intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang (1986-2016)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:224

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang (1986-2016)" giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Việt Quang giai đoạn 1986 - 2016. Với 30 năm thành lập, Đảng bộ, chính quyền thị trấn Việt Quang (1986 - 2016); dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ huyện Bắc Quang, phong trào cách mạng của thị trấn đã trải qua một chặng đường lịch sử với nhiều thuận lợi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang (1986-2016)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN VIỆT QUANG TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỊ TRẤN VIỆT QUANG (1986 - 2016) Xuất bản, năm 2017 1
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Thị trấn Việt Quang là trung tâm của huyện Bắc Quang, trong những thập niên qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ huyện Bắc Quang, Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vượt qua mọi khó khăn để phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng trật tự, an toàn xã hội. Nhằm ghi chép, lưu giữ lại những thành tựu của Đảng bộ và nhân dân đã đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, để các thế hệ sau tìm hiểu, trân trọng và tiếp bước noi theo. Thực hiện Chỉ thị số 24 - CT/TU, ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang “Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 15 - CT/TW, ngày 28 tháng 08 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”. Ban Thường vụ Đảng bộ thị trấn Việt Quang đã chỉ đạo thành lập ban sưu tầm, nghiên cứu và biên tập cuốn "Truyền thống 3
  4. cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang". Nội dung cuốn sách giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Việt Quang giai đoạn 1986 - 2016. Với 30 năm thành lập, Đảng bộ, chính quyền thị trấn Việt Quang (1986 - 2016); dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ huyện Bắc Quang, phong trào cách mạng của thị trấn đã trải qua một chặng đường lịch sử với nhiều thuận lợi. Đặc biệt vào giai đoạn khi cả nước bắt đầu bước sang thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý, từ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Là thị trấn trung tâm của huyện, tuy vậy đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc cũng còn gặp nhiều khó khăn do mới được chia tách, thành lập. Song với ý trí kiên định, đoàn kết, trung thành, sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc trong thị trấn luôn tiếp bước cha anh, đoàn kết xung quanh Đảng để cống hiến sức người, sức của cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ 4
  5. quyền của dân tộc và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "Dân giầu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh". Thông qua cuốn sách để giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc và thế hệ trẻ luôn luôn tự hào truyền thống vẻ vang của quê hương, của đất nước; từ đó, biết kế thừa và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân các dân tộc quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu và biên tập, Ban Thường vụ Đảng uỷ luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo huyện uỷ, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang; sự hỗ trợ đóng góp quý báu của các đồng chí cán bộ, đảng viên, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ lãnh đạo qua các thời kỳ và nhân dân các dân tộc trong thị trấn để hoàn thành cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang", giai đoạn 1986 - 2016. Trong thời gian biên tập, mặc dù ban biên tập đã có nhiều cố gắng với trách nhiệm được giao và 5
  6. tinh thần quyết tâm cao trước Đảng bộ; song cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi xin tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng bộ, chính quyền của thị trấn Việt Quang, Ban Thường vụ Đảng ủy thị trấn xin trân trọng giới thiệu cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Việt Quang" (1986 - 2016) tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc cùng bạn đọc./. T/M BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY BÍ THƯ Lê Văn Sự 6
  7. PHẦN I Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội và truyền thống lịch sử của thị trấn Việt Quang trước năm 1986. I. Điều kiện tự nhiên: Việt Quang là thị trấn mới được thành lập và cũng là trung tâm hành chính của huyện lỵ Bắc Quang. Phía Bắc tiếp giáp với xã Việt Vinh; phía Nam giáp xã Hùng An; phía Đông giáp xã Quang Minh và xã Việt Vinh; phía Tây giáp xã Việt Hồng và xã Tân Trịnh - huyện Quang Bình. Địa hình không bằng phẳng, do bị chia cắt bởi các dãy đồi, núi cao và các khe suối; diện tích của thị trấn chủ yếu là đồi núi đất sen kẽ núi đá. Sự kiến tạo của địa chất đã tạo nên những thung lũng, soi bãi phù xa màu mỡ phù hợp cho việc trồng cây lương thực, cây ăn quả và các loại cây ngắn ngày khác. Tổng diện tích đất tự nhiên của thị trấn Việt Quang đến năm 2016 là 4.674,24 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 4.015,80 ha; đất trồng lúa 233,99 ha; đất trồng cây lâu năm 172,7 ha; đất lâm nghiệp 3.506,08 ha; đất phi nông nghiệp 324,71 ha; còn lại các loại đất khác 333,73 ha. Rừng ở đây 7
  8. trước kia phong phú và đa dạng về sinh học, có nhiều gỗ quý như: Đinh, lát, dổi, trò …, có nhiều loại thảo dược quý hiếm và chim muông, động vật hoang dã như: Hổ, báo, gấu, lợn rừng, hươu, nai, sơn dương, nhím, chim trĩ, vẹt, sáo, iểng….; song do con người khai thác, săn bắn, chưa có ý thức bảo vệ, nên rừng tự nhiên bị kạn kiệt, các loại gỗ quý và động vật hoang dã không còn đa dạng như trước; hiện nay chủ yếu là rừng tái sinh và rừng trồng, rừng nguyên sinh không còn nhiều. Đất rừng của thị trấn không cao, nên thích hợp với nhiều loại cây trồng như: cây chè, cây bưởi, các loại cây lâm nghiệp.... và kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, gia cầm; đồng thời gieo, trồng sen kẽ với các loại cây ngắn ngày; mặt khác với lợi thế nhiều khe, suối thuận tiện cho việc đắp đập, ao hồ vừa phục vụ thuỷ lợi, tưới tiêu đồng ruộng, vừa chăn nuôi cá, thuỷ cầm tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Hệ thống suối của thị trấn Việt Quang phân bổ tương đối đều, các thôn, tổ dân phố đều có các khe, suối nhỏ chảy qua. Lớn nhất là suối Thủy bắt nguồn từ dãy núi Tây côn lĩnh chảy qua địa phận của thị trấn, qua xã Tân Trịnh của huyện Quang Bình và chảy xuống sông Bạc, có chiều dài trên địa phận thị trấn trên 6 km rất thuận lợi cho việc xây dựng thủy 8
  9. điện, ngoài ra còn có những khe suối nhỏ chảy qua địa phận của các thôn bản. Hệ thống khe suối đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng thuỷ điện, phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Song các con suối cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, nhất là vào mùa mưa đi lại khó khăn do bị lũ ống, lũ quét gây sạt lở đất, cuốn trôi hoa màu, gia súc, nhà cửa, gây thiệt hại không nhỏ cho địa phương và nhân dân. Khí hậu của thị trấn Việt Quang cùng chung với vùng khí hậu của huyện Bắc Quang, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết, khí hậu có hai mùa rõ nét, mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm. Lượng mưa hàng năm đạt trên 3.500 mm, độ ẩm trung bình 80%; nhiệt độ trung bình 270C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình của mùa đông từ 18 - 220C; lượng mưa không đáng kể. Nhìn chung khí hậu, thời tiết ở địa phương rất phù hợp cho việc phát triển các loại cây trồng và vật nuôi để phát triển sản xuất, kinh doanh làm giầu trên chính mảnh đất của mình. Song có năm, có những tháng rét đậm kéo dài nhiệt độ xuống dưới 50C ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, chăn nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân; 9
  10. những năm gần đây do sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, nên khí hậu của huyện nói chung và của thị trấn nói riêng cũng đã có sự thay đổi ít nhiều. Hệ thống giao thông đường bộ của thị trấn được đầu tư phát triển nhanh hơn các xã khác trong huyện - vì đây cũng là trung tâm của huyện lỵ Bắc Quang. Trước cách mạng tháng 08 năm 1945, khu đất này rất ít người sinh sống, rừng núi rậm rạp, đi lại còn khó khăn, chủ yếu đường mòn, duy nhất có đường trục chính liên tỉnh chạy qua địa phận của thị trấn. Sau cách mạng tháng 08 năm 1945 đến nay, các tuyến đường mòn, đường lâm nghiệp đã được quy hoạch, thiết kế, đi lại nối liền các tổ dân phố, thôn bản với nhau; hiện nay các tuyến đường chính đã được sửa chữa, mở rộng rải nhựa; các tuyến đường lối liền các tổ dân phố, các thôn bản đã được bê tông hóa với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Thị trấn có 4 tuyến đường chính chạy qua đã được rải nhựa; như tuyến quốc lộ II chạy qua thị trấn Việt Quang có chiều dài trên 6 km, chạy qua 11 Tổ dân phố của thị trấn ( từ Tổ dân phố số 1 đến tổ dân phố 11); tuyến quốc lộ 279, điểm đầu từ quốc lộ II ngã ba Bưu điện Bắc Quang chạy qua Tổ dân phố 12, 13, 14, qua thôn Cầu Thủy, thôn Thanh Sơn, chạy qua các xã của huyện Quang Bình 10
  11. ra quốc lộ 70 đi Lào Cai; tuyến thứ 03 bắt đầu từ Tổ dân phố số 03 chạy qua thôn Thanh Bình, Tổ dân phố 12, Tổ 13, Tổ dân phố số 06 và nối liền với quốc lộ II; tuyến thứ 04 từ Tổ 01 chạy qua khu hồ Quang Minh đến Tổ dân phố 09 nối với quốc lộ II tại ngã ba chợ Thủy Vôi. Đến năm 2016, thị trấn Việt Quang có 14 Tổ dân phố và 09 thôn; 100% các Tổ dân phố và các thôn đều đã có đường ô tô tới trung tâm. Với hệ thống giao thông đường bộ của thị trấn đã được đầu tư xây dựng và từng bước phát triển trong những năm gần đây, là điều kiện thuận lợi cho các phương tiện ô tô, xe máy và người dân vận chuyển, lưu thông hàng hoá, đi lại dễ dàng tới trung tâm thị trấn, chợ, các Tổ dân phố, các thôn bản và vươn ra các huyện, tỉnh khác trong cả nước. II. Điều kiện xã hội và con người Trước năm 1986, thị trấn Việt Quang thuộc địa phận của 02 xã Quang Minh và xã Việt Vinh ngày nay. Ngày 19 tháng 02 năm 1986, thực hiện Quyết định số 14/QĐ - HĐBT, của Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh, chia tách địa giới một số xã, thị trấn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà - Tuyên; thị trấn Việt Quang (1) được thành lập trên cơ sở sát nhập 988,23 (1). Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-2001), nhà xuất bản chính trị Quốc gia 11
  12. ha đất và 1.877 nhân khẩu của 04 hợp tác xã là: Hợp tác xã Thanh Bình, hợp tác xã Thanh Sơn, hợp tác xã Cầu Ham và hợp tác xã Việt Vân của xã Việt Vinh; 809,0 ha đất và 1.213 nhân khẩu của 03 đội sản xuất gồm đội 16a, 16b và đội 17 của xã Quang Minh và 7.242 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên chức của các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn thị trấn. Khi mới thành lập, tổng diện tích đất tự nhiên của thị trấn là 1.797,23 ha với 10.332 nhân khẩu. Khi thành lập thị trấn Việt Quang có 04 khu phố và 05 thôn gồm: Khu phố Quang Vinh, khu phố Quang Sơn, khu phố Quang Vân, khu phố Quang Thành và 05 thôn gồm thôn Thanh Bình, thôn Thanh Sơn, thôn Cầu Ham, thôn Việt Vân và thôn Minh Thành; với 14 dân tộc cùng chung sống, gồm dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Hoa, dân tộc Mường, dân tộc Nùng, dân tộc Mông, dân tộc La Chí, dân tộc Pà Thẻn, dân tộc Cao Lan, dân tộc Sán Dìu, dân tộc Khơ me, dân tộc Ngái, dân tộc Mông. Trong những năm 1990 đến năm 1996, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện Bắc Quang về việc điều chỉnh, chia tách và đổi tên các thôn bản, các khu phố để phù hợp với sự phát triển của xã hội: Khu phố Quang Vân được chia 12
  13. tách thành hai khu phố là khu phố Quang Vân và khu phố Số 3; khu phố Quang Thành được chia thành hai khu phố là khu phố Nguyễn Huệ và khu phố Quang Thành; thôn Minh Thành được chia tách thành hai là thôn Minh Thành và thôn Tân Thành; thôn Cầu Thủy được chia tách thành hai là thôn Cầu Ham và thôn Cầu Thủy; thôn Thanh Sơn được chia tách thành hai là thôn Thanh Sơn và thôn Tân Sơn; thôn Thanh Bình được chia tách thành hai là thôn Thanh Bình và thôn Thanh Tân. Sau khi chia tách xong thị trấn Việt Quang có 15 khu phố và thôn bản gồm: Khu phố Quang Vinh, Quang Sơn, Quang Vân, Quang Thành, Nguyễn Huệ, khu phố Số 3 và các thôn Thanh Bình, Thanh Sơn, Tân Sơn, Cầu Ham, Việt Vân, Minh Thành, Cầu Thủy, Tân Thành và thôn Thanh Tân. Tháng 10 năm 2008, thực hiện đề án của huyện Bắc Quang về xây dựng thị trấn Việt Quang trở thành đô thị, vì vậy một số khu phố và thôn bản tiếp tục được chia tách, đổi tên cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong đó khu phố Quang Vinh được chia tách và đổi tên thành 03 Tổ dân phố và lấy tên là Tổ dân phố số 1, Tổ dân phố số 2 và Tổ dân phố số 3; khu phố Số 3 chia thành hai tổ và lấy 13
  14. tên là Tổ dân phố số 4 và Tổ dân phố số 5; thôn Việt Vân đổi tên là Tổ dân phố số 6; khu phố Quang Vân đổi tên là Tổ dân phố số 7; khu phố Nguyễn Huệ chia thành hai tổ là Tổ dân phố số 8 và Tổ dân phố số 9; khu phố Quang Thành chia tách thành hai tổ và lấy tên là Tổ dân phố số 10 và Tổ dân phố số 11; khu phố Quang Sơn được chia tách thành ba tổ và lấy tên là Tổ dân phố số 12, Tổ dân phố số 13 và Tổ dân phố số 14; thôn Cầu Thủy được chia thành hai thôn lấy tên là thôn Cầu Thủy và thôn Việt Tân. Sau khi chia tách, đổi tên lần thứ hai thị trấn Việt Quang gồm 23 Tổ dân phố và thôn bản, trong đó có 14 Tổ dân phố và 09 thôn bản. Đến hết năm 2016, số Tổ dân phố và các thôn được duy trì và không thay đổi gồm từ Tổ dân phố số 01 đến Tổ dân phố số 14 và 09 thôn: Thôn Việt Tân, thôn Cầu Ham, thôn Cầu Thủy, thôn Minh Thành, thôn Tân thành, thôn Thanh Bình, thôn Thanh Tân, thôn Thanh Sơn và thôn Tân Sơn. Sự điều chỉnh địa giới hành chính, đã góp phần thuận lợi cho Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân trong thị trấn tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội từng bước ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra. 14
  15. Từ xưa tới nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong thị trấn luôn sống gần nhau, đoàn kết, thân thiện, cởi mở cùng nhau xây dựng quê hương, bảo vệ làng bản, tổ dân phố. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân các dân tộc tại đây trước khi thành lập thị trấn đa dạng và phong phú hơn các xã khác trong huyện như cấy lúa nước, lúa cạn, trồng ngô, các cây hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm; ngoài ra còn có các hộ kinh doanh buôn bán, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu sản xuất, đời sống của nhân dân trong và ngoài huyện. Diện tích đất sản xuất lúa nước ở đây trước kia hầu như thôn nào cũng có song không nhiều; thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách "Định canh định cư" nhân dân đã tích cực khai hoang, phục hoá, làm ruộng phát triển sản xuất nông nghiệp và phát triển ngành nghề; đến nay, sản xuất nông nghiệp chủ yếu của thị trấn tập trung ở các thôn Việt Tân, Cầu Thủy, Cầu Ham, Minh Thành, Tân Thành, Thanh Bình, Thanh Tân, Thanh Sơn, Tân Sơn, còn các tổ dân phố chủ yếu các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp và các hộ cán bộ công chức, viên chức các cơ quan của huyện đóng trên địa bàn thị trấn. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm nước ta, chúng chiếm đóng Hà Giang vào năm 1887. 15
  16. Tháng 4 năm 1890, sau khi điều chỉnh phạm vi quản lý, thực dân Pháp xác lập chế độ quân quản. Trước hết chúng tiếp tục duy trì và củng cố đội ngũ tay sai ở cấp cơ sở như: Lý Trưởng, Phó Lý, hội đồng kỳ mục ở vùng đồng bào dân tộc Tày; đối với khu vực người Dao cư trú chúng lập thành động và cử người Dao làm quản động. Chúng tiếp tay cho bọn cầm quyền ra sức bắt phu, bắt lính, thu thuế. Nhân dân phải bỏ công việc đồng ruộng để đi phu, đi lính, xây dựng đồn bốt và các công việc khác không công, phục vụ cho bộ máy cai trị của chúng (tự lo cơm, gạo, thực phẩm, công cụ... đi làm); những người dân muốn tránh khỏi nạn đi phu, bắt lính phải chạy tiền đút lót cho Lý Trưởng, Phó Lý trong xã. Để thực hiện các chính sách đề ra, chúng thành lập đội lính dõng phục vụ mưu đồ của chúng. Nhân dân các dân tộc Hà Giang vốn có truyền thống chống ngoại xâm, đã không khuất phục trước bất kỳ thế lực thống trị nào, luôn sẵn sàng đứng lên chống lại chế độ thực dân Pháp và bè lũ tay sai; chúng áp đặt hệ thống cai trị từ Tỉnh đến Huyện, xã Quang Minh và Việt Vinh (thị trấn Việt Quang ngày nay) cũng không ngoài hệ thống cai trị đó. Thâm độc hơn chúng còn khuyến khích người dân trồng, hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc.... 16
  17. Các hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội luôn luôn là bạn đồng hành với chính sách ngu dân của chúng, với mục đích đầu độc và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Chính vì chính sách đó, nên hầu như 100% người dân thất học và không có một lớp học nào. Khi bị ốm đau chỉ dựa vào cây rừng hoặc cúng bái là chính, vì vậy dịch bệnh xẩy ra thường xuyên như: Dịch sốt rét, dịch đậu mùa, thương hàn, sởi... không có thuốc điều trị, nên không tránh khỏi những tổn thất thương tâm trong nhân dân. Nền văn hoá của các dân tộc phát triển rất sớm. Tuy mỗi dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng, đặc trưng cho từng dân tộc. Nền văn hóa đó được thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, văn hóa, phong tục tập quán, những câu truyện dân gian, những bài then, lượn ca ngợi cái đẹp, tình yêu thiên nhiên, đất nước, quê hương, tình yêu nam nữ....; đồng thời phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. Những nhạc cụ dân tộc, cũng được từng dân tộc sáng tạo ra phù hợp với những làn điệu dân ca như: Thổi sáo, đàn tính, nhị, đàn bầu, chiêng, phách.... Tại các ngày lễ, tết cổ truyền của dân tộc, các hoạt động lễ hội, tín ngưỡng xen kẽ với các hoạt động thể thao, văn nghệ quần chúng cũng được nhân dân thực hiện sôi nổi như: Đánh quay, đánh yếu, đẩy gậy, hát giao duyên, 17
  18. hát then, hát lượn, chèo, ném còn... Chính các làn điệu văn hóa - nghệ thuật của các dân tộc đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Song văn hóa - phong tục của các dân tộc đều có một đặc điểm chung là thờ cúng tổ tiên, khi mất đều được làm ma, con cháu khi đến tuổi trưởng thành đều được cưới hỏi, xây dựng gia đình, cúng bái theo phong tục, tập quán phù hợp với từng gia đình, từng dòng họ và từng dân tộc và được lưu truyền đến ngày nay từ thế hệ này, sang thế hệ khác. Tuy nhiên, ngày nay bản sắc văn hóa của các dân tộc có pha lẫn tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác, song không mất đi bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc đã được sáng tạo, gìn giữ từ xưa tới nay. Để phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế ngày càng sâu rộng. Tích cực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống lành mạnh, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần phát triển, giữ gìn nền văn hóa các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; đồng thời biết chọn lọc những điểm mới, cái hay, cái đẹp, văn minh của văn hóa nhân loại để đưa vào đời sống xã hội làm phong phú thêm văn hóa dân tộc mình. 18
  19. Tín ngưỡng của các dân tộc trong thị trấn Việt Quang cũng như đại đa số các dân tộc khác của Việt Nam, chủ yếu không theo một tôn giáo chính thống nào, mà chỉ thờ cúng tổ tiên theo phong tục truyền thống và luôn được gìn giữ, lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác từ xưa tới ngày nay. Tuy nhiên trong những thập niên gần đây một bộ phận người dân đã quy y theo đạo phật tử, một số hộ theo đạo thiên chúa giáo, song số lượng không nhiều. Về lĩnh vực đời sống kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách hết sức hà khắc, với các loại thuế khác nhau đánh vào người dân như: Thuế thân, thuế điền, thuế gia ốc, thuế nuôi quân, thuế kinh lý, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế kiểm lâm, thuế rượu, thuế đò, thuế chợ.... làm cho nhân dân khổ cực và không ít gia đình khuynh gia bại sản, phải bán ngựa, bán trâu... thậm trí nhiều gia đình không có tiền để mua muối ăn. Về kinh tế trước khi thành lập thị trấn, nhân dân các dân tộc chủ yếu vẫn là sản xuất nông - lâm nghiệp, trong đó cây lương thực chính là lúa và cây ngô; ngoài ra nhân dân còn phát triển trồng cây công nghiệp như chè, lạc, cây ăn quả như cam, quýt, bưởi, chuối..., các cây ngắn ngày khác như: rau, dưa, đậu đỗ các loại xen kẽ trên các nương, trồng trên 19
  20. ruộng, các soi bãi. Đồng thời phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, dê, trâu, bò, vừa hỗ trợ sản xuất, cải thiện đời sống, vừa tăng thu nhập trong nhân dân; một số hộ cũng đã phát triển các nghề dịch vụ như: buôn bán nhỏ, chế biến đậu phụ, chế biến chè, thủ công mỹ nghệ, rèn.... Dân số tại khu vực này trước đây rất ít, chỉ khoảng hơn 100 hộ, với 752 nhân khẩu và 02 dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Tày và dân tộc Dao mỗi dân tộc sống theo từng khu vực. Sau năm 1954, khi miền Bắc được giải phóng và tiến thẳng lên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục sự nghiệp chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam với chủ trương đưa dân tộc kinh lên khai hoang và phát triển kinh tế ở các tỉnh miền núi, sống đan sen với nhau và luôn đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm trong sản xuất, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ làng bản, nên nhận thức của người dân ngày được nâng cao. Đến tháng 12 năm 2016 thị trấn Việt Quang có tổng số 3.699 hộ, với 13.674 người; trong đó nữ 6.715 người, chiếm 49,1% tổng số người trong toàn thị trấn và có 14 dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Nùng, dân tộc Mông...; trong đó dân 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0