intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi (1962-2020)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi (1962-2020)" ghi lại vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Chi, Đảng bộ xã qua các thời kỳ; những thành quả mà Chi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Pả Vi đã đạt được trong gần 60 năm qua. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi Chi bộ xã được thành lập (năm 1962), nhân dân các dân tộc Pả Vi đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực tự cường, tích cực trong lao động sản xuất, góp phần chi viện sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1962 - 1985).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi (1962-2020)

  1. 1
  2. ĐẢNG BỘ HUYỆN MÈO VẠC BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ PẢ VI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ PẢ VI (1962 - 2020) Xuất bản năm 2021 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Pả Vi là 1 trong 3 xã (Pả Vi, Xín Cái, Pải Lủng) của huyện Mèo Vạc có một phần diện tích thuộc đỉnh đèo Mã Pì Lèng - một trong “tứ đại đỉnh đèo” nổi tiếng của vùng núi đá phía Bắc Việt Nam (năm 2009, danh lam thắng cảnh Mã Pì Lèng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia). Xã có vị trí khá thuận lợi do nằm trên trục quốc lộc 4C, cách trung tâm huyện Mèo Vạc khoảng 3 km. Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên và vị trí khá thuận lợi, những năm gần đây, Pả Vi đã và đang từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển du lịch. Đến nay, xã đã được nhiều du khách gần xa biết đến với Làng văn hóa (cộng đồng) du lịch dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ; đây không chỉ là nơi tập trung, hội tụ nét văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc Mông với các lễ hội, mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên hữu tình, với những “điểm nhấn” tạo được sức hút khi đặt chân đến đây. Vùng đất Pả Vi là tên gọi của một làng có từ lâu đời thuộc xã Mèo Vạc cũ (nay là thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc) với nhiều lần chia tách và thay đổi tên gọi; đến tháng 7/1961 vùng đất này được tách ra từ xã Mèo Vạc và được đặt tên là xã Thống Nhất. Đến tháng 12/1962, xã Thống Nhất được đổi tên thành xã Pả Vi. Ngày 15/12/1962, huyện Đồng Văn được chia thành 3 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh; xã Pả Vi được điều chỉnh từ huyện Đồng Văn thuộc về địa giới hành chính huyện Mèo Vạc từ đó đến nay. Trải qua quá trình sinh sống lâu đời và quá trình lao động, sản xuất, đấu tranh chống giặc ngoại xâm, khắc phục những khó khăn, sự khắc nghiệt của thiên nhiên để tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc Pả Vi đã sớm hình thành nét văn hóa đặc sắc, truyền thống cách mạng, tinh thần dũng cảm, kiên cường. Nhằm tìm hiểu, khai thác và phát huy truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Pả Vi đã chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi (1962 - 2020)”. Nội dung cuốn sách ghi lại vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Chi, Đảng bộ xã qua các thời kỳ; những thành quả mà Chi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Pả Vi đã đạt được trong gần 60 năm qua. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi Chi bộ xã được thành lập (năm 1962), nhân dân các dân tộc Pả Vi đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực tự cường, tích cực trong lao động sản xuất, góp phần chi viện sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1962 - 1985). Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 2020), nhân dân các dân 3
  4. tộc xã Pả Vi đã từng bước xây dựng xã ngày càng vững mạnh về kinh tế, phát triển về văn hóa, giáo dục, giữ vững an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng xã Pả Vi ngày càng giàu đẹp, văn minh. Cuốn sách là một tài liệu góp phần tích cực phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng; qua đó, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp đã đề ra. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Pả Vi đã nhận được sự giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Mèo Vạc, phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các nhân chứng lịch sử, các đồng chí cán bộ, lãnh đạo Pả Vi qua các thời kỳ. Ban Thường vụ Đảng ủy xã xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù bộ phận nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng trong công tác sưu tầm tư liệu còn gặp nhiều khó khăn, do tư liệu bị thất lạc nhiều và phần lớn các nhân chứng lịch sử đã qua đời, hoặc còn sống nhưng đã già yếu, trí nhớ có phần suy giảm. Vì vậy, nội dung cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy xã rất mong nhận được sự đóng góp của đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên địa bàn xã để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi (1962- 2020)” đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Pả Vi cùng bạn đọc! T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Lê Văn Qúy 4
  5. Chương I KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ PẢ VI I- Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người Pả Vi là xã vùng cao núi đá nằm ở phía Bắc huyện Mèo Vạc, cách trung tâm huyện Mèo Vạc 3km; xã có quốc lộ 4C chạy qua. Phía Tây Bắc giáp xã Pải Lủng, phía Bắc giáp xã Xín Cái; phía Đông giáp xã Giàng Chu Phìn; phía Tây giáp xã Sủng Trà và huyện Đồng Văn; phía Nam giáp thị trấn Mèo Vạc và xã Tả Lủng. Xã Pả Vi nằm trong vùng cao nguyên Mèo Vạc, địa hình đặc trưng là núi đá tai mèo, độ cao trung bình 1.200 - 1.300 m so với mặt nước biển, độ dốc lớn, diện tích núi đất ít. Tổng diện tích tự nhiên xã Pả Vi là 2.001,79 ha, trong đó: Đất nông nghiệp là 908,8 ha; đất lâm nghiệp là 835,61 ha; đất phi nông nghiệp là 35,35 ha; đất chưa sử dụng là 222,03 ha1 (chiếm 11,1%) diện tích đất tự nhiên. Đặc điểm thổ nhưỡng của Pả Vi chủ yếu hình thành do phong hóa tại chỗ từ đá mẹ và đất bồi tụ do xói mòn, rửa trôi. Trên địa bàn xã có nhóm đất vàng chiếm tỉ lệ lớn nhất, phát triển tại chỗ với quá trình hình thành feralit của vùng nhiệt đới ẩm. Nhóm đất này có các loại đất chính đó là: Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất; đất đỏ vàng trên đá macma axit; đất vàng nhạt trên đá cát; đất mùn nâu vàng trên đá vôi có bề mặt mỏng, chất đá vôi với thành phần cơ giới nặng, độ phì tương đối cao phù hợp với trồng cây ngô, sắn, khoai, mạch, lúa mì, hoa tam giác mạch… và các loại cây ăn quả như: Mận, đào... Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt. Lượng mưa trung bình năm từ 1.760 đến 2.000 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, lượng bốc hơi trung bình 730 mm. Nhiệt độ trung bình năm 15,7oc, tháng trung bình cao nhất là 20,7oc và thấp nhất 12,6oc. Về mùa đông thường có sương mù, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối có khi xuống tới -5 đến 6oc (tháng 12 dương lịch). Tần suất xuất hiện sương muối trung bình 6 - 7 ngày/năm. Khí hậu của xã thích hợp với các loài cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới và cận ôn đới. Tuy nhiên do nằm trên cao nguyên đá vôi, khả năng giữ nước kém nên tình trạng thiếu nước khá nghiêm trọng về mùa khô nên đã ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng và vật nuôi cũng như việc phát triển sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn xã. Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn xã nghèo nàn, chủ yếu là các loại đá có trữ lượng rất lớn nhưng nằm trong phạm vi Công viên địa chất toàn cầu nên cần phải gìn giữ, bảo tồn. 1 Diện tích đất này chủ yếu là đá, do đó rất khó cải tạo để canh tác, sản xuất 5
  6. Trước đây tài nguyên rừng của xã khá phong phú, có nhiều chủng loại động, thực vật. Có nhiều loại gỗ quý có giá trị kinh tế cao như: Trai, nghiến, lát…; nhiều lâm, thổ sản như: Mật ong rừng, mộc nhĩ, nhiều loại thuốc quý... ; cùng với nhiều động vật quý hiếm như: Hổ, gấu, khỉ, gà rừng… Song do ý thức bảo vệ, phát triển rừng chưa cao, tình trạng khai thác gỗ và săn bắt động vật bừa bãi… đã làm cho vốn rừng, quỹ động, thực vật ngày càng cạn kiệt, nhiều loài gỗ quý, động vật quý hiếm không còn trên địa bàn xã. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân xã Pả Vi ra sức bảo vệ vốn rừng còn lại và tích cực trồng phủ xanh những đồi núi trọc nhằm tăng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn. Đến năm 2020, tổng diện tích rừng khoanh nuôi và bảo vệ trên địa bàn xã đạt 797,8 ha, nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%. Trước đây giao thông trên địa bàn xã chủ yếu là đường mòn phục vụ cho việc đi bộ của người và ngựa thồ. Hiện nay, trên địa bàn xã có quốc lộ 4C chạy qua dài khoảng 3 km và tuyến đường đi sang đỉnh đèo Mã Pì Lèng đi Đồng Văn. Cùng với đó, toàn xã có 80% các thôn có đường ô tô (đường bê tông cấp phối) từ xã đến trung tâm thôn. Tuy nhiên, do xã có nhiều thôn cách trung tâm xã với khoảng cách khá xa trên 13 km và do sự chia cắt về mặt địa hình nên đã tạo ra những trở ngại cho giao thông đi lại; đặc biệt là vào mùa mưa thường xuyên xảy ra lở đất, lũ quét gây ách tắc và cô lập với trung tâm xã. Điều đó ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Pả Vi là tên gọi của một làng có từ lâu đời thuộc xã Mèo Vạc cũ với nhiều lần chia tách và thay đổi tên gọi. Thời kỳ Pháp thuộc, đến cuối năm 1929 nằm dưới sự kiểm soát của Đạo quan binh 3 (Hà Giang ngày nay) có 4 đơn vị hành chính là: Châu Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì và châu Đồng Văn. Trong đó châu Đồng Văn có 2 tổng, 18 xã. Pả Vi là một vùng đất thuộc xã Mèo Vạc, tổng Quang Mậu, châu Đồng Văn. Đến ngày 05/7/1961, thực hiện Quyết định số 91-CP của Hội đồng Chính phủ, xã Thống Nhất (xã Pả Vi ngày nay) là 1 trong 5 xã được thành lập trên cơ sở tách từ xã Mèo Vạc (huyện Mèo Vạc), gồm có các thôn: Mã Pì Lèng, Sảng Tủng và Pả Vi. Ngày 13/12/1962, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Quyết định số 328-NV về đổi tên các xã của tỉnh Hà Giang, theo đó xã Thống Nhất đổi tên thành xã Pả Vi. Ngày 15/12/1962, thực hiện Quyết định số 211-CP của Hội đồng Chính phủ, huyện Đồng Văn chia thành 3 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh; địa giới hành chính xã Pả Vi từ huyện Đồng Văn được chuyển về thuộc huyện Mèo Vạc từ đó đến nay. Trải qua quá trình hình thành, địa giới hành chính xã Pả Vi hiện nay gồm có 6 thôn: Pả Vi Thượng, Pả Vi Hạ, Sà Lủng, Kho Tấu, Há Súng, Mã Pì Lèng. Trước đây, Pả Vi là địa bàn sinh sống chủ yếu của dân tộc Mông, trong quá trình sinh sống và phát triển, địa bàn xã đã có thêm nhiều dân tộc khác đến định cư. Đến nay, xã có 11 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc Mông chiếm đại đa số (chiếm 97%). Về truyền thống văn hóa, đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã Pả Vi theo tín ngưỡng đa thần và đều có chung tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, không theo tôn giáo nào. Hình thức sinh hoạt văn hóa khá đa dạng, phong phú và đến nay vẫn còn lưu giữ được 6
  7. bản sắc văn hóa truyền thống. Hiện nay đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã còn lưu giữ các hoạt động văn hóa như: Đánh quay, đánh yến, tung còn trong dịp tết nguyên đán… Mỗi dân tộc ở Pả Vi lại có văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Người Mông sống trên địa bàn xã chủ yếu thuộc nhóm Mông trắng, có đời sống văn hóa phong phú với các điệu thổi khèn và múa khèn, thổi sáo, các bài hát, truyện cổ tích ca ngợi cái tốt, cái đẹp, ca ngợi tình yêu nam nữ, tình yêu thiên nhiên, đất nước, phê phán các thói hư, tật xấu trong xã hội.... Đặc biệt tiếng khèn của đồng bào dân tộc Mông đã trở thành một loại nhạc cụ truyền thống, thu hút được sự quan tâm của nhiều du khách khi đặt chân đến đây. Ngành nghề truyền thống của người dân trên địa bàn xã chủ yếu là nghề nông (trồng trọt và chăn nuôi), tuy nhiên chỉ mang tính tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ lẻ, chưa mang tính chất hàng hóa. Vật nuôi, cây trồng chủ yếu là bò, dê, lợn, gà, vịt và nuôi ong lấy mật; trồng ngô và các loại rau màu... Bên cạnh đó, thủ công nghiệp trên địa bàn xã đã sớm có sự phát triển. Đồng bào Mông đều biết dệt vải và làm đồ trang sức cho phụ nữ, biết đúc lưỡi cày; rèn cuốc, xẻng…nhưng nói chung chỉ tự túc trong gia đình, việc buôn bán chỉ có tính chất trao đổi giữa hàng hóa với hàng hóa hoặc người dân đổi lấy những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày. Trải qua quá trình sinh sống, lao động, sản xuất, đặc biệt được sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và đầu tư, hỗ trợ để phát triển du lịch, đến nay cơ cấu kinh tế của xã đã ngày càng có bước chuyển dịch tích cực. Trong đó đối với việc phát triển du lịch, mô hình Làng văn hóa (cộng đồng) du lịch dân tộc Mông tại thôn Pả Vi Hạ đã thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Tính đến hết năm 2020, tổng giá trị sản xuất của toàn xã đạt trên 70 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông nghiệp đạt 45,5 tỷ đồng (chiếm 65%), lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, du lịch đạt 24,5 tỷ đồng (chiếm 35%). II- Đời sống nhân dân các dân tộc vùng Pả Vi trước năm 1961 Năm 1858, thực dân Pháp kéo quân, nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức mở cuộc xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược đầu hàng, đất đai của Tổ quốc dần rơi vào tay giặc. Năm 1884, thực dân Pháp kéo quân đánh chiếm Hà Giang; đến năm 1887 chúng căn bản chiếm được hạt Hà Giang (thời kỳ này hạt Hà Giang là đơn vị hành chính thuộc tỉnh Tuyên Quang). Chúng đặt ách cai trị, nắm lấy bọn bang tá, thổ ty để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống đến các châu, tổng, xã; đồng thời thi hành chế độ “Quân sự quản chế” cực kì hà khắc, nghĩa là mỗi dân tộc, dòng họ đều có quyền thiết lập một đạo binh riêng bảo vệ địa bàn và quyền lợi của thủ lĩnh dòng tộc kiêm chúa đất. Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” gây mâu thuẫn, mất đoàn kết giữa các dân tộc để các dân tộc chống lại nhau, quên mất thù chính là thực dân Pháp. Tại châu Đồng Văn lúc này được thực dân Pháp chia thành 4 khu vực chính, trong đó vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc, tổng Quang Mậu, châu Đồng Văn do thổ ty Dương Tụ Nghĩa trực tiếp cai quản. Thổ ty Dương Tụ Nghĩa đã tự xưng là “vua Mèo”, tìm 7
  8. mọi cách để thâu tóm quyền lực trong cộng đồng dân tộc Mông và bành trướng sự thống trị lên toàn vùng cao nguyên đá. Ý tưởng, sự nghiệp cùng danh vị “Vua Mèo” của ông được con trai là Dương Trung Nhân tiếp tục phát huy và khuếch trương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện ý đồ đó, họ Dương ở Mèo Vạc đã vấp phải một trở lực lớn từ dòng họ Vương ở Đồng Văn. Về sau, nhân dân vùng Pả Vi chịu sự cai quản trực tiếp của Thổ ty Vương Chí Sình. Nhìn chung dưới chế độ thực dân phong kiến thổ ty, đời sống nhân dân Pả Vi hết sức khó khăn. Về kinh tế, nhân dân Pả Vi lúc này chủ yếu sản xuất tự cấp, tự túc, kỹ thuật canh tác lạc hậu; cùng với đó đất đai cằn cỗi, phần lớn là núi đá, công cụ sản xuất thô sơ, sức kéo của bò không đủ cho nhu cầu sản xuất, người dân phải dùng sức người thay thế. Năng suất thu hoạch thấp, lại bị bọn thực dân phong kiến thổ ty vơ vét, cướp đoạt bằng các thứ thuế hết sức nặng nề như: Thuế đinh, thuế điền, thuế thuốc phiện, thuế nuôi quân...; hàng năm mỗi gia đình phải đóng góp trung bình: Thuốc phiện 10-20 kg, ngô 200 kg, tiền 2 đồng bạc già. Do đó đời sống nhân dân đã đói khổ lại càng trở nên cùng cực hơn. Về quân sự, lúc này đứng đầu cả châu Đồng Văn là một tên quan ba vừa chỉ huy binh lính các đồn, vừa giải quyết công việc dân sự. Nhân dân Pả Vi vừa chịu sự cai quản về mặt quân sự của quan ba, vừa bị Thổ ty bóc lột sức lao động, làm không công cho các chức dịch trên địa bàn; tham gia phát đường vận tải cho quân đội của Thổ ty và trung bình mỗi người 1 năm phải đi làm việc cho Thổ ty khoảng 6 tháng… Về văn hóa, do chính sách ngu dân của thực dân Pháp và chế độ phong kiến Thổ ty ra sức kìm hãm, trong các xóm làng không có trường học nên hơn 95% nhân dân Pả Vi không biết chữ. Cùng với đó, nhiều hủ tục lạc hậu, nạn mê tín dị đoan diễn ra phổ biến; người dân khi ốm đau chỉ có cúng bái, không có thuốc chữa bệnh; các tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, nghiện ngập thuốc phiện, rượu chè… được khuyến khích phát triển. Có thể khẳng định, dưới sự cai trị của thực dân phong kiến, thổ ty cùng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, đời sống nhân dân Pả Vi hết sức khổ cực. Trung bình 70% dân số thiếu ăn 6 tháng/năm; 20% dân số thiếu ăn trong 3 tháng; chỉ có 10% dân chúng đủ ăn. Mặc dù đời sống khó khăn nhưng với tinh thần đoàn kết, vượt khó đi lên, đồng bào các dân tộc vùng Pả Vi đã nêu cao ý chí, tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tinh thần đó ngày càng bùng lên mạnh mẽ kể từ khi có Đảng dẫn đường, chỉ lối. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt hai phần ba thế kỷ bế tắc và khủng hoảng về đường lối cách mạng từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là tập hợp, tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới. Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vĩ đại đã thành công rực rỡ. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với ý nghĩa lịch sử to lớn, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã có tác động sâu sắc, tạo bước chuyển biến mới đối với phong trào cách mạng ở một tỉnh miền núi, biên giới Hà Giang. 8
  9. Mặc dù nước nhà độc lập, nhưng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: Ngân khố quốc gia trống rỗng, kinh tế trì trệ, nạn đói hoành hành... các nước lớn quyết tâm quay lại xâm lược nước ta. Ở phía Bắc quân Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) tràn sang với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật; bám gót quân Tưởng, một đội quân của Việt Nam Quốc dân Đảng cũng vào chiếm đóng thị xã Hà Giang và các đồn bốt ở các châu, lỵ, dựng chính quyền địa phương do cường hào địa chủ, thổ ty nắm giữ. Ngày 25/12/1945, đồng thời với việc thành lập Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Hà Giang, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang. Nhân dân các dân tộc Hà Giang nói chung và nhân dân các dân tộc trên địa bàn Pả Vi luôn tin tưởng đi theo con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo để hoàn thành xứ mệnh giải phóng dân tộc thoát khỏi sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ thổ ty trên mảnh đất miền biên ải. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã soi sáng cho con đường cách mạng của huyện Đồng Văn nói chung và nhân dân vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc nói riêng đi theo sự lãnh đạo của Đảng để hoàn thành sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới. Từ cuối năm 1945, ở Pả Vi, xã Mèo Vạc, cán bộ Việt Minh đã dùng nhiều hình thức đấu tranh để vạch trần bộ mặt phản dân hại nước của bọn Việt Nam Quốc dân đảng Hoàng Quốc Chính cùng các thế lực phản động khác để phân hóa và cô lập chúng, thu hút quần chúng nhân dân và những phần tử tích cực trong hàng ngũ địch hướng về phía cách mạng. Đáng kể nhất là vào tháng 10/1945, một đơn vị do Lý Thủy Thọ, gồm 60 người thuộc phân hội Việt Nam cách mạng đồng minh hội (bộ phận tích cực) từ Vân Nam (Trung Quốc) đã vào khu vực Đồng Văn, Mèo Vạc. Sau khi được ta tuyên truyền, vận động, Mặt trận Việt Minh đã quyết định bổ sung lực lượng này cho cách mạng. Cùng với việc đối phó với các thế lực phản động và tay sai, nhân dân Hà Giang cùng với nhân dân cả nước hưởng ứng chủ trương của Đảng, Chính phủ về xây dựng chính quyền cách mạng. Để hợp pháp hoá chính quyền dân chủ nhân dân các cấp, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong toàn quốc, bầu ra Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 06/01/1946, trong không khí tưng bừng phấn khởi của quân và dân cả nước, nhân dân các dân tộc vùng Pả Vi cùng với nhân dân xã Mèo Vạc nô nức đi bầu cử, bầu ra 2 đại biểu (ông Nguyễn Thanh Phong - Chủ tịch lâm thời Ủy ban hành chính tỉnh và ông Vương Chí Sình - Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Đồng Văn cũ) vào Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 của thực dân Pháp. Bám sát chủ trương của Trung ương, tại địa bàn tỉnh Hà Giang, Tỉnh ủy nhận thấy cần phải củng cố và tăng cường các lực lượng quân sự, tổ chức lực lượng bộ đội địa phương tức là những đại đội độc lập. Đại đội độc lập này thực hiện nhiệm vụ làm công tác chính trị, gây cơ sở bí mật, tích trữ lương thực, chuẩn bị những kho lương thực giấu trong các lán, để cho dân làm vườn không nhà trống, huấn luyện và dìu dắt du kích. Đối với vùng Pả Vi, thực hiện chủ trương của cấp trên, nhân dân đã được đẩy mạnh 9
  10. tuyên truyền, vận động tích cực chuẩn bị mọi mặt góp phần cùng chung sức phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Hưởng ứng lời kêu gọi “Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh, mặc dù đời sống nhân dân còn hết sức khó khăn, hầu hết các hộ dân đều trong tình trạng thiếu đói; tỷ lệ người dân mù chữ chiếm tỷ lệ cao trên 95%; điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt, đất canh tác có độ dốc lớn, chủ yếu là đá, vào mùa đông tình trạng sương muối, khan hiếm nước xảy ra nhưng nhân dân vùng Pả Vi đã hăng hái, tích cực tăng gia, phát triển sản xuất với khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”; đẩy mạnh khai hoang, mở rộng diện tích trồng, ngô, khoai, sắn; chăn nuôi gia súc, gia cầm…để từng bước cứu đói và ủng hộ kháng chiến kiến quốc. Thực hiện sắc lệnh “Bình dân học vụ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “xóa mù chữ” được nhân dân vùng Pả Vi hưởng ứng sôi nổi, trong một thời gian ngắn nhiều người dân vùng Pả Vi đã biết đọc, biết viết. Ngày 10/4/1950, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ nhất khai mạc. Đại hội đã đánh giá kết quả hoạt động của Đảng bộ tỉnh trong quá trình lãnh đạo kháng chiến kiến quốc, đề ra nhiệm vụ, phương hướng cách mạng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lên giai đoạn tổng phản công. Thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất, Huyện ủy Đồng Văn (cũ) đã tăng cường việc củng cố hệ thống chính quyền, tích cực vận động nhân dân tham gia dân quân du kích, bộ đội địa phương đấu tranh ngăn chặn hoạt động phá hoại của thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, xã Mèo Vạc đã thành lập được các tổ chức như: Tòa án2, công an (khu vực Huyện ủy Mèo Vạc hiện nay)…Do đó, việc thực hiện công tác đảm bảo trật tự trị an đối với vùng Pả Vi nói riêng, xã Mèo Vạc nói chung được thực hiện tương đối tốt. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Huyện uỷ Đồng Văn, tháng 6 năm 1950, Ủy ban hành chính lâm thời xã Mèo Vạc được thành lập do ông Vàng Dũng Mỷ làm chủ tịch. Sau khi được thành lập, Ủy ban hành chính xã Mèo Vạc đã thành lập lực lượng du kích địa phương gồm 24 người (trong đó có một số du kích là người vùng Pả Vi) tham gia bảo vệ địa phương. Từ đây, dưới sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Ủy ban hành chính xã Mèo Vạc, nhân dân vùng Pả Vi cùng với nhân dân xã Mèo Vạc đã tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, từng bước khắc phục khó khăn, thực hiện các nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chế độ phong kiến thổ ty. Từ cuối năm 1951, Giải phóng quân Trung Quốc truy kích bọn phỉ, bọn Quốc dân Đảng của Trung Quốc, làm tàn quân phản động dạt về vùng biên giới nước ta. Lợi dụng tình hình trên, thực dân Pháp tung nhiều toán gián điệp, biệt kích trở lại biên giới móc nối, tập hợp lực lượng tiếp tục chống phá cách mạng của ta. Để thực hiện kế hoạch phong tỏa biên giới, ngày 3/7/1952, chúng thả 49 tên phỉ cùng vũ khí đạn dược xuống Pả Vi để tăng cường cho phỉ ở Đồng Văn 3, trước tình hình đó lực lượng vũ trang và dân quân du kích tại chỗ có sự chuẩn bị trước đã kịp thời bao vây, nổ súng khi quân địch vừa nhảy dù xuống cánh đồng ngô ở Pả Vi. Kết quả là ta đã đón bắt 2 Văn kiện Đảng bộ tỉnh Hà Giang toàn tập, tập 1 tr 76 3 Tỉnh ủy Hà Giang: Báo cáo các chiến dịch tiễu phỉ… Tài liệu đã dẫn, trang 21. 10
  11. được 43/49 tên, thu toàn bộ vũ khí trang bị ngay sau khi chúng vừa đặt chân xuống đất, 6 tên còn lại lẩn trốn vào rừng cũng bị ta lần lượt tóm gọn. Như vậy, toán biệt kích 49 tên của Pháp nhảy dù xuống Pả Vi đã bị tiêu diệt hoàn toàn, đánh dấu sự thất bại trong kế hoạch chống phá cách mạng nước ta của thực dân Pháp. Bước sang năm 1954, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, nhân dân cả nước nói chung và nhân dân vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc, huyện Đồng Văn nói riêng đã dồn sức cho chiến dịch Điện Biên Phủ, tích cực phục vụ chiến đấu; hăng hái lên đường tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ các bản làng xa xôi, hẻo lánh, người người, nhà nhà đều góp công, góp của cho tiền tuyến. Ngoài việc hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, huy động dân công phục vụ các chiến dịch, chính quyền xã Mèo Vạc còn chỉ huy lực lượng dân quân du kích xã thực hiện tốt nhiệm vụ tiễu trừ thổ phỉ, phản động, bảo vệ vững chắc hậu phương. Với chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Đất nước ta bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào giai đoạn khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tiến lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong bối cảnh chung của cách mạng, nhân dân vùng Pả Vi đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện có nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền xã Mèo Vạc, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của nhân dân vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc được xác định là đấu tranh chống những âm mưu phá hoại của địch, ra sức khôi phục kinh tế, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, góp phần tham gia tích cực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TU, ngày 03/4/1959 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Đồng Văn, nhân dân các dân tộc vùng Pả Vi đã cùng với nhân dân xã Mèo Vạc đã đi bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp. Trong cuộc bầu cử này đồng chí Thào Thị Mỷ, cán bộ xã Mèo Vạc đã được tín nhiệm bầu vào đại biểu Hội đồng nhân dân huyện Đồng Văn. Trong giai đoạn 1955 - 1960, tình hình trật tự trị an trên địa bàn huyện Đồng Văn còn rất phức tạp, chế độ thổ ty phong kiến chưa bị đánh đổ hoàn toàn, bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) và tầng lớp trên (thổ ty phong kiến) tăng cường hội họp bàn cách chống phá cách mạng. Chúng tổ chức buôn lậu có vũ trang để đi lại móc nối với nhau, đe dọa khủng bố tinh thần những người tích cực theo cách mạng, đưa tay chân của chúng vào lực lượng dân quân, gạt bỏ thành phần tích cực của ta, tìm mọi cách chia rẽ cán bộ, bộ đội với nhân dân, đe dọa lực lượng cốt cán của ta. Chúng tuyên truyền đề cao Pháp - Mỹ, chống chính sách thuế, dân công, phá hoại sản xuất, chia rẽ các dân tộc. Ngày 30/11/1959, bọn phản động nổi lên chiếm cổng trời Cán Tỷ, cắt đứt đường giao thông từ Hà Giang lên Đồng Văn. Ngày 01/12/1959, cuộc bạo loạn chính 11
  12. thức nổ ra. Chúng tiếp tục chống đối, gây nhiều tội ác với nhân dân. Ngày 12 tháng 12 năm 1959, chúng tập trung 200 quân tấn công thị trấn Đồng Văn. Ngày 19 tháng 12 năm 1959, chúng đánh chiếm xã Mèo Vạc. Chúng cướp cửa hàng mậu dịch và cửa hàng lương thực, huy động tay chân khuân hết hàng hóa lương thực về nhà và đưa vào hang cất giấu với mưu đồ tích lũy sử dụng lâu dài... Lúc này, tình hình trật tự trị an, đời sống nhân dân huyện Đồng Văn nói chung, vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc hết sức khó khăn; một bộ phận nhân dân có tâm lý hoang mang, hoảng loạn. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã họp, nhận định, đánh giá tình hình và đề ra chủ trương, biện pháp giải quyết vụ bạo loạn ở Đồng Văn với phương châm: “Dùng vận động chính trị, nắm quần chúng, tranh thủ tầng lớp trên để giải quyết vấn đề, hết sức tránh việc khiêu khích, nổ súng”. Với những giải pháp mềm dẻo và sự hỗ trợ với sự ủng hộ của nhân dân; sự phối hợp của tiểu đội dân quân Mèo Vạc, Tiểu đoàn 12 công an nhân dân vũ trang, Trung đoàn 246 quân khu Việt Bắc, Đại đội 10 Tỉnh đội Hà Giang và Phân đội 55 Công an nhân dân vũ trang Cao Bằng, đến ngày 23/12/1959 lực lượng phỉ ở Mèo Vạc đã bị tiêu diệt. Ngày 07/3/1960, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang họp hội nghị mở rộng với nội dung quán triệt Nghị quyết của Ban Thường vụ khu ủy Khu tự trị Việt Bắc về việc giải quyết tình hình sau vụ bạo loạn ở Đồng Văn. Hội nghị đưa ra quyết định như sau: Dựa vào quần chúng cơ bản, tranh thủ tầng lớp trên; cô lập bọn đặc vụ phản động đầu sỏ, kiên quyết trừng trị bọn đầu sỏ, đặc vụ phản động. Ngày 20/01/1960, Tỉnh ủy Hà Giang có quyết định điều động các đồng chí Nông Công Bằng, Đinh Công Hòa, Hoàng Nghiêu là huyện ủy viên từ các huyện thuộc tỉnh Bắc Kạn và đồng chí Nguyễn Văn Vũ là cán bộ thuộc Tỉnh ủy Thái Nguyên lên công tác tại huyện Đồng Văn nhằm cùng huyện và các xã tích cực giải quyết tình hình sau vụ bạo loạn. Lúc này, đối với khu vực các xã Mèo Vạc và Lũng Phìn, Sủng Máng được phân thành khu Mèo Vạc và được Huyện ủy Đồng Văn phân công đồng chí Đinh Công Hòa là cán bộ tăng cường phụ trách khu. Sự có mặt của cán bộ tăng cường đã làm cho tình hình chính trị - xã hội cũng như các hoạt động sản xuất tại các xã sau cuộc tiễu phỉ, trong đó có vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc dần đi vào ổn định, nhân dân yên tâm lao động sản xuất và ngày càng củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ. Trước tình hình đời sống nhân dân ngày càng đi vào ổn định và để đáp ứng yêu cầu cách mạng đang đặt ra, ngày 16/02/1960, Huyện ủy Đồng Văn đã ra quyết định thành lập chi bộ đảng đầu tiên ở các xã phía Đông và Đông Nam cao nguyên Đồng Văn. Đây là chi bộ ghép giữa các xã, trong đó có xã Mèo Vạc. Chi bộ này ban đầu có 4 đảng viên đều là cán bộ tăng cường cho các xã, gồm các đồng chí: Nông Công Bằng, Nguyễn Bá Tước, Viên Thế Kiêu, Nguyễn Văn Vũ. Đồng chí Nông Công Bằng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Ngay sau khi thành lập, cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân sớm ổn định sản xuất và đời sống vật chất tinh thần, chi bộ còn đặc biệt quân tâm đến công tác xây dựng Đảng - nhất là kết nạp đảng viên mới, ưu tiên cho đảng viên là người địa phương; đồng thời tích cực củng cố chính quyền và đoàn thể nhân dân. Đến tháng 4/1960, Chi bộ đã có 6 đảng viên mới, trong đó có đồng chí Sùng Chúa Vàng là 12
  13. người vùng Pả Vi. Đây là người đảng viên đầu tiên của Pả Vi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, trong thực hiện nhiệm vụ phát triển sản xuất, người dân vùng Pả Vi cùng với nhân dân xã Mèo Vạc đã tích cực khai phá, cải tạo những đồi đất dốc thành những nương rẫy tốt. Trong sản xuất, cây ngô vẫn là cây lương thực chính, chiếm phần lớn diện tích đất trồng trọt của người dân. Ngoài ra, các cây ăn quả khác như đào, lê, mận và các loại cây rau, đậu, khoai sọ, ý dĩ, tam giác mạch; cây lanh để dệt vải… cũng được phát triển. Trong chăn nuôi, người dân chủ yếu nuôi ngựa, bò để làm sức kéo và phương tiện đi lại; ngoài ra còn nuôi nhiều loại gia súc gia cầm khác như nuôi lợn, gà… để thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và phục vụ nhu cầu về thực phẩm. Thực hiện chính sách thuế của Trung ương, Chi bộ đã xác định đây vừa là nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa thông qua đó tiếp tục củng cố xây dựng cơ sở trong quần chúng, do đó đã đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân các xã phía Đông và Đông Nam cao nguyên Đồng Văn (trong đó có nhân dân vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc) thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Tuy nhiên, việc vận động nhân dân thực hiện chính sách thuế nông nghiệp bước đầu gặp nhiều khó khăn, phức tạp do trình độ giác ngộ của nhân dân và trình độ tổ chức, vận động của cán bộ còn hạn chế. Cùng với đó, bọn phản động tung tin xuyên tạc chính sách thuế của ta làm cho nhân dân có phần hoang mang, dao động. Nhưng chỉ sau một thời gian, với sự khéo léo, kiên trì vận động, thuyết phục của cán bộ, đồng bào các xã đã dần dần thấy được tính ưu việt của chính sách thuế nông nghiệp, nhân dân trong vùng đã bắt đầu nộp thuế theo sự vận động của Chi bộ khu và ủy ban hành chính xã; người dân đã phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, hăng hái thi đua sản xuất, khai hoang phục hoá, tăng vụ, đóng góp đầy đủ thuế lương thực cho Nhà nước. Có thể khẳng định, thời kỳ trước năm 1961, trong điều kiện khó khăn chung của huyện Đồng Văn như: Tình hình chính trị, trật tự trị an còn rất phức tạp, chế độ phong kiến thổ ty chưa bị đánh đổ hoàn toàn; bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch và tầng lớp trên tăng cường chống phá cách mạng; chúng tuyên truyền đề cao Pháp - Mỹ, chống chính sách thuế, dân công, phá hoại sản xuất, chia rẽ các dân tộc. Trong khi đó tình trạng mù chữ, thiếu đói của nhân dân vùng Pả Vi, xã Mèo Vạc nói riêng, các xã thuộc huyện Đồng Văn còn rất nặng nề. Công tác xây dựng Đảng của huyện gặp nhiều khó khăn, trình độ văn hoá của người dân còn thấp; nhiều xóm bản không có đảng viên; nhiều cán bộ, đảng viên chưa biết chữ; hoạt động của các tổ chức đoàn thể còn nhiều yếu kém. Nhưng dưới ánh sáng ngọn cờ cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã chọn, nhân dân vùng Pả Vi cùng với nhân dân xã Mèo Vạc đã một lòng đoàn kết lại, từng bước vượt qua khó khăn, nêu cao ý chí kiên cường chống lại các thế lực phản động, cùng nhau xóa bỏ căn bản các đặc quyền, đặc lợi, thu hẹp được ảnh hưởng và tàn tích của chế độ phong kiến thổ ty, quyết tâm đi theo con đường cách mạng; tích cực đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần cùng nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện thực hiện các nhiệm vụ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân 13
  14. Pháp (1945 - 1954) và những năm đầu kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1960). Chương II CHI BỘ XÃ PẢ VI ĐƯỢC THÀNH LẬP LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, TÍCH CỰC GÓP PHẦN VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO TIỀN TUYẾN ĐÁNH MỸ, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1962 - 1975) I- Chi bộ xã Pả Vi được thành lập, trực tiếp lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm và góp phần chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1962 - 1968) Xuất phát từ tình hình thực tế do dân số tăng lên, địa bàn rộng, trình độ, khả năng quản lý của cán bộ hạn chế, trong khi đó sau chiến dịch tiễu phỉ các xã thuộc huyện Đồng Văn vẫn còn có nhiều diễn biến phức tạp, trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân các dân tộc còn thấp, đường xá đi lại từ xã đến thôn có nơi phải mất một ngày đường, hầu hết cán bộ đầu ngành của xã chưa biết chữ do đó gặp khó khăn trong thực hiện công tác quản lý, điều hành. Trước thực tế trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn đã xây dựng phương án chia xã trình tỉnh và Chính phủ. Ngày 26/4/1961, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 03-NQ/TU về lãnh đạo công tác chia tách xã nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức của đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng liên hệ mật thiết với nhân dân, cũng như việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục quần chúng một cách chặt chẽ, để phát huy đầy đủ khả năng mọi mặt của nhân dân các dân tộc. Làm cho các hoạt động của xã vừa phải phù hợp với khả năng và trình độ lãnh đạo của đội ngũ cán bộ xã, thuận tiện cho cán bộ trong công tác chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, thuận lợi cho quần chúng nhân dân đi lại giao dịch với các cơ quan, chính quyền, đoàn thể trong xã. Ngày 5/7/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 91-CP, theo đó xã Mèo Vạc, huyện Đồng Văn được chia thành 5 xã mới là: Thống Nhất, Hòa Bình, Đoàn Kết, Tự Do, Lũng Pù. Xã Thống Nhất gồm các thôn là Mã Pì Lèng, Sảng Tủng và Pả Vi. Sau khi được chia tách, Ủy ban hành chính xã Thống Nhất đã được thành lập. Ngày 13/12/1962, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 328-CP về việc đổi tên các xã. Theo đó xã Thống Nhất được đổi tên thành xã Pả Vi. Ngày 15/12/1962, thực hiện Quyết định số 211-CP của Hội đồng Chính phủ, huyện Đồng Văn được chia thành 3 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh. Xã Pả Vi được điều chuyển thuộc về địa giới hành chính huyện Mèo Vạc. Cùng với sự thay đổi về địa giới hành chính xã, cuối năm 1962, Chi bộ xã Pả Vi đã được thành lập gồm 3 đảng viên. Đồng chí Sùng Chúa Vàng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Ngay sau khi thành lập, cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân sớm ổn định sản xuất, Chi bộ còn đặc biệt quân tâm đến công tác xây dựng Đảng, nhất là kết 14
  15. nạp đảng viên mới, ưu tiên cho đảng viên là người địa phương; đồng thời tích cực củng cố chính quyền và thực hiện công tác thành lập Mặt trận và các đoàn thể xã. Bước sang năm 1963, ở miền Nam, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba “chỗ dựa” của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Ở miền Bắc, bước vào năm thứ 2 thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã tiếp tục phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Cũng tại thời điểm này, toàn tỉnh đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách dân chủ, nhất là đối với các huyện vùng cao, biên giới. Qua đó đã phá tan những trở ngại do chế độ thổ ty, phong kiến để lại; giác ngộ ý thức giai cấp cho quần chúng các dân tộc vùng cao đứng lên đánh đổ uy thế của giai cấp thổ ty, phong kiến. Từ đó họ đã nhìn thấy rõ và lên án chế độ phong kiến, thổ ty áp bức dân nghèo, gây chia rẽ, hằn thù trong nội bộ các dân tộc, kìm hãm sự phát triển xã hội về mọi mặt. Đối với địa bàn xã Pả Vi, sau khi Chi bộ được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mèo Vạc, Chi bộ và nhân dân xã Pả Vi đã tích cực thực hiện các cuộc vận động phát triển kinh tế - xã hội như: Cuộc vận động xây dựng tổ đổi công và thành lập hợp tác xã, cuộc vận động cải cách dân chủ, phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, do trên địa bàn xã vẫn còn những phần tử xấu lén lút hoạt động, chúng tìm mọi cách chống phá, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa cán bộ... Trước tình hình đó, Chi bộ xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm đập tan các luận điệu xuyên tạc, hành động chống phá của bọn phản động, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Trong công tác giáo dục, thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU, ngày 18/02/1963 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa và xoá nạn mù chữ cho cán bộ và nhân dân trong năm 1963, Chi bộ xã đã quán triệt đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác bổ túc văn hóa và xoá nạn mù chữ đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, được sự quan tâm của Huyện ủy Mèo Vạc, xã Pả Vi được huyện cử 1 cán bộ xuống tăng cường thực hiện công tác xóa mù chữ. Từ những nỗ lực đó, xã huy động được 15 người tham gia lớp bổ túc văn hóa; cử được 12 người tham gia lớp sơ cấp được mở tại huyện Mèo Vạc. Đến cuối năm 1963, xã xóa mù chữ được 15 người. Thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 21/11/1963 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phương hướng, nhiệm vụ sản xuất vùng rẻo cao Đồng Văn, Mèo Vạc trong kế hoạch 5 năm từ năm 1964 - 1965, Chi bộ xã Pả Vi đã đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo vận động nhân dân tích cực khai hoang; cải tiến kỹ thuật; đẩy mạnh trồng ngô giống mới nhằm đem lại năng suất cao. Được sự hỗ trợ của huyện về việc sử dụng 2 loại giống ngô nhập của Trung Quốc và của huyện Bảo Lạc (Cao Bằng), loại giống này có nhiều ưu 15
  16. điểm nổi trội so với giống của địa phương, cho thu hoạch sớm hơn từ 10 đến 15 ngày và năng suất cao hơn. Để đảm bảo về phân bón, dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, nhân dân xã đã từng bước hình thành tập quán dọn chuồng gia súc để lấy phân ủ và dùng phân chuồng bón các loại cây trồng, mặc dù có những nương trồng xa nhà 5 - 6 cây số nhưng nhân dân xã vẫn địu phân đi bón cho cây trồng. Ngoài phân chuồng, nhân dân xã đã biết dùng phân hóa học, chủ yếu là đạm để bón thúc cho cây ngô và đã có được những kinh nghiệm bước đầu về bón phân hóa học. Qua việc dùng phân hóa học và sử dụng giống mới, năng suất ngô trên địa bàn xã có nơi đã thu được 1tấn/ha4. Tuy nhiên, năng suất chưa ổn định và mang tính bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân xã Pả Vi đã tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua lao động sản xuất và học tập do huyện phát động, tiêu biểu là chiến dịch tiến quân vào 4 mặt trong lĩnh vực nông nghiệp: “Làm phân bón, thủy lợi, làm công cụ cải tiến và làm đất kỹ” nhằm đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế. Chi bộ xã cũng đã vận động nhân dân làm tốt công tác quân sự địa phương, động viên con em sẵn sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị. Thời gian này các phong trào của xã vẫn còn có những khó khăn nhất định do nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, chăn nuôi tuy phát triển nhưng chưa chú trọng công tác phòng, chống dịch bệnh, chống rét cho đàn gia súc, hiện tượng phát nương làm rẫy vẫn còn xảy ra; đời sống nhân dân xã còn hết sức khó khăn, tỷ lệ hộ thiếu đói hàng năm chiếm 80 - 90% dân số. Để khắc phục những hạn chế trên, Chi bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân, tạo niềm tin đối với quần chúng về các chủ trương, chính sách của Đảng và từng bước vận động nhân dân tham gia các tổ đổi công, tiến tới xây dựng hợp tác xã, phát triển kinh tế đi theo con đường làm ăn tập thể. Đồng thời phát động các phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xây dựng tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Trong những năm 1963 - 1964, Chi bộ xã đã phát động phong trào “Ngày hội giao lương bán nông sản, thực phẩm” cho Nhà nước và đã được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân. Kết quả của phong trào, toàn xã đã bán cho Nhà nước được gần 500 kg ngô và 150 kg thực phẩm. Bên cạnh đó, hưởng ứng chủ trương của Đảng bộ huyện Mèo Vạc về phát triển thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nhân dân Pả Vi đã tham gia ủng hộ được hơn 1.100 ngày công, đào đắp được hơn 150m3 đất đá để tu sửa và góp phần cùng với nhân dân các xã trên địa bàn huyện xây dựng được 44 con mương, 11 hồ chứa nước, đào 3 giếng nước, xây dựng 4 bể nước ở các xã Lũng Chinh, Sủng Máng, Sủng Trà. Tháng 8/1964, Đại hội Đảng bộ huyện Mèo Vạc lần thứ II được tổ chức. Đại hội đã xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là tăng cường xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó lương thực là mặt trận hàng đầu. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mèo Vạc lần thứ II, Chi bộ 4 Văn kiện Đảng bộ tỉnh toàn tập, tập III (1963-1970), trang 135. 16
  17. xã Pả Vi đã lãnh đạo nhân dân tăng cường khai hoang phục hóa, làm thủy lợi, tận dụng các nguồn nước tưới để cấy hết diện tích ruộng, đưa giống lúa mới Nam Ninh có năng suất cao vào gieo cấy, nhân dân các dân tộc trong xã đã cải tạo và mở rộng diện tích đất nương trồng ngô, đậu tương và các loại cây hoa màu khác để tạo thêm nguồn lương thực, thực phẩm cho cuộc sống nhân dân. Năm 1964, năng suất ngô trên địa bàn xã đạt gần 2,5 tạ/ha, năng lúa nước đạt 5 tạ/ha, năng suất lúa cạn đạt 1 tạ/ha; bình quân lương thực đầu người đạt 95 kg/người/năm. Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 14/12/1963 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường công tác chống buôn lậu, góp phần đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ trị an, Chi bộ xã đã vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức, đấu tranh phòng, chống buôn lậu; vừa tích cực chỉ đạo Ban Công an xã phối hợp với Công an huyện Mèo Vạc tăng cường đẩy mạnh công tác điều tra, nắm bắt và xử lý các vụ buôn lậu trái phép trên địa bàn xã. Trong thời gian này, lực lượng Công an huyện đã phối hợp với xã thực hiện và xử lý thành công chuyên án buôn lậu trái phép, xử lý 2 đối tượng Sùng Lình Sinh, Sùng Sè Giàng trên địa bàn xã5. Cuối năm 1964, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam bị phá sản, chúng chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ cho máy bay, tàu chiến đánh phá miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam. Trước tình hình trên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, khóa III (5/1965) đã quyết định chuyển hướng hoạt động kinh tế - xã hội của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho cách mạng miền Nam. Năm 1965, Chi bộ xã Pả Vi tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1965 - 1967. Tham dự Đại hội có 3 đảng viên. Đại hội bầu đồng chí Sùng Chúa Vàng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ kể từ khi được thành lập đến nay, trên cơ sở đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1965 - 1967, trong đó tập trung công tác lãnh đạo củng cố và phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm để ổn định đời sống cho nhân dân. Năm 1965 cũng là năm quyết định của việc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cũng là năm mà đồng bào miền Bắc phải tham gia tích cực hơn nữa đối với nhiệm vụ ủng hộ cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược của đồng bào miền Nam. Qua hoạt động của mấy năm vừa qua, tình hình các mặt của huyện Mèo Vạc về kinh tế, chính trị, quân sự đều có tiến bộ mang lại cho quần chúng một sự phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, sẵn sàng hưởng ứng những chủ trương của các cấp ủy đảng, của chi bộ. Thời kỳ này ở địa bàn Pả Vi phong trào đổi công tiếp tục được củng cố, thường xuyên có bình công chấm điểm được trên 25% số hộ. Thực hiện Chỉ thị 81-CT/TU, ngày 14/8/1965 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về mở đợt thi đua hưởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Hồ Chủ tịch, thời gian mở 5 Văn kiện Đảng bộ tỉnh toàn tập, tập III (1963 – 1970), trang 188. 17
  18. đợt thi đua trong 1 tháng (từ 15/8/1965 đến 15/9/1965) với mục đích nhằm làm cho đảng viên, đoàn viên, phụ lão, phụ nữ, thanh thiếu niên đều thấm nhuần lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nâng cao lòng căm thù giặc Mỹ, quyết tâm chống Mỹ cứu nước và tích cực sản xuất lấy thành tích chào mừng 20 năm độc lập. Với tinh thần cao nhất của đợt thi đua, tất cả đảng viên và quần chúng xã Pả Vi đã tích cực chuẩn bị cho trồng các loại cây rau màu vụ đông, đồng thời đẩy mạnh nhiệm vụ bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu. Từ khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc, tại Hà Giang, bọn phản động bắt đầu ngóc dậy chống lại chính quyền, chúng vừa công khai, vừa ngấm ngầm tuyên tuyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với địa bàn xã Pả Vi, bọn phỉ cũ chưa chịu cải tạo, chúng vẫn lén lút thực hiện các hành vi tàng trữ vũ khí: Mua súng, giấu súng, chuyển súng từ nơi này sang nơi khác; bọn phản động Trung Quốc qua lại lén lút, bọn đặc vụ đẩy mạnh các hoạt động phản tuyên truyền. Trước tình hình đó, thực hiện Nghị quyết ngày 22/10/1965, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác bảo vệ trị an, đề phòng đột xuất và phòng chống gián điệp, biệt kích; dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ xã Pả Vi đã phát động quần chúng nhân dân vận động, tố giác bọn phản động, tham gia giữ gìn trật tự an ninh thôn bản, luôn cảnh giác không mắc mưu kẻ xấu; tích cực thực hiện khẩu hiệu “3 không” (không biết, không nói, không nghe), giúp đỡ chính quyền xã phát hiện người lạ ra vào địa phương. Trong phát triển kinh tế, phong trào xây dựng hợp tác xã trên địa bàn được Chi bộ tập trung chỉ đạo, triển khai. Mặc dù là xã vùng cao, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn do đó việc vận động, huy động sức mạnh của nhân dân tham gia xây dựng hợp tác xã, phát triển kinh tế tập thể gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự quyết tâm của Chi bộ, sự vào cuộc tích cực của các đoàn thể, đã từng bước tạo được sự chuyển biến về nhận thức của nhân dân đối với việc phát triển hợp tác xã. Nhân dân xã đã từng bước nhận thức rõ việc phát triển hợp tác xã là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tế, phát huy được tinh thần làm ăn tập thể, sự công bằng trong xã hội, góp phần xóa bỏ được chế độ bóc lột ở nông thôn vùng cao; người dân được giải phóng, trở thành người chủ ruộng đất, làm chủ xã hội. Trong những năm 1965 - 1967, là giai đoạn tỉnh Hà Giang cũng như huyện Mèo Vạc phát động và triển khai mạnh mẽ phong trào làm đường giao thông. Hưởng ứng kế hoạch của huyện, với tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, Chi bộ lãnh đạo nhân dân mở các tuyến đường ngựa thồ từ thôn về trung tâm xã. Công tác y tế trên địa bàn xã còn gặp nhiều khó khăn, toàn xã chỉ có 1 cán bộ phụ trách công tác này; cơ sở vật chất chưa được đảm bảo, còn làm việc chung tại trụ sở xã. Do đó điều kiện phục vụ công tác khám, chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Đối với những ca bệnh khó, hiểm nghèo, người dân chủ yếu khám chữa bệnh tại bệnh viện của huyện Mèo Vạc. Công tác giáo dục của xã từng bước được quan tâm. Thực hiện Chỉ thị số 68- CT/TU, ngày 13/05/1965 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát động chiến dịch “Hè diệt dốt - bổ túc văn hóa, đẩy mạnh sản xuất, chống Mỹ cứu nước”, Chi bộ xã đã xây 18
  19. dựng kế hoạch của Chi bộ để cụ thể hóa chiến dịch do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, huyện đề ra; vận động đảng viên và gia đình đảng viên phải gương mẫu đi học trước. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền huy động người dân trên địa bàn xã tự nguyện và tích cực tham gia phong trào thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa, nhằm từng bước đưa học tập văn hóa vào nền nếp. Từ những nỗ lực cố gắng đó, trong những năm 1965 - 1967, phong trào bình dân học vụ trên địa bàn xã tiếp tục được duy trì, xã đã có 40 người được công nhận xóa mù chữ. Đội ngũ cán bộ xã tích cực tham gia lớp bổ túc văn hóa từ lớp 1 đến lớp 4 do huyện Mèo Vạc mở, qua đó tỷ lệ cán bộ xã biết chữ đã được nâng lên chiếm 65%. Ngoài ra, xã Pả Vi đã có 2 lớp vỡ lòng với 30 học sinh, 2 lớp 1 với 20 học sinh, 1 lớp 2 với 8 học sinh. Song song với việc lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Pả Vi, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được quan tâm đẩy mạnh, góp phần tích cực trong việc vận động các tầng lớp nhân dân trong xã thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng củng cố hợp tác xã và các phong trào thi đua xây dựng phát triển kinh tế của địa phương. Các tầng lớp thanh niên, phụ nữ qua học tập và rèn luyện thực tiễn đã có nhận thức sâu sắc hơn về tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn này, nhất là nhiệm vụ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tạo ra một khí thế mới trong các phong trào thi đua yêu nước. Các tổ chức đoàn thể còn tích cực cử hội viên tham gia sản xuất, học bổ túc văn hóa; vận động con em tòng quân bảo vệ Tổ quốc. Bước sang năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, đẩy ý đồ chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam vào thế bị động, bế tắc. Tại miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng leo thang và ác liệt nhưng đã bị thất bại nặng nề, hơn 1.000 máy bay đã bị bắn rơi. Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước tăng cường đoàn kết, giữ vững quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập tự do, đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng về tiền tuyến lớn miền Nam, khắc sâu tội ác của giặc Mỹ, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Mèo Vạc, Chi bộ xã Pả Vi, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất. Trong đó, Hội Phụ nữ xã đã tích cực đẩy mạnh phong trào “Ba đảm đang”, tích cực động viên chồng con lên đường đánh Mỹ, vận động hội viên đẩy mạnh việc trồng cấy, chú ý làm cỏ, sục bùn cho lúa, phát triển cây ngô đảm bảo lương thực; phát động làm thêm giờ, đi sớm về muộn; sửa lại chuồng trại và hố ủ phân; chuẩn bị tốt cho vụ xuân 1966-1967; ngoài ra, Hội Phụ nữ xã cũng đã quan tâm tuyên truyền, vận động hội viên đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục y tế, văn hoá xã hội nhằm phục vụ đắc lực cho việc sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Đoàn Thanh niên xã tiếp tục phát huy tinh thần của đoàn viên trong thực hiện khẩu hiệu “Một người phấn đấu 19
  20. làm việc bằng hai”, “3 sẵn sàng”6. Hàng năm, số thanh niên lên đường nhập ngũ của xã đều đạt chỉ tiêu của cấp trên giao; các cháu thiếu niên với việc thực hiện 5 Điều Bác Hồ dạy7. Các cụ phụ lão cũng đã nêu cao tinh thần tuổi cao chí càng cao, tích cực lao động, trồng cây, động viên con cháu lao động hoặc tòng quân lên đường diệt giặc… Từ năm 1967, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam ngày càng trở lên khốc liệt, ở một số địa phương miền Bắc, chúng tung biệt kích, thám báo để thăm dò, đánh cắp thông tin về các cơ sở kinh tế, chính trị, quốc phòng của ta. Đối với xã Pả Vi, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ và chính quyền xã tiếp tục đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, tích cực đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam. Ngày 15/9/1967, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Kế hoạch số 250-KH/TU, về thi hành Chỉ thị 145 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tăng cường và đẩy mạnh nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an biên giới nội địa, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trong tình hình mới. Trong đó, đối với địa bàn xã Pả Vi, Tỉnh ủy xác định đây là địa bàn xung yếu cần củng cố và đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an. Nhiệm vụ cụ thể đó là tích cực đưa phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống phản cách mạng và giữ gìn trật tự trị an lên một bước nhằm đảm bảo phục vụ tốt yêu cầu của chiến đấu và sản xuất. Ngày 15/5/1968, Hội đồng Chính phủ quyết định tiến hành tuyển quân đợt 4 năm 1968 trên phạm vi toàn miền Bắc. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Mèo Vạc, để đáp ứng nhu cầu chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, xã Pả Vi đã có hàng chục thanh niên tham gia khám sức khỏe. Cùng với đó, Chi bộ xã cũng đã quan tâm chỉ đạo việc huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, công an, quân dự bị được huấn luyện theo phương án chống gián điệp biệt kích, bắn máy bay thấp; xây dựng làng xã chiến đấu. Cuối năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta giành được nhiều thắng lợi to lớn, đế quốc Mỹ bị thất bại liên tiếp ở cả 2 miền Nam – Bắc. Ngày 01/11/1968, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh đánh phá miền Bắc và chấp nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Pa ri. Như vậy miền Bắc lúc này tạm thời hòa bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc bước vào khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, đẩy mạnh chi viện cho cách mạng miền Nam. Đối với huyện Mèo Vạc, xã Pả Vi, do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ không lan tới, cho nên nhiệm vụ của các dân tộc trên địa bàn xã là phát triển sản xuất, xây dựng hậu phương và góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân xã đẩy mạnh phát triển sản xuất lương thực, trọng tâm là cây lúa, ngô…; đầu tư hơn nữa về thủy lợi và phân bón, sử dụng giống mới năng suất cao. Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc đẩy mạnh phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước và kế hoạch 3 năm 1968-1970, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của 6 Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm; sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì Tổ quốc cần. 7 Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt, lao động tốt; Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; Giữ gìn vệ sinh thật tốt; Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2