Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG VỚI THUỐC TÊ VÀ THUỐC GIẢM ĐAU<br />
TRUNG ƯƠNG CHO PHẪU THUẬT VÙNG BỤNG DƯỚI<br />
Nguyễn Văn Chừng**, Trần Thị Ngọc Phượng*, Nguyễn Thị Thanh Ngọc*, Trần Đỗ Anh Vũ*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên<br />
thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phương pháp này làm giảm<br />
những biến chứng trong và sau mổ, giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các phẫu thuật nặng.<br />
Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau trong và sau mổ của phương pháp gây tê ngoài màng<br />
cứng với sự phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương cho phẫu thuật lớn vùng bụng dưới.<br />
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả. Từ tháng 10/2012 đến tháng 03/2013 tại Bệnh viện Bình Dân<br />
TPHCM, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 37 trường hợp ASA từ 1 đến 3, phẫu thuật lớn vùng bụng dưới với<br />
gây mê toàn diện kết hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu thuật.<br />
Kết quả: tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu: 56,1 ± 13,6 tuổi (25 – 85). Thời gian gây mê phẫu thuật<br />
217,1 ± 107,7 (80 - 480) phút. Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, rất<br />
ít sử dụng thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê, chỉ có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc giảm đau<br />
opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp duy trì trong mổ < 1 MAC. Không có tai biến nặng liên quan catheter NMC<br />
và tử vong chu phẫu trong nghiên cứu.<br />
Kết luận: Kết quả cho thấy phương pháp GTNMC phối hợp gây mê là kỹ thuật an toàn cho phẫu thuật vùng<br />
bụng dưới, với hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ tốt, không có những tai biến và biến chứng nặng.<br />
Từ khóa: gây tê ngoài màng cứng, phẫu thuật bụng dưới.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
EPIDURAL WITH LOCAL ANESTHETICS AND OPIOIDS IN LOWER ABDOMINAL SURGERY<br />
Nguyen Van Chung, Tran Thi Ngoc Phuong, Nguyen Thi Thanh Ngoc, Tran Do Anh Vu<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 226 - 231<br />
Background: Epidural for intra and postoperative pain relief has been widely used in the world for many<br />
decades. Previous studies have shown that this method may reduce complications, and decrease the mortality in<br />
severe cases.<br />
Objectives: The present study investigates the safety and the efficacy of epidural combined local anaesthetics<br />
and opioids in major lower abdominal surgery.<br />
Methods: descriptive, cross-sectional study. 37 ASA physical status 1 - 3 patients undergoing major surgery<br />
of the lower abdomen with a combined general anaesthesia and epidural postoperative analgesia were studied at<br />
Binh Dan hospital from 2012 October to 2013 March .<br />
Results: Average ages: 56.1 ± 13.6 years (25 – 85). Duration of surgery: 217.1 ± 107.7 (80 - 480) minutes.<br />
In most cases, the patients had no negative responses to the stimulus provided during the surgical procedure.<br />
Anesthesiologists rarely needed to administer intravenous opioids except a conductive dose. There were only five<br />
cases which more opioids were used during on operation. Anesthesia was maintained with less than 1 MAC of<br />
inhalation anesthetics. With regards to epidurals in this study, there were no severe complications or mortality.<br />
* Khoa phẫu thuật, Bệnh viện Bình Dân Tp. HCM.<br />
** Đại học Y Dược TP. HCM<br />
ĐT: 0903181976<br />
Email: trandoanhvu@gmail.com<br />
Tác giả liên lạc: ThS. Bs Trần Đỗ Anh Vũ<br />
<br />
226<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Conclusions: The results illustrate that a combined general - epidural anesthesia technique is safe for lower<br />
abdominal surgery with both efficient anesthesia and satisfactory pain relief. There were no serious complications<br />
involved in this process.<br />
Keyword: epidural, lower abdominal surgery.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm<br />
đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên<br />
thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của<br />
nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phương<br />
pháp này làm giảm những biến chứng trong và<br />
sau mổ, cải thiện tình trạng phục hồi chức năng<br />
sau mổ và giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các<br />
phẫu thuật nặng.<br />
Phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung<br />
ương (nhóm á phiện) dùng trong GTNMC bằng<br />
cách truyền liên tục cũng đã cho thấy những ưu<br />
điểm, thuận lợi rõ rệt như cải thiện chất lượng<br />
giảm đau, giảm bớt liều lượng sử dụng của cả<br />
hai nhóm thuốc, giảm tai biến ngộ độc thuốc,<br />
duy trì nồng độ thuốc ổn định, giảm tải công<br />
việc cho người làm công tác hồi sức sau mổ,<br />
tránh được tác dụng ức chế giao cảm ngắt quãng<br />
do chích từng liều(1, 7).<br />
Đối với các phẫu thuật lớn vùng bụng dưới,<br />
thời gian mổ kéo dài, trên các đối tượng có các<br />
bệnh lý tim mạch, hô hấp kèm theo… với nhiều<br />
nguy cơ trong và sau phẫu thuật, ngoài các vấn<br />
đề về ngoại khoa, đau được ví như một dấu hiệu<br />
sinh tồn cần phải được quan tâm đúng mức.<br />
Những trường hợp như vậy, việc đặt một<br />
catheter vào khoang ngoài màng cứng (NMC)<br />
vừa là phương pháp vô cảm và giảm đau trong<br />
mổ, vừa giảm đau sau mổ liên tục rất tiện lợi.<br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau<br />
trong và sau mổ của phương pháp gây tê ngoài<br />
màng cứng với sự phối hợp thuốc tê và thuốc<br />
giảm đau trung ương cho phẫu thuật lớn vùng<br />
bụng dưới.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
vùng bụng dưới tại Bệnh viện Bình Dân<br />
TP.HCM.<br />
<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang.<br />
<br />
Tiêu chuẩn nhận bệnh<br />
- Bệnh nhân thuộc nhóm ASA 1 – 3, không<br />
có chống chỉ định GTNMC.<br />
- Bệnh nhân đồng ý hợp tác với thầy thuốc<br />
để tiến hành GTNMC.<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
- Bệnh nhân đang nhiễm trùng toàn thân,<br />
đang ở trong tình trạng sốc hay thiếu khối lượng<br />
tuần hoàn.<br />
- Không thực hiện GTNMC được.<br />
<br />
Phương thức tiến hành<br />
Thăm khám, giải thích và chuẩn bị bệnh<br />
nhân (BN) như một cuộc gây mê bình thường.<br />
Kỹ thuật GTNMC phối hợp gây mê toàn<br />
diện:<br />
+ GTNMC TL 3-4 hoặc TL 2-3, luồn catheter<br />
vào khoang NMC với độ sâu 3 – 5 cm. Bơm liều<br />
test bằng hỗn hợp 3ml Lidocain 1,5% và<br />
epinephrine 1/200.000.<br />
+ Sau khi xác định catheter đúng vào khoang<br />
NMC, tiến hành gây mê toàn diện có đặt ống nội<br />
khí quản (NKQ) cho bệnh nhân.<br />
+ Truyền liên tục trong mổ hỗn hợp:<br />
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận<br />
tốc 4-8ml/giờ.<br />
Sau mổ, vẫn tiếp tục truyền liên tục hỗn hợp<br />
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận<br />
tốc 4-8ml/giờ.<br />
Theo dõi dấu hiệu sinh tồn của BN trước,<br />
trong và sau khi thực hiện thủ thuật, xử lý<br />
những rối loạn khi cần, bao gồm:<br />
<br />
Các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật lớn<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014<br />
<br />
+ Tại phòng mổ: sau khi gây tê, theo dõi:<br />
<br />
227<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân<br />
<br />
mạch, HA, nhịp thở, tri giác.<br />
+ Trong mổ: theo dõi các chỉ số M, HA, các<br />
đáp ứng về độ mê với các kích thích phẫu thuật<br />
khác nhau.<br />
+ Sau mổ: tiếp tục duy trì giảm đau qua<br />
catheter NMC bằng bơm điện liên tục. Ghi nhận<br />
và đánh giá các yếu tố cần nghiên cứu: hiệu quả<br />
giảm đau, các tai biến và biến chứng. Khi BN về<br />
khoa ngoại, thăm khám BN vào những giờ nhất<br />
định trong ngày theo phác đồ nghiên cứu, và<br />
thăm khám ngay lập tức các vấn đề liên quan<br />
đến catheter NMC để đưa ra hướng xử trí.<br />
<br />
Thu thập và xử lý số liệu<br />
Các dữ kiện được đưa vào phân tích là:<br />
- Tuổi, giới tính.<br />
- Phân loại nguy cơ gây mê phẫu thuật ASA.<br />
- Bệnh kèm theo trước mổ: thiếu máu cơ tim,<br />
cao huyết áp, tiền căn nhồi máu cơ tim, suy tim,<br />
bệnh van tim, lao phổi, hen phế quản, bệnh phổi<br />
khác, suy thận, suy gan, đái tháo đường, có bệnh<br />
ung thư, tai biến mạch máu não…<br />
<br />
Đ c đi m chung<br />
Tu i<br />
Chi u cao (cm)<br />
Cân n ng (kg)<br />
<br />
Trung bình<br />
56,1 ± 13,6<br />
161,6 ± 9,4<br />
55,9 ± 10,1<br />
<br />
Nh nh t L n nh t<br />
25<br />
85<br />
150<br />
180<br />
36<br />
77<br />
<br />
ASA<br />
Có 4 trường hợp (8,5%) loại 1, 28 (59,6%) loại<br />
2, và 5 (10,6%) loại 3.<br />
Bảng 2: Loại phẫu thuật<br />
Lo i ph u thu t<br />
<br />
Trư ng h p<br />
(n = 37)<br />
12<br />
2<br />
1<br />
1<br />
19<br />
2<br />
<br />
Bư u bàng quang<br />
K ti n li t tuy n<br />
Dò bàng quang âm đ o<br />
Bàng quang th n kinh<br />
K tr c tràng<br />
K ng h u môn<br />
<br />
Thời gian phẫu thuật<br />
217,1 ± 107,7 (80 - 480) phút.<br />
<br />
Bệnh kèm theo<br />
<br />
- Biến đổi huyết động trong mổ: mạch, huyết<br />
áp, lượng nước tiểu.<br />
<br />
Hầu hết các bệnh nhân đều có ít nhất một<br />
bệnh lý nội khoa kèm theo, nổi bật là tình trạng<br />
tăng huyết áp, với 10 trường hợp, chiếm 27%<br />
bệnh nhân. Có 6 trường hợp bệnh tim thiếu máu<br />
cục bộ, 2 trường hợp hen phế quản.<br />
<br />
- Mức độ phong bế vận động, hiệu quả giảm<br />
đau trong và sau mổ.<br />
<br />
Bảng 3: Thay đổi M và HA của bệnh nhân tại các<br />
thời điểm quan trọng<br />
<br />
- Các thuốc hồi sức được sử dụng trong mổ.<br />
- Thời gian lưu catheter, thời gian nằm theo<br />
dõi điều trị tại hồi sức.<br />
- Những khó khăn, thuận lợi và các tai biến,<br />
biến chứng trong và sau mổ liên quan đến gây<br />
mê – hồi sức.<br />
<br />
Xử lý các số liệu<br />
Phần mềm thống kê SPSS 16.0 for Windows.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Từ tháng 10/2012 đến tháng 03/2013 tại Bệnh<br />
Viện Bình Dân TPHCM, chúng tôi đã tiến hành<br />
thực hiện và theo dõi 37 trường hợp phẫu thuật<br />
lớn vùng bụng dưới với gây mê toàn diện kết<br />
hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu<br />
thuật. Một số kết quả thu được như sau:<br />
<br />
Thay đ i M, HA<br />
Trư c gây tê (t nh táo)<br />
Trư c r ch da<br />
Trong m<br />
Sau m (v a h i t nh)<br />
<br />
M ch<br />
<br />
HA trung bình<br />
<br />
82,7 ± 9,6<br />
65,2 ± 11,4 *<br />
71,9 ± 9,3 *<br />
89,7 ± 10,8<br />
<br />
105,3 ± 9,4<br />
69,7 ± 6,2 *<br />
75,3 ± 8,7 *<br />
110,4± 8,5<br />
<br />
(*): khác biệt có ý nghĩa thống kê, P < 0,05.<br />
<br />
Chúng tôi lấy các thông số về M và HA trước<br />
khi gây tê làm mức cơ bản của BN. Tại thời điểm<br />
trước rạch da và trong phẫu thuật, sự thay đổi M<br />
và HA so với mức cơ bản có ý nghĩa về mặt<br />
thống kê, nhưng về phương diện lâm sàng thì<br />
BN chấp nhận được mức đáp ứng thay đổi<br />
huyết động này.<br />
<br />
Tai biến và biến chứng<br />
Không có tai biến nặng ghi nhận trong<br />
nghiên cứu này.<br />
Trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi<br />
<br />
228<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
nhận trường hợp nào bị tụt HA trầm trọng liên<br />
quan catheter NMC, cũng không có trường hợp<br />
nào bị suy hô hấp phải điều trị ở giai đoạn sau<br />
mổ.<br />
Bảng 5: Các tai biến, biến chứng khác<br />
Bi n ch ng<br />
Bu n nôn - nôn<br />
Đau đ u<br />
Đau lưng<br />
<br />
S trư ng h p<br />
9<br />
5<br />
1<br />
<br />
T l %<br />
24,3%<br />
13,5%<br />
2,7%<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Tuổi trong dân số mẫu nghiêng về phía<br />
người cao tuổi, phù hợp với phân bố dịch tể của<br />
loại bệnh cần phẫu thuật, gồm 12 trường hợp<br />
(32,4%) bướu bàng quang và 19 trường hợp<br />
(51,4%) ung thư trực tràng. Điều này cũng góp<br />
phần gây khó khăn cho nghiên cứu vì ở độ tuổi<br />
càng cao, việc chuyển hóa và đào thải thuốc ít<br />
nhiều bị ảnh hưởng, dễ dẫn đến tình trạng tích<br />
lũy thuốc và gây ngộ độc.(1)<br />
<br />
Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau<br />
phẫu thuật<br />
<br />
Vai trò gây tê ngoài màng cứng giảm đau<br />
trong mổ<br />
<br />
Giảm đau trong mổ<br />
Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu<br />
cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, rất ít sử dụng<br />
thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê,<br />
chỉ có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc<br />
giảm đau opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp<br />
duy trì trong mổ < 1 MAC.<br />
<br />
Theo Robert J (2003), gây tê NMC phối hợp<br />
gây mê và giảm đau hậu phẫu làm giảm biến cố<br />
tim mạch chu phẫu 30%, giảm nhiễm trùng phổi<br />
40%, tắc mạch phổi 50%, suy thận cấp 30% so với<br />
gây mê toàn thân và giảm đau truyền thống.(8)<br />
<br />
Giảm đau sau mổ<br />
Thang điểm đau (VAS)<br />
Bảng 6: Thang điểm đau VAS<br />
VAS<br />
0-1<br />
>1-3<br />
>3-5<br />
>5-8<br />
>8-10<br />
<br />
Gi 0 Gi 4 Gi 8 Gi 16 Gi 24 Gi 36 - 72<br />
(t nh táo)<br />
0<br />
0<br />
0<br />
1<br />
1<br />
1<br />
5<br />
15<br />
19<br />
20<br />
25<br />
28<br />
27<br />
21<br />
17<br />
15<br />
10<br />
3<br />
5<br />
1<br />
1<br />
1<br />
1<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, vai<br />
trò của phối hợp GTNMC hoàn toàn có thể thay<br />
thế nhóm opioids giảm đau trong mổ, chúng tôi<br />
sử dụng opioids (sufentanil hoặc fentanyl) trong<br />
hầu hết các trường hợp vào lúc khởi mê để đặt<br />
NKQ. Tránh được sử dụng opioids liều cao<br />
trong phẫu thuật rất có lợi, đặc biệt ở người già<br />
và những BN có tình trạng thể chất kém (ASA 3),<br />
giúp tỉnh mê sớm và tránh những biến cố do<br />
dùng opioids quá nhiều được cộng dồn vào khi<br />
cho giảm đau sau mổ.<br />
<br />
Có 5 trường hợp rút catheter sớm sau 1 ngày<br />
vì lý do bệnh nhân sốt cao (2 trường hợp), và do<br />
catheter bị sút (1 trường hợp), tắc nghẽn (2<br />
trường hợp).<br />
<br />
Điều này được chứng minh khi thời gian rút<br />
NKQ sớm, BN tỉnh táo sớm.<br />
<br />
Phong bế vận động<br />
Chỉ có 1 trường hợp bị liệt hoàn toàn 2 chi<br />
dưới vào giờ thứ 5 sau truyền thuốc qua<br />
catheter NMC, sau khi giảm liều thì phục hồi<br />
vận động. 5 trường hợp yếu nhẹ ở 1 hoặc 2 chi<br />
dưới. Các trường hợp còn lại đa số chỉ có cảm<br />
giác dị cảm nhẹ.<br />
<br />
mê toàn diện, trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ<br />
<br />
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN<br />
<br />
bốc hơi cũng có xu hướng giảm, chúng tôi sử<br />
<br />
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu<br />
nghiên cứu 56,1 ± 13,6 tuổi, thấp nhất là 25 tuổi,<br />
cao nhất là 85 tuổi.<br />
<br />
Để tránh tình trạng tụt HA, một tác dụng<br />
thường đi kèm với phối hợp gây tê vùng và gây<br />
thực hiện liều bolus khi M và HA đã ổn định sau<br />
khởi mê, điều này giúp chúng tôi phòng ngừa<br />
được tác dụng tụt HA khi phối hợp giữa<br />
GTNMC và gây mê toàn diện.<br />
Các thuốc sử dụng trong mổ như thuốc mê<br />
dụng gây mê với nồng độ thuốc mê < 1 MAC,<br />
và không có trường hợp nào BN bị thức tỉnh<br />
trong mổ.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014<br />
<br />
229<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
Đánh giá mức độ an toàn của giảm đau hậu<br />
phẫu qua catheter NMC với các tai biến,<br />
biến chứng trong nghiên cứu<br />
Nhiều tác dụng phụ liên quan đến thuốc<br />
(opioids và thuốc tê vùng) có thể xảy ra với việc<br />
dùng giảm đau NMC ở hậu phẫu, nhưng trước<br />
khi quy nguyên nhân cho giảm đau NMC, điều<br />
quan trọng đầu tiên là phải xem xét những<br />
nguyên nhân khác, như giảm thể tích, chảy máu,<br />
cung lượng tim thấp dẫn đến tụt huyết áp, tai<br />
biến mạch máu não, phù phổi; và nhiễm trùng<br />
huyết dẫn đến suy hô hấp…(1, 5).<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không gặp<br />
phải các tai biến nặng liên quan đến catheter như<br />
tử vong hoặc các tai biến liên quan với tổn<br />
thương thần kinh trung ương không hồi phục.<br />
<br />
Một số tác dụng phụ khác được chúng tôi<br />
ghi nhận như sau<br />
Tụt huyết áp<br />
Thuốc tê vùng dùng trong chế độ trị liệu<br />
giảm đau NMC có thể phong bế những sợi giao<br />
cảm và góp phần gây tụt huyết áp sau mổ. Tỷ lệ<br />
tụt huyết áp hậu phẫu với giảm đau NMC sau<br />
mổ có thể cao xấp xỉ 7%, trung bình gần 0,7 - 3%.<br />
Những chiến lược điều trị tụt huyết áp không<br />
nguy hiểm gây ra bởi giảm đau NMC bao gồm<br />
việc giảm tổng liều thuốc tê vùng sử dụng (bằng<br />
việc giảm tốc độ hay nồng độ), chỉ truyền opioid<br />
vào khoang NMC và điều trị những nguyên<br />
nhân căn bản của tụt huyết áp(2,3,5).<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường<br />
hợp tụt HA có ý nghĩa đều xảy ra trong lúc phẫu<br />
thuật. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do tình trạng<br />
giảm thể tích do mất máu.<br />
Trong giai đoạn hậu phẫu, chúng tôi không<br />
ghi nhận trường hợp nào tụt HA liên quan đến<br />
việc truyền thuốc tê và opioid qua catheter<br />
khoang ngoài màng cứng.<br />
<br />
Phong bế vận động<br />
Sử dụng thuốc tê vùng cho tác dụng giảm<br />
đau NMC ở hậu phẫu cũng góp phần phong bế<br />
vận động chi dưới xấp xỉ 2 - 3% BN. Nồng độ<br />
<br />
230<br />
<br />
thấp hơn của thuốc gây tê vùng và catheter đường rạch da - vị trí phù hợp của catheter<br />
NMC cho quá trình phẫu thuật bụng hay ngực<br />
có thể làm giảm tỷ lệ phong bế vận động. Mặc<br />
dù trong phần lớn các trường hợp sự phong bế<br />
vận động được giải quyết sau khi ngưng truyền<br />
vào khoang NMC trong vòng gần 2 giờ, nếu sự<br />
phong bế vận động tiếp tục tồn tại hay tăng lên<br />
cần phải được đánh giá nhanh, các nguyên nhân<br />
như khối máu tụ ở tủy sống, áp-xe tủy sống, sự<br />
di dời của catheter vào trong tủy sống, phải được<br />
quan tâm xem xét như một phần của chẩn đoán<br />
phân biệt(5, 6).<br />
Trong nghiên cứu này, chỉ có 1 trường hợp bị<br />
liệt đột ngột sau khoảng 5 giờ truyền thuốc tê.<br />
Chúng tôi xử trí bằng cách ngưng truyền thuốc<br />
và theo dõi, vận động của bệnh nhân hồi phục<br />
trong khoảng 2 giờ sau đó.<br />
Vì vậy với nghiên cứu này, chúng tôi nhận<br />
thấy nồng độ thuốc tê, opioids và tốc độ truyền<br />
như vậy là phù hợp để giảm đau đủ và ít phong<br />
bế vận động nhất.<br />
<br />
Buồn nôn và nôn<br />
Buồn nôn và nôn kết hợp với việc chích một<br />
liều đơn opioids vào trục thần kinh xảy ra xấp xỉ<br />
20 - 50% BN, và tỷ lệ tích lũy ở những BN nhận<br />
sự điều trị truyền opioids liên tục có thể cao từ<br />
45 - 80%. Những dữ liệu lâm sàng và thử nghiệm<br />
cho thấy rằng tỷ lệ buồn nôn và nôn liên quan<br />
đến opioid chích vào trục thần kinh thì tùy thuộc<br />
vào liều. Buồn nôn và nôn từ việc chích opioid<br />
vào trục thần kinh có thể liên quan đến sự di<br />
chuyển về phía đầu của opioid(4, 5).<br />
Nghiên cứu của chúng tôi có 9 trường hợp<br />
(24,3%) bệnh nhân bị buồn nôn và nôn, cũng<br />
phù hợp với tỷ lệ chung.<br />
<br />
Suy hô hấp<br />
Tỷ lệ suy hô hấp với opioids chích vào trục<br />
thần kinh thì tùy thuộc vào liều và khoảng từ<br />
0,1 - 0,9%.<br />
Những yếu tố nguy cơ của suy hô hấp với<br />
opioids chích vào trục thần kinh bao gồm tăng<br />
liều, tuổi cao, dùng đồng thời với opioids toàn<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014<br />
<br />