thành lập. Sở chỉ huy tiền phương của huyện bố trí cách biên giới 1km, trực tiếp chỉ huy các lực lượng chiến đấu. Chỉ trong tháng 1/1979, huyện Mèo Vạc đã huy động 13.000 ngày công, đào đắp 1l.000m3 đất đá làm hầm hào, công sự; Khai thác, vận chuyến hàng nghìn m3 gỗ cho bộ đội làm nhà và hầm tránh pháo. Ngày 17/2/1979, trên tuyến biên giới Mèo Vạc, Trung Quốc sử dụng 1 trung đoàn chủ lực tiến công các mục tiêu quân sự của ta ở cả 3 xã biên giới (Thượng Phùng - Xín Cái - Sơn Vĩ). Sau khi sử dụng hàng chục khẩu pháo, cối các loại bắn dữ dội vào các đồn biên phòng Lũng Làn, Xín Cái, Săm Pun và các điểm cao ta chốt giữ, bộ binh địch vượt qua các mốc 138, 140 và 21 tiến đánh vào 3 đồn Biên phòng và điểm cao 1379. Ngay trong ngày đầu chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Mèo Vạc đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gẫy nhiều đợt tiến công của 1 trung đoàn địch. Thực hiện kìm 88
  15. chân, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cơ bản bảo toàn được lực lượng, bảo đảm an toàn cho nhân dân và cơ quan đóng trên địa bàn. Cán bộ, chiến sĩ đồn Biên phòng Lũng Làn và Đồn Săm Pun đã chiến đấu dũng cảm, quật cường, bẻ gẫy 6 đợt tiến công của địch, diệt và làm bị thương hàng trăm tên. Trước thế lực áp đảo của địch, ta phải rút bỏ đồn Săm Pun. Tại tuyến chốt chặt cổng trời Lùng Thúng, trước lực lượng hơn hẳn về binh lực và hỏa lực của địch, lực lượng vũ trang ta đã ngoan cường chiến đấu, không để địch vượt qua phòng tuyến cổng trời Lùng Thúng. Ngày 5/3/1979, địch tập trung lực lượng quyết đánh chiếm đồn Lũng Làn và điểm cao 1379 của ta. Pháo dịch bắn cấp tạp hàng giờ liền, sau đó bộ binh địch nhất loạt tràn sang theo 3 mũi hòng nhanh chóng chiếm đồn của ta. Nhưng 6 lần chúng hò hét xông lên thì cả 6 lần chúng đều bị đánh bật trở lại. Đánh chính diện không được, địch sử dụng 2 cánh quân thọc sâu vu hồi vào sau lưng đồn. Phán đoán trước ý đồ của địch, đồn trưởng Lộc Viễn Tài bố trí một bộ phận đón lõng ở phía Nam đồn. Khi địch tiến công vào hướng Nam đồn, Lộc Viễn Tài giao quyền chỉ huy cho đồng chí Đồn phó rồi dẫn một bộ phận chi viện cho đồng đội ở phía Nam. Bộ phận chi viện do Lộc Viễn Tài chỉ huy triển khai đánh vào sau lưng địch, diệt nhiều tên. Địch tăng cường viện binh, quyết đánh chiếm đồn Lũng Làn. Lộc Viễn Tài lệnh cho đồng đội lui về bảo vệ đồn, còn mình ở lại chặn địch. Dũng cảm, linh hoạt và mưu trí, Lộc Viễn Tài đã tiêu diệt hàng chục tên địch. Súng đạn hết, anh lấy súng địch diệt địch, dùng lựu đạn tiêu diệt dịch và anh dũng hy sinh. Ngày 89
  16. 19 tháng 12 năm 1979, Lộc Viễn Tài được Chủ tịch Nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Trước các cuộc tấn công ác liệt với lực lượng áp đảo của địch, để bảo toàn lực lượng, Ban chỉ huy thống nhất quyết định cho đồn Lũng Làn phá vây rút về điểm cao 1379. Trong trận chiến đấu ngày 5 tháng 3 năm 1979, đồn Lũng Làn đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch, diệt 125 tên. Sau hơn 1 tháng tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên khắp dải biên giới Việt Nam, trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân thế giới và bị thua đau ở chiến trường, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân. Song họ vẫn duy trì lực lượng lớn quân sự áp sát biên giới Việt Nam, thường xuyên gây tình hình căng thẳng, tiếp tục lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam trên mọi quy mô; thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt “chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tại Mèo Vạc, ngày 20/3/1979, Trung Quốc rút quân khỏi 3 xã biên giới, nhưng họ vẫn duy trì một trung đoàn áp sát biên giới, liên tục gây tình hình căng thẳng. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới tháng 2 năm 1979, lực lượng vũ trang và nhân dân Mèo Vạc đã kiên cường chiến đấu hơn 30 trận, tiêu diệt, làm bị thương 1.698 tên địch, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Với thành tích trên, 7 đơn vị và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương chiến công. Ngày 19 tháng 12 năm 1979, đồn Biên phòng Lũng Làn được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang 90
  17. nhân dân. Trước yêu cầu nhiệm vụ hết sức nặng nề của giai đoạn vừa sản xuất, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đảng viên và quần chúng được Đảng bộ quan tâm đặc biệt. Những năm 1979-1980, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được triển khai liên tục qua các đợt vận động tuyên truyền học tập Nghị quyết TW 5, Nghị quyết TW 6 khóa IV, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ huyện; tuyên truyền giáo dục về tình hình nhiệm vụ mới và thảo luận góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhằm tăng cường sức chiến đấu cho Đảng bộ, sau khi đồng chí Bí thư Huyện ủy Sùng Tài Dùng được điều lên tỉnh nhận công tác mới; ngày 09/3/1979, Tỉnh ủy Hà Tuyên quyết định cử đồng chí Lệnh Hậu Thi, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy giữ chức vụ quyền Bí thư Huyện ủy. Tiếp đó, ngày 24/3/1979 Tỉnh ủy Hà Tuyên chỉ định bổ sung 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, 03 đồng chí vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Đồng chí Mua Mí Chơ được cử giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng bộ. Công tác củng cố, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng các cấp được Đảng bộ chú trọng đặc biệt nhằm tạo ra chuyển biến tích cực, đủ sức lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược. Đảng bộ rất coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Các chủ trương, Nghị quyết của Đảng bộ vừa 91
  18. đúng với đường lối của Đảng, vừa phù hợp với thực tế địa phương. Thực hiện Chỉ thị 72 ngày 8/5/1979 của Ban Bí thư về công tác củng cố tổ chức Đảng; các cơ sở Đảng đã tiến hành Đại hội kiện toàn cấp ủy mới. Qua củng cố kiện toàn, cấp ủy viên cơ sở Đảng của Đảng bộ có 84 đồng chí. Chất lượng các tổ chức Đảng được nâng lên một bước. Công tác phát triển Đảng được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo chặt chẽ. Năm 1979 kết nạp được 19 đảng viên mới. Đánh giá phân loại tổ chức đảng, trong 31 cơ sở Đảng, không có cơ sở yếu kém. Ngày 27/7/1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mèo Vạc lần thứ IX được triệu tập. Đây là Đại hội bảo vệ Tổ quốc, xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, giữ vững an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc. Vào thời điểm tiến hành Đại hội IX, Đảng bộ huyện Mèo Vạc có 494 đảng viên, chiếm tỷ lệ 1,44% dân số, sinh hoạt tại 28 Chi bộ cơ sở và 3 Đảng bộ trực thuộc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 23 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí. Đồng chí Lệnh Hậu Thi được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Đại hội xác định những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ Đại hội IX là: “Đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, củng cố quan hệ sản xuất, xây dựng Hợp tác xã tiến tới xây dựng cấp huyện theo hướng phân cấp quản lý mới. Phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, giao thông nông thôn. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, đánh thắng chiến 92
  19. tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng vững mạnh”. Chiến sự ác liệt ở biên giới đã làm đảo lộn cuộc sống thanh bình của nhân dân, công cuộc xây dựng CNXH ở địa phương bị ngừng trệ, các mục tiêu kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm (1976-1980) không hoàn thành. Huyện Mèo Vạc phải di dời 292 hộ/1.237 khẩu ở 3 xã biên giới vào nội địa, diện tích canh tác lúa, ngô bị bỏ hoang 163,3 ha. Do phải tập trung cao nhất, trước hết mọi nguồn lực cho nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu; tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1979 chỉ đạt 89,6% kế hoạch (đạt 6.250 tấn). Năm 1980, do hạn hán nặng và lốc xoáy làm thiệt hại gần 1.000 ha lúa và ngô, sản lượng lương thực chỉ đạt 84,7% kế hoạch (đạt 6.190 tấn). Tuy vậy, công tác huy động lương thực cho Nhà nước vẫn đạt kế hoạch, năm 1979 toàn huyện huy động được hơn 196 tấn, năm 1980 huy động được 204 tấn. Chăn nuôi không đạt kế hoạch, trong 2 năm 1979-1980, toàn huyện chỉ huy động được 121 tấn lợn hơi bán cho Nhà nước. Năm 1979, huyện Mèo Vạc trồng được 67,4 ha rừng, tu bổ 30,5ha. Huy động thực phẩm năm 1979 vượt chỉ tiêu trên giao 110%. Tổng kết phong trào mua bán lương thực, thực phẩm 3 năm (1977-1979), huyện Mèo Vạc được Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Trước yêu cầu chi viện nhân lực, vật lực cho tuyến trước xây dựng tuyến phòng thủ: năm 1979, Đảng bộ huyện Mèo Vạc đã huy động 1,4 vạn lượt dân công cùng LLVT 93
  20. đào đắp 5.026m3 đất đá, xây dựng 69 trận địa, đào 4000 m hào giao thông, xây dựng 20 trận địa ở tuyến 2; khai thác, ủng bộ và đưa vào sử dụng 13.144m³ gỗ làm 190 gian nhà và hàng trăm hầm chiến đấu. Chính quyền, mặt trận, đoàn thể quần chúng các cấp đã vận động đồng bào các dân tộc ủng hộ bộ đội hàng tấn rau xanh, hàng ngàn bó củi, và thăm hỏi động viên, tặng quà, giúp đỡ bộ đội tại các nơi đóng quân. Chi bộ xã Sơn Vĩ đã tổ chức lực lượng thanh niên, phụ nữ luân phiên nhau gùi nước, ủng hộ rau xanh mang lên tận trận địa cho các chiến sỹ đồn biên phòng Lũng Làn. Đáp ứng yêu cầu chiến đấu và sản xuất, ngành Bưu điện Mèo Vạc đã lắp đặt 1 tổng đài 10 số ở Lũng Phìn và làm được 12 km đường thông tin hữu tuyến từ Lũng Phìn đến xã Sủng Trái và 8 km từ huyện lỵ đến trận địa H12. Được sự quan tâm đầu tư của cấp trên, tuyến đường cấp thông tin tải 3, thông với tỉnh và Trung ương được xây dựng và lắp đặt hoàn chính đưa vào sử dụng kịp thời phục vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu… Năm 1979, huyện Mèo Vạc đã huy động 310.000 ngày công hoàn thành 38 km đường ô tô, xây dựng 04 cầu bê tông lớn, nhỏ. Lực lượng vận tải cơ giới và thô sơ đã vận chuyển 75 tấn lương thực. 12,5 tấn quân trang và 93.6 tấn hàng hóa phục vụ chiến đấu. Năm 1980, toàn huyện huy động 58.774 ngày công lao động, đào đắp và kè 83.691m³ đất đá, hoàn thành tuyến đường ô tô từ Lũng Phìn đi Thài Phìn Tùng dài 7.045m và từ Cở Tảng đi Tiểu đoàn 8 dài 1.100 mét... 94
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2