Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 2
lượt xem 1
download
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 2 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Chi bộ đảng và nhân dân xã Lũng Thầu trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1986); Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng (1986 – 2018). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 2
- 29 Phần ba CHI BỘ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN XÃ LŨNG THẨU TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1976 - 1986) 1. Chi bộ xã Lũng Thầu lãnh đạo nhân dân trong xã đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp; củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng (1976 - 1978) Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất đi lên CNXH. Trong khí thế vui mừng đất nước được độc lập và thống nhất, ngày 25/9/1975, Bộ chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) ra nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh. Ngày 27/12/1975 tại kỳ họp thứ 2 - Quốc hội khóa V, quyết định giải thể các Khu tự trị và hợp nhất một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên 15. Đầu năm 1976, tỉnh Hà Tuyên chính thức được ổn định tổ chức và đưa mọi hoạt động của tỉnh mới hợp nhất đi vào nền nếp. Xã Lũng Thầu bước vào thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1976 với một tinh thần hết sức phấn khởi, là cả nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do, cả nước ta chỉ còn một nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm mà Nhà nước ta có nhiều sự kiện trọng đại: Quyết định của Quốc hội về việc bỏ cấp khu, sáp nhập tỉnh, tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội chung của cả nước, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 nhằm đáp ứng với tình hình nhiệm vụ mới. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn này đòi hỏi cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân dân các dân tộc trong xã rất nhiều mặt phải vươn lên một cách mạnh mẽ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đang đặt ra nhiều nhiệm vụ rất nặng nề, trong khi đó, trình độ nhận thức, tư tưởng chính trị, trình độ hiểu biết về quản lý kinh tế và khoa học kỹ thuật còn rất hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm. Trước tình hình đó, chi bộ xác định “củng cố hợp tác xã nông nghiệp là cơ sở ban đầu để xây dựng xã hội chủ nghĩa, là bản chất ưu việt của chế độ ta, nên không có con đường nào khác là củng cố xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân...”. Vì vậy, đến cuối năm 1976 Chi bộ Lũng Thầu lãnh đạo củng cố phong trào hợp tác xã cơ bản đạt yêu cầu đề ra. Tuy nhiên, số hộ vào hợp tác xã còn ở mức thấp so với các xã khác trong huyện. Ngày 25/4/1976 cùng với cử tri và nước, cử tri xã Lũng Thầu đã nô nức tham gia tổng tuyển cử bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VI, xã Lũng Thầu có 2 khu vực bỏ phiếu, tổng số có 209 cử tri, số đi bầu 209, đạt tỷ lệ đi bầu đạt 100%, là 1 trong 4 xã của huyện Đồng Văn đạt tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 100%. Cử tri đã bầu ra những đại biểu ưu tú đại diện cho nhân dân các dân tộc của huyện Đồng Văn ở Quốc hội, đó là niềm vinh dự, tự hào cho cử tri của xã Lũng Thầu. 15 Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang - tập III (1975-2005), trang 8.
- 30 Ngày 14/12/1976, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV được tổ chức, đại hội đề ra đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, quyết định mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980). Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ cấp trên, ngày 24/10/1976 Đại hội Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ X được tiến hành. Đại hội đã xác định tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa; xây dựng củng cố Hợp tác xã nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật mới vào các cây, con; xây dựng ruộng, nương bậc thang, bố trí cây trồng, vật nuôi thích hợp với từng vùng; đẩy mạnh phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây đặc sản bằng cách thâm canh, tăng năng suất. Ngày 25/4/1977, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên16 lần thứ Nhất được tổ chức, Đại hội đã đề ra chủ trương xây dựng Hà Tuyên thành tỉnh phát triển toàn diện cả về kinh tế - chính trị, quốc phòng - an ninh, có cơ cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn XHCN. Đầu tư phát triển nông nghiệp, trong đó sản xuất lương thực là nhiệm vụ hàng đầu, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, tăng tích lũy cho Nhà nước. Thực hiện Thông tri số 19-TT/TU của Tỉnh ủy và Chỉ thị 02/CT-UB ngày 08/01/1977 của UBND tỉnh về việc đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm. Ngày 20/5/1977, UBND huyện Đồng Văn ban hành Chỉ thị số 38/CT-UB về tổ chức phong trào “Đồng khởi” thi đua lao động, sản xuất và tiết kiệm, nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1977. Mục tiêu của phong trào “Đồng khởi” là động viên toàn thể cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong toàn huyện ra sức thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, phấn đấu hoàn thành toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước huyện đã giao năm 1977 - là năm quan trọng của kế hoạch 5 năm (1975-1980), cũng là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Tư, và Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ Nhất. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Huyện ủy, chi bộ xã Lũng Thầu đã tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III về nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên lần thứ Nhất và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X, đồng thời xác định chương trình mục tiêu phấn đấu thực hiện phong trào “Đồng khởi”. Qua đợt học tập, và triển khai phong trào, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về đường lối và nhiệm vụ cách mạng được nâng lên một bước, củng cố niềm tin vào công cuộc xây dựng CNXH do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đồng tâm hiệp lực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực. Bước vào năm 1978, tình hình an ninh trên tuyến biên giới tỉnh Hà Tuyên xấu đi, ở huyện Đồng Văn, nhất là thị trấn Phó Bảng - nơi trung tâm Huyện lỵ, một số người đã bỏ chạy sang bên kia biên giới, các hợp tác xã như nông nghiệp, may mặc… tại thị trấn Phó Bảng bị ngừng hoạt động. Trước tình hình đó, ngày 19/01/1978, Ban Thường vụ 16 Ngày 01/4/1976 Tỉnh Hà Tuyên được hợp nhất từ 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ 2 ngày 27/12/1975.
- 31 Tỉnh ủy họp Hội nghị lần thứ 15 (khóa I) quyết định thành lập Ban vùng cao của tỉnh gồm 10 đồng chí, Hội nghị quyết định đưa 1/3 số cán bộ từ tỉnh xuống tăng cường cho các huyện vùng cao với thời hạn từ 3 năm trở lên17, đây là việc làm có tầm quan trọng đặc biệt giúp các huyện vùng cao, biên giới phát triển kinh tế - xã hội. Huyện Đồng Văn được tăng cường 81 người, trong đó xã Lũng Thầu được phân công 4 đồng chí. Tháng 2 năm 1978 chi bộ xã Lũng Thầu tổ chức Đại hội, đồng chí Thào Xúa Tủa tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ; đồng chí Giàng Chá Lầu – Phó Bí thư chi bộ. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm là: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trong đó tập trung vào sản xuất cây ngô, lúa là chính và các loại cây hoa màu. Tiếp tục tiến hành cuộc vận động củng cố lại sản xuất, cải tiến quản lý Hợp tác xã, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN; coi trọng thâm canh, tăng vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, hoàn thành một bước về củng cố và phát triển quan hệ sản xuất XHCN. Ngay sau Đại hội, chi bộ đã tập trung chỉ đạo cuộc điều tra ruộng đất, kết quả: Tổng diện tích toàn xã 1.466,4 ha, đất nông nghiệp 316,1 ha, đất lâm nghiệp 163 ha, đất chuyên dùng 8,6 ha; đất có khả năng lâm nghiệp 166,9 ha, đất khác 702,2 ha. Chia ra các thành phần kinh tế: đất hợp tác xã 92,5 ha; đất 5% 8,2 ha; đất cá thể và có tính chất cá thể 506,3 ha. Qua kết quả điều tra cho thấy, diện tích đất nông nghiệp đã có sự tăng đáng kể qua các năm nhờ phong trào phá đá xếp nương bậc thang và khai vỡ ruộng hoang ở Yên Minh. Đó là kết quả to lớn trong công tác lãnh đạo của chi bộ xã đã đạt được trong việc vận động nhân dân khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích đất canh tác (đây chính là một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp đất đai giữa xã Lũng Thầu và một số xã của huyện Yên Minh trong những năm sau này). Cũng qua kết quả điều tra ruộng đất cho thấy, diện tích đất đưa vào làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa đạt thấp (thấp nhất so với toàn huyện), đây là một khó khăn đòi hỏi sự lãnh đạo quyết liệt của chi bộ. Trước tình hình phức tạp ở biên giới, ngày 06/4/1978 UBND huyện ban hành quyết định thành lập Ban kiến thiết công trình huyện lỵ mới của huyện Đồng Văn, Ban kiến thiết gồm 9 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Đức Thống - Ủy viên thư ký UBND huyện làm Trưởng ban. Được sự nhất trí của Tỉnh, vị trí huyện lỵ mới của huyện được di chuyển đến xã Đồng Văn, từ đó các cơ quan của huyện chuẩn bị cho phương án di chuyển từ thị trấn Phố Bảng về xã Đồng Văn. Để đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện địa phương xảy ra chiến tranh, ngày 25/10/1978, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên ban hành quyết định số 172/QĐ-TC về việc điều động cán bộ, theo đó đồng chí Giàng Chá Lầu – Phó Bí thư chi bộ, Chủ tịch UBND xã Lũng Thầu đến nhận công tác tại Huyện ủy Đồng Văn kể từ ngày 31/10/1978. Đồng chí Lầu chuyển công tác, đồng chí Giàng Chìa Dế được giới thiệu với HĐND xã bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND xã. Ngay sau khi được củng cố, 17 Trang 33, 34 lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang tập III (1975-2005).
- 32 kiện toàn, Chi bộ đã trực tiếp chỉ đạo Ban Chỉ huy xã đội phối hợp với các lực lượng vũ trang tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng dân quân thôn, bản; xây dựng huấn luyện các phương án chiến đấu bảo vệ địa bàn, phát động quần chúng xây dựng làng, xã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và giữ vững trật tự an ninh, đập tan các cuộc bạo loạn ở nội địa. Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ-TU, ngày 18/6/1978 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên về một số công tác chính 6 tháng cuối năm 1978, Tỉnh ủy đã quyết nghị “việc kết nghĩa giúp đỡ lẫn nhau giữa các huyện vùng thấp với huyện vùng cao (đã có thông báo) phải được tăng cường thực hiện với những nội dung thiết thực. Vùng thấp phải có trách nhiệm với vùng cao về sản xuất, đời sống và người khi cần thiết. Các lực lượng vũ trang, các ngành giáo dục, y tế, thương nghiệp, giao thông, lâm nghiệp, nông nghiệp… phải gỡ khó cho vùng cao”. Ngay sau khi kết nghĩa, huyện Sơn Dương đã chi viện cho Đồng Văn 10 vạn tàu lá cọ, 2.000 giường tre, tăng cường hàng trăm cán bộ, giáo viên cho huyện Đồng Văn và nhiều các hoạt động giao lưu, giúp đỡ thiết thực khác trong giai đoạn này. Đặc biệt, huyện Sơn Dương đã huy động hàng trăm lượt dân quân, dân công được cử lên biên giới xây dựng trận địa chiến đấu, vận chuyển lương thực, đạn dược cho bộ đội trực tiếp tham gia chiến đấu. Đây là những hoạt động thiết thực, đầy ý nghĩa của hậu phương đối với tiền tuyến trong giai đoạn này. Đối với xã Lũng Thầu, trước những diễn biến phức tạp ở biên giới, chi bộ xác định là xã nội địa nên cần tiến hành chuyển hướng sản xuất để phù hợp với điều kiện có chiến tranh, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Công tác quân sự, an ninh trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Chi bộ. Chi bộ đã chỉ đạo Ban Chỉ huy xã đội tăng cường xây dựng củng cố lực lượng dân quân thôn, bản; xây dựng huấn luyện các phương án chiến đấu bảo vệ địa bàn, phát động quần chúng xây dựng làng, xã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và giữ vững trật tự an ninh, đập tan các cuộc bạo loạn ở nội địa. Chỉ đạo lực lượng dân quân đào hàng trăm mét hào giao thông, hàng chục hầm, hố ở các trận địa chiến đấu bảo vệ trụ sở xã và kêu gọi nhân dân đào giao thông hào ở khu dân cư, các hộ gia đình sẵn sàng ứng phó khi chiến tranh xảy ra. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Lũng Thầu đã thi đua lao động sản xuất, đạt được những thành tích đáng phấn khởi. Ngoài việc tập trung trồng và chăm sóc cây ngô, lúa và các loại rau đậu, xã đã tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên thời gian này, do thời tiết khắc nghiệt nên năng suất cây trồng không cao, có năm băng giá kéo dài, giữa vụ lại nắng hạn làm ảnh hưởng đến sản xuất, chỉ tính riêng năm 1977 nắng hạn diễn ra cả 5 tháng liên tục, nhiều diện tích ngô không gieo trồng được, được sự chỉ đạo của UBND huyện, xã Lũng Thầu triển khai cho người dân trồng thay thế bằng giống ngô ngắn ngày, sau 3 tháng cho thu hoạch. Đồng thời, vận động nhân dân tích cực áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong làm phân bón, giống, do đó sản lượng lương thực của xã vẫn giữ vững. Về phong trào hợp tác xã, công tác quản lý, chỉ đạo phát triển sản xuất trong các Hợp tác xã được củng cố một bước, Ban Quản trị các Hợp tác xã được kiện toàn và hoạt
- 33 động có hiệu quả rõ rệt. Sản xuất nông nghiệp được giữ vững và có bước phát triển, nhờ áp dụng khoa học, kỹ thuật, thực hiện thâm canh, xen canh gối vụ, năng xuất, sản lượng các loại cây trồng đều tăng, nhất là các cây đặc sản. Bên cạnh đó, Hợp tác xã đã triển khai nắm bắt lại diện tích đất đai, lao động và nhân khẩu để cân đối mức ăn và giao khoán đất đai cho các hộ xã viên. Đưa ra phương án chia lương thực được thực hiện theo phương châm hài hòa giữa 3 lợi ích “Nhà nước, tập thể và cá nhân”. Căn cứ vào kết quả năng suất, sản lượng của từng Hợp tác xã đối với diện tích được giao, việc phân chia sản phẩm đạt trung bình từ 1,7 đến 1,9 kg/ngày công xã viên, vì vậy đời sống của xã viên các hợp tác xã cơ bản ổn định, nhân dân yên tâm làm ăn tập thể trong các hợp tác xã. Trong lĩnh vực giao thông - vận tải, xây dựng, mỗi năm đến mùa mưa, đoạn đường Thẩm Mã thường xuyên bị sạt lở, xã đã huy động hàng ngàn ngày công để tham gia xử lý đảm bảo giao thông thông suốt. Điển hình trong giai đoạn này là ngày 01/7/1976, UBND huyện phát lệnh huy động dân công nghĩa vụ, theo đó xã Lũng Thầu được lệnh huy động 60 dân công, thời gian huy động 30 ngày, tổng số 1.800 công, tham gia tu bổ tuyến đường Thẩm Mã - Phố Cáo, với sự tích cực của cấp ủy chính quyền xã cũng như trách nhiệm của quần chúng nhân dân nên đoạn đường Thẩm Mã luôn đảm bảo thông suốt, phục vụ đắc lực cho việc lưu thông từ tỉnh đến huyện lỵ Đồng Văn. Sau khi tuyến đường Ma Lé - Lũng Cú hoàn thành vào đầu năm 1978, huyện triển khai mở mới tuyến đường Phố Cáo - Sủng Thài, với chiều dài 8 km. Thời gian thi công 28 ngày, số ngày công 95.379 công. Xã Lũng Thầu đã huy động dân công trong toàn xã, với số ngày trên 4.000 công tham gia mở đường. Công trình hoàn thành, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các xã dọc tuyến biên giới của huyện Đồng Văn đi lại dễ dàng, công trình còn có ý nghĩa to lớn đối với công tác quốc phòng trên địa bàn huyện. Công tác văn hóa giáo dục đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, nhất là công tác xóa mù chữ được thực hiện thường xuyên. Tại trung tâm xã duy trì các lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp 2 với tổng số trên 40 học sinh và duy trì 1 lớp bổ túc văn hóa ban đêm. Giai đoạn này, công tác dân vận của giáo viên rất tích cực, buổi sáng giáo viên lên lớp với học sinh, buổi chiều giáo viên đến từng gia đình gặp gỡ phụ huynh và hướng dẫn cho các gia đình giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh… buổi tối duy trì lớp bổ túc văn hóa ban đêm. Thực hiện Chỉ thị 30/CT ngày 02/10/1978 của Bộ Giáo dục và Quyết định số 603/QĐ-UB ngày 22/6/1977 của UBND tỉnh Hà Tuyên về việc phát động nhân dân 5 huyện vùng cao thực hiện chiến dịch xóa mù chữ. Tỉnh đã tăng cường cho huyện Đồng Văn 232 người tham gia chiến dịch. Để việc triển khai, thực hiện chỉ đạo của tỉnh được kịp thời, có hiệu quả, ngày 02/7/1978, UBND huyện Đồng Văn ban hành quyết định thành lập Ban lãnh đạo chiến dịch lấy tên “chiến dịch ánh sáng văn hóa vùng cao” huyện Đồng Văn. Thời gian chiến dịch từ đầu tháng 8/1978 đến tháng 12/1978. Ban lãnh đạo chiến dịch gồm 13 thành viên, do đồng chí Hùng Đình Quý - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy - Phó Chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, chiến dịch triển khai đã đạt được những kết quả rất tích cực. Đối với xã Lũng Thầu, đã huy động được
- 34 trên 70% số người trong độ tuổi đi học. Nhiều người già quá tuổi huy động những vẫn xin tham gia theo học để làm gương cho các con, các cháu. Tuy nhiên, đến đầu năm 1979 chiến dịch “ánh sáng văn hóa vùng cao” bị gián đoạn, do bọn phản động Trung Quốc đã liều lĩnh tấn công xâm lược vào một số xã và thị trấn Phó Bảng. Số giáo viên chiến dịch do tỉnh điều động lên Đồng Văn và phân công về công tác tại Lũng Thầu là 4 người, nay Ty Giáo dục rút về bổ sung cho các huyện khác, vì vậy phong trào giáo dục xã Lũng Thầu đã bị giảm sút. Trong công tác y tế, các hoạt động chăm sóc sức khỏe người dân luôn được cấp ủy, chính quyền quan tâm, xã đã có 1 cán bộ y tá là người địa phương thường xuyên trực tại trạm, vì vậy khi người dân bị ốm đau đã đến trạm y tế để khám và xin thuốc nhiều hơn; Hằng năm tổ chức tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh cho hàng ngàn lượt người dân; vận động được trên 100 hộ di rời chuồng gia súc ra xa nhà, 75 hộ rời đống tro ra ngoài nhà… Chỉ tính riêng vụ rét năm 1976, đã tổ chức 4 đợt tuyên truyền và kiểm tra việc phòng chống rét cho người và gia súc…, vì vậy nhiều năm liền tại Lũng Thầu không có dịch bệnh lớn xảy ra. Hoạt động của HĐND - UBND được củng cố, tăng cường góp phần quan trọng vào triển khai thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch huyện giao hằng năm. Tuy nhiên, cán bộ công tác tại xã thường xuyên phải duy trì chế độ trực để giải quyết công việc, vì vậy một số gia đình cán bộ xã gặp khó khăn. Để kịp thời khắc phục một số khó khăn cho các đồng chí cán bộ xã, ngày 22/9/1978, UBND huyện ban hành quyết định số 40/QĐ- UB về việc trợ cấp khó khăn một lần cho các đồng chí: Thào Xúa Tủa – Bí thư chi bộ, Giàng Dũng Phù - Ủy viên ủy ban, Sùng Sính Pó - Ủy viên thư ký, Giàng Chá Dế - Phó Chủ tịch UBND, mỗi đồng chí được trợ cấp 30 đồng. Việc hỗ trợ khó khăn cho cán bộ xã thể hiện sự quan tâm của cấp ủy chính quyền huyện, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ xã tích cực làm việc. Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh được tăng cường, chi bộ đã tập trung lãnh đạo đảm bảo tốt công tác trật tự trị an, chủ động phòng ngừa và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của bọn phản động. Xây dựng, củng cố lực lượng dân quân, công an viên đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống có thể xảy ra, bảo vệ đời sống và sản xuất của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể làm nòng cốt xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, tích cực tham gia xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân; hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; vận động đồng bào nêu cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; hưởng ứng phong trào thi đua lao động sản xuất, công tác và học tập. Đặc biệt là phong trào “vì điểm tựa tiền tiêu, vì biên cương tổ quốc”, mọi người dân sẵn sàng tập trung nhân vật lực ở mức cao nhất để tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chống lại kẻ thù bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Có thể khẳng định, giai đoạn 1976 - 1978, là giai đoạn mới hợp nhất tỉnh Hà Tuyên, với đặc thù của địa bàn xa xôi, hẻo lánh nên đã có nhiều thuận lợi trong công tác nhưng bên cạnh đó cũng có những khó khăn nhất định. Nhưng dưới sự lãnh đạo trực
- 35 tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy Đồng Văn, Chi bộ đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Lũng Thầu đã nỗ lực vươn lên giành được những kết quả quan trọng tương đối toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Phong trào hợp tác xã được củng cố và nâng lên một tầm cao mới, làm cho sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên; văn hóa xã hội tiếp tục được và duy trì có nhiều đổi mới; quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc, góp phần tạo ra một diện mạo mới cho xã nội địa - cửa ngõ phía Nam của huyện Đồng Văn. Tuy nhiên, trong công tác lãnh đạo của chi bộ còn nhiều bấp cập và lúng túng, phong trào phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất ở các hợp tác xã còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém và hiệu quả thấp; trong khi đó tình hình an ninh ở biên giới của huyện ngày càng căng thẳng và phức tạp. Song, với truyền thống yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhân dân xã Lũng Thầu sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách bước vào giai đoạn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân xã Lũng Thầu tích cực đóng góp sức người, sức của để xây dựng tuyến phòng thủ, phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới của Tổ quốc (1979 - 1986) Trước tình hình biên giới diễn biến ngày càng phức tạp, phía Trung Quốc tăng cường áp lực quân sự, khiêu khích lấn chiếm, gây căng thẳng trên dọc tuyến biên giới Việt - Trung. Ngày 6/01/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị, nêu rõ chủ trương của ta sẵn sàng chiến đấu ở biên giới phía Bắc và nhiệm vụ của các tỉnh biên giới phía Bắc lúc này là khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, kịp thời phát hiện mọi âm mưu hành động xâm lược của địch, không để bất ngờ, không mắc mưu khiêu khích của địch. Nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang, đập tan mọi âm mưu lấn chiếm xâm phạm Tổ quốc ta. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chi bộ Lũng Thầu đã mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn chi bộ và cán bộ, nhân dân trên địa bàn... Trong vòng hơn 1 tháng, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được quán triệt học tập đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về tình hình nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Qua tuyên truyền vận động, quần chúng nhân dân các dân tộc đã nhận thức rõ hơn nhiệm vụ trong tình hình mới, nhận thức rõ hơn về âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhất là xuất hiện kẻ thù mới, trực tiếp nguy hiểm với những âm mưu thủ đoạn thâm độc, đang đe dọa độc lập, chủ quyền lãnh thổ nước ta. Trên cơ sở đó ra sức đoàn kết, đẩy mạnh sản xuất, học tập, công tác góp phần thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Ngày 17/2/1979, chiến tranh biên giới nổ ra, tình hình chiến sự ác liệt diễn ra trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung. Địch đã huy động hơn nửa triệu quân tiến công xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của đất nước ta. Tại biên giới tỉnh Hà Tuyên, địch huy động 2 sư đoàn chủ lực có pháo binh yểm trợ đồng loạt tiến công vào các huyện biên giới. Tại Đồng Văn, chiến sự nổ ra hồi 4 giờ 45 phút ngày 17/2/1979,
- 36 Pháo binh địch bắn cấp tập 1 giờ liền vào các trận địa phòng ngự của bộ đội ta và 2 đồn Biên phòng Phố Bảng, Lũng Cú. Đến 18 giờ cùng ngày, khoảng 2 tiểu đội bộ binh tấn công vào thị trấn Phó Bảng, lực lượng của Tiểu đoàn 2 - Bộ binh huyện Đồng Văn phối hợp với các lực lượng tại địa bàn Phó Bảng đã ngăn chặn không cho chúng tiến sâu vào đất ta. Những ngày sau đó chúng lại bắn pháo vào trận địa của ta, sau đó chúng dùng bộ binh tiến công vào thị trấn Phó Bảng đập phá. Lực lượng vũ trang địa phương đã chiến đấu dũng cảm, đánh lui các đợt tiến công của địch. Ngày 8/3/1979 địch sử dụng hàng chục khẩu pháo, cối bắn phá ác liệt các xã Phố Là, Đồng Văn, Sủng Là, Ma Lé, Lũng Cú, Sà Phìn suốt hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó chúng dùng 1 Trung đoàn bộ binh chia làm 2 mũi tấn công vào thị trấn Phó Bảng, đánh chiếm Đồn Công an nhân dân Phó Bảng, đập phá nhà cửa, cướp của, giết người ... Suốt hai ngày chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Đồn Phó Bảng đã phối hợp cùng bộ đội địa phương (Tiểu đoàn 2 - Bộ binh Đồng Văn) và các lực lượng vũ trang địa phương đã chiến đấu dũng cảm đánh lui các đợt tiến công của địch. Suốt hai ngày chiến đấu (ngày 8 và 9/3/1979) quân ta đã tiêu diệt 114 tên địch. Riêng tổ 3 người do đồng chí Thực chỉ huy cùng hai chiến sĩ đã vòng đường rừng, bí mật tiếp cận một ổ hỏa lực của địch đang lợi dụng bờ nương, bắn xối xả vào trận địa của Đồn Biên phòng Phó Bảng; tổ 3 người đã dùng B40 dập tắt ổ hỏa lực của địch, tiêu diệt 6 tên, thu 1 khẩu súng RPD, ba băng đạn, ba khẩu súng CKC. Buộc chúng phải rút chạy về biên kia biên giới. Trong trận chiến đó, ta bị thương 1 đồng chí và hy sinh 5 đồng chí....18. Trước đòn giáng trả quyết liệt của quân và dân ta, kết hợp với sự lên án mạnh mẽ của dư luận thế giới, ngày 18/3/1979 địch phải tuyên bố rút quân, song họ vẫn duy trì lực lượng lớn quân sự ở biên giới, chốt giữ nhiều điểm cao có lợi trên đường biên, tiếp tục khiêu khích vũ trang gây tình hình căng thẳng. Ngày 27/8/1979, Đại hội Đại biểu lần thứ XI, nhiệm kỳ (1980 - 1982) Đảng bộ huyện Đồng Văn được tổ chức, Đại hội đã đánh giá về công tác bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia trong 2 năm qua (1978 - 1979) nói chung làm tốt, nhất là chiến đấu thắng quân xâm lược tháng 2/1979 và loại trừ được bạo loạn, phá được âm mưu kết hợp ngoài đánh vào, bên trong gây bạo loạn, giữ vững an ninh chính trị xã hội, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo, vào sức mạnh của ta, của quân đội ta. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chiến lược trong hai năm 1979 - 1980 của huyện về công tác quân sự và trị an đó là: quyết tâm xây dựng huyện thành pháo đài quân sự vững chắc, kiên cường, để đánh tiêu diệt 1 sư đoàn của địch ngay biên giới, khi địch tiến công vào và loại trừ bạo loạn bên trong, bảo đảm trật tự trị an, chính trị - xã hội bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân các dân tộc để yên tâm sản xuất và xây dựng đời sống. Đại hội xác định, phải xây dựng các đơn vị bộ đội địa phương theo đúng yêu cầu của Bộ Chỉ huy Quân sự thống nhất tỉnh, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đủ sức tiêu diệt và đánh thắng một sư đoàn địch trở lên, mỗi chiến sỹ phải tiêu diệt từ 7 đến 10 tên địch; phải xây dựng lực lượng tự vệ cơ quan vững mạnh, đảm bảo 18 Công văn số 100-CV/BTGHU, ngày 29/7/2019 của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Đồng Văn “v/v tham gia đóng góp ý kiến vào Cuốn lịch sử Đảng bộ xã Lũng Thầu”.
- 37 chiến đấu và hiệp đồng chiến đấu với các đơn vị. Biết sử dụng các loại vũ khí, chấp hành tốt chế độ quy định 10 giờ lao động, 8 giờ công tác, 2 giờ luyện tập quân sự và canh gác bảo vệ cơ quan, thường xuyên luyện tập báo động theo phương án chiến đấu; xây dựng lực lượng dân quân, du kích đảm bảo chất lượng và số lượng, mỗi xã từ 1B hoặc 1C mạnh để có thể chiến đấu và tiêu diệt 1 đại đội địch trở lên, mỗi dân quân tiêu diệt 3 tên địch trở lên, phấn đấu đưa người vào dân quân từ 12 đến 20% so với dân số; xây dựng bản, làng, xã vững mạnh kiên cường, địch đến là đánh, đánh ngay tại biên giới, địch đi lại tiếp tục sản xuất, làm tốt công tác phòng tránh cho nhân dân, xây dựng tư tưởng chiến tranh nhân dân, mỗi người dân là một người lính. Trước tình hình chiến sự ở biên giới, để đảm bảo tăng cường công tác lãnh đạo của chi bộ, đầu tháng 10/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy quyết định điều động đồng chí Giàng Chá Lầu về xã và chỉ định giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Như vậy, đồng chí Giàng Chá Lầu sau một năm chuyển ra huyện công tác, nay được điều động về xã nhận nhiệm vụ với trọng trách nặng nề hơn, nhưng đây cũng là điều kiện thuận lợi cho chi bộ, bởi đồng chí Giàng Chá Lầu là người con của Lũng Thầu, trưởng thành từ Lũng Thầu nên rất am hiểu vùng đất và con người nơi đây (kể từ thời gian này, đồng chí Giàng Chá Lầu liên tục công tác và giữ chức vụ Bí thư chi bộ, Bí thư đảng ủy; năm 2002, đồng chí bị bệnh nặng và qua đời khi vẫn còn đang công tác). Ngày 10/10/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp dưới sự chủ chì của đồng chí Sùng Nảo Sán - Bí thư Huyện ủy, hội nghị đã quyết định điều chỉnh lại cán bộ của các Phòng, Ban huyện tăng cường cho các xã để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Theo đó, xã Lũng Thầu điều chỉnh lại có 4 đồng chí, bao gồm đồng chí Hà – tổ trưởng, đồng chí Lầu, Sảo, Hùng - tổ viên. Sau khi điều chỉnh lại, các đồng chí trong tổ công tác huyện đã thường xuyên xuống các cụm dân cư tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của địch và cảnh giác đối phó. Từ đó, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tính mạng và tài sản của nhân dân được an toàn, không có các vụ việc phức tạp xảy ra. Hưởng ứng phong trào quyên góp ủng hộ bộ đội, dân quân, trong dịp tết âm lịch 1979 - 1980, nhân dân xã Lũng Thầu đã đóng góp, ủng hộ phục vụ chiến đấu cho lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện như rau xanh, thịt lợn, gà… Đặc biệt, chi bộ đã chỉ đạo huy động được trên 200 lượt ngựa thồ chuyên chở lương thực, súng đạn cho bộ đội và cho cửa hàng Thương nghiệp, cửa hàng Lương thực ở Phó Bảng đi sơ tán. Huy động dân công tu sửa và làm mới một số hầm hào tại khu vực trụ sở xã, ở các khu dân cư, hộ gia đình… để kịp thời di chuyển, ẩn náu an toàn khi tình huống xảy ra. Trước âm mưu cơ bản lâu dài của địch là làm suy yếu Việt Nam bằng chiến lược lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, địch sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm phá hoại ta trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, dùng chiến tranh tâm lý chống phá ta cả về tư tưởng, tổ chức. Tại biên giới huyện Đồng Văn, địch dùng loa phát thanh cỡ lớn, truyền đơn, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang trong cán bộ đảng viên, gây hiềm khích giữa các dân tộc; tăng cường hoạt
- 38 động thám báo, biệt kích nhằm giết hại cán bộ, bộ đội, móc nối mua chuộc các phần tử phản động cũ và cả cán bộ, đảng viên biến chất, nhen nhóm các tổ chức phản động, gây bạo loạn. Chúng còn sử dụng bè lũ tay sai và mua chuộc một số phần tử phản động đưa mìn về địa phương, gây tiếng nổ, dải truyền đơn, tung các tin đồn, bán hàng hóa tâm lý… để gây hoang mang trong nhân dân, xúi dục một số phần tử tiêu cực có những hành động quấy rối lực lượng cán bộ của ta. Trước sự tấn công của địch, bộ đội và dân quân trên địa bàn huyện đã chiến đấu dũng cảm, đánh lui các đợt tiến công của địch. Quán triệt sâu sắc quan điểm lãnh chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, huyện và của Bộ Quốc phòng, Chi bộ Đảng xã đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo về nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương, huy động mọi nguồn lực của toàn dân vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Địa bàn xã Lũng Thầu được huyện xác định là tuyến căn cứ, hậu cứ của huyện Đồng Văn, sẵn sàn đón nhận cư dân ở biên giới di chuyển đến khi địch đánh chiếm biên giới. Trước tình hình đó, Chi bộ Đảng đã chỉ đạo Ban Chỉ huy xã đội, công an xã khẩn trương xây dựng các phương án, kế hoạch tác chiến, nội quy phòng gian bảo mật, nội quy giữ gìn, bảo vệ vũ khí, đạn dược chặt chẽ và tăng cường củng cố xây dựng công sự trận địa, huấn luyện, tuần tra, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn; tăng cường củng cố bổ sung hầm hào, xây dựng phương án tác chiến, mặt khác cử cán bộ phụ trách tăng cường kiểm tra để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu cao, tuyên truyền đề phòng trước các hoạt động chống phá của địch như: mua mắt, sừng trâu, bò; mua dâu ngô non nhằm phá hoại sản xuất của ta… Lực lượng dân quân kết hợp với lực lượng công an trên địa bàn xã luôn trong tình thế sẵn sàng chiến đấu. Hằng năm được học tập chính trị, huấn luyện quân sự theo kế hoạch của Ban Chỉ huy quân sự huyện, công an huyện. Lực lượng dân quân trực chiến 24/24 giờ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn. Công tác kiểm tra, chọn lọc, đưa ra khỏi lực lượng những dân quân vi phạm quy chế, kỷ luật được tiến hành thường xuyên. Qua đó, hoạt động của dân quân xã đi dần vào nề nếp. Tổng số dân quân duy trì 91 đồng chí được chia thành 3B, trong đó 1 B cơ động thường xuyên có mặt tại trụ sở xã, khi có sự việc có thể cơ động được ngay. Về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đều xác định được nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, hằng năm huấn luyện, luyện tập theo quy định của cấp trên. Bên cạnh đó, chi bộ luôn quan tâm đến gia đình thương binh liệt sỹ, làm tốt công tác động viên con em lên đường tham gia nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, điển hình trong năm 1984 kế hoạch giao tuyển quân 12, thực hiện đạt 12 công dân lên đường nhập ngũ. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tình trạng quân nhân đào lạc ngũ còn xảy ra, tại Lũng Thầu có 14 quân nhân đào ngũ, UBND xã đã phối hợp với cán bộ huyện tập trung giáo dục kiểm điểm, phân loại được 10/14 người, xã đã vận động giáo dục 2 người trở lại quân đội, miễn hoãn 3 công dân, 5 công dân được giáo dục, kiểm điểm chỉnh huấn sau đó cho cải tạo lao động tại công trường Thủy nông Phố Cáo. Sau đợt giáo dục, chỉnh huấn, năm 1982 xã đã tổ chức khám tuyển đảm bảo đạt kế hoạch giao, công dân đủ điều kiện nhập ngũ đều chấp hành tốt, nhiều năm liền xã không có tình trạng đào ngũ xảy ra.
- 39 Chi ủy chi bộ chú trọng xây dựng lực lượng công an, tổng số có 9 đồng chí, trong đó 1 trưởng và 2 phó công an, công an viên có 6 đồng chí. Tổ chức mạng lưới công an viên đến tận các hợp tác xã, để theo dõi tình hình địch và phần tử xấu kịp thời. Chủ động tuyên truyền trong nhân dân thấy được âm mưu thủ đọan phá hoại của của bọn bành trướng, từ đó nhân dân có tinh thần cảnh giác, thực hiện phương châm “mỗi người dân là một công an viên” vì vậy đã xây dựng được mạng lưới rộng khắp ở các hợp tác xã đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững được danh hiệu “xã quyết thắng” từ năm 1982 đến 1985. Nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân, đảm bảo hậu cần tại chỗ phục vụ chiến đấu luôn được Chi bộ xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trước những khó khăn bất cập kéo dài trên phạm vi toàn quốc trong lĩnh vực phân phối lưu thông, thị trường giá cả, Chi bộ đã chỉ đạo các thôn, bản, Hợp tác xã dựa vào nội lực là chính, tích cực trao đổi hàng hoá, phát triển sản xuất, nỗ lực phấn đấu sản xuất đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo yêu cầu cung cấp cho lực lượng vũ trang chiến đấu. Cuối năm 1979 đầu năm 1980 hạn hán kéo dài làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó công tác chỉ đạo, quản lý của các Ban Quản trị các Hợp tác xã chưa sâu sát, hầu hết đều khoán trắng cho các đội sản xuất, thiếu hoạt động kiểm tra, giám sát, vì vậy tại xã Lũng Thầu, cũng như các xã khác trên địa bàn huyện có trên 30% số hộ bị đói, trước tình hình đó huyện đã phải gửi thư trình Hội đồng Chính phủ, với Tỉnh ủy và UBND tỉnh để xin cứu trợ giáp hạt. Đến năm 1982, toàn xã là 1.035 nhân khẩu/6 hợp tác xã, số hợp tác xã được củng cố và hoạt động tốt có 4; số hợp tác xã chưa được củng cố hoạt động còn hạn chế có 2 hợp tác xã. Diện tích ngô trồng được 2.380,5 kg; nghĩa vụ thực phẩm thực hiện được 788 kg thịt lợn, nghĩa vụ gia cầm thực hiện kém chỉ đạt 3 kg; thuế sát sinh thu được 1.200 đồng. Trước thực trạng phát triển trì trệ trong sản xuất nông nghiệp, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị 100 (khoán 100) được nhân dân cả nước nói chung, nông dân tỉnh Hà Tuyên cũng như huyện Đồng Văn nói riêng phấn khởi và đón nhận. Ngày 28/01/1981, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết 01-NQ/TU về một số vấn đề cấp bách để củng cố cơ sở, củng cố hợp tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng cấp huyện. Nghị quyết đã đánh giá thực trạng phong trào hợp tác xã của toàn tỉnh và đề ra nhiệm vụ cấp bách của tỉnh là tiếp tục điều chỉnh công tác cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp về quy mô để phù hợp với điều kiện dân cư và trình độ quản lý của cán bộ hợp tác xã. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, chi bộ xã Lũng Thầu đã tập trung lãnh đạo phát triển sản xuất theo Chỉ thị 100-CT/TW đảm bảo yêu cầu đề ra, việc triển khai gieo trồng đảm bảo đúng thời vụ, từ khâu cày, cấy và chuẩn bị phân đạm, phân chuồng, giống phục vụ cho sản xuất được chuẩn bị đầy đủ, đồng thời vận động nhân dân áp dụng hình thức xen canh gối vụ để tăng hệ số sử dụng đất và tích
- 40 cực áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào gieo trồng. Giai đoạn này, chi bộ lãnh đạo nhân dân trồng hết diện tích, có năng xuất cao, cơ sở hợp tác xã được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng cao. Đến năm 1984, toàn xã có 201 hộ/ 1097 nhân khẩu, trong đó nam có 402, nữ có 695 người. Lao động chính có 360 người, lao động phụ có 45 người. Chi bộ lãnh đạo tập trung củng cố và duy trì tốt 6 hợp tác xã, đi vào hoạt động có nề nếp, thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thực hiện tốt các chỉ tiêu gieo trồng và gieo trồng hết diện tích, không bỏ đất hoang. Ngoài hai cây lương thực chính, chi bộ còn vận động nhân dân xen canh gối vụ các loại như, rau đậu các loại, dong riềng, tam giác mạch, lanh Mèo… Cụ thể đã trồng diện tích ngô là 2.267 kg giống, năng xuất là 12,7 tạ/ha, sản lượng đạt 181.340 kg; đất 5% có 123 kg giống, với sản lượng thu hoạt đạt 8.010 kg. Cây lúa nước, diện tích 60 kg giống, sản lượng 1.800 kg; anh túc sản lượng là 16,84 kg, đều bán cho Nhà nước. Lanh Mèo 600 kg giống, năng xuất 2,7 kg sợi/1 kg giống, sản lượng đạt 1.620 kg. Đậu các loại 1.050 kg giống, năng xuất 5,2 kg / 1 kg giống, sản lượng 5.460 kg, tăng 20% so với cùng kỳ năm 1983. Tam giác mạch có 200 kg giống, sản lượng trên 1000 kg. Dong riềng 13.550 gốc, sản lượng thu được 40.650 kg, so với chỉ tiêu tăng 5%, so với sản lượng đạt 105%. Về thực hiện các loại cây trồng, chi bộ xác định được mục tiêu chính để phát triển, nên đã tổ chức xen canh, gối vụ cho năng xuất, sản lượng thu được kết quả tốt. Bình quân mức ăn một người 1 tháng là 16,6 kg (tính riêng cây lương thực chính), các loại rau đậu quy ra lương thực bình quân 1 người ăn một tháng là 1,1 kg, tính tổng bình quân mỗi người 1 năm mức ăn 212,4 kg/người/năm. Với mức ăn trên tuy rằng chưa cao, song so với năm 1983 thì tăng 5%, đời sống nhân dân có phần nâng lên rõ rệt, đảm bảo sinh hoạt không phải xin trợ cấp của Nhà nước. Trong công tác chăn nuôi luôn được chú trọng, đàn bò có 190 con, đàn lợn 407 con, đàn dê 130 con, ngựa 70 con, gia cầm 2.100 con. Nhìn chung về chăn nuôi, không những đủ chỉ tiêu nghĩa vụ với Nhà nước, mà còn cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ và là nguồn phân bón chủ yếu cho cây trồng. Với những nỗ lực trong sản xuất và chăn nuôi, chi bộ đã đưa ra quyết tâm thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu nghĩa vụ đối với Nhà nước, cụ thể các chỉ tiêu: Lương thực chỉ tiêu huyện giao là 17 tấn, thực hiện giao nộp là 18,032 tấn, vượt chỉ tiêu giao là 1,032 tấn. Về thực phẩm, chỉ tiêu giao là 3.500 kg, qua vận động thực hiện được 3.990 kg, vượt chỉ tiêu giao là 490 kg, bò hơi chỉ tiêu giao 2 con, thực hiện đủ theo kế hoạch. Gia cầm kế hoạch giao 150 kg, thực hiện đạt 178 kg, vượt chỉ tiêu giao 28kg. Ngoài các chỉ tiêu trên, chi bộ còn vận động quần chúng thực hiện tốt các chỉ tiêu khác như: Huy động dân công, ủng hộ bộ đội, mua công trái xây dựng tổ quốc... Điển hình như việc ủng hộ bộ đội được 3.420 kg củi đốt, 2.000 kg rau xanh, 187 kg đậu tương, tiền mặt là 366,8 đồng. Ngoài ra còn thực hiện tốt giao đất, giao rừng tới từng hợp tác xã và hộ xã viên, cụ thể: vườn rừng giao 312,9 ha, trong đó đất để trồng rừng là 25,65 ha; vườn rừng có lá 140 ha, vườn rừng đất màu 16,8 ha, rừng tư nhân 130,45 ha. Ngoài ra chi bộ còn lãnh
- 41 đạo nhân dân tổ chức tốt trồng cây gây rừng; huy đông nhân dân tham gia các buổi tu sửa đường xá, trường học, qua các đợt nhân dân tham gia đầy đủ. Đối với triển khai trồng cây anh túc, vụ anh túc năm 1981 - 1982 là vụ đầu tiên cho phép trồng kể từ sau gần 20 năm bỏ trồng anh túc, vụ này xã Lũng Thầu không được huyện giao chỉ tiêu trồng cây anh túc. Bước sang năm 1982 - 1983 xã bắt đầu triển khai trồng, ngay trong năm đầu tiên đã trồng được 60 kg giống, diện tích 30 ha; năm 1983-1984 số nhựa anh túc thu mua được 16,845 kg; năm 1984 kế hoạch 25 ha, sản lượng 100 kg nhựa. Tuy nhiên, sản lượng không đạt so với chỉ tiêu giao. Nhìn chung, giai đoạn này xã Lũng Thầu triển khai trồng cây anh túc đạt diện tích giao, nhưng chỉ tiêu thu mua nhựa không đạt theo kế hoạch đề ra. Việc triển khai làm đường giao thông phục vụ sản xuất, chiến đấu được phát động thường xuyên. Trước tình hình chiến sự phức tạp ở biên giới, tỉnh chỉ đạo triển khai mở tuyến đường Du Già - Yên Minh, được sự chỉ đạo của huyện, xã Lũng Thầu đã huy động gần 100 dân công tham gia mở đường, đây là con đường huyết mạch trong những năm xảy ra chiến tranh biên giới. Hàng năm xã thực hiện huy động dân công theo lệnh huy động của UBND huyện chủ yếu tu sửa đường lên chốt tại các xã biên giới, vận tải lương thực, đạn dược phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ Đảng, các Hợp tác xã đã phân công xã viên phụ trách từng đoạn đường trên địa bàn xã, nhất là tuyến đường “dốc bốn chân” và “dốc tám hào”. Từ đó, tuyến đường giao thông liên xã, liên thôn, xóm luôn được thông suốt. Mỗi khi đường giao thông bị sạt lở do mưa bão nhất là khu vực dốc Thẩm Mã, dốc Chín Khoanh các xã viên đã tích cực tiến hành tu sửa đường giao thông, đồng thời đã đóng góp hàng ngàn ngày công sửa chữa Quốc lộ 4c, triển khai làm mới và sửa chữa hàng chục km đường giao thông từ trung tâm xã đến thôn và các tuyến đường liên thôn, bản. Về triển khai thi công công trình Thủy nông Phố Cáo: năm 1982, huyện triển khai thi công công trình Thủy nông Phố Cáo. Đây là công trình được Bộ Thủy lợi và tỉnh Hà Tuyên chính thức phê duyệt vào cuối năm 1981 và giao cho Công ty Thủy lợi giúp huyện Đồng Văn xây dựng công trình. Công trình được triển khai vào giữa lúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cả nước đang tưng bừng khí thế thi đua chiến đấu, lao động và công tác, lập thành tích chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng. Hòa nhịp với phong trào chung của cả nước, huyện Đồng Văn triển khai thi công công trình thủy nông Phố Cáo với tất cả lòng nhiệt tình và khả năng sẵn có của mình. Công trình chính thức đi vào thi công đầu tháng 3/1982, khánh thành vào ngày 30/12/1982. Xã Lũng Thầu được lệnh huy động 80 dân công tham gia công trường, nhiệm vụ được giao là khai thác đá cho công trường với số lượng 800 m3 đá. Đây là công trình có ý nghĩa lịch sử đối với huyện Đồng Văn, thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng bộ huyện, sự đoàn kết đồng lòng của đồng bào nhân dân các dân tộc, công trình đã đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội; chi bộ Đảng xã Lũng Thầu đã lãnh đạo việc huy động dân công tham gia đảm bảo kế hoạch, góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công công trình.
- 42 Về phong trào giáo dục, do chiến tranh biên giới nên phong trào giáo dục của xã có phần lắng xuống, phong trào “ánh sáng văn hóa vùng cao” huyện Đồng Văn bị gián đoạn, đến năm 1980 xã được bố trí 3 giáo viên, gồm: Lưu Thị Đào, Đào Thị Nơi, Đoàn Văn Nho. Do việc điều chuyển và bố trí sắp xếp lại giáo viên nên không có lãnh đạo trường học, ngành giáo dục chỉ phân công 1 đồng chí giáo viên phụ trách trường, vì vậy phong trào giáo dục những năm 1980 – 1981 hoạt động yếu. Đến năm 1982, xã được bổ sung thêm giáo viên vì vậy phong trào đã khá hơn trước, toàn trường có 1 điểm trường chính và 4 phân trường, sỹ số học sinh có 130 em, lớp 1 có 60 em, lớp 2 có 60 em, lớp vỡ lòng có 10 em. Ngày 21/12/1983, UBND huyện ban hành Chỉ thị về củng cố phong trào giáo dục, qua đánh giá phong trào giáo dục trong 4 năm từ 1979 đến 1982 của huyện cho thấy, phong trào giáo dục xuống dần quan từng năm, nguyên nhân do thiếu giáo viên, do cấp ủy chính quyền không quan tâm, do điều kiện địa phương khó khăn và do chiến tranh... Thực hiện Chỉ thị của UBND huyện, phong trào giáo dục của Lũng Thầu đã bước đầu được củng cố, có chuyển biến. Kết quả công tác giáo dục năm 1984 toàn xã có 5 lớp từ lớp vỡ lòng đến lớp 3, tổng số học sinh 39 em (chỉ tiêu giao 65 học sinh); học trường Bổ túc Văn hóa ở huyện 5 học viên, học ở trường Thiếu nhi huyện có 1 em. Năm 1985 điểm trường chính có một lớp vỡ lòng 15 học sinh, 3 mặt giáo dục đạt 90%; 1 lớp một 12 học sinh, 3 mặt giáo dục 90%; lớp 3 một lớp 5 học sinh, 3 mặt giáo dục đạt 90%; lớp bổ túc văn hóa 13 học viên, 3 mặt giáo dục đạt 90%. Điểm trường 1 lớp vỡ lòng 18 học sinh, 3 mặt giáo dục đạt 90%; 1 lớp một 10 học sinh, 3 mặt giáo dục đạt 90%; lớp bổ túc văn hóa 6 học viên, 3 mặt giáo dục đạt 90%. Đánh giá xếp loại trường đạt trung bình khá. Nhìn chung giai đoạn 1982 – 1985, công tác giáo dục của xã Lũng Thầu có bước phát triển. Mặc dù cơ sở vật chất phục vụ việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh chưa được đảm bảo, đời sống giáo viên còn gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn nhưng được sự quan tâm của chi bộ, của chính quyền nên công tác giáo dục của Lũng Thầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, được huyện đánh giá cao và biểu dương về thành tích đã đạt được. Công tác văn hóa - xã hội được quan tâm thường xuyên. Chi bộ Đảng xã đã lãnh chỉ đạo việc duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của đội văn nghệ xã, coi đó là hạt nhân để thúc đẩy, nâng cao đời sống tinh thần nhân dân. Công tác an sinh xã hội được triển khai, Chi bộ Đảng xã đã lãnh đạo việc thực hiện nghiêm túc chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước đối với các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Huy động dân công làm đường được 5.000 công lao động. Ngoài ra còn vận động nhân dân huy động được 22 con ngựa thồ, đưa dân của xã Phố Cáo đi Bắc Mê sinh sống (thực hiện di dân). Chỉ tiêu công trái 100.000 đồng huy động đạt 100% chỉ tiêu giao. Tuy nhiên, các hủ tục mê tín dị đoan trong ma chay, cưới xin còn tương đối nặng nề; tình trạng nghiện hút trên địa bàn xã còn xảy ra; việc chăm sóc, dạy dỗ con cái trong gia đình chưa được quan tâm chú trọng đúng mức.
- 43 Công tác y tế trong giai đoạn này được tăng cường một bước về cơ sở vật chất kỹ thuật và con người phục vụ người dân địa phương. Trạm y tế xã có 1 y sỹ, 2 y tá, trong đó thường xuyên có 1 y sỹ trực tại trạm; số người khám chữa bệnh bình quân mỗi năm trên 1000 lượt người. Cuối năm 1981 sang đầu năm 1982, trên địa bàn huyện Đồng Văn xuất hiện dịch sởi, số người mắc bệnh trên 1000 người, trong đó có 103 người chết. Tuy vậy, ở địa bàn xã Lũng Thầu không xảy ra dịch bệnh, đó là một nỗ lực lớn của cấp ủy chính quyền địa phương và đội ngũ cán bộ y tế xã và thôn bản. Tủ thuốc trạm xá xã đã cơ bản có đầy đủ các loại thuốc. Công tác tuyên truyền, vận động chữa bệnh bằng thuốc nam, xây dựng vườn thuốc tập thể và cá nhân được đẩy mạnh. Qua đó, tình trạng người dân khi bị ốm đau tổ chức cúng bái, ma chay gây ra lãng phí, tốn kém đã giảm. Số lượng bệnh nhân đến khám, chữa bệnh tại trạm xá xã ngày càng tăng. Công tác giữ gìn vệ sinh “3 sạch” (ăn sạch, ở sạch, uống sạch) được thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của trạm xá xã còn thiếu thốn, giường nằm cho bệnh nhân sơ sài, sinh hoạt ăn uống của bệnh nhân tại bệnh xá gặp nhiều khó khăn, tình trạng dịch bệnh như tiêu chảy, kiết lỵ… vẫn xảy ra hàng năm. Công tác xây dựng Đảng được tiến hành thường xuyên, năng lực lãnh đạo của Chi bộ Đảng đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể của xã được nâng lên. Chi bộ lãnh đạo tổ chức học tập cho quần chúng thấy được quyền làm chủ tập thể của mình, thể hiện qua các đợt phát động ở địa phương, chi bộ còn tổ chức lấy ý kiến của quần chúng góp ý phê bình cho đảng theo từng quý hoặc 6 tháng. Từ đó, chi bộ tiếp thu ý kiến để củng cố đội ngũ đảng viên trong sạch vững mạnh. Chi bộ thường xuyên quan tâm đến phúc lợi tập thể, tăng gia cải thiện đời sống, xây dựng gia đình văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Chi bộ làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho quần chúng thấy được chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước là đúng, từ đó xây dựng lòng tin trong nhân dân. Trong sản xuất nông lâm nghiệp, chi bộ lãnh đạo quần chúng duy trì thực hiện Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, đó là một kết quả to lớn của chi bộ đã đạt được trong giai đoạn này. Về chi bộ có 12 đảng viên, trong đó nữ có 2 đồng chí, phân loại đảng viên hằng năm đủ tư cách xuất sắc có 8 đồng chí, khá 4 đồng chí, không có đảng viên yếu kém. Chi bộ duy trì sinh hoạt đều mỗi tháng một lần. Trình độ nhận thức, năng lực công tác không đồng đều, có đồng chí không biết chữ và không biết tiếng phổ thông, từ đó nên công tác lãnh chỉ đạo địa phương thực hiện nhiệm vụ chính trị còn gặp nhiều khó khăn. Thực hiện học tập Nghị quyết 4 của Trung ương Đảng và Chỉ thị 33 của Ban Bí thư, 100% đảng viên tham gia học tập. Triển khai học tập cho quần chúng từ 16 tuổi trở lên có 362 người; đoàn viên thanh niên là 26 đồng chí, quần chúng nhân dân là 324 người. Ban chi ủy, Thường trực UBND là những đồng chí có trình độ năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, UBND xã luôn có 1 người thường trực tại trụ sở làm việc. Chi bộ luôn đoàn kết tốt, tham gia sinh hoạt và đóng đảng phí đầy đủ, trong đấu tranh tự phê bình và phê bình luôn thẳng thắn, mang tính xây dựng. Các tổ chức quần chúng đều có đảng viên nắm giữ cương vị chủ chốt. Tuy nhiên, hoạt động còn tập trung vào theo từng thời điểm và vụ việc, như: Huy động dân công, vận động
- 44 nhân dân đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước, tiễn con em lên đường nhập ngũ, tổ chức vận động thanh niên ưu tú tìm hiểu về Đảng. Bước sang năm 1980, chi bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 83/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc phát thẻ Đảng viên, chi bộ đã tổ chức cho quần chúng học tập, tham gia ý kiến xây dựng đảng, tổng số có 94 người tham gia học tập, có 10 ý kiến tham gia đối với các đảng viên của chi bộ. Tổng số đảng viên của chi bộ có 16 đồng chí, đánh giá phân loại: Đủ tư cách 11 đồng chí, trong đó có 10 đồng chí được xem xét đề nghị cấp thẻ đảng, số đảng viên đủ tư cách đều giữ được phẩm chất, đạo đức, không vi phạm kỷ luật của Đảng. 4 đảng viên chưa đủ tư cách, khuyết điểm do ý thức tổ chức kỷ luật kém, bỏ sinh hoạt, bỏ công tác, nhận thức yếu, trong đó có 2 cán bộ tăng cường. 1 đồng chí đã thôi việc (do bỏ nhiệm vụ công tác, không tham gia sinh hoạt đảng và không hoàn thành nhiệm vụ). Như vậy trong đợt phát thẻ đảng viên năm 1980, chi bộ có 10 đảng viên được phát thẻ. Ngày 13/4/1983, Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp, nhận định đánh giá công tác quý I đồng thời đề ra công tác quý II năm 1983. Theo đó, nhằm đẩy mạnh công tác ở cơ sở, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chia huyện thành 6 cụm, xã Lũng Thầu thuộc cụm số 4 của huyện gồm Phố Cáo - Vần Chải - Lũng Thầu do đồng chí Vừ Sè Chứ phụ trách cụm, đồng chí Giàng Chá Lầu phụ trách xã Lũng Thầu. Với sự nỗ lực, quyết tâm của chi bộ, 2 năm liền (1984 - 1985) chi bộ Lũng Thầu đạt tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Cuối tháng 6/1985, chi bộ Lũng Thầu tổ chức Đại hội, đại hội đã bầu đồng chí Giàng Chá Lầu tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Như vậy, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là địa bàn có nhiều phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch, bên cạnh đó thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lốc… nhưng dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Lũng Thầu đã đoàn kết, từng bước khắc phục khó khăn, tích cực đấu tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch, các phần tử xấu, bất mãn tại địa bàn, quyết tâm thực hiện Nghị quyết của Chi bộ đề ra. Do công tác tuyên truyền giáo dục có tác động lớn đến quần chúng nhân dân nên các điểm trường đều có học sinh đi học, công tác giáo dục ngày một nâng cao; đời sống của nhân dân từ năm 1981 đến thời điểm năm 1985 tuy rằng mức thu nhập chưa cao, xong từng hợp tác xã đã tự phân phối được lương thực, không phải xin cứu tế ở trên. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và văn minh, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, yên tâm bám trụ tại địa bàn vùng cao của huyện Đồng Văn. Có thể khẳng định, trong giai đoạn 1979 - 1986, cuộc chiến tranh chống quân xâm lược diễn ra phức tạp, chi bộ đảng và nhân dân các dân tộc xã Lũng Thầu vừa làm tròn nhiệm vụ bảo vệ giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc, và là khu căn cứ, hậu cứ vững chắc của tuyến phòng thủ biên giới huyện Đồng Văn. Chi bộ đã lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống nhân dân, quan hệ sản xuất XHCN từng bước được thiết lập, phong trào hợp tác xã được củng cố, tổng sản lượng lương thực, thực phẩm hàng năm tăng; văn hóa xã hội được củng cố và duy trì, văn hóa tinh
- 45 thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và từng bước được nâng cao. Hoạt động của chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể dần đi vào nề nếp, từng bước phát huy được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở địa phương. Kết quả trên thể hiện vai trò lãnh đạo và quyết tâm của chi bộ, sự phấn đấu không mệt mỏi của cán bộ và nhân dân trong xã, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc tổ chức quán triệt, triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên có thời điểm còn chậm, do đó việc cụ thể hóa ở chi bộ chưa kịp thời. Tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng tuy được củng cố, xong chưa thật sự chuyển biến mạnh, một số ít cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước; công tác tuyên truyền, giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước chưa được thường xuyên, liên tục. Phong trào văn hóa, giáo dục, y tế còn có những chuyển biến chậm, chưa khai thác hết tiềm năng và mở rộng diện tích thâm canh để tăng năng xuất cây trồng, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
- 46 Phần bốn ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LŨNG THẦU THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 2018) 1. Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội (1986 - 2000) Sau 10 năm đất nước ta tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước (1976 - 1986), bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta đã gặp phải không ít khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng trầm trọng hơn, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, kinh tế tăng trưởng chậm không đáp ứng đủ tiêu dùng, tài nguyên bị lãng phí, nhiều người lao động không có việc làm, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước bị suy giảm mạnh. Bên cạnh đó, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đất nước ta bị chủ nghĩa đế quốc bao vây, cấm vận và chống phá. Những nhân tố đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Tình hình đó đặt ra cho Đảng ta nhiệm vụ vô cùng nặng nề và cấp bách là đổi mới toàn diện đất nước để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và phát triển đi lên. Từ ngày 15 đến 18/12/1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước trên các mặt kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, mà trước hết là đổi mới về kinh tế. Đại hội nhấn mạnh, sự tồn tại khách quan của cơ cấu nhiều thành phần kinh tế. Đại hội đã đề ra 3 chương trình kinh tế lớn là: chương trình lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội VI của đảng đánh dấu bước ngoặt quan trọng về phát triển đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong việc nhận thức về Chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, thời kỳ này Đảng bộ tỉnh và huyện cũng đã ban hành nhiều Nghị quyết nhằm cụ thể hóa nghị quyết Đại hội VI của Đảng đảm bảo phù hợp với thực tiễn của địa phương. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên lần thứ IV, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ XIII đã xác định: Trên tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới phong cách lãnh đạo, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã phân tích, đánh giá toàn diện sâu sắc những thành công và yếu kém trên mọi lĩnh vực của địa phương, đồng thời đề ra nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, từng bước bố trí lại cơ cấu kinh tế và điều chỉnh đầu tư theo hướng tập trung cho 3 chương trình kinh tế lớn: về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, chi viện sức người, sức của cho tuyến phòng thủ biên giới, đánh thắng chiến tranh lấn chiếm của địch.
- 47 Được sự lãnh trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy, Chi bộ Đảng xã Lũng Thầu đã lãnh đạo đổi mới toàn diện, trong đó tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, vì vậy trong năm 1986 chi bộ Lũng Thầu tiếp tục được công nhận cơ sở đảng vững mạnh. Đến năm 1987, toàn xã có 201 hộ/1.206 khẩu 591 lao động; diện tích đất tự nhiên 1.466,4 ha, đất nông nghiệp 399,8 ha, đất lâm nghiệp 163 ha, đất có khả năng nông lâm nghiệp 276 ha, đất khác 627,6 ha. Về sản xuất nông - lâm nghiệp tiếp tục được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1987, huyện triển khai trồng thí điểm giống ngô ngắn ngày TSB2 tại xã Đồng Văn, sau 3 tháng có thể cho thu hoạch, năng xuất trung bình có thể đạt 14 tạ/ha, cao có thể đạt 18-20 tạ/ha, huyện đã chỉ đạo trồng để cứu đói giáp hạt vào tháng 6, tháng 7. UBND xã Lũng Thầu đã triển khai trồng 100 kg giống, tương đương 5 ha, kết quả đó góp phần làm chuyển biến nhận thức của người dân về đưa giống mới vào gieo trồng, góp phần thiết thực trong giải quyết lương thực tại chỗ cho người dân. Ngày 03/2/1987, UBND huyện ban hành quy định tạm thời khuyến khích phát triển chăn nuôi, nhằm phát triển chăn nuôi đàn gia súc trên địa bàn huyện và củng cố phát triển 2 cây công nghiệp đậu tương và cây chè. Về thực hiện chỉ tiêu phát triển chăn nuôi: mỗi hộ gia đình khu vực nông thôn tính bình quân phải chăn nuôi 1,4 con trâu bò, 1,5 đầu lợn thịt, 0,5 đầu ngựa, và 4 con dê, 15-20 con gia cầm thịt, tính bình quân mỗi hộ phải nuôi 1 đõ ong lấy mật. Về chỉ tiêu chăn nuôi lợn, tình bình quân cứ 8 hộ gia đình chăn nuôi lợn thì xã và hợp tác xã phải cử 1 gia đình nuôi lợn nái, bán lợn giống để xã và hợp tác xã có nguồn lợn giống bán điều hòa cho các hộ gia đình chăn nuôi lợn thịt trong xã và hợp tác xã mình. Đối với các hộ khó khăn không có khả năng mua con giống, sẽ tiến hành đăng ký với ngân hàng để vay vốn với định mức: một con lợn giống không quá 1.800 đồng, một con trâu, bò, ngựa giống không quá 10.000 đồng, một con dê giống không quá 1.500 đồng, yêu cầu các xã thành lập Ban chỉ đạo chăn nuôi. UBND xã chỉ đạo trồng cây công nghiệp đậu tương và cây chè, ngoài ra tăng cường trồng cây lê, mận ăn quả mỗi hộ gia đình phải trồng 10-20 cây ăn quả lê mận. Về chế độ bán hàng cho Nhà nước, chỉ tiêu thịt lợn mỗi một lao động một năm bán cho Nhà nước 20 kg thịt lợn hơi, những hộ được phân công nuôi lợn nái, một năm phải bán cho Nhà nước 7 con lợn giống có trọng lượng từ 7-10 kg để xã và hợp tác xã điều hòa cho các hộ trong địa bàn. Về trâu bò, toàn bộ những con còi cọc, húc người, già yếu… phải được bán cho nhà nước; về gia cầm: mỗi hộ bán cho Nhà nước 1kg thịt gia cầm; về đậu tương: huy động 65% bán cho Nhà nước, phần còn lại các hộ gia đình sử dụng ăn và làm giống; về chè, mật ong bán cho Nhà nước 70% sản lượng. Chế độ hàng đối lưu, mỗi hộ bán cho Nhà nước 1kg thịt lợn thì được mua 3kg ngô hạt; 1 kg đậu tương được mua 1,5 kg ngô hạt; 1 kg chè khô loại I được mua 0,8kg ngô hạt, 1 kg chè loại II được mua 0,6kg ngô hạt; đối với các hộ nuôi lợn nái và bán lợn con giống: đối với lợn nái, một năm một con lợn nái bán được 7 con lợn con giống thì
- 48 Nhà nước bán cho con lợn nái đó 100kg ngô hạt, nếu bán 6 con lợn con giống thì được mua 80 kg ngô hạt. Về lợn giống: hộ gia đình nuôi lợn nái bán lợn giống, cứ 1 kg lợn giống cho xã để điều hòa chăn nuôi thì được mua 5 kg ngô hạt. Biện pháp quản lý và xử lý, cứ thiếu 1 kg thịt lợn của hộ, thì hộ đó phải bán 5 kg ngô hạt cho Nhà nước, thiếu 1 kg đậu tương phải bán cho Nhà nước 3 kg ngô hạt thay thế; thiếu 1 kg chè khô phải bán 3 kg ngô hạt thay thế; đối với hộ chăn nuôi gia súc tự ý giết mổ hoặc bán cho người khác, UBND xã được phép xử phạt tiền từ 1 đến 3 lần con gia súc đó. Với chính sách khuyến khích nêu trên của huyện, xã Lũng Thầu đã tích cực vận động nhân dân tiếp cận được nguồn vốn phát triển chăn nuôi, phát triển diện tích chè tạo thành vùng hàng hóa của địa phương, góp phần thiết thực nâng cao mức sống của người dân. Cân đối lương thực trên địa bàn xã giai đoạn này đạt được như sau: Sản lượng lúa nước 4.600 kg, sản lượng ngô cả năm 291.840 kg, tam giác mạch 2.060 kg, dong riềng 45.000 kg, khoai lang 1.517 kg. Cộng sản lượng (đã quy thóc) 345.017 kg, trừ các khoản như giống, quỹ, nộp nghĩa vụ số lương thực còn lại để ăn chia 287.496 kg, bình quân lương thực / khẩu đạt 21,4 kg/tháng, lương thực còn thừa sau khi chia 5.352 kg, là một trong 2 xã trong toàn huyện thừa lương thực, đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của xã Lũng Thầu đã đạt được trong giai đoạn này, trong khi nhiều xã khác có điều kiện thuận lợi hơn nhưng sau khi cân đối lương thực vẫn còn thiếu lương thực cho nhân dân. Kết quả thu mua lương thực, thực phẩm: lợn hơi kế hoạch 4.000 kg, thực hiện 3.690 kg; trâu bò hơi 500 kg, nhưng thực hiện 210 kg; đậu tương kế hoạch 800 kg, không thực hiện được; gia cầm kế hoạch 150 kg, thực hiện 67,6 kg; ngô hạt kế hoạch giao 10.000 kg, thực hiện 10,020 kg, xếp loại A; anh túc 33,320 kg, thành tiền 491.662 đồng; chỉ tiêu phân đạm 26.012 kg. Với những nỗ lực trên, trong nhiều năm liền xã Lũng Thầu đều xếp loại A trong phong trào thi đua, được huyện khen thưởng. Ngày 08/5/1988, tại Lán Xì, xã Phố Cáo, UBND huyện đã tiến hành họp với lãnh đạo 6 xã khu vực phía Nam của huyện để triển khai xây dựng chợ Lán Xì. Tham dự hội nghị có đồng chí Lầu - Bí thư chi bộ, đồng chí Phừ Chủ tịch UBND xã và cán bộ tài chính xã. Đồng chí Trần Quang Nguyệt - Phó Chủ tịch UBND huyện chủ trì cuộc họp. Tại cuộc họp, đồng chí Chủ tịch UBND xã Lũng Thầu đã báo cáo: “…tình hình sản xuất đã trồng ngô hết diện tích, sâu bệnh có nhưng không đáng kể, phân bón các hợp tác xã đều có, nhưng còn thiếu bao nhiêu xã chưa nắm được; tình hình đói giáp hạt có xảy ra nhưng xã chưa thống kê; tình hình trị an tốt, chưa có biểu hiện gì, nhưng tình hình dân vượt biên khá đông, chiếm khoảng 30% số dân; tình hình giáo dục: đã khai giảng, toàn trường mới có khoảng 20 em học sinh, cơ sở vật chất và giấy bút mực có đủ, nhưng đời sống của giáo viên và học sinh còn khó khăn, vì vậy đề nghị huyện hỗ trợ cho 3 tháng lương thực cho các cháu và người phục vụ, hỗ trợ mua một số dụng cụ cho các em học sinh, nếu được hỗ trợ nêu trên thì trường bán trú dân nuôi có thể thành lập và đi vào học được ngay; về xây dựng trạm xá đã hoàn thành, đề nghị huyện nghiệm
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn