intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc (2004-2020)

Chia sẻ: Dangnhuy08 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

11
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc (2004-2020)" ghi lại những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc đã giành được trong những năm 2004 - 2020. Đây là một tài liệu quý, góp phần tích cực cho công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trên địa bàn xã. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc (2004-2020)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN QUANG BÌNH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ TÂN BẮC * TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ TÂN BẮC (2004 - 2020) ----- Xuất bản, năm 2021 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Tân Bắc là xã vùng thấp của huyện Quang Bình, cách trung tâm huyện lỵ 12km về phía đông, nhân dân Tân Bắc luôn cần cù, chịu khó trong lao động, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nhân dân các dân tộc Tân Bắc luôn đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của cả nước. Ngày 01/12/2003, xã Tân Bắc chính thức thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Tân Trịnh theo Nghị định 146/NĐ - CP của Chính phủ. Trải qua hơn 15 năm (2004 - 2020), xây dựng và phát triển, phát huy truyền thống tự lực, tự cường, nhân dân các dân tộc xã Tân Bắc luôn đoàn kết, chung tay xây dựng quê hương, đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới; xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; giữ vững quốc phòng - an ninh. Nhằm ghi lại những mốc son, sự kiện lịch sử của quê hương trong quá trình xây dựng và phát triển, cũng như ôn lại truyền thống vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Tân Bắc và rút ra những bài học kinh nghiệm để phục vụ công tác nghiên cứu, giáo dục truyền thống cách mạng và vận dụng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ những năm tiếp theo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cấp ủy, chính quyền xã. Thực hiện Kế hoạch số 342-KH/TU, ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư “Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”; Kế hoạch số 194-KH/HU, ngày 11/01/2019 của Huyện ủy Quang Bình về triển khai công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng trên địa bàn huyện giai đoạn 2019 - 2020, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Tân Bắc khóa III (nhiệm kỳ 2015 - 2020) quyết định sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc (2004 - 2020)”. Nội dung cuốn sách ghi lại những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc đã giành được trong những năm 2004 - 2020. Đây là một tài liệu quý, góp phần tích cực cho công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trên địa bàn xã. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, Ban Thường vụ Đảng ủy xã đã nhận được sự giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quang Bình, Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các nhân chứng lịch sử, các đồng chí cán bộ, lãnh đạo xã qua các thời kỳ. Ban Thường vụ Đảng ủy xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. 2
  3. Mặc dù bộ phận nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng trong công tác sưu tầm tư liệu còn gặp nhiều khó khăn, công tác lưu trữ tài liệu không được đầy đủ, các nhân chứng lịch sử nay đã già yếu, trí nhớ có phần suy giảm nên một số nội dung được phản ánh trong cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Trân trọng giới thiệu cuốn sách: Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Bắc 2004 - 2020 đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Tân Bắc cùng bạn đọc! T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Nguyễn Văn Hưng 3
  4. PHẦN MỘT Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người xã Tân Bắc I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI Tân Bắc là xã vùng thấp, nằm ở phía Đông của huyện Quang Bình. Phía Tây giáp thị trấn Yên Bình; phía Nam giáp xã Bàng Lang; phía Đông giáp xã Tân Trịnh; phía Bắc giáp xã Xuân Minh, xã Tiên Nguyên1. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 6.293,72ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1.51,23ha, chiếm 16,7%; diện tích đất lâm nghiệp là 4.663ha, chiếm 74,1%; diện tích đất chuyên dùng là 280,71ha, chiếm 4,5%; còn lại là đất rừng đầu nguồn, khe suối, đất đá, đồi núi trọc. Địa hình của xã có nhiều đồi núi, khe suối, sông ngòi chia cắt và có hai dạng đặc trưng cơ bản: Địa hình đồi núi cao với độ cao từ 200 - 1.000m ở phía Bắc, độ dốc trung bình từ 25 - 600; địa hình đồi bát úp, xen kẽ có những thung lũng tương đối bằng phẳng ở phía Nam. Vì vậy đất của xã phù hợp cho việc trồng cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và các loại cây ngắn ngày khác, kết hợp với chăn nuôi. Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm 27 C, độ ẩm không khí dao động trong khoảng từ 78% - 85%. Khí hậu của xã được chia 0 thành hai mùa rõ nét: Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm, với đặc trưng là nóng, ẩm, mưa nhiều, lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng. Tập trung nhiều nhất vào các tháng 6, 7, 8. Lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm/năm, độ ẩm trung bình 80%; nhiệt độ trung bình 270C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, có khí hậu lạnh, ít mưa, nhiệt độ trung bình của mùa đông từ 18 - 220C. Nhìn chung khí hậu của xã rất phù hợp cho việc phát triển các loại cây trồng và vật nuôi, phát triển kinh tế. Tuy nhiên cũng có năm, vào mùa khô (mùa đông) trên địa bàn xã đã xảy ra những tháng rét đậm kéo dài, nhiệt độ xuống dưới 100C ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, chăn nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Những năm gần đây do sự biến đổi chung của khí hậu, nên khí hậu của huyện nói chung và của xã nói riêng cũng đã có sự thay đổi ít nhiều. Trước đây, Tân Bắc là địa bàn có quần thể động vật, thực vật phong phú. Về thực vật có nhiều cây gỗ quý như: lim, sến, dổi và các loại cây dược liệu quý, các loại cây cho củ, cho quả có thể nuôi sống con người, các loại cây làm thuốc nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây... Địa bàn xã còn là khu vực có nhiều loài động vật quý hiếm như: Hổ, báo, nai, lợn rừng, chồn, khỉ, cầy hương, nhím, các loại chim... Tuy nhiên, do trong 1 Ngày 01/12/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 146/2003/NĐ-CP "về việc thành lập xã thuộc huyện Bắc Quang và thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang" theo Nghị định xã Tân Bắc thuộc huyện Quang Bình. 4
  5. quá trình sinh sống và phát triển, do bị khai thác quá mức nên các loại động vật, thực vật trên địa bàn xã đến nay không còn nhiều. Để khắc phục những hạn chế trên, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ, chính quyền xã Tân Bắc đã lãnh, chỉ đạo, vận động nhân dân trên địa bàn xã tích cực triển khai dự án trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình, tập trung phát triển rừng kinh tế, từ đó không ngừng nâng cao diện tích rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc trên địa bàn xã và nơi đầu nguồn sông Bạc. Qua đó góp phần phát triển kinh tế, giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái. Hệ thống sông suối trên địa xã tương đối dày đặc, phía bắc có dòng sông Bạc chảy qua thôn My Bắc, phía tây có dòng sông Chừng chảy dọc theo các thôn Nà Tho, Nặm Sú, Nặm O, Lủ Thượng, Lủ Hạ sau đó hợp với sông Bạc và chảy xuôi về Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang. Trên địa bàn còn có nhiều khe suối nhỏ, phân bố đều khắp tại các thôn. Vì vậy, Tân Bắc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhân dân trong xã đã biết tận dụng và khai thác nguồn nước từ các khe suối, dòng suối để tưới tiêu phục vụ sản xuất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân... Tuy nhiên, với hệ thống sông, suối phân bố đều và địa hình của xã là vùng thấp vì thế vào mùa mưa thường gây lũ lụt, sạt lở... đã tác động không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Về giao thông, trước đây trên địa bàn xã chủ yếu là các tuyến đường mòn nối liền các thôn bản, phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng ngựa thồ. Đến nay, hệ thống đường giao thông trên địa bàn xã đã được đầu tư xây dựng giúp nhân dân đi lại thuận lợi, giao thương buôn bán cũng dần phát triển, trong đó phải kể đến tuyến đường huyết mạch nối từ trung tâm xã đến trung tâm huyện Quang Bình dài 12 km. Đường giao thông liên thôn, từ trung tâm xã đến các xã lân cận được thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, thông thương vận chuyển hàng hóa của nhân dân. Bên cạnh việc phát triển hệ thống giao thông, hệ thống hạ tầng cơ sở như: Trụ sở xã, trạm y tế, trường học, nhà văn hóa thôn, điện lưới quốc gia, thông tin liên lạc... được đầu tư xây dựng khang trang, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã. Thời kỳ Pháp thuộc đến cuối năm 1929 vùng đất Tân Bắc là một thôn thuộc xã Trịnh Trang thuộc tổng Yên Bình, châu Bắc Quang. Tháng 12/1949, Bắc Quang tiến hành công tác nhập xã, hai xã Trịnh Trang và Tân Lộc được sáp nhập thành xã Tân Trịnh, lúc này Tân Bắc là một vùng thuộc xã Tân Trịnh. Ngày 01/12/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 146/NĐ - CP về việc thành lập xã thuộc huyện Bắc Quang và thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, theo đó xã Tân Bắc được thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Tân Trịnh gồm 6 thôn: My Bắc, Lủ Hạ, Lủ Thượng, Nặm O, Nặm Sú, Nặm Khẳm với 820 hộ, 3.644 nhân khẩu. Trước đây, vùng đất Tân Bắc có 05 dân tộc anh em cùng chung sống, gồm dân tộc Tày, dân tộc Kinh, dân tộc Pà Thẻn, dân tộc Dao, dân tộc Nùng. Những năm gần 5
  6. đây, có một số dân tộc như dân tộc Mông, dân tộc Hoa Hán, dân tộc La Chí, Phù Lá chủ yếu chuyển từ các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần đến xã sinh sống. Theo số liêu điều tra dân số và nhà ở 01/4/2019, trên địa bàn xã có 11 dân tộc cùng sinh sống2, cư trú tại 07 thôn: My Bắc, Lủ Hạ, Lủ Thượng, Nặm O, Nặm Sú, Nặm Khẳm, Nà Tho. Với 1.046 hộ, 5.006 khẩu, trong đó: Dân tộc Tày có 118 hộ, 561 khẩu chiếm 11,28%; dân tộc Pà Thẻn 479 hộ, 2.443 khẩu chiếm 45,79%; dân tộc Kinh 104 họ, 401 khẩu chiếm 9,94%; dân tộc Dao 130 hộ, 627 khẩu chiếm 12,45%; còn lại là các dân tộc khác. Trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên, giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc nơi đây đã tự xây dựng cho mình những đức tính tốt đẹp đó là truyền thống đoàn kết, ý chí căm thù giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; khiêm tốn học hỏi, vượt khó đi lên. Những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để nhân dân các dân tộc Tân Bắc cùng nhau tồn tại trước những thách thức của thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Nhân dân các dân tộc Tân Bắc luôn có ý thức bảo tồn và lưu giữ những nét văn hóa dân gian bằng hình thức truyền miệng bao gồm nhiều thể loại như: Thần thoại, truyền thuyết, tình ca, tục ngữ, hát tự sự và hát đối… Vào dịp lễ tết, đồng bào thường tổ chức những hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang bản sắc độc đáo riêng: Đồng bào dân tộc Pà Thẻn tổ chức lễ hội nhảy lửa; đồng bào dân tộc Tày tổ chức lễ hội Lồng tông (xuống đồng) để cầu các vị thần nông, thần sông, thần suối phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; đồng bào Dao nơi đây còn Lễ cấp sắc… Văn hóa, văn nghệ luôn gắn liền với sự tồn tại và quá trình phát triển của đồng bào, nó là phương thức thể hiện tư tưởng và tình cảm với giá trị nhân văn cao đẹp như: yêu mến con người, yêu quê hương đất nước, can đảm, bất khuất, sống chung thủy, bao dung độ lượng, chịu thương chịu khó, cần cù lao động để xây dựng cuộc sống. Người dân Tân Bắc theo tín ngưỡng đa thần giáo, vạn vật hữu linh (mọi vật đều có hồn); việc thờ cúng tổ tiên được đặc biệt coi trọng. Lễ cúng tổ tiên được tiến hành rất trang nghiêm tại các lễ cúng tết, lễ cưới xin... Chính tín ngưỡng này là cơ sở để hình thành và phát triển bản sắc văn hóa tinh thần và vật chất của nhân dân các dân tộc Tân Bắc, thể hiện sinh động ở các lễ nghi tín ngưỡng liên quan đến mỗi dòng họ, dòng tộc. Trong thời kỳ phát triển mới, những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo về quan hệ gia đình, dòng họ là yếu tố quan trọng để bảo đảm sự đoàn kết chặt chẽ, trật tự và ổn định với mối quan hệ bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc ở Tân Bắc. Gắn với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, con người và mảnh đất Tân Bắc đã hun đúc nên truyền thống chống ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Từ bao đời nay, với truyền thống cần cù, chịu khó, sáng tạo và ý chí tự lực, tự cường, biết bao thế hệ các dân tộc Tân Bắc đã gắn bó với làng bản, ruộng nương, đoàn kết đấu tranh chống giặc và thiên nhiên để giữ gìn non 2 Dân tộc: Dao, Kinh, Tày, Mông, Pà Thẻn, La Chí, Phù Lá, Cao Lan, Nùng, Thái, Hoa. 6
  7. sông, làm ra hạt thóc, hạt ngô, manh áo để trường tồn và phát triển. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã tạo cho con người nơi đây tính cần cù, chịu thương chịu khó, đoàn kết cộng đồng, cùng nhau góp công, góp sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Trước đây, người dân Tân Bắc chỉ trồng lúa nương, ngô và canh tác nương rẫy theo lối cổ truyền nên năng suất thấp, kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986), đặc biệt từ khi thành lập xã (2004), đời sống sản xuất, kinh tế của nhân dân Tân Bắc đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Sản xuất nông - lâm nghiệp có bước tiến vững chắc. Đến năm 2020, tổng sản lượng lương thực toàn xã đã đạt 3.031,9 tấn/năm. Bình quân lương thực đạt 560 kg/người/năm. Chăn nuôi được tập trung phát triển, quy mô đàn gia súc, gia cầm ngày càng tăng. Năm 2020, tổng đàn gia súc của xã trên 5.200 con, đàn gia cầm gần 20.000 con. Đời sống của nhân dân các dân tộc xã Tân Bắc ngày càng được cải thiện. Toàn xã có trên 90% hộ gia đình được sử dụng điện, gần 80% gia đình được dùng nước sạch, 100% số gia đình có phương tiện nghe, nhìn. Trước kia, trên địa bàn Tân Bắc chỉ có những tuyến đường mòn. Những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, cùng với sự đóng góp tích cực của nhân dân, xã đã hoàn thành đường bê tông đến các thôn trên địa bàn. Các tuyến đường liên thôn, liên xã được xây dựng và đưa vào sử dụng, tạo sự lưu thông hàng hóa và đi lại tương đối thuận tiện cho nhân dân. Hiện nay, được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư các chương trình, dự án, đặc biệt là chương trình xây dựng nông thôn mới… đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Tân Bắc từng bước được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã thay đổi rõ rệt. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân từng bước được nâng cao. Trạm y tế xã được đầu tư, nâng cấp và trang bị phương tiện phục vụ hoạt động khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế xã từng bước được chuẩn hóa về bằng cấp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Phong trào văn hóa - văn nghệ được phát triển, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng được duy trì ở các thôn; tổ chức, giao lưu vào những dịp lễ, tết, ngày Đại đoàn kết toàn dân và tham gia các kỳ cuộc do huyện tổ chức... Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục của địa phương có những bước tiến vững chắc. Trường học khang trang, đủ lớp cho học sinh và nhà ở cho giáo viên đến dạy học. Toàn xã có tổng số 800 học sinh ở cả 3 cấp học (mầm non, tiểu học và trung học cơ sở). Chất lượng dạy và học không ngừng nâng cao. Tỷ lệ huy động trẻ đến trường luôn đạt trên 98%. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị địa phương ngày càng được củng cố vững chắc. Năm 2004, Đảng bộ xã Tân Bắc được thành lập với 174 đảng viên. Trải qua hơn 15 năm (2004 - 2020) xây dựng và phát triển, đến năm 2020, Đảng bộ xã đã phát triển lên 299 đảng viên, sinh hoạt trong 13 chi bộ (trong đó có 7 chi bộ 7
  8. thôn). Nhân dân các dân tộc Tân Bắc luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đoàn kết một lòng, hăng hái lao động sản xuất, sáng tạo, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hệ thống chính trị luôn được kiện toàn, củng cố từ xã tới thôn, tổ chức hoạt động hiệu quả; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định. Trải qua các thời kỳ lịch sử, truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống áp bức, bóc lột, chống ngoại xâm như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ẩn mình trong mỗi người dân Tân Bắc. Từ khi có Đảng lãnh đạo, truyền thống đó được nhân lên gấp bội, nhân dân các dân tộc Tân Bắc đã đoàn kết đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của thực dân phong kiến thổ ty, đóng góp sức người, sức của cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, đồng bào các dân tộc Tân Bắc phát huy cao độ truyền thống yêu nước tích cực phục vụ chiến đấu, góp phần giữ vững biên giới, đập tan âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia. Có thể khẳng định, trải qua quá trình xây dựng và phát triển, nhân dân Tân Bắc đã phát huy tinh thần đoàn kết cộng đồng, hình thành đức tính quý báu: Thật thà, bao dung, tự trọng; dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để tồn tại trước thử thách của thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần tô thắm trang sử vàng của quê hương, đất nước. II. NHÂN DÂN XÃ TÂN BẮC THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 2004 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân trên địa bàn Tân Bắc cũng như cả xã Tân Trịnh sống dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và phong kiến thổ ty. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc vô cùng khổ cực; cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; nhân dân không được học hành, ốm đau không có thuốc để chữa bệnh; các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu rất phổ biến. Có thể nói địa bàn Tân Bắc cũng như xã Trinh Trang (nay là xã Tân Trịnh) nói riêng và tổng Yên Bình, châu Bắc Quang nói chung là điển hình cho sự lạc hậu và đói khổ. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Ánh sáng cách mạng được truyền tới tỉnh Hà Giang từ năm 1932, song do điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng cao, đất rộng, người thưa, có nhiều khó khăn, nên phong trào cách mạng ở đây phát triển mạnh từ năm 1943. Đầu năm 1945 tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại, mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở huyện Bắc Quang lâm vào tình thế cô lập, bị động, chống đỡ yếu ớt rồi bỏ chạy, Nhật nhanh chóng chiếm đồn Yên Bình và tiến xuống đồn Quang Minh rồi rút về Bắc Quang. Sau ngày đảo chính, Nhật đã nhanh chóng nắm lấy và củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương, chúng tìm mọi cách 8
  9. thanh trừng những phần tử trung thành với Pháp, đưa bọn việt gian tay sai của Nhật vào bộ máy chính quyền bù nhìn. Ngày 01/6/1945 (ngày 21/4 năm Ất Dậu) thi hành Chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 54 chiến sỹ do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba), Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đã đến Bằng Hành tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây dựng cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh cao trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 07/6/1945, lực lượng vũ trang với sự đồng tình ủng hộ của đồng bào, Ủy ban Việt minh lâm thời xã Bằng Hành được thành lập. Tháng 7/1945, tại Kim Ngọc (Ngòi Sảo), Ban lãnh đạo Việt Minh họp bàn kế hoạch, chia làm hai mũi tiến công: Một mũi do đồng chí Nam Long chỉ huy tiến theo tả ngạn sông Lô, giải phóng xã Trung Thành, Bạch Ngọc, Việt Lâm, rồi chiếm đồn Bắc Quang; một mũi do các đồng chí Lĩnh Thành, Bế Triều, Hồng Quang chỉ huy vượt qua sông Lô tiến thẳng sang phía tây. Lực lượng cách mạng phát triển sang các xã Hùng An, Việt Vinh, Tiên Kiều, Đồng Yên, Vĩnh Phúc, đi đến đâu cũng được quần chúng tham gia đông đảo. Đó là điều kiện thuận lợi để cán bộ Việt Minh nhanh chóng tập hợp được quần chúng tuyên truyền, giải thích chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh, bầu ra Việt Minh các xã và tổ chức các đội tự vệ, các đoàn thể cứu quốc; đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện đường lối, phương pháp tổ chức lãnh đạo cách mạng ngắn ngày cho cán bộ Ủy ban các xã, Ban chỉ huy và các đội viên vũ trang của địa phương. Chính sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cách mạng và ảnh hưởng sâu sắc từ Ủy ban Việt minh lâm thời xã Bằng Hành đã tác động đến tư tưởng và nhận thức của nhân dân các dân tộc trong xã Tân Trịnh nói chung và vùng Tân Bắc nói riêng. Được sự tuyên truyền cách mạng của cán bộ Việt Minh, nhân dân các dân tộc trên địa bàn Tân Bắc đã hăng hái tham gia vào phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật của Mặt trận Việt Minh. Thanh thế của Việt Minh nhanh chóng truyền đi làm cho quân địch và bè lũ tay sai hoang mang, lo sợ. Cán bộ Việt Minh tiếp tục đi sâu hơn nữa vào quần chúng, thực hiện chủ trương “địa phương hóa”, “quần chúng hóa”, dùng tiếng nói của đồng bào địa phương như tiếng Tày, tiếng Dao, tiếng Mông... và sử dụng những phong tục, tập quán cổ truyền của đồng bào gây lòng tin cho quần chúng như: nhận họ, kết nghĩa anh em... để tập hợp, tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng phát huy truyền thống yêu nước và nhận rõ trách nhiệm của mình trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đồng bào các dân tộc sẵn lòng giúp đỡ và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng dưới sự hướng dẫn của cán bộ Việt Minh. Tháng 8/1945, chớp lấy thời cơ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ Bắc chí Nam đã đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong phạm vi cả nước. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 9
  10. Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Trong khi đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy. Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 04/11/1945 (tức ngày 30/9 năm Ất Dậu), huyện Bắc Quang được giải phóng, Ủy ban lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào. Mặc dù huyện Bắc Quang được giải phóng, nhưng tình hình bấy giờ tương đối phức tạp (Bắc Quang mới giải phóng được một số xã như: Liên Hiệp, Bằng Hành, Kim Ngọc, Quang Minh, Hùng An, Tiên Kiều, Việt Lâm, Trung Thành, Bạch Ngọc, Đồng Tâm, Hảo Tân và xã Vinh Thịnh, còn các xã khác, trong đó có Tân Trịnh vẫn nằm trong vùng tạm chiến của địch). Bọn Việt Nam quốc dân Đảng vẫn còn một lực lượng khá lớn do Quản lộc cầm đầu khống chế Yên Bình, Xuân Giang, Tiên Yên. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng, đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Trước nguy cơ chiến tranh không thể tránh khỏi, ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, phát động cả nước đoàn kết đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tiếp đó, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập của đất nước. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Người, cả dân tộc Việt Nam đã một lòng đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, cán bộ Việt Minh đã vận động, tuyên truyền, giác ngộ đồng bào tham gia phong trào cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, đồng bào các dân tộc của huyện Bắc Quang đã đoàn kết lại, đi theo tiếng gọi của Đảng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang chống lại ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, đánh đuổi các đảng phái phản động. Trong quá trình vận động quần chúng tham gia cách mạng, Bắc Quang đã xuất hiện những nhân tố tích cực. Được sự giúp đỡ trực tiếp của Tỉnh ủy, 10
  11. tháng 12/1946, Bắc Quang đã kết nạp được 2 đồng chí đảng viên đầu tiên là Chu Đức Tung (xã Bạch Ngọc huyện Vị Xuyên ngày nay) và đồng chí Hoàng Thịnh Kinh (xã Việt Vinh ngày nay). Tiếp đó, Tỉnh ủy quyết định thành lập tổ đảng Bắc Quang gồm 4 đồng chí, do nữ đồng chí Phương Lâm làm tổ trưởng. Ngày 20/02/1947, xét thấy đủ điều kiện, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang do nữ đồng chí Phương Lâm làm Bí thư. Chi bộ đảng Bắc Quang ra đời là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong phong trào cách mạng trong huyện. Từ đây, nhân dân các dân tộc huyện Bắc Quang dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết thành một khối vững chắc, vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do. Ngày 15/5/1947, Huyện ủy Bắc Quang được thành lập, đồng chí Phạm Gia Tuân được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Sau khi thành lập, để phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng từ huyện đến cơ sở, Huyện ủy Bắc Quang tiếp tục kiện toàn tổ chức Đảng ở cơ sở, thành lập một số Chi bộ liên xã ở các tiểu khu thuộc huyện Bắc Quang như: Tiểu khu Thái Học, tiểu khu Trọng con, tiểu khu Yên Bình - Gia Tự. Từ ngày 24/9/1947 đến ngày 24/4/1948, lực lượng vũ trang Bắc Quang đã dập tắt vụ “Cờ trắng" do Trảo Sành Phú, dân tộc Dao, trú tại thôn Lùng Chún, xã Khuôn Lùng cầm đầu. Phú đề ra khẩu hiệu "giết Tày lấy ruộng, giết Kinh lấy muối, giết Hoa lấy bạc già". Bọn chúng đã hành động rất dã man như đốt nhà, cướp của trong nhân dân các xã Khuôn Lùng, Vinh Thịnh, Yên Bình, Thông Nguyên của huyện Bắc Quang và Hoàng Su Phì. Tại xã Tân Trịnh cũng xuất hiện nhóm “Cờ trắng” nhưng chúng hoạt động chưa công khai, chưa kịp thành lập “tổ chức” thì đã bị lực lượng của ta kịp thời phát hiện. Trước tình hình trên, sau khi nắm rõ âm mưu và thủ đoạn của kẻ địch. Thực hiện sự chỉ đạo Trung ương Đảng, cần dùng lý lẽ để thuyết phục là chính, không nên dùng vũ lực để giải quyết. Đảng bộ huyện Bắc Quang đã họp thống nhất và quyết định cử các bậc phụ lão có uy tín trong cộng đồng cùng cán bộ tuyên truyền, vận động, giải thích chính sách “cứu nạn, cứu đói” cho toàn dân trong vùng “Cờ Trắng” hoạt động, biến vùng “Cờ Trắng” thành hậu phương án ngữ, không cho bọn Phỉ ở Hoàng Su Phì lấn ra. Với chủ trương, biện pháp đúng đắn lại được các bậc phụ lão có uy tín ở địa phương tích cực giúp đỡ, thuyết phục, được nhân dân tỉnh ngộ và ủng hộ, lực lượng “Cờ Trắng” đã nhanh chóng bị ngăn chặn và tan rã. Để phát triển đảng viên tại các chi bộ, Đảng bộ huyện Bắc Quang đã cử đảng viên của Đảng bộ huyện xuống các chi bộ phối hợp, hướng dẫn thực hiện việc gây dựng phong trào và bồi dưỡng quần chúng ưu tú. Dưới sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ huyện đến năm 1949, xã Tân Trịnh đã có 04 thanh niên ưu tú được bồi dưỡng và giới thiệu, kết nạp vào Đảng. Tháng 5/1948, Ủy ban hành chính lâm thời xã Trịnh Trang được thành lập. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban kháng chiến hành chính xã, nhân dân các dân tộc Tân Bắc đã tích cực thực hiện nhiệm vụ tăng gia sản xuất, khai hoang, mở rộng diện tích 11
  12. gieo cấy; tận dụng đất ở soi, bãi gieo trồng các loại cây hoa màu như ngô, khoai, sắn... nhờ vậy nạn đói từng bước được đẩy lùi. Đi đôi với sản xuất, thực hiện chủ trương chống “giặc dốt”, phong trào bình dân học vụ trên địa bàn tiếp tục được mở rộng, phát triển nhằm thanh toán nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho người dân. Thời gian này, nhờ sự tuyên truyền, vận động của Hội phụ nữ cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc xã, nhân dân Tân Bắc đã tích cực tham gia đội tự vệ bảo vệ làng bản, quyên góp lương thực, thực phẩm ủng hộ kháng chiến, đồng thời nhiều thanh niên đã hăng hái đăng ký lên đường nhập ngũ. Ngày 17/4/1950, Huyện ủy Bắc Quang quyết định chia tách Chi bộ xã Vinh Thịnh thành 03 Chi bộ gồm: Chi bộ xã Tân Trịnh, Chi bộ xã Việt Vinh và Chi bộ xã Việt Quang. Khi thành lập Chi bộ xã Tân Trịnh có 04 đảng viên. Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ Đảng xã Tân Trịnh, nhân dân Tân Bắc tích cực lao động sản xuất, khai hoang, phục hóa cải tiến kỹ thuật canh tác, tăng cường chăm sóc ruộng nương kết hợp với việc đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, vận động thi đua sản xuất đi đôi với tiết kiệm tiêu dùng đảm bảo nhu cầu của nhân dân, đồng thời để đóng góp cho kháng chiến. Phong trào bình dân học vụ cũng được chú trọng, góp phần đẩy lùi nạn mù chữ. Bước vào năm 1952, nhằm tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, Chi bộ xã Tân Trịnh đã phát động phong trào “Cày sâu, bừa kỹ”, khai phá ruộng mới, đào kênh mương dẫn nước về ruộng, làm cỏ, bón phân theo đúng kỹ thuật. Thực hiện chủ trương của xã, nhân dân vùng Tân Bắc đã tích cực hưởng ứng. Nhân dân đã đẩy mạnh phương thức đổi công truyền thống, phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Cuối năm 1952, tổng diện tích phục hóa khu vực Tân Bắc đạt 2 ha, số diện tích khai phá mới khoảng 7 ha, số kênh mương đào mới được 2 con mương với tổng chiều dài bằng 700m. Tiêu biểu trong việc phục hóa, khai phá đất đai và mở rộng kênh mương ở vùng Tân Bắc có thôn Nậm O và thôn Lủ. Công tác xây dựng, phát triển Đảng ở các thôn trong xã được Chi bộ Đảng xã Tân Trinh quan tâm, qua đó đến năm 1953 vùng Tân Bắc có 05 đảng viên. Những đảng viên của Chi bộ Đảng Tân Trinh trên địa bàn Tân Bắc luôn phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu đi đầu trong thực hiện các phong trào cách mạng tại địa phương. Thực hiện sự chỉ đạo của Chi bộ Tân Trịnh về đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; vận động nhân dân tích cực thực hiện các phong trào thi đua lao động sản xuất, phấn đấu cấy hết 100% diện tích, tập trung chăm sóc cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập, ổn định đời sống, nhân dân Tân Bắc tích cực mở rộng diện tích trồng lúa nước, thực hiện tốt công tác trị an, động viên con em các dân tộc tham gia tòng quân kháng chiến, các hoạt động văn hóa, văn nghệ được quan tâm góp phần thực hiện nếp sống văn minh, cổ vũ động viên phong trào lao động sản xuất. Trong những năm 1953 - 1954, dưới chế độ mới, thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng, chi bộ và chính quyền xã Tân Trịnh đã vận động nhân 12
  13. dân các dân tộc tích cực tăng gia sản xuất để ổn định đời sống và đóng góp lương thực, thực phẩm cho kháng chiến; vận động tầng lớp trên giao một phần ruộng đất cho nông dân nghèo không có đất sản xuất. Qua đó, nhiều ruộng, nương trước kia bỏ hoang nay được phủ xanh bởi cây lúa, ngô, sắn, khoai và hoa màu. Công tác giáo dục bước đầu được hình thành, trên địa bàn Tân Bắc đã mở các lớp bình dân học vụ tại các thôn. Cán bộ xã tích cực vận động nhân dân thực hiện “ăn chín uống sôi”, ngủ phải nằm màn, rời chuồng gia súc ra xa nhà, vệ sinh nhà cửa... Chi bộ, chính quyền xã chăm lo cải thiện đời sống văn hóa tinh thần nhân dân, vận động nhân dân bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống mới. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển, động viên nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, đóng góp cho kháng chiến. Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954) và việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương (ngày 20/7/1954) đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Chi bộ đảng xã Tân Trịnh, nhân dân các dân tộc Tân Bắc đã nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều thanh niên đã lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên các mặt trận, trong đó có 2 người đã anh dung hi sinh và nhiều đồng chí là thương binh, bệnh binh, nạn nhân chất độc hóa học. Ngoài ra còn có nhiều đồng chí tham gia làm giao thông liên lạc, dân công. Nhân dân trên địa bàn Tân Bắc đóng góp hàng chục tấn lương thực, thực phẩm cho kháng chiến... Hòa chung không khí miền Bắc được hòa bình, nhân dân trên địa bàn Tân Bắc bước vào công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế trong không khí vui mừng, phấn khởi. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ngày càng được nâng cao. Đội ngũ cán bộ và tổ chức quần chúng được rèn luyện ngày càng trưởng thành, khối đoàn kết toàn dân được củng cố và mở rộng vững chắc… Song địa phương cũng gặp không ít khó khăn: Đời sống nhân dân còn thiếu thốn, đa số nhân dân thiếu đói. Các tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút… vẫn còn tiếp diễn, số người mù chữ trên địa bàn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, các phần tử phản động ra sức chống đối, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện sự chỉ đạo của chi bộ Đảng xã Tân Trịnh về đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất; tập trung chăm sóc tốt cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập; tích cực mở các lớp bình dân học vụ..., nhân dân vùng Tân Bắc đã tích cực tham gia phong trào tăng gia sản xuất, đẩy mạnh trồng các loại hoa màu ngắn ngày. Qua đó, chỉ trong một thời gian ngắn, nạn đói trên địa bàn Tân Bắc đã từng bước được đẩy lùi, đời sống của nhân dân dần ổn định. Các phong trào thi đua ái quốc như mua công 13
  14. trái quốc gia, mua công phiếu kháng chiến, quyên góp nuôi quân, ủng hộ kháng chiến do Hồ Chủ tịch và Chính phủ phát động được nhân dân hưởng ứng. Mọi phong trào đóng góp cho công quỹ kháng chiến và kiến quốc đã trở thành phong trào sôi nổi của quần chúng, trở thành quyền lợi của mỗi người dân yêu nước. Qua các phong trào đó, nhân dân Tân Bắc đã thu được trên 150 đồng tiền Đông Dương (mua công phiếu), chị em phụ nữ vận động gia đình đóng góp được hơn 70kg gạo ủng hộ kháng chiến. Trong công tác xóa nạn mù chữ, nhân dân Tân Bắc đã tích cực vận động con em tham gia đến trường, hưởng phong trào “bình dân học vụ” nhờ vậy trên địa bàn Tân Bắc nạn mù chữ từng bước được đẩy lùi. Nhờ sự hướng dẫn Ban y tế xã, nhân dân đã chú trọng ăn, ở hợp vệ sinh, phòng, chống một số dịch bệnh, giữ gìn nguồn nước sạch, phát quang bụi rậm quanh nhà, làm chuồng nuôi gia súc xa nhà, xóa dần hủ tục cúng bái khi trong nhà có người đau ốm. Thực hiện chủ trương của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam về xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân được cụ thể trong Cương lĩnh của Đại hội mặt trận dân tộc thống nhất huyện Bắc Quang (1955) và nội dung tuyên truyền của chi bộ Đảng xã Tân Trịnh, nhân dân trên địa bàn Tân Bắc đã tích cực tham gia vào các tổ chức thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Phụ lão, Đoàn Thanh niên... Đồng thời, thực hiện tốt các phong trào tăng gia sản xuất, khơi dậy tinh thần “tương thân, tương ái”, “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau cùng vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Bên cạnh đó nhân dân đã nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước những phần tử phản động ở địa phương, nên tình hình an ninh, chính trị xã hội trên địa bàn Tân Bắc cơ bản ổn định về mọi mặt. Phong trào văn hóa, văn nghệ trong các thôn bản ngày càng được đẩy mạnh. Vùng Tân Bắc đã thành lập được một tổ văn nghệ quần chúng thường xuyên tham gia biểu diễn phục vụ bà con trong những dịp lễ, tết với nội dung ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, cổ vũ nhân dân lao động sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động văn hóa truyền thống như nhảy lửa của dân tộc Pà Thẻn, hát đối, hát cọi của dân tộc Tày và các trò chơi dân gian như đánh cù, đánh yến, ném còn, lễ hội Lồng tồng thường xuyên được tổ chức. Trong lúc nhân dân Tân Bắc đang tích cực cùng nhân dân toàn xã Tân Trịnh đang ra sức thi đua lao động sản xuất, ngày 05/8/1964, đế quốc Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc nước ta. Ở Hà Giang, đế quốc Mỹ đã cho máy bay ném bom bắn phá thị trấn và cầu Vĩnh Tuy nhằm ngăn cách giao thông và liên lạc giữa Hà Giang với các tỉnh miền xuôi, đồng thời chúng cho lực lượng tay sai tung tin đồn sai lệch về chủ trương lãnh đạo của Đảng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, huyện, trực tiếp là Chi bộ xã Tân Trịnh, nhân dân vùng Tân Bắc đã tổ chức việc đào hầm tránh bom, đạn để đảm bảo tính mạng phòng khi địch bắn phá, đồng thời tăng cường phát triển sản xuất, quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với 14
  15. Nhà nước, củng cố lực lượng dân quân tự vệ để đảm đương nhiệm vụ trực chiến phòng không, phát huy vai trò xung kích của lực lượng thanh niên và dân quân vừa sản xuất và chiến đấu. Từ năm 1958, cùng nhân dân trong huyện, nhân dân trên địa bàn Tân Bắc đã đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện Kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) phát triển kinh tế - xã hội. Bà con nhân dân tập trung vào việc mở rộng diện tích sản xuất, giải quyết nhu cầu nước tưới, làm phân bón, đảm bảo sản xuất đúng thời vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đến năm 1960, tình hình sản xuất lương thực trên địa bàn Tân Bắc đã đạt được một số kết quả tích cực. Diện tích canh tác, năng suất cây trồng đã tăng lên đáng kể. Sản lượng lương thực đạt trên 150 tấn. Hoạt động chăn nuôi cũng từng bước phát triển, cơ bản đảm bảo sức kéo trong nông nghiệp và một phần đáp ứng nhu cầu thực phẩm của nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển tổ đổi công, các thôn trên địa bàn Tân Bắc đều đã thành lập được tổ đổi công, bình quân mỗi tổ 5 - 7 hộ. Mặc dù lúc này, các tổ đổi công tại Tân Bắc mới chỉ ở các mức đơn giản như mượn công, đổi công từng vụ, từng việc để hỗ trợ nhau về công cụ lao động, sức kéo, giống... nhưng đã góp phần quan trọng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Thành công trong việc xây dựng tổ đổi công tại Tân Bắc chính là cơ sở quan trọng của việc đặt nền móng cho việc xây dựng các hợp tác xã trong giai đoạn tiếp theo. Công tác văn hóa - xã hội có bước tiến bộ. Trên địa bàn Tân Bắc tiếp tục duy trì lớp bình dân học vụ ở hầu hết các thôn. Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân được quan tâm. Nhân dân vẫn tích cực hưởng ứng các phong trào vệ sinh phòng bệnh như: Vận động ăn ở vệ sinh, “ăn chín, uống sôi”, ngủ phải nằm màn, đau ốm dùng thuốc, giảm bớt cúng bái... Công tác thông tin trên địa bàn Tân Bắc được triển khai tích cực, kịp thời tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến nhân dân. Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), trong đó nhấn mạnh: Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế miền Bắc. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh nhân dân. Bước vào thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trên địa bàn Tân Bắc phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong các mặt kinh tế, văn hóa - xã hội. Đời sống của nhân dân còn nhiều thiếu thốn, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, sinh hoạt còn nghèo nàn. Tình hình sản xuất chủ yếu theo lối tự cung, tự cấp phụ thuộc vào thiên nhiên, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp; các hủ tục còn nặng nề, tỷ lệ dân số mù chữ còn cao; 15
  16. trình độ văn hóa và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chung. Từ cuối năm 1961, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Tân Bắc tiếp tục đẩy mạnh phong trào tổ đổi công, tiến tới xây dựng hợp tác xã. Đội ngũ cán bộ đã xuống tận các thôn bản tuyên truyền, vận động nhân dân giác ngộ ý thức cách mạng, làm quen với phương thức làm ăn tập thể. tại vùng Tân Bắc đã thành lập được 03 tổ đổi công và 01 hợp tác xã. Đến đầu năm 1963 trên địa bàn Tân Bắc đã vận động được hơn 70% số hộ tham gia xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Trong phát triển sản xuất, hợp tác xã đã thực hiện trồng được gần 7ha chè. Bên cạnh đó, hợp tác xã đã vận động xã viên tích cực thực hiện việc tu sửa, xây dựng một số kênh mương dẫn nước về đồng ruộng, phục vụ cho sản xuất. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về việc cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc và cuộc vận động nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Chi bộ và chính quyền xã Tân Trịnh đã cử nhiều cán bộ hợp tác xã tham gia các lớp bồi dưỡng do huyện Bắc Quang tổ chức. Trong số cán bộ đó, vùng Tân Bắc đã có đồng chí Lương Văn Phú, Hoàng Ngọc Phòng, Hủng Minh Khai, Hoàng Ngọc Thử tham gia. Sau tập huấn các đồng chí đã vận dụng kiến thức được học hướng dẫn nhân dân trong vùng tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhờ vậy năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi ngày càng nâng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Tân Bắc đã hăng hái tham gia vào phong trào thi đua lao động sản xuất. Đến năm 1965, tổng diện tích canh tác trên địa bàn đã có gần 100ha, năng suất lúa duy trì ở mức 1,3 - 1,5 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực tăng hơn với năm 1960, bình quân lương thực đầu người đạt trên 150 kg/người/năm. Nhân dân Tân Bắc đã từng bước giải quyết tốt nhu cầu lương thực của mình, giảm sự lệ thuộc vào Nhà nước. Cùng với trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi có những chuyển biến. Giai đoạn 1961 - 1965, trên địa bàn Tân Bắc, đàn trâu, bò duy trì khoảng 100 con, đàn lợn gần 300 con, và trên 1.000 con gia cầm. Mặc dù đã được tuyên truyền về những lợi ích tích cực của việc xây dựng chuồng trại chăn nuôi, nhưng do nhân dân từ lâu đã quen với tập quán thả rông gia súc, gia cầm, vì vậy hiện tượng trâu, bò chết rét trên địa bàn vẫn xảy ra. Trong công tác giáo giai đoạn 1961 - 1965, trên địa bàn Tân Bắc tiếp tục duy trì các lớp bình dân học vụ, bổ túc văn hóa với nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xóa mù chữ cho nhân dân. Hàng năm có từ 15 – 20 người được xóa mù chữ. Từ năm học 1964 - 1965, vùng Tần Bắc trên 20 theo học các lớp cấp I tại xã. Phong trào học bổ túc văn hóa, xóa mù chữ được quan tâm phát động mạnh mẽ, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia học tập. Đặc biệt đảng viên luôn đi đầu nêu gương trong phong trào học tập văn hóa, xóa mù chữ, qua đó đến năm 1965 vùng Tân Bắc tỷ lệ mù chữ chỉ còn 30%. 16
  17. Trong công tác xây dựng Đảng, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, trực tiếp là Chi bộ xã Tân Trịnh, cán bộ, đảng viên trên địa bàn Tân Bắc quán triệt và thực hiện phong trào xây dựng chi bộ, đảng bộ “4 tốt”3 thành công tác thường xuyên trong xây dựng Đảng ở địa phương. Qua thực tiễn phong trào sản xuất, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ giác ngộ chính trị, quan điểm lập trường giai cấp của mỗi cán bộ, đảng viên được nâng lên. Trước những khó khăn thử thách, đảng viên nêu cao tính tiên phong, gương mẫu và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, luôn đi đầu trong các phong trào cách mạng, là tấm gương lôi cuốn quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh. Đến năm 1965, trên địa bàn Tân Bắc đã có 11 đảng viên. Thất bại nặng nề trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, năm 1965 đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Mặt khác, chúng dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (ngày 05/8/1964), chúng cho máy bay, tàu chiến ném bom bắn phá miền Bắc với âm mưu phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Đứng trước âm mưu và hành động mới của đế quốc Mỹ, tháng 3/1965, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (khóa III) quyết định chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời chiến, chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, tăng cường lực lượng quốc phòng ở miền Bắc. Hội nghị xác định “Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam”. Dưới sự lãnh đạo Đảng, nhân dân các dân tộc trên địa bàn Tân Bắc cùng với nhân dân miền Bắc bước vào giai đoạn mới: Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tích cực chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ, tiến tới thống nhất nước nhà. Hòa chung với khí thế quyết tâm đánh Mỹ của cả nước, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ, chính quyền xã Tân Trịnh, công tác phòng không sơ tán được cán bộ, đảng viên và nhân trên địa bàn thực hiện nghiêm túc; thanh niên sôi nổi hưởng ứng phong trào thi đua “Ba sẵn sàng”4 do Trung ương Đoàn phát động; chị em phụ nữ thi đua hưởng ứng phong trào phụ nữ “Ba đảm đang”5 do Trung ương Hội Phụ nữ phát động. Nhiều thanh niên trên địa bàn Tân Bắc đã hăng hái tham gia lực lượng dân; luôn ở thế sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì Tổ quốc cần. Trên mặt trận sản xuất, từ cuối năm 1966, các hợp tác xã trên địa bàn Tân Bắc tiến hành Đại hội xã viên, bầu Ban Quản trị và Ban Kiểm soát mới, sửa đổi lề lối làm việc. Hợp tác xã mạnh dạn đưa khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Các 3 Bốn tốt là: Lãnh đạo sản xuất tốt, chăm lo đời sống quần chúng tốt, chấp hành chính sách tốt, làm tốt công tác xây dựng Đảng. 4 “Ba sẵn sàng” là: Sẵn sàng nhập ngũ; sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh; sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến. 5 “Ba đảm đang” là: Đảm đang sản xuất, thay thế chồng, con đi chiến đấu; đảm đang việc gia đình để chồng, con yên tâm chiến đấu; đảm đang công tác xã hội và phục vụ chiến đấu khi cần thiết. 17
  18. giống lúa mới cho năng suất cao được đưa vào sản xuất. Nguồn phân bón cho đồng ruộng được tăng cường... Bên cạnh trồng cây lương thực, cán bộ, đảng viên và nhân dân hăng hái tham gia đào đắp mương phai; đảm bảo nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Trong những năm 1965 - 1970, năng suất lúa duy trì 1,2 tấn/ha, sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt trên 150 tấn; bình quân lương thực đầu người đạt 165 kg/người/năm. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi có bước chuyển biến, mở rộng chăn thả đàn gia súc, gia cầm. Các khâu từ mua giống đến chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh cho vật nuôi đều được chú trọng. Số lượng đàn lợn, trâu, bò và gia cầm trên địa bàn tăng lên qua các năm, góp phần đảm bảo sức kéo, đáp ứng nhu cầu thực phẩm và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Mặc dù có nhiều khó khăn trong đời sống, nhưng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Tân Bắc thường xuyên tu sửa lớp học, bàn ghế, đảm bảo việc dạy và học cho cả thầy và trò. Giáo viên và học sinh vẫn tích cực thi đua dạy tốt, học tốt. Phong trào bổ túc văn hóa cũng có bước chuyển biến tích cực, tỷ lệ người biết đọc, biết viết ngày càng tăng. Cán bộ trên địa bàn được cử đi học để nâng cao trình độ văn hóa và nghiệp vụ. Công tác y tế đáp ứng yêu cầu phục vụ chiến đấu và chăm lo, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Hoạt động văn hóa - văn nghệ trên địa bàn vẫn diễn ra thường xuyên, góp phần động viên nhân dân tăng gia sản xuất, đóng góp cho kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng. Từ việc lựa chọn những quần chúng ưu tú trong các phong trào cách mạng, trong 4 năm (1965 - 1970), trên địa bàn Tân Bắc đã có thêm 3 đồng chí được kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1970, địa bàn Tân Bắc đã có 15 đảng viên. Giữa lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân sôi nổi phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà thì ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc từ trần. Trong nỗi đau thương vô hạn, Vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên và nhân dân Tân Bắc đã để tang Người từ ngày 4-10/9/1969. Biến đau thương thành hành động cách mạng, nhân dân Tân Bắc đã cùng với nhân dân các dân tộc xã Tân Trịnh đoàn kết hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Bộ Chính trị phát động. Từ năm 1970, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Tân Trịnh, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Tân Bắc đã hăng hái tham gia các nhiệm vụ lao động, sản xuất một cách khẩn trương, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn địa phương. Các phong trào sản xuất phát triển kinh tế, xã hội tiếp tục được đẩy mạnh, có bước chuyển biến mới. Phong trào khai hoang phục hóa, cải tạo đồng ruộng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào canh tác được đẩy mạnh. Hệ thống thủy lợi được sửa chữa và củng cố, góp phần đảm bảo nguồn nước tưới, đồng thời mở rộng diện tích canh tác. Diện tích cây ngô và lúa được mở rộng, nhiều giống lúa mới, cho năng suất cao được đưa vào gieo trồng 18
  19. trên 30% diện tích đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, được sự trợ giúp kỹ thuật của các cán bộ tỉnh, huyện, nhân dân đã áp dụng phương pháp, kỹ thuật mới vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất, diện tích, sản lượng lúa, chè đã được tăng lên, trong đó diện tích chè tăng từ 7ha năm 1960 lên 12ha năm 1970. Nhiều mương máng tưới tiêu được xây dựng với tổng chiều dài là 1.000m, đảm bảo tưới tiêu cho diện tích gieo trồng của nhân dân. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ xã về việc triển khai Điều lệ hợp tác xã, cùng với nhân dân trong toàn xã, nhân dân vùng Tân Bắc đã thường xuyên tổ chức áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, cày sâu, bừa kỹ, không cấy chay, lựa chọn giống cây có năng suất cao vào sản xuất. Thành lập các tổ, đội để nghiên cứu, ứng dụng trong sản xuất... Đồng thời, thực hiện mở rộng diện tích đất gieo cấy, khuyến khích phát triển các loại hoa màu ngô, đậu, lạc để tăng sản lượng lương thực. Năm 1972 sản lượng lương thực quy ra thóc bình quân đầu người trên vùng Tân Bắc đạt 270kg/người/năm. Đến năm 1973, địa bàn Tân Bắc đã thành lập được 6 Hợp tác xã6. Các Hợp tác xã sau khi thành lập đã đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật canh tác mới và đưa giống Bao thai lùn, Nông nghiệp 8, Mộc Tuyền vào sản xuất cho năng suất cao. Tuy nhiên, khâu quản lý hợp tác xã vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải nhanh chóng giải quyết như: Quản lý tài sản, vốn, sản phẩm của hợp tác xã, kinh tế phụ của gia đình chưa giải quyết tốt nên đã gây trở ngại cho Hợp tác xã về tổ chức lao động tập thể, phát huy quyền làm chủ của người lao động. Công tác văn hóa - xã hội tiếp tục được duy trì, có mặt phát triển. Được sự quan tâm của cấp ủy và chính quyền xã, tỷ lệ học sinh vùng Tân Bắc đến trường ngày một đông. Cùng với huy động con em của mình đến trường, nhân dân vùng Tân Bắc đã cùng với nhân dân trong xã đã tích cực tham gia đóng góp công sức, vật liệu để tu sửa trường, lớp, bàn ghế, nhà lưu trú cho các em học sinh. Hoạt động y tế tập trung vào công tác vệ sinh phòng bệnh, thực hiện ăn chín uống sôi, đêm ngủ nằm màn... Qua đó, nhiều dịch bệnh trước đây phổ biến nay đã thuyên giảm, đặc biệt là bệnh sốt rét. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được duy trì trong nhân dân, là nguồn động viên, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân, cổ vũ nhân dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, vượt qua khó khăn, đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ. Trong công tác xây dựng Đảng, trong những năm 1970 – 1975, cán bộ, đảng viên trên địa bàn Tân Bắc tập trung thực hiện Nghị quyết 195 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng7. Qua thực hiện, nhận thức chính trị, lập trường đấu tranh cách mạng, ý thức trách nhiệm, tính tự giác của mỗi đảng viên được nâng cao, củng cố thêm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Giai đoạn 1970 - 6 Hợp tác xã Nặm Mác, Hợp tác xã My Bắc, Hợp tác xã Bản Lý, Hợp tác xã Nặm Khẳm, Hợp tác xã Nặm O, Hợp tác xã thôn Lủ 7 Nghị quyết số 195-NQ/TW ngày 06/3/1970 của Bộ Chính trị “về việc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 192-CT/TW ngày 26/10/1971 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng trong cuộc vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh” 19
  20. 1975, thông qua đợt vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, địa bàn Tân Bắc đã có 2 quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng. Đến năm 1975, trên địa bàn Tân Bắc có 17 đảng viên. Tháng 01/1975, Bộ Chính trị đã nhận định về lực lượng so sánh giữa ta và địch ở phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường Miền Nam, ta đã mạnh hơn địch và có thời cơ chiến lược thuận lợi để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Bộ chính trị đã quyết định mở cuộc tiến công và nổi dậy năm 1975 đánh bại hoàn toàn ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn, mở đầu là chiến dịch Tây Nguyên. Cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 đã diễn ra với tốc độ thấn tốc “một ngày bằng 20 năm” chỉ trong 55 ngày đêm với sức mạnh áp đảo cả về quân sự lẫn chính trị, quân và dân ta đã dành được thắng lợi. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng đã được cắm lên nóc Dinh độc lập. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan. Chế độ thực dân mới của để quốc Mỹ dốc sức xây dựng hoàn toàn bị sụp đổ. Miền Nam được giải phóng hoàn toàn, nước nhà thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, cùng thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩ xã hội bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên địa bàn Tân Bắc đã có nhiều thanh niên lên đường nhập ngũ, trong đó có 7 đồng chí đã anh dũng hy sinh, được công nhận là liệt sĩ, nhiều đồng chí đã bỏ lại một phần xương máu của mình trên các chiến trường. Những kết quả đạt được trong 21 năm (1954 - 1975) là tiền đề quan trọng thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn Tân Bắc tiếp tục nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn tiếp theo: Giai đoạn cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi (ngày 30/4/1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngày 29/9/1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp và ban hành Nghị quyết số 247-NQ/TW về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa V đã quyết định hợp nhất một số tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được sáp nhập thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hà Tuyên. Đầu tháng 4/1976, tỉnh Hà Tuyên chính thức hoạt động theo đơn vị hành chính mới. Địa bàn Tân Bắc thuộc xã Tân Trịnh, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Tuyên. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
36=>0