TIỂU LUẬN:

Giải pháp về hoàn thiện hoạt động

hải quan nhằm tạo thuận lợi trong

việc phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển như hiện nay, khi công nghệ sản xuất

gần như đã được đồng bộ hóa, chi phí nguyên vật liệu không chênh lệch nhiều

giữa các quốc gia, đội ngũ công nhân được đào tạo theo một chuẩn chung thì chi

phí để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giữa các đối thủ cạnh tranh gần như là

tương đương. Ngoài ra, đời sống vật chất và trình độ dân trí của khách hàng ngày

càng được nâng cao, giá cả của sản phẩm không hẳn là yếu tố được quan tâm hàng

đầu. Thay vào đó, những tiêu chí khác được đem ra so sánh, cân nhắc khi quyết

định mua một món hàng như thời gian giao hàng, dịch vụ hậu mãi, chế độ bồi

thường… ngày càng đóng một vai trò quan trọng. Doanh nghiệp nào biết nắm bắt

và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng thì doanh nghiệp ấy mới

có thể đứng vững trên thương trường đầy khắc nghiệt. Chính vì vậy, logistics đã ra

đời không những để hỗ trợ, làm tăng lợi nhuận cho các nhà sản xuất mà mục đích

chính vẫn là để thỏa mãn những nhu cầu ngày càng đa dạng và không ngừng nâng

cao của khách hàng cá nhân nói riêng và toàn xã hội nói chung.

Trong số những dịch vụ do hoạt động logistics cung cấp thì dịch vụ

giao nhận vận tải luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng chi phí logistics. Dịch vụ

này tuy chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam trong một thời gian không bao lâu nhưng đã

khẳng định được vị thế của mình trong việc quyết định đến hiệu quả kinh doanh

cũng như khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước cũng như nước

ngoài khi muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.Bởi dù muốn hay không thì

hoạt động vận tải và giao nhận vẫn là một phần không thể thiếu trong chu trình sản

xuất và kinh doanh của bất kì một nhà sản xuất nào. Ngoài chức năng cung cấp

nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông thành phẩm cho kinh

doanh, hoạt động này còn đóng một vai trò hết sức cần thiết trong việc đảm bảo sự

ăn khớp nhịp nhàng giữa sản xuất-lưu thông-tiêu dùng. Chỉ cần một khâu bị gián

đoạn sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho các khâu tiếp theo, chi phí đền

bù cho các thiệt hại là không nhỏ. Nhận thức được điều đó, việc cung cấp các dịch

vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam đang được mở rộng và đầu tư đúng mức. Nhưng

một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để có thể tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả

của dịch vụ này? Câu trả lời không chỉ nằm ở phía các doanh nghiệp cung cấp dịch

vụ giao nhận vận tải mà cần sự hỗ trợ rất lớn từ nhiều phía.Đó có thể là các cấp

quản lí Nhà nước về kinh tế, giao thông, chính sách pháp luật, cũng có thể là các

nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ở

Việt Nam. Nhằm trả lời một phần cho vấn đề đặt ra ở trên, đề tài: “Giải pháp về

hoàn thiện hoạt động hải quan nhằm tạo thuận lợi trong việc phát triển các

dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam” nêu lên tình hình hoạt động hải quan cùng

với việc đề xuất các phương án nhằm hỗ trợ cho dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt

Nam trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Đề tài gồm có 3 chương chính:

Chương 1: Hoạt động hải quan với việc phát triển các dịch vụ giao nhận

vận tải hàng hóa trong cơ chế thị trường

Chương 2: Thực trạng hoạt động hải quan với dịch vụ giao nhận vận tải ở

Việt Nam hiện nay

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động hải quan nhằm tạo thuận lợi

trong việc phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC

DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI HÀNG HÓA TRONG CƠ CHẾ THỊ

TRƯỜNG

1.1. Dịch vụ hải quan, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa và mối quan

hệ trong quá trình phát triển hoạt động thương mại

1.1.1. Dịch vụ hải quan

Là một khái niệm còn khá mới mẻ, hiện nay chưa có một văn bản pháp luật

ở Việt Nam qui định rõ ràng về dịch vụ hải quan. Dựa vào tình hình thực tế, có thể

hiểu dịch vụ hải quan là các hoạt động do các doanh nghiệp có đăng kí kinh doanh

làm đại lí hải quan hoặc lĩnh vực liên quan cung cấp cho các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu thực hiện một phần hoặc toàn bộ quá trình thông quan hàng hóa. Hoạt

động này có thể được cung cấp trước, trong hoặc sau khi hàng hóa đã được thông

quan. Phần lớn chủ thể thực hiện các dịch vụ hải quan là các đại lí hải quan. Theo

điều 21 của Luật Hải quan năm 2001, đại lí hải quan phải am hiểu pháp luật, có

tinh thần trách nhiệm cao, đại diện cho chủ hàng khai báo hải quan và thực hiện

các công việc khác liên quan tới làm thủ tục hải quan theo như hợp đồng thuê đại

lí hải quan đã kí kết. Tùy theo lĩnh vực hoạt động và qui mô của đại lí, dịch vụ hải

quan có thể được định nghĩa và phân loại khác nhau. Nhìn chung, dịch vụ hải quan

bao gồm: khai báo hải quan, làm thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa xuất nhập

khẩu, giao nhận kho vận hàng hóa xuất nhập khẩu (dịch vụ kho ngoại quan), tư

vấn pháp luật về hải quan.

a,Dịch vụ khai báo hải quan:

Dịch vụ khai báo hải quan ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu

hàng hóa ngày càng lớn của các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với nước ngoài.

Trước đây, khi khối lượng và giá trị hàng hóa thông thương còn nhỏ, danh mục

mặt hàng còn hạn chế, doanh nghiệp có thể cử nhân viên của mình trực tiếp tiến

hành khai báo hải quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi danh mục

hàng hóa cùng với biểu thuế đã có nhiều thay đổi đáng kể, kèm theo mối quan hệ

làm ăn phức tạp giữa doanh nghiệp trong nước với nhiều bạn hàng ở nước ngoài,

việc khai báo hải quan nhanh chóng, chính xác đang đặt ra cho mỗi doanh nghiệp

một khối lượng công việc lớn, cần có đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm và kiến

thức chuyên sâu về vấn đề này. Chính vì vậy mà nhiều đại lí hải quan đã ra đời,

cung cấp dịch vụ khai báo hải quan một cách chuyên nghiệp, từ đó tiết kiệm được

không ít thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp. Việc kê khai phải đảm bảo đầy

đủ, chi tiết về đặc điểm, số lượng, trọng lượng, trị giá, quy cách, phẩm chất và mã

số của lô hàng xuất khẩu (nhập khẩu). Từ đó, xác định đúng thuế suất áp cho mặt

hàng, thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Vì vậy,nhân viên

của đại lí phải liên tục cập nhật danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu cùng với chính

sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước để tuân thủ đúng các quy định

khi tiến hành kê khai. Ngoài ra, nhân viên còn phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật nếu có sai sót trong khai báo trái với các văn bản hiện hành hoặc những chứng

từ do chủ hàng cung cấp.

b,Dịch vụ làm thủ tục hải quan:

Theo điều 16, Mục 1,Chương III, Luật Hải quan 2005 qui định về thủ tục

hải quan thì người khai hải quan phải thực hiện đầy đủ 3 nghĩa vụ: khai và nộp tờ

khai hải quan, nộp và xuất trình chứng từ có trong hồ sơ hải quan;đưa hàng hóa và

phương tiện vận tải đến địa điểm qui định để thực hiện kiểm tra thực tế hàng hóa,

phương tiện vận tải; nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo qui

định của pháp luật. Hiện nay, danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu bao gồm nhiều

loại hình hàng hóa khác nhau. Mỗi loại hình hàng hóa yêu cầu bộ hồ sơ hải quan

và các thủ tục khác nhau. Nhân viên đại lí hải quan phải nắm vững qui định pháp

luật cho từng loại hình để tiến hành làm thủ tục một cách nhanh chóng. Ngoài việc

thực hiện các công việc liên quan tới hành chính, người cung cấp dịch vụ hải quan

còn đại diện cho chủ hàng theo dõi quá trình thông quan của lô hàng, chịu trách

nhiệm giải quyết các vấn đề phát sinh khi không có mặt chủ hàng. Nếu lô hàng

thuộc diện kiểm tra chi tiết hồ sơ, nhân viên đại lí hải quan nên chuẩn bị bộ chứng

từ cùng các tài liệu chứng minh liên quan đầy đủ, rõ ràng, đúng pháp luật. Nếu lô

hàng nằm trong diện kiểm tra thực tế, đại lí hải quan cử nhân viên thay mặt chủ

hàng tham gia vào công tác kiểm tra và thông báo những vấn đề phát sinh không

giải quyết được cho chủ hàng. Thời gian cung cấp dịch vụ làm thủ tục hải quan

nhanh hay chậm tùy theo điều kiện thực tế của lô hàng. Với những lô hàng mà chủ

sở hữu là các doanh nghiệp thực hiện tốt pháp luật hoặc thuộc diện hàng phải

thông quan gấp, thời gian làm thủ tục có thể được rút ngắn. Tuy nhiên, đối với

những lô hàng có chủ sở hữu là các doanh nghiệp đã có lịch sử vi phạm pháp luật

liên quan đến hải quan hoặc hàng hóa nằm trong danh mục cần phải kiểm tra thực

tế thì thời gian làm thủ tục có thể kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp. Vì vậy, đại lí cung cấp dịch vụ làm thủ tục hải quan phải chính

xác, cẩn thận và linh hoạt trong từng khâu để không làm tăng chi phí cho chủ

hàng.

c,Dịch vụ kho ngoại quan:

Theo Luật Hải quan 2005 và nghị định số 154/2005/NĐ-CP của Chính phủ

về “Qui định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra,

giám sát hải quan” thì dịch vụ kho ngoại quan bao gồm:

- Gia cố, chia gói, đóng gói bao bì; phân loại phẩm cấp hàng hóa, bảo

dưỡng hàng hóa.

- Làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa đưa ra, đưa vào kho ngoại quan.

- Vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu vào kho ngoại quan, từ kho ngoại quan

a cửa khẩu, từ kho ngoại quan này sang kho ngoại quan khác.

- Chuyển quyền sở hữu hàng hóa.

Khác với các dịch vụ hải quan khác có thể do các đại lí hải quan đảm nhận,

doanh nghiệp kinh doanh kho ngoại quan phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:

- Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật.

- Có chức năng kinh doanh kho bãi, giao nhận hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.

- Kho, bãi được thành lập tại các khu vực thường được ngăn cách với khu

vực xung quanh bằng hệ thống tường rào, đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát

thường xuyên của cơ quan hải quan.

- Có cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện vận chuyển phù hợp yêu cầu lưu

giữ, bảo quản hàng hóa và kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan.

- Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định thành lập kho ngoại

quan.

Dịch vụ kho ngoại quan được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhưng do tính

chất của hàng hóa được phép lưu giữ trong kho khá đặc biệt nên phải có sự giám

sát của cơ quan hải quan. Vì vậy, song song với sự thỏa thuận giữa chủ kho ngoại

quan và chủ hàng được thể hiện trong hợp đồng thuê kho ngoại quan, chủ kho

ngoại quan còn phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của pháp luật về quản lí

lưu giữ, bảo quản hàng hóa gửi kho ngoại quan cũng như chế độ báo cáo 6 tháng 1

lần về thực trạng hàng hóa trong kho và tình hình hoạt động của kho lên Cục

trưởng Cục hải quan trực tiếp quản lí.

d,Dịch vụ tư vấn pháp luật về hải quan:

Mỗi doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động kinh doanh với các đối tác

nước ngoài thường có những vướng mắc về thủ tục khó giải quyết. Bởi những hoạt

động này thường được qui định trong nhiều văn bản luật chuyên ngành khác nhau

và tùy trường hợp cụ thể lại có những hướng dẫn thực hiện khác nhau. Tuy nhiên,

không phải doanh nghiệp nào cũng có thể nắm vững và sử dụng thành thạo các qui

định của pháp luật để tiến hành làm thủ tục hải quan một cách nhanh chóng và

chính xác. Việc này ảnh hưởng đến tốc độ lưu thông hàng hóa cũng như hiệu quả

kinh doanh của của doanh nghiệp. Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn này, nhiều

công ty tư vấn pháp luật trong lĩnh vực hải quan đã ra đời để thực hiện các chức

năng:

- Tư vấn pháp luật về hải quan cho các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân khi

thực hiện các hoạt động liên quan đến lĩnh vực hải quan ( các điều kiện, thủ tục

khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đối với từng loại hình cụ thể

theo quy định của Nhà nước; cách thức tiến hành từ khâu khai báo đến làm thủ tục

hải quan và thông quan hàng hoá; nơi làm thủ tục hải quan; hình thức làm thủ

tục….).

- Tư vấn những vấn đề liên quan đến chính sách quản lý mặt hàng của Nhà

nước ( những hàng hoá, hành lý được phép xuất nhập khẩu; được xuất nhập khẩu

có điều kiện; không được phép xuất nhập khẩu…).

- Tư vấn những vấn đề liên quan đến chính sách thuế từ khai báo; xác định

tên hàng, mã số hàng hoá, áp biểu thuế theo đúng quy định của Nhà nước.

- Thực hiện dịch vụ làm thủ tục hải quan trọn gói.

- Thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân

khi bị thiệt hại do những sai sót của cơ quan Nhà nước trong việc phán quyết và ra

quyết định về những vấn đề liên quan đến hải quan như: xử phạt vi phạm hành

chính; áp mã; áp thuế tại Toà án Hành chính.

Dịch vụ tư vấn pháp luật hải quan ra đời nhằm giảm bớt các chi phí phát

sinh không cần thiết của các doanh nghiệp đồng thời giúp các doanh nghiệp định

hướng đúng đắn trong việc giải quyết các sự cố liên quan đến lĩnh vực hải quan.

1.1.2. Dịch vụ giao nhận vận tải

Dịch vụ giao nhận vận tải là một dịch vụ khá quen thuộc đối với những

doanh nghiệp có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa hiện nay. Nằm trong hệ thống

các dịch vụ thuộc hệ thống logistics, dịch vụ này chiếm một tỉ trọng lớn trong chi

phí nên nó đóng vai trò hết sức quan trọng. Không một công ty nào có thể duy trì

hoạt động một cách ổn định nếu như không được cung cấp nguyên vật liệu đầy đủ

và kịp thời. Không một doanh nghiệp nào có thể thu được lợi nhuận nếu như sản

phẩm sản xuất ra không được lưu thông và chuyển đến khách hàng có nhu cầu.

Như vậy, dịch vụ giao nhận vận tải trở thành mạch máu lưu thông cho toàn bộ

hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cùng với các nhà cung cấp dịch vụ

phải xây dựng chiến lược vận tải khoa học, hợp lí: xác định lộ trình vận tải, chọn

hãng vận tải thích hợp, xúc tiến, đôn đốc và kiểm soát hàng hóa trong quá trình

vận chuyển, làm hồ sơ khiếu nại khi hàng hóa bị hư hỏng, mất mát. Dịch vụ giao

nhận vận tải tuy là một quá trình thống nhất, gắn bó chặt chẽ nhưng có thể được

hiểu thành hai hệ thống dịch vụ riêng biệt: dịch vụ giao nhận và dịch vụ vận tải.

a,Dịch vụ giao nhận:

Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA),

dịch vụ giao nhận là bất kì loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng,

lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa, cũng như các dịch vụ tư vấn

hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo

hiểm, thanh lí, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa. Người giao nhận có thể

là chủ hàng, chủ tàu, công ty xếp dỡ, hay kho hàng, người giao nhận chuyên

nghiệp hay bất cứ người nào khác có đăng kí kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng

hóa. Cùng với sự phát triển của dịch vụ giao nhận, vai trò của người giao nhận

cũng được mở rộng ra rất nhiều. Trong xu thế thương mại toàn cầu hoá cùng với

sự phát triển nhiều hình thức vận tải mới trong những thập niên qua, người làm

dịch vụ giao nhận hàng hoá ngày nay giữ vai trò quan trọng trong vận tải và buôn

bán quốc tế. Những dịch vụ người giao nhận thực hiện không chỉ dừng lại ở các

công việc cơ bản truyền thống như đặt chỗ đóng hàng, nơi dùng để kiểm tra hàng

hoá, giao nhận hàng hoá mà còn thực hiện những dịch vụ chuyên nghiệp hơn như

tư vấn chọn tuyến đường vận chuyển, chọn tàu vận tải, đóng gói bao bì hàng hoá,

.v.v...

Đối với Việt Nam, trong nghị định của Chính phủ về điều kiện kinh doanh

dịch vụ hàng hải, ban hành ngày 19/03/2001 (có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày

ký), dịch vụ giao nhận hàng hoá ngoại thương bao gồm:

- Dịch vụ đại lý vận tải đường biển: tổ chức và tiến hành các công việc

phục vụ quá trình vận chuyển, giao nhận hàng hóa, vận chuyển hành khách và

hành lý trên cơ sở hợp đồng vận chuyển bằng đường biển hoặc hợp đồng vận tải

đa phương thức;cho thuê, nhận thuê hộ phương tiện vận tải biển, thiết bị bốc dỡ,

kho tàng, bến bãi, cầu tàu và các thiết bị chuyên dùng hàng hải khác;làm đại lý

công-te-nơ (container);giải quyết các công việc khác theo ủy quyền.

- Dịch vụ môi giới hàng hải: làm trung gian trong việc ký kết hợp đồng vận

chuyển hàng hóa, hành khách và hành lý;làm trung gian trong việc ký kết hợp

đồng bảo hiểm hàng hải;làm trung gian trong việc ký kết hợp đồng cho thuê tàu,

hợp đồng mua bán tàu, hợp đồng lai dắt, hợp đồng thuê và cho thuê thuyền

viên;làm trung gian trong việc ký kết các hợp đồng khác có liên quan đến hoạt

động hàng hải do người ủy thác yêu cầu theo từng hợp đồng cụ thể.

- Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa: thực hiện kiểm đếm số lượng hàng hóa thực

tế khi giao hoặc nhận với tàu biển hoặc các phương tiện khác theo ủy thác của

người giao hàng, người nhận hàng hoặc người vận chuyển.

- Dịch vụ bốc dỡ hàng hóa tại cảng biển: thực hiện các công việc bốc, dỡ

hàng hóa tại cảng theo quy trình công nghệ bốc, dỡ từng loại hàng.

b,Dịch vụ vận tải:

Dịch vụ vận tải đóng vai trò quan trọng nhất phục vụ cho việc cung cấp

nguyên vật liệu, di chuyển hàng hóa giữa các cơ sở sản xuất, hoặc phân phối sản

phẩm cho các nhà kho, phân phối từ các nhà kho, điểm xếp, dỡ hàng hóa tới các

địa điểm bán hàng, bao gồm các hoạt động cơ bản:

- Gom hàng lẻ

- Chia nhỏ các lô hàng lớn

- Giao hàng

- Thuê phương tiện vận tải

Hoạt động vận tải được phối hợp trong dây chuyền logistics và đương nhiên

không được làm gián đoạn dây chuyền đó. Chúng phải tuân thủ các đặc tính của

dây chuyền, hơn thế, chúng phải đáp ứng được yêu cầu kịp thời. Nói cách khác,

người kinh doanh và cung ứng các dịch vụ vận tải phải đảm bảo các chỉ tiêu vận

tải nếu anh ta còn muốn tồn tại trên thị trường.

Một chỉ tiêu khác là việc cung cấp thông tin về di chuyển của hàng hóa.

Một người kinh doanh vận tải cần phải duy trì thông tin cho người gửi hàng, người

nhận hàng về tình hình di chuyển của hàng hóa. Nếu tiến hành điều chỉnh khi sự

cố xảy ra với hàng hóa đang trên hành trình, thông tin phải được di chuyển theo 2

chiều giữa người gửi, người nhận hàng với người kinh doanh vận tải, giữa người

kinh doanh vận tải với các bên tham gia cung cấp dịch vụ.

Dựa vào các loại hình phương tiện khác nhau, dịch vụ vận tải có thể phân

loại như sau:

- Vận tải đường biển: ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải

khác,ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên con người đã biết lợi dụng biển làm

các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng các miền, các quốc gia với nhau

trên thế giới. Cho đến nay vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành

vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế.Đặc điểm của loại hình vận tải này

là:

+)Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hóa

tham gia buôn bán quốc tế.

+)Các tuyến đường vận tải biển hầu hết là các tuyến đường giao thông tự

nhiên.

+)Năng lực vận chuyển của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung, năng

lực vận chuyển của các công cụ tham gia vận tải đường biển không bị hạn chế như

công cụ của các phương thức vận tải khác.

+)Ưu điểm lớn khi vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là giá thành thấp.

- Vận tải đường thủy nội địa:là phương thức vận chuyển hàng hóa và con

người trên luồng, âu tàu, các công trình đưa phương tiện qua đập, thác trên sông,

kênh, rạch hoặc luồng trên hồ, đầm, phá, vụng, vịnh, ven bờ biển, ra đảo, nối các

đảo thuộc nội thuỷ do pháp luật quy định được tổ chức quản lý, khai thác giao

thông vận tải. Đây là một phương thức vận tải chỉ tồn tại ở các nước có hệ thống

giao thông đường thủy nội địa phát triển như Việt Nam. Phương thức này mang

một số đặc trưng cơ bản:

+)Quãng đường di chuyển ngắn, phạm vi hẹp, bao gồm vận tải theo tuyến

đường cố định và vận tải theo yêu cầu của khách hàng.

+)Khối lượng hàng hóa trên một phương tiện vận tải thường nhỏ, thường

không yêu cầu cao về bảo quản cũng như đóng gói, trừ một số hàng hóa đặc biệt.

+)Hoạt động vận tải chịu sự ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên nên độ

an toàn không cao.

- Vận tải đường bộ:là dịch vụ vận tải phổ biến và có mặt hầu hết ở tất cả

các nước trên thế giới.Vận tải đường bộ mang tính chất cơ động, đa dạng về

phương tiện cũng như hàng hóa chuyên chở nên nó đóng vai trò then chốt trong

việc đáp ứng nhu cầu lưu thông của con người.Mỗi loại phương tiện lại có ưu

điểm và nhược điểm riêng, có thể phối hợp với nhau để đạt hiệu quả tốt nhất. Đối

với vận tải bằng đường sắt, thuận lợi là chuyên chở hàng hóa siêu trường, siêu

trọng với độ an toàn cao, chi phí thấp nhưng khó khăn khi phải đầu tư cho cơ sở hạ

tầng lớn, bất lợi khi phải cung cấp hàng hóa tại những nơi không có ga tàu, bến

bãi. Đối với vận tải bằng ô tô, tính cơ động cao vì phù hợp với nhiều loại địa hình

nhưng khối lượng hàng hóa chuyên chở được lại hạn chế.Ngoài ra, một số phương

tiện cũng tham gia vào dịch vụ vận tải đường bộ nhưng khối lượng hàng hóa

không đáng kể.Chi phí cho dịch vụ này thường nằm ở mức trung bình nên đáp ứng

được nhu cầu của của nhiều khách hàng.

- Vận tải hàng không: là loại hình dịch vụ hiện đại nhất trong buôn bán

quốc tế. Từ khi ra đời đến nay, đây luôn là dịch vụ vận tải đáp ứng được nhu cầu

giao hàng nhanh chóng và an toàn hơn so với các loại hình vận tải khác.Vận tải

bằng đường hàng không chuyên phục vụ vận chuyển các mặt hàng có thời hạn sử

dụng ngắn hoặc những đơn hàng cần thực hiện gấp.Ngoài ra,dịch vụ này được

khai thác trên những tuyến đường bay cố định, được sự hỗ trợ của các phương tiện

kĩ thuật hiện đại, kèm theo nguồn nhân lực đào tạo bài bản nên độ an toàn được

đảm bảo. Tuy chi phí cao hơn hẳn so với các dịch vụ vận tải khác nhưng đây vẫn

là lựa chọn của nhiều nhà sản xuất.Hiện nay, dịch vụ này đang được khai thác kết

hợp với các dịch vụ khác nhằm giảm chi phí đồng thời rút ngắn thời gian di

chuyển của hàng hóa, nâng cao uy tín cũng như lợi nhuận cho các doanh nghiệp.

1.1.3. Mối quan hệ giữa dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải hàng

hóa

Trong nền kinh tế thị trường mở cửa như hiện nay, các doanh nghiệp đều

hiểu rằng kinh tế địa phương hay thậm chí các nền kinh tế trên thế giới như là một

nền tảng thuận lợi cho họ trong việc tham gia sản xuất, thương mại, xuất khẩu và

cung cấp dịch vụ. Điều này bao gồm một quá trình kết hợp các yếu tố như: lao

động, kỹ năng, kỹ thuật và tri thức có thể được chuyển đổi từ biên giới quốc gia

này sang biên giới quốc gia khác. Nói cách khác, để tồn tại và phát triển thì các

doanh nghiệp cần phải có khả năng nhạy bén trong việc nắm bắt những cơ hội

kinh doanh, đưa ra thị trường những sản phẩm tốt với giá cả cạnh tranh nhất. Để

làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải quản lý và tổ chức hệ thống của

mình theo mạng lưới của những nhà cung cấp, những nhà thầu phụ, những công ty

vệ tinh, những nhà cung cấp dịch vụ, những đối tác kinh doanh và khách hàng

trong và ngoài nước. Vì thế doanh nghiệp cần phải điều hành hoạt động kinh

doanh của mình trong cả hai môi trường trong nước và quốc tế. Dịch vụ giao nhận

vận tải ra đời để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện tốt hoạt động này. Nhưng để cho

quá trình lưu thông, vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như hàng

hóa được thuận lợi, cần phải có một bộ phận chuyên trách các thủ tục hải quan cho

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng như phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh

và quá cảnh. Nhu cầu này nảy sinh từ các tính chất phức tạp của pháp luật và cơ

chế chính sách hiện hành có liên quan đến lĩnh vực hải quan. Nhiều đại lí hải quan

được thành lập cùng với những dịch vụ hải quan được cung cấp để giúp đỡ doanh

nghiệp tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động thông thương với nước ngoài. Quá

trình thông quan hàng hóa được diễn ra nhanh chóng dẫn đến hàng hóa được lưu

thông một cách dễ dàng và thuận tiện, đảm bảo được chất lượng của hàng hóa và

uy tín của doanh nghiệp. Từ đó, dịch vụ hải quan đóng một vai trò hết sức cần

thiết trong quá trình giao nhận-vận tải hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Nó tác động

đến thời gian và chất lượng cung cấp dịch vụ giao nhận-vận tải.

Ngoài việc mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam

còn chủ động tham gia tích cực vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế. Vì

vậy, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để đảm bảo những lợi ích của các doanh

nghiệp có được từ những tổ chức đó. Các doanh nghiệp sẽ cần phải đánh giá xem

bằng cách nào và lúc nào họ có thể sử dụng những thoả thuận để giành lấy những

quyền lợi khi mà luôn bị chi phối bởi các điều kiện cố định như danh mục ưu đãi

thuế quan, các điều lệ về nguồn gốc xuất xứ và các qui tắc và tiêu chuẩn sức khỏe.

Không hiểu biết ngọn ngành về các điều kiện này sẽ là bất lợi lớn cho doanh

nghiệp khi muốn cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp kinh

doanh xuất nhập khẩu hiện nay đang có xu hướng thuê ngoài các đại lí hải quan để

chuyên môn hóa một khâu trong quá trình đưa sản phẩm ra thị trường, vừa tiết

kiệm chi phí vừa rút ngắn quá trình giao hàng. Hàng hóa được thông quan nhanh

chóng và thuận lợi tạo động lực cho doanh nghiệp mở rộng phạm vi kinh doanh và

tấn công vào các thị trường mới, tạo điều kiện cho dịch vụ giao nhận vận tải có cơ

hội phát triển.

Theo qui định của Luật hải quan hiện hành và các thông tư hướng dẫn thực

hiện có liên quan thì thời gian thông quan cho các phương tiện vận tải xuất nhập

cảnh, quá cảnh thường không kéo dài (đối với ô tô thì thời gian thông quan trung

bình là từ 15 đến 20 phút-kể cả có kiểm tra thực tế;tàu biển là trong vòng 2 tiếng).

Tuy nhiên, đối tượng chuyên chở của các dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế lại là

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nên thời gian thông quan phụ thuộc rất lớn vào tính

chất của loại hàng hóa cũng như mức độ tuân thủ pháp luật của chủ hàng. Trong

trường hợp lô hàng thuộc diện phải kiểm tra thực tế hàng hóa thì thời gian thông

quan có thể kéo dài đến 2 ngày. Đặc biệt, trong trường hợp lô hàng cần có yêu cầu

giám sát chất lượng của cơ quan quản lí Nhà nước thì thời gian thông quan được

phép kéo dài hơn nhưng không được quá 30 ngày. Tuy nhiên trên thực tế, tại một

số điểm làm thủ tục hải quan, nhất là ở các cảng biển lớn thì thời gian thông quan

thường bị chậm trễ hơn so với qui định. Nguyên nhân xuất phát từ khối lượng

hàng hóa lớn, nhu cầu về thủ tục hành chính nhiều nhưng nhân sự về lĩnh vực hải

quan lại chưa đáp ứng được. Ngoài ra,dịch vụ hải quan cung cấp chưa kịp thời

hoặc chưa đầy đủ cũng gián tiếp gây nên tình trạng trên. Nhân viên đại lí hải quan

không nắm vững bộ hồ sơ hải quan, yêu cầu về khai báo hải quan dẫn tới khai báo

chậm, sai sót hoặc chứng từ thiếu đồng bộ, hợp lí là những nguyên nhân thường

thấy. Điều này dẫn tới khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện đúng thời hạn hợp

đồng mà các dịch vụ giao nhận vận tải nhận cung cấp. Như vậy, ngoài sự hỗ trợ

tích cực cho việc chuyên môn hóa một khâu trong quá trình giao nhận, dịch vụ hải

quan cũng có thể trở thành một nhân tố cản trở quá trình giao nhận và vận tải quốc

tế. Là mắt xích quan trọng trong việc đưa hàng hóa di chuyển từ nước này sang

nước khác, từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác, dịch vụ giao

nhận vận tải quốc tế không thể thực hiện tốt chức trách nếu như dịch vụ hải quan

không đảm nhận được nhiệm vụ của mình. Một số hàng hóa khi xuất khẩu, nhập

khẩu có yêu cầu được đưa ra thị trường tiêu thụ trong một thời gian ngắn như hải

sản tươi sống, hàng bán theo các đơn đặt hàng, hàng đặc biệt chỉ xuất hiện trong

các dịp lễ lớn thì vấn đề thông quan nhanh lại càng được đưa lên hàng đầu. Nếu

hàng hóa không được giao đúng hẹn không những mất đi cơ hội kinh doanh mà

còn ảnh hưởng lớn đến uy tín của những hãng sản xuất cũng như những nhà kinh

doanh dịch vụ vận tải. Trong một số trường hợp, đại lí cung cấp dịch vụ hải quan

không cập nhật đầy đủ thông tin và những chính sách mới ban hành nên chuẩn bị

thiếu chứng từ hoặc khai báo sai lệch so với giấy tờ được cung cấp gây ra thiệt hại

không nhỏ cho nhiều phía đối tác. Ngược lại, việc chuẩn bị kĩ lưỡng và thực hiện

nhanh chóng quá trình giải phóng hàng hóa ra khỏi các cửa khẩu sẽ tạo điều kiện

đưa hàng hóa đến địa điểm đúng hạn. Như vậy, có thể kết luận rằng, mối quan hệ

giữa dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải có tính chất phụ thuộc, tương

trợ lẫn nhau và ngày càng gắn bó chặt chẽ trên cơ sở mở rộng của thương mại

quốc tế.

1.2. Dịch vụ hải quan và những tác động của nó đến những dịch vụ giao

nhận vận tải hàng hóa

1.2.1. Pháp luật, cơ chế chính sách hiện hành

a,Cam kết của Việt Nam trong Tổ chức thương mại thế giới(WTO):

Trong cam kết của Việt Nam với WTO không nêu định nghĩa quốc tế chính

thức cho dịch vụ hải quan mà có ghi chú định nghĩa theo đó, “dịch vụ thông quan”

(tên gọi khác là “dịch vụ môi giới hải quan”) là các hoạt động bao gồm việc thay

mặt một bên khác thực hiện các thủ tục hải quan liên quan tới xuất nhập khẩu hoặc

quá cảnh hàng hóa, dù dịch vụ này là hoạt động chính hay chỉ là một phần bổ sung

thông thường trong hoạt động chính của nhà cung cấp dịch vụ.

Việt Nam chưa cam kết về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia

với phương thức 1 (cung cấp dịch vụ qua biên giới) vì “cam kết ở phương thức

này không khả thi”. Không hạn chế với phương thức 2 (tiêu dùng ở nước ngoài)

cho cả mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia, còn phương thức 4 (hiện diện thể

nhân) chưa cam kết, trừ cam kết sàn. Về hiện diện thương mại, Việt Nam chỉ đưa

ra hạn chế vốn góp pháp định của bên nước ngoài. Theo đó, khi gia nhập WTO,

bên nước ngoài được thành lập liên doanh vốn góp của mình không quá 51%. Sau

5 năm, tức là năm 2012, cho phép thành lập liên doanh không hạn chế phần vốn

góp sở hữu của bên nước ngoài. Các công ty liên doanh được hưởng đãi ngộ quốc

gia như các công ty Việt Nam.

b,Luật Hải quan Việt Nam 2005:

Trong qui định của Luật Hải quan Việt Nam có ban hành một số điều có

liên quan đến dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải như sau:

- Điều 15. Nguyên tắc tiến hành thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải

quan

(i) Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất

cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phải được làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm tra, giám

sát hải quan, vận chuyển đúng tuyến đường, qua cửa khẩu theo quy định của pháp

luật.

(ii) Hàng hoá, phương tiện vận tải được thông quan sau khi đã làm thủ tục

hải quan.

- Điều 21. Đại lý làm thủ tục hải quan

(i) Người đại lý làm thủ tục hải quan là người khai hải quan theo uỷ quyền

của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá

xuất khẩu, nhập khẩu.

(ii) Người đại lý làm thủ tục hải quan phải hiểu biết pháp luật hải quan,

nghiệp vụ khai hải quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm

vi được uỷ quyền.

Chính phủ quy định cụ thể điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm

thủ tục hải quan.

- Điều 50. Địa điểm làm thủ tục hải quan đối với phương tiện vận tải xuất

cảnh, nhập cảnh

(i) Phương tiện vận tải khi xuất cảnh, nhập cảnh phải qua cửa khẩu của Việt

Nam.

Phương tiện vận tải nhập cảnh phải được làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu

nhập đầu tiên. Phương tiện vận tải xuất cảnh phải được làm thủ tục hải quan tại

cửa khẩu xuất cuối cùng.

(ii) Việc xuất cảnh, nhập cảnh của phương tiện vận tải qua các địa điểm

khác do Chính phủ quy định.

- Điều 51. Tuyến đường, thời gian chịu sự giám sát hải quan đối với

phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển cửa khẩu

(i) Phương tiện vận tải nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, chuyển

cửa khẩu phải di chuyển theo đúng tuyến đường quy định, chịu sự giám sát hải

quan từ khi đến địa bàn hoạt động hải quan, quá trình di chuyển cho đến khi ra

khỏi lãnh thổ Việt Nam.

(ii) Phương tiện vận tải Việt Nam nhập cảnh chịu sự giám sát hải quan từ

khi tới địa bàn hoạt động hải quan cho đến khi toàn bộ hàng hoá nhập khẩu chuyên

chở trên phương tiện vận tải được dỡ hết khỏi phương tiện để làm thủ tục nhập

khẩu.

Phương tiện vận tải Việt Nam xuất cảnh chịu sự giám sát hải quan từ khi

bắt đầu xếp hàng hoá xuất khẩu cho đến khi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

(iii) Khi có căn cứ để nhận định trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập

cảnh, quá cảnh, chuyển cửa khẩu có cất giấu hàng hoá trái phép, có dấu hiệu vi

phạm pháp luật nghiêm trọng thì Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu, Chi cục

trưởng Hải quan địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, Đội trưởng Đội

kiểm soát hải quan quyết định tạm hoãn việc khởi hành hoặc dừng phương tiện

vận tải để khám xét. Việc khám xét phải thực hiện theo đúng quy định của pháp

luật; người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của

mình.

- Điều 52. Khai báo và kiểm tra đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập

cảnh, quá cảnh

(i) Khi làm thủ tục hải quan đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập

cảnh, quá cảnh, chủ phương tiện vận tải hoặc người điều khiển phương tiện vận tải

phải khai hải quan; nộp, xuất trình các chứng từ vận tải để làm thủ tục hải quan;

cung cấp các thông tin, chứng từ về hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, vật dụng trên

phương tiện vận tải. Thời hạn khai hải quan được thực hiện theo quy định tại các

khoản 5, 6 và 7 Điều 18 của Luật này.

(ii) Việc kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế phương tiện vận tải của

công chức hải quan được thực hiện theo quy định tại điểm c và điểm d khoản 2

Điều 19, Điều 20 và Điều 22 của Luật này.

Trong trường hợp các chứng từ vận tải đã đáp ứng yêu cầu của việc kiểm

tra hải quan thì chủ phương tiện vận tải hoặc người điều khiển phương tiện vận tải

không phải làm tờ khai hải quan, trừ hành lý, hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của

người xuất cảnh, nhập cảnh trên phương tiện vận tải.

- Điều 53. Chuyển tải, chuyển cửa khẩu, sang toa, cắt toa, xếp dỡ hàng hoá

trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh

Việc chuyển tải, chuyển cửa khẩu, sang toa, cắt toa, xếp dỡ hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu, hành lý trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh đang trong

thời gian chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý

của cơ quan hải quan.

Hàng hoá chuyển tải, chuyển cửa khẩu, sang toa, cắt toa phải được giữ

nguyên trạng bao bì, thùng, kiện.

- Điều 54. Vận chuyển quốc tế kết hợp vận chuyển nội địa, vận chuyển nội

địa kết hợp vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu

(i) Phương tiện vận tải vận chuyển quốc tế, nếu được phép của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền và đáp ứng các điều kiện về giám sát hải quan do Tổng cục

Hải quan quy định thì được kết hợp vận chuyển hàng hoá nội địa.

(ii) Phương tiện vận tải vận chuyển nội địa, nếu được phép của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền và đáp ứng các điều kiện về giám sát hải quan do Tổng cục

Hải quan quy định thì được kết hợp vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu

đang chịu sự giám sát hải quan.

Từ các qui định trên có thể thấy rằng, dịch vụ giao nhận vận tải rất cần sự

hỗ trợ từ các dịch vụ hải quan để có thể cung cấp dịch vụ một cách nhanh chóng

và hiệu quả. Các hoạt động vận tải nội địa kết hợp với vận chuyển quốc tế đòi hỏi

sự kết hợp đồng bộ, thời gian chuyển tiếp ngắn mà vẫn phải đảm bảo tính nguyên

trạng của hàng hóa cần chuyên chở. Vì vậy, thời gian dành cho công tác khai

báo,kiểm tra, giám sát hải quan đối với các phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá

cảnh phải được rút ngắn một cách tối đa. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào chất

lượng của dịch vụ hải quan. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hải quan có một đội

ngũ nhân viên am hiểu và vận dụng khéo léo các qui định của pháp luật về lĩnh

vực hải quan thì mới có thể phục vụ tốt cho các yêu cầu của hải quan về xuất cảnh,

nhập cảnh, quá cảnh các phương tiện giao thông vận tải. Việc áp dụng và cập nhật

pháp luật liên quan đến hải quan phải được thực hiện một cách thường xuyên và

có hệ thống. Ngoài ra, dịch vụ hải quan cần phải được nâng cấp, đa dạng hóa tùy

theo tính chất và đòi hỏi của thực tế hoạt động dịch vụ giao nhận vận tải được ra.

1.2.2. Thủ tục hải quan

Theo Quyết định số 1171/QĐ-TCHQ có nội dung “ Về việc ban

hành quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương

mại”, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 6 năm 2009, quy định thủ tục hải quan được

thực hiện theo 4 bước cụ thể như sau:

Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra điều kiện và đăng ký tờ khai; kiểm tra hồ

sơ và thông quan đối với lô hàng miễn kiểm tra thực tế hàng hóa

Công chức hải quan tiếp nhận hồ sơ hải quan, nhập mã số doanh nghiệp,

kiểm tra điều kiện đăng kí tờ khai, nhập các thông tin vào hệ thống quản lí rủi ro,

đăng kí tờ khai, ký, đóng dấu “Cán bộ đăng kí tờ khai” trên tờ khai, in lệnh hình

thức, mức độ kiểm tra hải quan; tiến hành kiểm tra sơ bộ hồ sơ hải quan theo qui

định, ghi kết quả kiểm tra và ý kiến đề xuất vào lệnh. Công chức tiếp nhận chuyển

bộ hồ sơ cho lãnh đạo chi cục. Lãnh đạo chi cục nghiên cứu duyệt lệnh hình thức,

mức độ kiểm tra hải quan theo 1 trong 3 mức mà hệ thống quản lí tự động phân

luồng đưa ra hoặc quyết định khác do có những nghi ngờ hoặc cần kiểm tra ngẫu

nhiên. Tùy thuộc vào phê duyệt của Lãnh đạo chi cục trên lệnh hình thức, công

chức hải quan ở bước 1 nhập thông tin vào hệ thống và xử lí kết quả.

* Mức kiểm tra sơ bộ hồ sơ hải quan: công chức tiếp nhận hồ sơ chấp nhận

khai báo của doanh nghiệp, đóng dấu “xác nhận đã làm thủ tục hải quan” và

chuyển hồ sơ hải quan cho công chức bước 3.

* Mức kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa:

công chức bước 1 tiến hành kiểm tra chi tiết hồ sơ bao gồm phải kiểm tra nội dung

khai, kiểm tra số lượng, chủng loại giấy tờ thuộc hồ sơ, tính đồng bộ giữa các

chứng từ… và đặc biệt chú ý kiểm tra tên mã hàng, xuất xứ hàng hóa và trị giá

tính thuế. Kết thúc kiểm tra, công chức phải ghi kết quả kiểm tra và đề xuất xử lí

kết quả kiểm tra hồ sơ vào lệnh kiểm tra.

- Nếu kết quả kiểm tra phù hợp, công chức hải quan đóng dấu “xác nhận đã

làm thủ tục hải quan” và chuyển hồ sơ hải quan cho công chức bước 3.

- Trường hợp có căn cứ, có lý do xác đáng, công chức có thể đề xuất lãnh

đạo thay đổi hình thức, mức độ kiểm tra và ghi cụ thể vào lệnh hình thức.

* Mức kiểm tra thực tế hàng hóa: công chức hải quan bước 1 tiến hành

kiểm tra chi tiết hồ sơ như qui định sau đó kiểm tra chi tiết, ghi kết quả kiểm tra và

đề xuất cụ thể mức độ kiểm tra hàng hóa 5%, 10% (mức 1) hoặc là kiểm tra toàn bộ

hàng hóa(mức 2) trên lệnh hình thức, chuyển hồ sơ cho công chức bước 2.

Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hóa và thông quan đối với lô hàng phải kiểm

tra thực tế:

Lãnh đạo chi cục quyết định công chức kiểm tra thực tế hàng hóa. Công

chức hải quan bước 2 nhận hồ sơ hải quan đã được kiểm tra chi tiết, kiểm tra nội

dung khai bổ sung và đề xuất ý kiển về nội dung khai bổ sung, trình lãnh đạo chi

cục xét duyệt. Căn cứ vào phê duyệt của lãnh đạo, công chức ghi kết quả tiếp nhận

hồ sơ khai bổ sung và ký tên, đóng dấu công chức vào bản khai bổ sung. Sau đó,

công chức được phân công tiến hành kiểm tra hàng hóa với cách thức và nội dung

như sau:

* Kiểm tra tình trạng bao bì, niêm phong hàng hóa, nhãn mác, kí mã hiệu,

quy cách đóng gói…

* Kiểm tra thực tế hàng hóa theo hướng dẫn tại lệnh hình thức, mức độ

kiểm tra (kiểm tra số lượng, chất lượng, chủng loại, kiểm tra phân loại, xuất xứ…)

* Kiểm tra xong, công chức hải quan ghi kết quả kiểm tra theo qui định cụ

thể và kết luận kiểm tra vào lệnh hình thức và tờ khai hải quan.

- Nếu kết quả kiểm tra thực tế phù hợp, công chức kí, đóng dấu công chức

“xác nhận đã làm thủ tục hải quan” và chuyển hồ sơ cho công chức bước 3.

- Nếu phát hiện có sai lệch, công chức bước 2 đề xuất các biện pháp xử lí,

trình lãnh đạo chi cục xem xét, quyết định, kiểm tra tính thuế và ra quyết định ấn

định thuế, lập biên bản chứng nhận hoặc biên bản vi phạm, quyết định thông quan

hay xử lí theo qui định của pháp luật.

Bước 3: Thu thuế, lệ phí hải quan, đóng dấu “Đã làm thủ tục hải quan”;

trả tờ khai cho người khai hải quan

Công chức hải quan bước 3, sau khi nhận được hồ sơ hải quan từ công chức

bước 1 hoặc bước 2, căn cứ vào kết quả kiểm tra trên lệnh hình thức và tờ khai hải

quan, tiến hành thu thuế và lệ phí hải quan theo qui định; đóng dấu “Đã làm thủ

tục hải quan” ; vào sổ theo dõi và trả tờ khai hải quan cho người khai. Nếu không

có vướng mắc gì công chức bước 3 chuyển hồ sơ hải quan cho công chức bước 4.

Bước 4:Phúc tập hồ sơ

Thực hiện theo qui trình phúc tập hồ sơ do Tổng cục hải quan quyết định.

Qui trình thông quan 1171 có thể khái quát theo sơ đồ như sau:

KHÁCH HÀNG

Bước 1

Mức kiểm tra sơ bộ hồ sơ. Chấp nhận khai báo phù hợp với kiểm tra sơ bộ. Đóng dấu “Xác nhận đã làm thủ tục hải quan”

Bước 4 Phúc tập hồ sơ

Bước 2: Kiểm tra thực tế

Bước 3 Thu thuế, lệ phí. Đóng dấu “Đã làm thủ tục”. Vào sổ theo dõi, Trả tờ khai

Mức kiểm tra chi tiết hồ sơ: Kiểm tra giá, mã số, xuất xứ và các yêu cầu khác. Đóng dầu “Xác nhận đã làm thủ tục hải quan”

Đề xuất khai bổ sung Kiểm tra thực tế hàng hóa Ghi kết quả và kết luận Xử lý kết quả kiểm tra

Tiếp nhận hồ sơ, đăng kí tờ khai, đóng dấu “cán bộ đăng kí tờ khai”, in lệnh hình thức

Đóng dấu “Xác nhận đã làm thủ tục hải quan”

Mức kiểm tra thực tế hàng hóa.Kiểm tra chi tiết hồ sơ:giá, mã số, xuất xứ…Đề xuất cụ thể mức độ kiểm tra thực tế hàng hóa.

Kết quả kiểm tra sai lệch

Duyệt, quyết định lệnh hình thức

Xử lí kết quả kiểm tra sai lệch

Lãnh đạo chi cục

Hệ thống quản lí rủi ro

Theo Nghị định số 154/2005/NĐ-CP do Chính phủ ban hành về “Quy định

chi tiết một số điều về Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải

quan”, một số qui định chung khi làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan

đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh như sau:

- Phương tiện vận tải khi xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam

phải làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nơi phương tiện vận tải đó xuất cảnh, nhập

cảnh, quá cảnh. Khi làm thủ tục hải quan, nếu cơ quan hải quan phát hiện có dấu

hiệu vi phạm pháp luật, thì người điều khiển phương tiện vận tải phải thực hiện các

yêu cầu của cơ quan hải quan để kiểm tra, khám xét theo qui định của pháp luật.

- Cảng vụ, sân bay, cảng biển, ga đường sắt liên vận quốc tế có trách nhiệm

thông báo trước cho Chi cục hải quan cửa khẩu các thông tin qui định tại Điều 56

Luật Hải quan. Các tổ chức vận tải có trách nhiệm cung cấp cho Chi cục hải quan

cửa khẩu các thông tin về hàng hóa, hành khách, tổ lái, người làm việc trên các

phương tiện vận tải và các thông tin khác có liên quan đến công tác quản lí phương

tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của cơ quan hải quan.

- Các thông tin qui định tại khoản 2 Điều này được cung cấp bằng văn bản

hoặc qua máy tính được nối mạng trực tiếp với Chi cục hải quan.

- Phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh chịu sự giám sát hải

quan qui định tại Điều 13 Nghị định này.

Ngoài các qui định chung được nêu ở trên, tùy theo loại hình phương tiện

vận tải được lưu thông mà qui định về thời gian thông quan cũng như hoàn thành

thủ tục hải quan có sự khác nhau. Nhân viên làm thủ tục hải quan phải nắm rõ được

qui định đối với từng loại hình để xác định điều kiện và yêu cầu công việc đặt ra.Cụ

thể:

- Đối với tàu biển xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển cảng: người khai

hải quan phải khai và nộp hồ sơ hải quan trong thời hạn sau:

(i) Chậm nhất hai giờ đối với tàu biển nhập cảnh, kể từ khi tàu đã vào neo

đậu an toàn tại vị trí theo chỉ định của Giám đốc Cảng vụ hàng hải.

(ii)Chậm nhất hai giờ trước khi tàu rời cảng đối với tàu biển xuất cảnh.

Riêng tàu khách và tàu chuyên tuyến, thời gian chậm nhất là ngay trước thời điểm

tàu chuẩn bị rời cảng.

(iii)Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn trên có thể thay đổi, nhưng

thuyền trưởng phải thông báo bằng văn bản cho Chi cục Hải quan cảng biết trước ít

nhất 30 phút.

- Đối với tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển cảng: chậm nhất ba

giờ trước khi tàu bay nhập cảnh và trước khi cơ quan hàng không hoàn thành thủ

tục hàng không cho hành khách xuất cảnh và hàng hóa xuất cảnh, tổ chức vận tải

hàng không có trách nhiệm cung cấp cho cơ quan hải quan các thông tin về hàng

hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, chuyển cảng; hành lý ký gửi; danh sách hành

khách; danh sách tổ lái và nhân viên làm việc trên tàu bay.Thủ tục đối với tàu bay

xuất cảnh, nhập cảnh quốc tế có kết hợp vận chuyển nội địa thực hiện như đối với

tàu bay chuyển cảng. Trên chuyến bay có hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu thuộc loại

hình nào thì phải thực hiện thủ tục hải quan theo qui định đối với loại hình

đó.Trường hợp tàu bay vận chuyển nội địa kết hợp với vận chuyển hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu; hãng vận chuyển phải sắp xếp hàng hóa, hành lý xuất khẩu, nhập

khẩu tại vị trí riêng biệt trong khoang hầm hàng để đảm bảo việc niêm phong hải

quan.

- Đối với tàu liên vận quốc tế nhập cảnh, xuất cảnh bằng đường sắt: ngay sau

khi tàu nhập cảnh đến ga liên vận biên giới, trưởng tàu hoặc người đại diện nộp cho

chi cục hải quan cửa khẩu ga liên vận biên giới những giấy tờ sau:bản kê hàng hóa

nhập khẩu hoặc bản lược khai hàng hóa nhập khẩu, vận tải đơn, giấy giao tiếp toa

xe, danh sách hành khách và phiếu gửi hành lí không mang theo người của hành

khách, bản trích lược khai hàng hóa dỡ xuống từng ga liên vận nội địa. Ngay sau

khi tàu chuyên chở hàng hóa đến ga liên vận nội địa, trưởng tàu hoặc người đại diện

hợp pháp nộp cho Chi cục hải quan cửa khẩu ga liên vận nội địa: các giấy tờ còn

nguyên niêm phong của Chi cục Hải quan cửa khẩu ga liên vận biên giới,giấy giao

tiếp toa xe, giấy giao tiếp hàng quá cảnh. Trước khi tàu chuyên chở hàng hóa xuất

khẩu rời ga liên vận nội địa, trưởng tàu hoặc người đại diện hợp pháp nộp cho Chi

cục hải quan cửa khẩu ga liên vận nội địa những giấy tờ sau: bản xác báo thứ tự lập

tàu, lược khai hàng hóa xuất khẩu, vận tải đơn, giáo giao tiếp hàng quá cảnh. Khi

tàu chuyên chở hàng hóa xuất khẩu tới ga liên vận biên giới, trưởng tàu hoặc người

đại diện hợp pháp nộp cho Chi cục Hải quan cửa khẩu ga liên vận biên giới: các

giấy tờ đã được Chi cục Hải quan cửa khẩu ga liên vận nội địa niêm phong, tờ khai

thành phần đoàn tàu, danh sách và tờ khai hành lý của tổ lái và những người làm

việc ở trên tàu,bản kê khai hàng hóa xuất khẩu, kể cả hàng quá cảnh, giấy giao tiếp

toa xe, danh sách hành khách và phiếu gửi hành lí không mang theo người của hành

khách.

- Đối với ô tô xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh: phải đỗ đúng nơi quy định để

làm thủ tục hải quan. Người khai hải quan phải khai báo và nộp cho cơ quan hải

quan những giấy tờ sau: giấy phép xuất cảnh, nhập cảnh;tờ khai hải quan đối với ô

tô xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, tờ khai

hành lí xuất khẩu, nhập khẩu của lái xe; danh sách hành khách và tờ khai hành lí

của hành khách.

Thực hiện thủ tục hải quan điện tử đối với nhiều loại hình hàng hóa

xuất nhập khẩu, phương tiện, hành khách xuất nhập cảnh thông qua các địa bàn

trọng điểm trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lí rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin,

viễn thông và các trang thiết bị khác với một số đặc trưng cơ bản như hầu hết khai

hải quan với hàng xuất nhập khẩu, xử lí hồ sơ thông qua mạng máy tính; hệ thống

phân luồng tự động trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro, thiết bị kết nối trao đổi dữ

liệu điện tử với các hãng vận chuyển, cảng vụ, sân bay, đại lí hải quan, kho bạc,

ngân hàng, các cơ quan cấp phép để tiếp nhận thông tin về phương tiện vận tải,

hành khách trước khi nhập cảnh.

Trong những năm tới, thời gian thông quan của cơ quan hải quan sẽ quyết

tâm rút ngắn xuống còn 30 phút. Nhưng thời gian này còn phải phụ thuộc rất nhiều

vào việc tuân thủ các qui định về thủ tục hải quan của tổ chức giao nhận vận tải. Vì

vậy, dịch vụ hải quan phải cung cấp đầy đủ các giấy tờ yêu cầu cho từng loại hình

vận tải, đồng thời phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và đồng bộ của các giấy

tờ trên. Nếu nhân viên hải quan có thể thực hiện tốt khâu thủ tục này, thời gian cung

cấp của dịch vụ vận tải sẽ tăng nhanh, nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp

giao nhận vận tải, đồng thời rút ngắn thời gian cung ứng nguyên vật liệu cho nhà

máy cũng như tiêu thụ hàng hóa trên thị trường, thúc đẩy thương mại quốc tế phát

triển. Song song với việc mở rộng hoạt động phạm vi của dịch vụ giao nhận vận tải,

phương thức vận tải đa phương thức đang được chú trọng đầu tư trong thời gian gần

đây. Tình hình này đặt ra cho các đại lí hải quan những yêu cầu mới. Thủ tục hải

quan không những phải được thực hiện nhanh chóng mà quan trọng hơn, là sự

thông suốt khi thông quan giữa những phương tiện vận tải khác nhau. Mặt khác, cơ

quan hải quan đang chuyển dần từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” nên vấn đề giấy tờ

hành chính có liên quan phải được khai báo và lưu giữ một cách cẩn thận và khoa

học. Nhìn chung ,tốc độ thực hiện thủ tục hải quan của các đại lí hải quan có tác

động trực tiếp đến tốc độ cung cấp của dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa.

1.2.3. Năng lực và đạo đức cán bộ, nhân viên hải quan

Trong khi khối lượng hàng hóa và phương tiện vận tải cần làm thủ tục hải

quan đang tăng nhanh thì năng lực của cán bộ, nhân viên hải quan chưa được phù

hợp để đáp ứng cho tình hình mới. Xét về các đại lí hải quan, nhiều doanh nghiệp

làm dịch vụ khai thuê cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhưng không ký tên đóng

dấu trên tờ khai, vì còn e ngại trách nhiệm pháp lý. Phần lớn các đại lý thủ tục hải

quan chưa có kế hoạch cụ thể về việc mở rộng hoạt động vì nhân viên hải quan

mỏng về số lượng và yếu về chất lượng. Trình độ nghiệp vụ của nhân viên đại lý

thủ tục hải quan chưa thực sự đồng đều, chưa cập nhật chính sách, nắm vững kiến

thức cơ bản, quy trình liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, như về mã hàng

hóa, giá tính thuế và công tác thanh khoản trong các hợp đồng gia công, sản xuất

xuất khẩu. Ngoài ra, một số nhân viên đại lí hải quan từ các ngành nghề khác

chuyển sang nên phải mất một thời gian học tập kinh nghiệm và trau dồi kiến thức.

Bên cạnh sự thiếu thốn về kiến thức nghiệp vụ, nhân viên đại lí hải quan chưa có

tinh thần phục vụ doanh nghiệp. Nhiều nhân viên đại lí còn bắt tay với cán bộ hải

quan, khai khống mức phí ngoài luồng để kiếm thêm thu nhập. Trái lại, một số đại lí

hải quan lại cho rằng, quy định để trở thành nhân viên đại lí hải quan phải có bằng

trung cấp chính quy về kinh tế và luật là còn khá khắt khe và không phù hợp với bối

cảnh hiện nay. Chính qui định này đã cản trở kế hoạch mở rộng hoạt động của các

doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hải quan.

Xét về nguồn nhân lực trong ngành hải quan, cũng xuất hiện nhiều vấn đề

bất cập. Tỉ lệ kiểm tra viên cao cấp còn quá thấp trong khi nhân viên hải quan lại

chiếm phần lớn. Trong đó, nhiều nhân viên hải quan chỉ có trình độ trung cấp nên

năng lực còn hạn chế. Qui trình làm thủ tục hải quan chỉ mới được hiện đại hóa tại

một số điểm và Chi cục hải quan nên công việc thủ công của nhân viên,cán bộ hải

quan là chủ yếu. Chính điều này nảy sinh thái độ quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ

phận trong ngành. Nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra xuất phát từ ý thức và thái độ

thiếu tinh thần phục vụ của nhân viên, cán bộ hải quan làm cho quá trình thông

quan hàng hóa xuất nhập khẩu và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh phải đội thêm

chi phí hoặc tốn thêm nhiều thời gian. Từ đây, Tổng cục hải quan đã đề xuất nhiều

biện pháp để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên hải quan. Thứ nhất,

xây dựng cơ chế quản lý đào tạo, tổ chức đào tạo thống nhất; xây dựng chương trình

đào tạo trọng điểm theo chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm

nhiệm đủ trình độ đảm đương công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức toàn

ngành; xây dựng Trường Hải quan Việt Nam từng bước chính quy và hiện đại; phát

triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo. Thứ hai, áp dụng công nghệ thông tin

vào giải quyết các thủ tục hải quan, nâng cấp phần mềm cho phù hợp với quy định

mới, giảm bớt công việc thủ công của cán bộ, nhân viên hải quan. Tại các đơn vị hải

quan địa phương cũng đã cài đặt phần mềm thông quan điện tử và thực hiện đào tạo

cho cán bộ hải quan và doanh nghiệp làm quen với phương thức xử lý thông tin trên

hệ thống mới. Ngoài ra, Tổng cục Hải quan cũng cử các tổ công tác hỗ trợ triển khai

để giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Để chuẩn

bị hạ tầng kỹ thuật phục vụ triển khai thủ tục hải quan điện tử, ngành hải quan đang

nâng nấp, bổ sung thiết bị, đường truyền đảm bảo đủ băng thông và đường dự

phòng để vận hành suôn sẻ. Cùng với đó là triển khai cài đặt phần mềm thông quan

điện tử, bao gồm cả đào tạo cán bộ hải quan và doanh nghiệp có thể vận hành tốt

phương thức xử lý thông tin trên hệ thống thông quan điện tử. Cùng với việc triển

khai mở rộng thủ tục hải quan điện tử, ngành sẽ triển khai nâng cấp các hệ thống

ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng việc thay đổi quy trình nghiệp vụ hải quan

tiếp tục áp dụng khai báo từ xa tại các đơn vị chưa mở rộng thủ tục hải quan điện

tử.. Thứ ba, tổ chức và phát động nhiều phong trào xây dựng thái độ thân thiện và ý

thức kỉ luật trong đội ngũ cán bộ, nhân viên hải quan, tạo thuận lợi cho các doanh

nghiệp khi đến tiến hành các thủ tục hải quan. Nâng cao một cách toàn diện kiến

thức nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của nhân viên, cán bộ hải quan. Một khi

chất lượng đội ngũ nhân sự trong ngành đã được đảm bảo, hoạt động thông quan

hàng hóa sẽ được dễ dàng và thuận lợi hơn.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận

vận tải trong thương mại quốc tế ở Việt Nam

1.3.1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng

- Việt Nam có vị trí địa lí vô cùng thuận lợi cho việc thông thương với các

bạn bè quốc tế.Đường biên giới đường bộ kéo dài 4.550km tiếp giáp với Trung

Quốc ở phía Bắc; tiếp giáp với Lào và Campuchia ở phía Nam. Chính vì vậy mà

thống kê cho thấy Việt Nam có gần 20 cửa khẩu đường bộ, điển hình như các cửa

khẩu Móng Cái nối với Trung Quốc; cửa khẩu Cha lo nối với Lào; cửa khẩu Mộc

Bài nối với Campuchia. Ngoài ra, có 21 cửa khẩu đường sắt phần lớn dùng để

thông thương với Trung Quốc như cửa khẩu Hùng Quốc, cửa khẩu Thanh Thủy,

cửa khẩu Ngọc Khê... Đã từ lâu, Việt Nam được biết đến như cửa ngõ của Đông

Dương bởi phía Đông giáp biển, chủ yếu mở rộng ra phía đông và đông nam với

đường bờ biển trải dài hơn 3000km, tạo điều kiện cho tàu thuyền từ các nơi trên thế

giới neo đậu và giao thương buôn bán.

- Địa hình Việt Nam đa dạng, bao gồm đồi núi, đồng bằng, biển và thềm lục

địa, dễ dàng cho phát triển các loại hình dịch vụ vận tải. Nhiều hệ thống giao thông

đường bộ, đường sắt, đường thủy đã được xây dựng và tu bổ hàng năm. Hệ thống

giao thông đường bộ chính ở Việt Nam bao gồm các con đường quốc lộ, nối liền

các vùng, các tỉnh cũng như đi đến các của khẩu quốc tế với Trung Quốc, Lào,

Campuchia. Toàn bộ các tuyến đường quốc lộ có tổng chiều dài khoảng 17.300 km,

trong đó gần 85% đã tráng nhựa. Ngoài các đường quốc lộ còn có các đường tỉnh

lộ, nối các huyện trong tỉnh, huyện lộ nối các xã trong huyện. Các tuyến tỉnh lộ có

tổng chiều dài khoảng 27.700 km, trong đó hơn 50% đã tráng nhựa. Hệ

thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài khoảng 2600 km, trong đó tuyến

đường chính nối Hà Nội – TP.HCM dài 1726 km, toàn ngành có 302 đầu máy,

1063 toa tàu chở khách và 4986 toa tàu chở hàng. Đối với vận tải đường biển, hiện

nay nước ta đã xây dựng được hơn 260 cảng, trong đó có 16 cảng quốc tế như cảng

Sài Gòn, cảng Cái Lân, cảng Hải Phòng... Trong những năm gần đây, nước ta còn

chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển các cảng biển nước sâu, phục vụ cho những

tàu có trọng tải lớn, khối lượng hàng hóa nhiều. Bên cạnh lợi thế về đường biển, hệ

thống sông ngòi dày đặc (với 2360 con sông dài trên 10 km) chảy theo 2 hướng tây

bắc- đông nam và hướng vòng cung là một yếu tố thúc đẩy vận tải đường thủy nội

địa phát triển. Loại hình dịch vụ vận tải hàng không cũng được quan tâm với nhiều

cửa khẩu quốc tế đường hàng không, trong đó nổi bật lên cửa khẩu hàng không

quốc tế Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng…Nhờ đặc điểm đa dạng về địa hình mà

phương thức giao nhận vận tải đa phương thức rất có tiềm năng phát triển ở Việt

Nam.

1.3.2. Cơ chế, chính sách thương mại

Dưới tác động của toàn cầu hóa, Việt Nam đang hội nhập một cách tích cực

với nền kinh tế thế giới. Hiện nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên

170 nước, có quan hệ thương mại với hơn 160 nước và vùng lãnh thổ, tham gia 86

hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 46 hiệp định chống đánh thuế

2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 80 nước, tham gia vào nhiều tổ

chức kinh tế khu vực và thế giới. Trong các hoạt động thương mại quốc tế, cơ sở

pháp lí chung là các hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa bao gồm GATT

1994 và các hiệp định đi kèm với nước ngoài về các vấn đề nông nghiệp, kiểm dịch

động, thực vật, hàng rào kĩ thuật, trị giá hải quan, giám định hàng hóa trước khi

xuống tàu, quy tắc xuất xứ, cấp phép nhập khẩu… Các hiệp định này có chung mục

tiêu là tạo ra một hệ thống thương mại tự do và mở cửa.

Bên cạnh tham gia các hiệp định thương mại quốc tế, Việt Nam đang

dần thay đổi các chính sách thương mại nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu

hàng hóa, từ đó mở cửa cho dịch vụ giao nhận vận tải ngày càng phát triển. Các

công cụ chính sách thương mại được điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới cho phù

hợp với cơ chế kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế của Việt Nam.Năm 1998

Việt Nam ban hành Luật thuế xuất nhập khẩu đầu tiên. Biểu thuế của Việt Nam

được hoàn thiện năm 1991 và bắt đầu được hài hoà hoá theo hệ thống HS năm

1992. Và năm 2003 đã có ban hành Biểu thuế mới tuân thủ theo nguyên tắc phân

loại hồ sơ của tổ chức Hải quan thế giới (WCO) và sau khi gia nhập WTO, Việt

Nam đã có biểu thuế phù hợp với cam kết khi gia nhập WTO. Việt Nam đã đẩy

nhanh thuế hoá các hàng rào phi thuế như xoá bỏ dần hạn chế định lượng đối với

các mặt hàng nhạy cảm chuyển sang hình thức bảo hộ bằng hạn ngạch thuế quan và

các biện pháp chống bán phá giá, xoá bỏ phụ thu, cắt giảm thuế suẩt, tiến tới bảo hộ

duy nhất bằng thuế nhập khẩu. Việt Nam cam kết áp dụng, phân bổ và quản lý hạn

ngạch thuế quan một cách minh bạch, không phân biệt đối xử và tuân thủ các quy

định của WTO. Việt Nam cam kết sẽ miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

trên cơ sở không phân biệt đối xử và sẽ không gắn việc miễn, giảm thuế nhập khẩu

trên cơ sở không phân biệt đối xử và sẽ không gắn việc miễn, giảm thuế đối với các

yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hoá (bởi việc miễn, giảm thuế xuất khẩu và thuế

nhập khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hoá bị coi là trợ cấp và

bị cấm theo quy định của WTO)…Khi gia nhập WTO, WTO yêu cầu Việt Nam

giảm thuế nhập khẩu, Việt Nam cam kết giảm thuế mức bình quân từ mức hiện

hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình

quân hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện

trong khoảng 5 năm. Mức thuế bình quân hàng công nghiệp giảm từ 16,8% xuống

12,6% thực hiện trong vòng từ 5-7 năm.

Đặc biệt, chính sách tạo tính đột phá cho hoạt động xuất nhập khẩu là chính

sách mở quyền tham gia hoạt động thương mại quốc tế cho các doanh nghiệp. Có

thể nói, chính sách mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh

nghiệp, kể cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân, đồng thời xóa bỏ chế độ Nhà

nước độc quyền ngoại thương, xóa bỏ các đầu mối độc quyền xuất nhập khẩu của

Nhà nước được coi là một mốc son cho quá trình cải cách chính sách thương mại

Việt Nam. Quyền kinh doanh ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thời kinh

tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ có một số ít Tổng công ty, công ty Nhà nước chuyên

doanh xuất nhập khẩu được phép tham gia hoạt động ngoại thương. Từ hàng chục

năm nay, quyền kinh doanh được mở rộng. Nhà nước cho phép mọi doanh nghiệp

trong nước có giấy phép kinh doanh mà không cần có giấy phép xuất nhập khẩu.

Sau đó, năm 2001, Nhà nước lại cho phép thương nhân (công ty và cá nhân) được

xuất nhập khẩu hầu hết các mặt hàng không phụ thuộc vào ngành hàng đã đăng ký

ngoại trừ các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu theo giấy phép và hàng hoá thuộc diện

quản lý của các Bộ chuyên ngành. Kể từ khi gia nhập WTO, Nhà nước Việt Nam

dành quyền kinh doanh đầy đủ cho tất cả các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài (

kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) không muộn hơn ngày

01/01/2007, ngoại trừ đối với một số sản phẩm chịu sự điều chỉnh của cơ chế

“Thương mại Nhà nước” ( như xăng, dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo,

tạp chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời

gian chuyển đổi (như gạo phải tới ngày 1/1/2011) và doanh nghiệp nói trên bao gồm

quyền được bán sản phẩm nhập khẩu cho mọi cá nhân hoặc doanh nghiệp có quyền

phân phối sản phẩm đó tại Việt Nam. Doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không

có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam phù

hợp thông lệ quốc tế. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng trên tờ khai hải quan

để làm thủ tục xuất nhập khẩu không bao gồm quyền phân phối trong nước. Trong

đàm phán gia nhập WTO, đại diện của Việt Nam lưu ý rằng để có quyền nhập khẩu,

các cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ sơ

không bắt buộc phải đầu tư ở Việt Nam, dù chỉ ở mức tối thiểu, mà chỉ cần làm thủ

tục đăng ký (chủ yếu làm mục đích hành chính). Cam kết về quyền kinh doanh tại

Việt nam, Việt Nam sẽ áp dụng cho tất cả các thành viên WTO trên cơ sở nguyên

tắc MFN. Việc cho phép quyền kinh doanh không ảnh hưởng tới quyền của Chính

phủ Việt Nam áp dụng hoặc thực thi các yêu cầu về hải quan hoặc thuế phù hợp với

WTO cũng như áp dụng hoặc thực thi các quy định phù hợp với các điều khoản liên

quan trong Hiệp định WTO và với các cam kết gia nhập WTO của Việt nam, ví dụ

như các quy định liên quan tới cấp phép nhập khẩu, thương mại Nhà nước, hàng rào

kỹ thuật đối với thương mại hoặc các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật.

Từ những thay đổi về chính sách kể trên, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng

hóa tăng lên mỗi năm, chứng tỏ khối lượng hàng hóa lưu thông là rất lớn, tạo ra

nhiều cơ hội cho dịch vụ giao nhận vận tải. Dịch vụ giao nhận vận tải càng phải

phát triển để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa tăng cao từ các nhà sản xuất

nước ngoài, các đại lí phân phối đến tay người tiêu dùng. Nhiều hãng giao nhận vận

tải ra đời hoặc chuyển đổi ngành nghề kinh doanh sang giao nhận tạo ra thế cạnh

tranh trong ngành, làm giảm biểu giá cung cấp dịch vụ. Không những thế, các nhà

cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải còn phải không ngừng đổi mới công nghệ,

phương tiện và cách thức phục vụ để đáp ứng được yêu cầu về khối lượng hàng hóa

vận chuyển lớn và thời gian vận chuyển ngắn. Cùng với đó, dịch vụ hải quan cũng

phải đổi mới và ngày càng hoàn thiện để theo kịp với sự phát triển của dịch vụ giao

nhận vận tải, hỗ trợ cho công tác xuất, nhập khẩu hàng hóa đúng thời gian và đúng

địa điểm yêu cầu.

1.3.3. Nguồn nhân lực

Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, với dân số hơn 87 triệu dân với cơ

cấu vàng, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động nhiều hơn số người trong độ tuổi

ăn bám phụ thuộc. Người lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, sáng tạo,

nắm bắt và vận dụng nhanh công nghệ kĩ thuật tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên, lao

động Việt Nam vẫn còn hạn chế là thiếu kĩ năng và chưa được đào tạo một cách bài

bản. Đây là một vấn đề có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực

dịch vụ nói riêng.

Đối với dịch vụ hải quan và giao nhận vận tải, nhất là giao nhận vận tải quốc

tế, yêu cầu đặt ra đối với nhân sự là hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực có liên

quan đến yếu tố nước ngoài như luật pháp quốc tế, cơ chế chính sách thương mại

của các khu vực kinh tế, tập quán của từng nước…nên thành thạo ngoại ngữ và

công nghệ thông tin là những điều kiện căn bản. Nhưng nguồn lao động nước ta

phần lớn xuất thân từ nông thôn, không có điều kiện kinh tế để hoàn thiện những kĩ

năng này. Các trường dạy nghề và đại học hiện nay chưa đầu tư một cách thỏa đáng

vào lực lượng giảng dạy và thiết bị hạ tầng. Nhân viên làm về lĩnh vực xuất nhập

khẩu gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với nguồn thông tin từ nước ngoài cũng như

quan hệ làm ăn với các với các đối tác nước ngoài, làm giảm hiệu quả của công

việc. Bên cạnh đó, những dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu như dịch vụ hải

quan và dịch vụ giao nhận vận tải là những lĩnh vực ngành nghề còn khá mới mẻ

đối với thị trường Việt Nam, quy trình nghiệp vụ và văn bản pháp luật ban hành còn

chưa hoàn thiện và thay đổi theo từng thời kì. Người lao động không những phải am

hiểu và vận dụng khéo léo kiến thức đã có mà còn phải không ngừng bổ sung và

thành thục những nghiệp vụ mới.Thế nhưng, một thực tế đáng buồn đặt ra hiện nay

là các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại nhân viên sau quá trình tuyển dụng bởi

kiến thức đã học thường lỗi thời và không áp dụng được trong khi thương mại quốc

tế đổi mới từng ngày.Hơn nữa, người lao động Việt Nam thường không được đào

tạo bài bản khi còn ngồi trên ghế nhà trường vì phần lớn kiến thức học được là lí

thuyết, ít trải nghiệm thực tế nên kinh nghiệm không có nhiều. Ngoài ra, những kĩ

năng mềm cần thiết cho quá trình làm việc, điển hình như làm việc theo nhóm, đối

với nhiều người lao động Việt Nam còn khá lạ lẫm và chưa được vận dụng một

cách triệt để. Chính yếu tố thiếu đào tạo bài bản cho nguồn nhân sự như vậy đã tác

động không nhỏ đến dịch vụ hải quan cũng như dịch vụ giao nhận vận tải. Những

doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ này đang thiếu lao động chuyên nghiệp một

cách trầm trọng. Sự thiếu hụt này dẫn đến một kết quả tất yếu là giảm hiệu quả công

việc cũng như hiệu quả kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ.

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN VỚI DỊCH VỤ

GIAO NHẬN VẬN TẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Giới thiệu về Viện Nghiên cứu thương mại

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Viện Nghiên cứu thương mại

Viện Nghiên cứu thương mại là đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học

trực thuộc Bộ Công thương (trước đây là Bộ Thương mại), nằm trong hệ thống các

viện nghiên cứu khoa học quốc gia được thành lập theo Quyết định số 721/TTg của

Thủ tướng Chính phủ ngày 8/11/1995 trên cơ sở hợp nhất Viện Kinh tế kỹ thuật

thương mại và Viện Kinh tế đối ngoại mà tiền thân là:

- Viện Kinh tế kỹ thuật thương nghiệp (1971-1972)

- Viện Khoa học kỹ thuật và Kinh tế vật tư (1983-1992)

- Viện Kinh tế đối ngoại (1982-1995)

- Viện Kinh tế kỹ thuật thương mại (1992-1995)

Viện nghiên cứu thương mại có chức năng nghiên cứu những vấn đề khoa

học thương mại như chiến lược và quy hoặc phát triển thương mại, chính sách và cơ

chế phát triển thương mại, nghiên cứu tình hình thị trường trong nước và quốc tế,

dự báo xu hướng phát triển của thị trường hàng hóa và dịch vụ thế giới cũng như

của Việt Nam, nghiên cứu các vấn đề về thương mại liên quan đến môi trường, hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam…tổ chức đào tạo trên đại học, đào tạo và bồi

dưỡng về nghiệp vụ, nâng cao trình độ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, thông tin

thương mại.

Nhiệm vụ của Viện nghiên cứu thương mại bao gồm:

- Nghiên cứu các luận cứ khoa học phục vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch

phát triển thương mại và thị trường

- Nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lí thương mại

- Nghiên cứu kinh tế và thương mại thế giới, các tổ chức kinh tế và thương

mại quốc tế và các vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại của Việt Nam

- Nghiên cứu và dự báo về thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ trong

nước và quốc tế.

- Nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

- Nghiên cứu những vấn đề về thương mại liên quan đến môi trường của Việt

Nam

- Tổ chức đào tạo trên đại học chuyên ngành kinh tế thương mại

- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn,

công nghệ thông tin và ngoại ngữ cho cán bộ thương mại

- Cung cấp các dịch vụ tư vấn chất lượng cao cho các tổ chức, doanh nghiệp

và cá nhân cả trong và ngoài nước về những lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của

viện.

- Hợp tác nghiên cứu, đào tạo và trao đổi thông tin khoa học thương mại với

các tổ chức nghiên cứu, các trường đại học, các nhà khoa học trong và ngoài nước.

Trên 40 năm hình thành và phát triển, Viện nghiên cứu thương mại đã hoàn

thành tốt những nhiệm vụ đặt ra và có nhiều thành tựu nổi bật trong nhiều lĩnh vực

như sau:

- Về nghiên cứu khoa học: kể từ ngày thành lập đến nay, Viện đã tiến hành

nghiên cứu nhiều đề tài, dự án cấp Nhà nước và cấp Bộ, đã nghiên cứu và cung cấp

các luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách và cơ chế quản lí thương mại,

góp phần thúc đẩy sự nghiệp khoa học và công nghệ của ngành thương mại phát

triển.Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về khoa học công nghệ và

thực hiện định hướng chiến lược và kế hoạch khoa học công nghệ 2001-2005 của

Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), thời gian 2001- 2005, Viện Nghiên cứu

thương mại đã thực hiện được 4 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, 1 dự án

cấp Nhà nước, 85 đề tài/dự án khoa học cấp Bộ, khai thác và phối hợp thực hiện

khoảng 30 dự án quy hoạch thương mại và quy hoạch chợ cho các tỉnh/thành phố

trong cả nước. Các đề tài dự án khoa học công nghệ các cấp do Viện thực hiện đã

cung cấp các luận cứ khoa học, thiết thực phục vụ cho việc xây dựng luật pháp, đổi

mới chính sách và cơ chế phát triển thương mại nội địa, phát triển xuất nhập khẩu,

hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển thương mại bền vững gắn với bảo vệ môi

trường… Nhiều quan điểm, chính sách và kiến nghị của Viện đề xuất đã được Đảng

và Nhà nước chấp nhận và được thực tiễn kiểm nghiệm tính khoa học, đúng đắn và

sáng tạo.

- Về đào tạo trên đại học: Viện được giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học theo

Quyết định số 915/TTg ngày 10/12/1996 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định

số 6124/GD-ĐT ngày 27/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, chuyên

ngành đào tạo: Kinh tế, Quản lí và Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, Mã số: 5.02.05.

Thực hiện Quyết định 102/QĐ-BGD&ĐT-ĐH&SĐH của Bộ trưởng Bộ Giáo dục

và Đào tạo ngày 10 tháng 01 năm 2005 về việc chuyển đổi mã ngành đào tạo, từ

ngày 10/01/2005, Viện đào tạo tiến sĩ, chuyên ngành : Thương mại, mã số:

62.34.10.01.Kể từ khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ đào tạo trên đại học năm 1997

đến hết năm 2005, Viện đã thực hiện 8 khóa đào tạo tiến sĩ với tổng số 36 nghiên

cứu sinh, trong đó 13 nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ cấp Nhà

nước, 23 nghiên cứu sinh khác đang tham gia học tập, nghiên cứu tại Viện theo

đúng tiến độ và kế hoạch đặt ra.

- Về công tác thông tin, tư vấn và các công tác khác: Viện là cơ quan tham

vấn của lãnh đạo Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), tư vấn cho các sở

Thương mại (nay là các sở Công thương) trong cả nước trong công tác quy hoạch

phát triển thương mại, xây dựng chiến lược xuất khẩu, tư vấn các vấn đề về chính

sách thương mại và đầu tư của Việt Nam và các nước, các vấn đề về hội nhập kinh

tế quốc tế… cho các doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân cả trong và ngoài

nước. Thư viện ngành thương mại được đặt tại Viện Nghiên cứu thương mại, đang

được hiện đại hóa và điện tử hóa để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu về thông tin

thương mại của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.

- Về hợp tác quốc tế: công tác hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, đào

tạo và trao đổi thông tin của Viện không ngừng được mở rộng. Viện nghiên cứu

thương mại là một địa chỉ tin cậy trong số các thể chế hỗ trợ thương mại (TSIs) của

Việt Nam, là đối tác bình đẳng của Trung tâm Thương mại quốc tế

(ITC/UNCTAD/WTO), Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc),

các viện và các trường đại học của Australia, Ấn Độ, Nga…

2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của các bộ phận trực thuộc Viện Nghiên

cứu thương mại

Tính đến tháng 12/2005, Viện Nghiên cứu thương mại có tổng số 104 cán bộ

nghiên cứu khoa học và viên chức, trong đó lực lượng nghiên cứu khoa học là 82

cán bộ. Cơ cấu đội ngũ cán bộ nghiên cứu và viên chức của Viện hiện nay như sau:

- Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học: 1

- Phó giáo sư, tiến sĩ: 4

- Tiến sĩ: 8

- Thạc sĩ: 13

- Đại học: 56

- Khác: 22

Về cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu thương mại, có thể khái quát

thành sơ đồ như sau:

CÁC PHÓ VIỆN TRƯỞNG

a,Ban Nghiên cứu chiến lược phát triển thương mại:

*Chức năng, nhiệm vụ của Ban:

- Nghiên cứu các luận cứ khoa học phục vụ cho việc xây dựng chiến lược và

qui hoạch phát triển thương mại

- Nghiên cứu xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại các

vùng lãnh thổ, địa phương và quốc gia theo đề tài, dự án khoa học do Bộ hoặc các

cơ quan yêu cầu.

*Cơ cấu tổ chức:

- Cơ cấu tổ chức của Ban gồm 01 trưởng ban, các phó trưởng ban, các nhóm

nghiên cứu.

- Hiện nay, Ban có 11 cán bộ khoa học, trong đó có 02 tiến sĩ, 07 cử nhân và

02 kỹ sư, tổ chức hoạt động nghiên cứu theo 3 nhóm: (i) thương mại và phát triển,

(ii) phát triển thị trường và thương mại quốc tế, (iii) phát triển thị trường và thương

mại trong nước.

b,Ban Nghiên cứu chính sách và cơ chế quản lí thương mại:

* Chức năng, nhiệm vụ của Ban:

- Nghiên cứu về chính sách và cơ chế quản lí thương mại, tiến trình đổi mới

và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lí thương mại để thực hiện nhiệm vụ do Bộ

Công thương và Viện giao

- Nghiên cứu lí luận và phương pháp luận về xây dựng và hoàn thiện chính

sách và cơ chế quản lí thương mại

- Nghiên cứu xác lập luận cứ khoa học trong tiến trình đồi mới và hoàn thiện

chính sách và cơ chế quản lí thương mại.

- Tư vấn và thực hiện các dịch vụ về hoạch định chính sách và cơ chế quản lí

thương mại.

- Nghiên cứu chính sách phát triển thương mại nội địa, thương mại quốc tế

và hội nhập.

*Cơ cấu tổ chức của Ban:

- Hiện nay, Ban nghiên cứu chính sách và cơ chế quản lí thương mại có 09

cán bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có 01 tiến sĩ, 02 thạc sĩ và 06 cử nhân kinh tế

và luật.

- Các nhóm nghiên cứu bao gồm: (i) Chính sách phát triển ngành hàng tư

liệu sản xuất, công nghiệp tiêu dùng, hàng nông sản, (ii)Chính sách hội nhập kinh tế

khu vực và thế giới, (iii)Cơ chế quản lí thương mại, (iv)Chính sách phát triển

thương mại với thị trường ngoài nước, (v)Nghiên cứu lí luận và phương pháp luận

về xây dựng và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lí thương mại.

c,Ban Nghiên cứu thị trường:

* Chức năng, nhiệm vụ của Ban:

- Nghiên cứu các vấn đề về thị trường hàng hóa, dịch vụ, quan hệ cung – cầu,

xu hướng phát triển thị trường trong nước và quốc tế.

- Nghiên cứu và đánh giá các chính sách trong nước và quốc tế đối với từng

mặt hàng, từng thị trường cụ thể.

- Tư vấn về các vấn đề liên quan đến thị trường trong và ngoài nước.

- Là đầu mối phối hợp với các cơ quan hữu quan ngoài Viện nghiên cứu các

vấn đề liên quan đến thương mại, thị trường trong nước và quốc tế.

- Tư vấn thị trường cho các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước.

*Cơ cấu tổ chức:

Ban nghiên cứu thị trường gồm 8 thành viên, trong đó có 1 nghiên cứu viên

chính, 7 nghiên cứu viên, 3 thạc sĩ và 5 cử nhân. Lãnh đạo Ban gồm: trưởng ban và

2 phó trưởng ban. Ban Nghiên cứu thị trường hình thành các nhóm nghiên cứu theo

đối tượng nghiên cứu là thị trường hàng hóa và dịch vụ, các phân nhóm hàng hóa,

dịch vụ; theo khu vực địa lí là thị trường thế giới, thị trường khu vực, thị trường

từng nước và thị trường nội địa.

d,Ban Nghiên cứu thương mại môi trường:

*Chức năng, nhiệm vụ của Ban:

- Nghiên cứu các vấn đề thương mại môi trường liên quan đến hoạt động

thương mại trong nước và quốc tế của Việt Nam.

- Tư vấn về các vấn đề môi trường liên quan đến các hoạt động thương mại

trong nước và quốc tế.

- Là đầu mối trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan ngoài Viện

nghiên cứu các vấn đề thương mại môi trường.

* Cơ cấu tổ chức của Ban:

Ban Nghiên cứu thương mại môi trường gồm có 7 thành viên, 1 trưởng ban

và 1 phó trưởng ban, trong đó có 3 thạc sĩ và 4 cử nhân kinh tế.

e,Phòng Quản lí khoa học và đào tạo:

*Chức năng, nhiệm vụ của Phòng:

Phòng Quản lí khoa học và đào tạo thuộc Viện Nghiên cứu thương mại có

chức năng tham mưu, giúp Viện trưởng về công tác quản lí các hoạt động nghiên

cứu khoa học và đào tạo của Viện.

Phòng Quản lí khoa học và đào tạo có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch nghiên cứu khoa học và đào

tạo của Viện.

- Đề xuất với Viện trưởng phương án tổ chức, bố trí, điều hòa các nguồn lực

để thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học và đào tạo của Viện.

- Chuẩn bị nội dung, tổ chức các cuộc họp của Hội đồng khoa học, hội đồng

đào tạo chuyên ngành để xác định, lựa chọn và đánh giá nội bộ các đề tài nghiên

cứu khoa học các cấp, các đề tài luận án tiến sĩ cũng như đánh giá hiệu quả hoạt

động khoa học – đào tạo của viện.

- Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các đề tài đúng tiến độ và các quy chế về

quản lí khoa học do Nhà nước ban hành.

- Quản lí các hoạt động đào tạo của Viện. Tổ chức và quản lí các khóa đào

tạo sau đại học theo đúng quy chế của Nhà nước.

- Thực hiện các quan hệ công tác với các cơ quan quản lí cấp trên, các tổ

chức và cá nhân trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến công tác quản

lí khoa học và đào tạo của viện.

- Quản lí cán bộ, cơ sở vật chất – kỹ thuật của phòng theo sự phân cấp quản

lí của Viện, lưu trữ hồ sơ liên quan đến công tác quản lí khoa học và đào tạo của

Viện.

- Được sử dụng cơ sở vật chất- kỹ thuật của Viện phục vụ cho các hoạt động

quản lí khoa học và đào tạo; được chủ động khai thác và sử dụng các nguồn kinh

phí hỗ trợ khác ngoài nguồn kinh phí Nhà nước cấp theo hạn mức hàng năm.

* Tổ chức bộ máy của phòng:

- Lãnh đạo phòng: trưởng phòng và 1 phó trưởng phòng

- Các chuyên viên nghiệp vụ

g,Phòng Hợp tác quốc tế:

* Chức năng, nhiệm vụ của Phòng:

- Tổ chức các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, trao đổi

thông tin khoa học, thương mại với các tổ chức nghiên cứu và các nhà khoa học

ngoài nước.

- Nghiên cứu phát triển quan hệ hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế, các

khu vực thị trường và các nước nhằm phát triển thương mại Việt Nam.

- Tổ chức các hoạt động hợp tác nghiên cứu với các tổ chức, các doanh

nghiệp và các nhà khoa học để phát triển hợp tác quốc tế về kinh tế thương mại.

- Tư vấn và thực hiện các dịch vụ nghiên cứu hợp tác quốc tế.

* Cơ cấu tổ chức của Phòng:

- Lãnh đạo phòng: 1 trưởng phòng

- Các nhóm công tác: (i) Nghiên cứu phát triển quan hệ hợp tác quốc tế với

các tổ chức quốc tế và các viện khoa học khu vực châu Á – Thái Bình Dương bao

gồm các nước và các tổ chức như ASEAN, diễn đàn APEC, ASEM…;(ii) Nghiên

cứu hợp tác quốc tế với các nước, khu vực thị trường châu Úc, châu Phi; (iii)Nghiên

cứu hợp tác quốc tế khu vực châu Âu và ITC;(iv) Nghiên cứu hợp tác quốc tế khu

vực châu Mỹ, hoạt động của các tổ chức WTO,WB,ADB.

h,Phòng Thông tin tư liệu:

* Chức năng, nhiệm vụ của Phòng:

- Tổ chức và thực hiện hoạt động thông tin thư viện và ngân hàng dữ liệu

phục vụ hoạt động nghiên cứu của Bộ Công thương, Viện Nghiên cứu thương mại

và các tổ chức có liên quan;hợp tác nghiên cứu trao đổi thông tin khoa học thương

mại với các nhà khoa học, các tổ chức thông tin trong và ngoài nước.

- Tổ chức bổ sung và khai thác có hiệu quả các tư liệu, tài liệu chuyên ngành

thương mại trong và ngoài nước thông qua hệ thống thư viện; xây dựng thư viện

điện tử nhằm đáp ứng nhiệm vụ thông tin thư viện trong bối cảnh mới.

- Là đầu mối cập nhật trang tin về các công trình nghiên cứu khoa học về

lĩnh vực thương mại của Bộ Công thương.

- Cung cấp thông tin thường xuyên hoặc đột xuất theo yêu cầu. Phát hành kỷ

yếu khoa học giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học của Viện nghiên cứu

thương mại. Phát hành các ấn phẩm thông tin tư liệu phục vụ cho công tác nghiên

cứu của các cơ quan chức năng thuộc Bộ và Viện, hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp.

- Tổ chức ngân hàng dữ liệu, trao đổi thông tin với các tổ chức nghiên cứu và

các nhà khoa học trong nước và quốc tế.

- Thực hiện các đề tài nghiên cứu liên quan đến hoạt động công nghệ thông

tin, thương mại điện tử và tổ chức hoạt động thông tin phục vụ ngành thương mại.

* Cơ cấu tổ chức:

- Lãnh đạo phòng: gồm trưởng phòng và các phó trưởng phòng.

- Các nhóm chuyên môn:(i)nhóm thư viện:bổ sung, quản lí và khai thác các

tài liệu trong và ngoài nước phục vụ cho công tác nghiên cứu của lãnh đạo Bộ, lãnh

đạo Viện và các nghiên cứu viên trong viện; tổ chức giới thiệu sách mới, tóm tắt nội

dung tài liệu theo yêu cầu; cung cấp các bản sao tài liệu gốc;(ii)nhóm tư liệu:cung

cấp những tài liệu, tư liệu cần thiết theo yêu cầu của lãnh đạo, lập hệ thống hồ sơ tư

liệu về tình hình kinh tế, xã hội đặc biệt là các vấn đề về phát triển kinh tế, thương

mại trong nước, các nước và các khu vực trong thị trường ngoài nước và trên thế

giới,(iii)nhóm ấn phẩm: tập hợp các công trình nghiên cứu khoa học về thương mại,

tổ chức kỷ yếu giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học ngành thương mại, huy động

thông tin từ mọi nguồn trong và ngoài Viện, chịu trách nhiệm về việc tổ chức và

biên soạn các ấn phẩm định kì, các chuyên đề về thị trường, hàng hóa, các chính

sách phát triển thương mại trong và ngoài nước,(iv)nhóm công nghệ thông tin:tổ

chức cơ sở dữ liệu và cập nhật các thông tin cần thiết theo yêu cầu của lãnh đạo;

quản lí hệ thống mạng LAN của Viện nghiên cứu thương mại, tổ chức ứng dụng

công nghệ thông tin trong hoạt động quản lí và khai thác nguồn thông tin;quản lí và

cập nhập trang tin về kết quả nghiên cứu khoa học các đề tài nghiên cứu khoa học

của Bộ Công thương.

i,Phòng Nghiên cứu phát triển dự án:

* Chức năng, nhiệm vụ của Phòng:

- Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện trong việc xây dựng và thực hiện

các chương trình, kế hoạch xúc tiến các dự án hợp tác và liên kết thuộc chức năng

và nhiệm vụ của Viện với các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước.

- Nghiên cứu và phát triển các dự án hợp tác và liên kết của Viện với các đối

tác trong và ngoài nước.

- Tư vấn, tham mưu cho Lãnh đạo Viện về công tác quản lí các dự án hợp tác

và liên kết của Viện.

- Thực hiện các dự án của Viện khi được Lãnh đạo Viện phân công.

- Xây dựng chương trình, kế hoạch hằng năm về xúc tiến các dự án hợp tác

và liên kết với các đối tác trong và ngoài nước theo định hướng phát triển các hoạt

động thuộc chức năng, nhiệm vụ của Viện trình Lãnh đạo Viện phê duyệt.

- Tổ chức thực hiện hoạt động xúc tiến các dự án theo chương trình, kế

hoạch đã được Lãnh đạo Viện phê duyệt.

- Nghiên cứu và đề xuất phát triển các dự án hợp tác và liên kết của Viện

dành cho Lãnh đạo Viện.

- Tổ chức phát triển các dự án của Viện đã được Lãnh đạo Viện phê duyệt.

- Tư vấn và giúp Lãnh đạo Viện trong việc quản lí các dự án hợp tác và liên

kết của Viện đảm bảo chất lượng, thời gian và hiệu quả kinh tế.

- Chủ trì thực hiện các dự án được lãnh đạo Viện giao.

- Tổ chức các mối quan hệ công tác giữa Phòng với các đơn vị, cá nhân

thuộc Viện trong triển khai các nhiệm vụ xúc tiến, nghiên cứu phát triển và quản lí

thực hiện các dự án của Viện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và năng lực của

từng đơn vị, cá nhân.

k, Văn phòng:

- Thực hiện chức năng tham mưu giúp Viện trưởng về các lĩnh vực: tổ chức

cán bộ, đào tạo, lao động tiền lương, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng cơ bản, hành

chính, quản trị, công tác đối nội và đối ngoại theo qui định về lề lối làm việc của

Viện.

- Tổng hợp và giúp Viện trưởng trong việc phối hợp các hoạt động của Viện

đúng quy định về lề lối và quan hệ công tác trong Viện.

- Giúp Viện trưởng tổ chức triển khai thực hiện và theo dõi, duy trì việc thực

hiện các chế độ chính sách, luật lao động.. trong Viện.

l,Phòng Tài chính kế toán:

- Thu nhận, xử lí và cung cấp các thông tin về nguồn gốc, nguồn kinh tế

được cấp, được tài trợ, được hình thành từ các nguồn khác nhau và tình hình sử

dụng các khoản vốn, kinh phí và nguồn thu khác phát sinh ở Viện theo đúng đối

tượng, tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.

- Phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính sách các hoạt động kinh tế phát sinh tại

Viện vào sổ kế toán theo đúng nguồn kinh phí.

- Kiểm tra giám sát tình hình chấp hành dự toán thu, chi, tình hình thực hiện

các tiêu chuẩn định mức của Nhà nước, kiểm tra việc quản lí, sử dụng tài sản tại các

đơn vị thuộc Viện, tình hình chấp hành kỷ luật thu, chi, nộp, kỷ luật thanh toán, tín

dụng và các chế độ, chính sách tài chính của Nhà nước; phát hiện và ngăn ngừa các

hành vi vi phạm pháp luật về kế toán.

- Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch kinh phí.

- Theo dõi và kiểm soát tình hình phân phối kinh phí cho các đơn vị cấp

dưới, tình hình chấp hành dự toán, quyết toán của đơn vị cấp dưới.

- Lập và nộp đúng thời hạn các báo cáo tài chính cho các cơ quan quản lí cấp

trên và các cơ quan tài chính; tổ chức phân tích tình hình thực hiện dự toán để cung

cấp thông tin kịp thời chính xác và trung thực; phục vụ cho việc quản lí điều hành

của lãnh đạo Viện, công khai tài chính theo chế độ quy định.

m,Phân viện nghiên cứu thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh:

- Phân viện nghiên cứu thương mại tại thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực

thuộc Viện, là tổ chức sự nghiệp nghiên cứu khoa học và đào tạo giúp Viện trưởng

thực hiện chức năng, nhiệm vụ như nghiên cứu khoa học phục vụ cho việc xây dựng

chiến lược quy hoạch phát triển, chính sách, cơ chế quản lí, xúc tiến thương mại,

đào tạo và dịch vụ … của Viện tại các tỉnh phía nam.

- Tổ chức của Phân viện gồm có Phân viện trưởng, các phó phân việc trưởng

và các nghiên cứu viên có trình độ đại học và trên đại học. Ngoài ra, phân viện còn

có đội ngũ công tác viên bao gồm các nhà khoa học kinh tế ở trong và ngoài ngành

đang công tác tại TP.Hồ Chí Minh.

n,Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại:

Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại có các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu và tổ chức áp dụng kết quả nghiên cứu các vấn đề về kinh tế

đối ngoại: thị trường, mặt hàng, chính sách và cơ chế quản lí, vận dụng kinh nghiệm

của các nước, các tổ chức quốc tế vào việc ghép mối, cung cấp thông tin nhằm xúc

tiến các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ giữa các doanh nghiệp trong

và ngoài nước.

- Thực hiện công tác tư vấn về hoạt động kinh tế đối ngoại cho các cơ quan

và các doanh nghiệp có nhu cầu.

- Tổ chức báo cáo chuyên đề, hội thảo về những vấn đề thuộc lĩnh vực kinh

tế đối ngoại.

- Tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ làm

công tác kinh tế đối ngoại.

Cơ cấu tổ chức của Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại bao

gồm: giám đốc, phó giám đốc và các phòng nghiệp vụ; phòng tổng hợp; phòng

nghiên cứu triển khai;phòng đào tạo; phòng tư vấn và hợp tác phát triển.

2.2. Quá trình phát triển hoạt động hải quan và các dịch vụ giao nhận vận

tải ở Việt Nam qua các thời kì

2.2.1. Quá trình phát triển hoạt động hải quan qua từng giai đoạn

a,Khái niệm hoạt động hải quan:

Thực hiện các biện pháp hành chính – kinh tế (thuế quan hay phi thuế quan)

như kiểm tra, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải và hành

khách xuất nhập cảnh; thu thuế xuất nhập khẩu, điều tra chống buôn lậu và gian lận

thương mại; kiểm tra sau thông quan, v.v… nhằm bảo hộ và thức đẩy phát triển sản

xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu; đảm bảo nguồn thu cho

ngân sách Nhà nước, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; bảo vệ môi trường, góp phần

bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an ninh quốc gia; bảo vệ trật tự và an toàn xã

hội là những hoạt động cụ thể của hải quan.

Có thể hiểu hoạt động hải quan là hoạt động của các cơ quan hải quan liên

quan đến quản lí, kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với

hoạt động xuất nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh qua lãnh thổ của một

quốc gia nhằm góp phần thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia; phát triển hợp tác và giao

lưu quốc tế.Hoạt động hải quan rất đa dạng, có thể phân chia thành các nhóm hoạt

động sau:

- Các hoạt động quản lí Nhà nước về hải quan, bao gồm xây dựng và trình

Chính phủ, Bộ Tài chính các văn bản qui phạm phát luật về hải quan. Kiểm tra,

giám sát về thực thi pháp luật hải quan.

- Các hoạt động nghiệp vụ hải quan, bao gồm nghiệp vụ thông quan; nghiệp

vụ kiểm tra, giám sát hải quan; nghiệp vụ thu thuế xuất nhập khẩu hàng hóa…

- Hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, bảo vệ sản xuất

trong nước và giữ gìn an ninh quốc gia. Hoạt động này vừa có tính chất nội ngành

vừa có sự phối hợp liên ngành.

- Hoạt động hợp tác quốc tế của ngành hải quan. Hoạt động trong khuôn khổ

tổ chức Hải quan thế giới và hợp tác hải quan đa phương và song phương khác.

Đối tượng hoạt động hải quan là những đối tượng chịu sự điều chỉnh của

Luật hải quan bao gồm:

- Tổ chức, cá nhân thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất

cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá

cảnh; hành lý, ngoại hối của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên phương tiện

vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ vật, văn hóa phẩm,

bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa

bàn hoạt động của hải quan.

- Cơ quan hải quan và công chức hải quan.

- Các cơ quan khác của Nhà nước trong việc phối hợp quản lí Nhà nước về

hải quan.

b,Quá trình phát triển và trưởng thành của Hải quan Việt Nam:

* Giai đoạn 1945-1975:

Nhằm phục vụ tốt chính sách thuế cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non

trẻ vừa mới được thành lập, ngày 10/09/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên

Giáp đã kí Sắc lệnh số 26/SL “Tạm giữ những luật lệ hiện hành của Sở Tổng thanh

tra độc quyền muối và thuốc phiện và các sở thương chính” và Sắc lệnh số 27/SL

thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu “để đảm nhiệm công việc của Sở Tổng

thanh tra độc quyền muối và thuốc phiện và các Sở Thương chính Bắc, Trung và

Nam bộ”.Cùng ngày, ông Trịnh Văn Bính được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Sở

Thuế quan và Thuế gián thu (Sắc lệnh số 28/SL).

Về mạng lưới của Sở Thuế quan và Thuế gián thu, trên danh nghĩa được bố

trí trên toàn lãnh thổ Việt Nam, nhưng do tình hình chính trị và quân sự khi đó,

chúng ta chỉ có điều kiện thành lập được ở một số tỉnh, thành phố từ Đà Nẵng trở

ra.Lực lượng thuế quan và thuế gián thu Bắc bộ được bố trí chủ yếu trên địa bàn các

tỉnh ven biển Hải Ninh, Hòn Gai, Thái Bình, Nam Định, Kiến An, một số điểm

quan trọng trên các tuyến giao thông huyết mạch dọc quốc lộ số 1, số 5. Ở Trung

bộ, trên địa bàn các tỉnh từ Thanh Hóa đến Đà Nẵng mỗi nơi có một số điểm. Nói

chung, hoạt động của Thuế quan và Thuế gián thu các địa phương không có hoạt

động gì nổi bật, ngoài trừ các địa bàn có sản xuất muối (Nam Định, Thái Bình),

thuốc lào (Kiến An) và một số vùng núi cao, nơi có sản xuất và tiêu thụ thuốc phiện.

Hoạt động chủ yếu của Thuế quan và Thuế gián thu thời kì này là ở khu vực Hải

Phòng, Đà Nẵng.

Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phạm vi hoạt

động của thuế quan bị thu hẹp. Trước tình hình chiến sự ngày càng lan rộng, Bộ Tài

chính đã có Nghị định 141/BTC (ngày 12/02/1947) chia Bắc bộ thành 6 khu thuế

quan. Khu I gồm Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Cạn; Khu II gồm Hà Đông, Sơn

Tây, Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu, Ninh Bình, Nam Định, Phủ Lý; Khu III gồm

Thái Bình, Hưng Yên, Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên, Hải Dương; Khu IV gồm

Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Phúc Yên, Vĩnh Yên; Khu V

gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Đình Lập, Tiên Yên, Móng Cái và khu VI-

Hà Nội. Tại Trung bộ, các đơn vị thuế quan, ngân khố nằm dưới sự điều hành

chung của Giám đốc Tài chính Trung bộ. Trong thời kì này, ngành thuế quan và

thuế gián thu được giao nhiệm vụ mới cùng các lực lượng công an, dân quân du

kích … ở các vùng giáp ranh tiến hành bao vây kinh tế địch.

Sau một thời gian bao vây kinh tế địch kém hiệu quả, chúng ta chuyển sang

thời kì đấu tranh kinh tế với địch một cách chủ động hơn. Nhằm thực hiện tốt nhiệm

vụ kinh tế tài chính trong điều kiện mới, ngày 17/07/1951, Bộ Tài chính ra Nghị

định số 63/NĐ ấn định tổ chức Sở Thuế thuộc Bộ Tài chính từ Trung ương đến cơ

sở gồm các cấp sau: ở TW có Sở Thuế Trung ương, ở liên khu có phân sở thuế liên

khu, ở tỉnh có chi sở thuế tỉnh, ở những thành phố hoặc thị trấn lớn hơn có chi sở

thuế thành phố (trực thuộc), ở huyện có phòng thuế.Ngày 15/08/1951, Thủ tướng

Chính phủ ký Nghị định số 118/TTg thành lập Ban quản lí xuất nhập khẩu Trung

ương. Ngày 10/09/1953, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trịnh Văn Bính ký Nghị định số

204-TC-ND thành lập các khu và chi sở thuế xuất nhập khẩu.Tổ chức của ngành

thuế xuất nhập khẩu gồm có 4 cấp: cụ thể, ở Trung ương có Phòng Thuế xuất nhập

khẩu thuộc Sở Thuế Trung ương; ở các liên khu có phân sở thuế liên khu (có bộ

phận thuế xuất nhập khẩu); ở tỉnh có chi sở thuế xuất nhập khẩu; ở cơ sở có đồn và

trạm kiểm soát thuế xuất nhập khẩu. Nhiệm vụ chính của hoạt động hải quan thời kì

này là quản lí việc xuất nhập khẩu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm, bảo vệ và

phát triển kinh tế của vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu hàng hóa tối cần thiết cho

quân đội và nhân dân.

Khi Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh được kí kết, nước ta chủ

trương thực hiện chính sách Nhà nước độc quyền ngoại thương. Trước tình hình

mới, ngày 15/11/1954, Liên Bộ Tài chính và Công thương đã ký Nghị định số

121/TC-CT-NĐ chuyển ngành thuế xuất nhập khẩu từ Bộ Tài chính sang Bộ Công

thương. Tiếp đó, ngày 14/12/1954, Bộ Công thương ra Nghị định số 136-

BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương. Ngày 06/04/1955, Phó

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 508/TTg thành lập Sở Hải quan thuộc

Bộ Công Thương, chính thức hóa về mặt thủ tục hành chính. Trong những ngày đầu

mới thành lập, nhiệm vụ chính của hải quan là tham gia tiếp quản các vùng mới giải

phóng, đặc biệt là địa bàn Hải Phòng, nơi có cảng biển quan trọng của miền Bắc lúc

bấy giờ.

Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo ngành hải

quan đã tập trung kiện toàn tổ chức, ngày 17/06/1962, Bộ Ngoại thương ban hành

Quyết định số 490/BNT- QĐ đổi tên Sở Hải quan Trung ương thành Cục Hải quan

Trung ương thuộc Bộ Ngoại thương. Các phân sở, chi sở được đổi thành phân cục,

chi cục Hải quan. Ngành tập trung làm thủ tục và phát hiện sai sót đối với hàng hóa

xuất nhập khẩu, thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu phi mậu dịch, tăng cường kiểm

soát việc vận chuyển và tiêu thụ thuốc phiện ở các tỉnh biên giới. Sau ngày Hiệp

định Pari được kí kết ngày 27/01/1973, ngành hải quan có thêm nhiệm vụ mới là

vừa củng cố các cơ sở hiện có, vừa gấp rút chuẩn bị thành lập các đơn vị mới phục

vụ cho công tác đối ngoại của Đảng và lựa chọn nhân sự cho chiến trường miền

Nam để triển khai nhiệm vụ trong vùng giải phóng khi có điều kiện. Ngày

30/04/1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, hệ thống hải quan của Chính phủ Cách

mạng lâm thời cộng hòa Miền Nam Việt Nam được nhanh chóng thiết lập để góp

phần ổn định tình hình vùng mới giải phóng và đảm bảo các hoạt động xuất nhập

khẩu, xuất nhập cảnh bình thường.

* Giai đoạn 1975-1986:

Sau khi hai miền Nam Bắc được thống nhất về mặt Nhà nước, ngày

12/08/1976, Hội nghị Hải quan toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại thành phố

Hồ Chí Minh nhằm thống nhất tổ chức ngành Hải quan trên phạm vi cả nước và đề

ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của ngành. Ngày 13/01/1977, Phân cục

Hải quan thành phố Hồ Chí Minh được thành lập. Tiếp đó, ngày 14/02/1977, các

Chi cục Hải quan Sông Bé, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên

Giang được thành lập. Tuy nhiên , do tình hình biên giới phía Tây Nam vào thời

điểm này không ổn định nên các Chi cục Hải quan sông Bé, Long An và Đồng Tháp

chưa triển khai hoạt động. Ngoài ra, đã thành lập Trạm Hải quan Lao Bảo, chuyển

trạm Hải quan sân bay Gia Lâm về Nội Bài và nâng lên thành Chi cục, đồng thời

chấn chỉnh lại tổ chức một số phòng, trạm, đội thuộc Cục.

Vào đầu những năm 80, một số chủ trương mới về khuyến khích xuất khẩu,

mở rộng quyền cho địa phương kinh doanh xuất nhập khẩu, cơ cấu nhập khẩu đã

được ban hành. Do vậy, các phương tiện vận tải xuất nhập cảnh ngày càng tăng,

mạng lưới bưu điện ngoại dịch được mở rộng. Trong bối cảnh như vậy, ngành hải

quan đã tiến hành cải tiến lề lối làm việc, kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức Đảng, chính

quyền và các đoàn thể, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ nhân viên,

đồng thời thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra thanh tra. Thời kì này, Cục Hải

quan Trung ương đã khảo sát và đề xuất với Bộ Ngoại thương về một số chính sách,

chế độ tiêu chuẩn gửi, nhận hàng quà biếu đối với các đối tượng có người thân ở

nước ngoài, tiêu chuẩn hành lí của lái xe, lái tàu quá cảnh, thủy thủ tàu viễn dương,

nhân viên hàng không, chế độ quản lí ngoại hối…, và các văn bản quy định về thủ

tục có liên quan. Ngày 20/10/1984,Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số

139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải

quan. Lúc này, hoạt động của hải quan được quy định bao gồm:

- Kiểm tra và quản lí hàng hóa, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận tải

xuất nhập qua biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Thi hành chính sách thuế xuất, nhập khẩu.

- Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ hải quan và các luật lệ khác liên

quan đến việc xuất nhập khẩu.

- Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua

biên giới.

*Giai đoạn 1986 cho đến nay:

Thời kì này, ngành hải quan tập trung tạo cơ sở cho quá trình đổi mới toàn

diện để phục vụ cho hoạt động xuất, nhập khẩu ngày càng một mở rộng. Pháp lệnh

Hải quan được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 20/02/1990 và có hiệu lực từ

ngày 01/05/1990. Nội dung cơ bản của Pháp lệnh thể hiện quan điểm đổi mới của

Đảng và sự kế thừa kinh nghiệm hoạt động, xây dựng Hải quan Việt Nam trong các

thời kì trước, quy định chế độ quản lí Nhà nước về hải quan nhằm “đảm bảo thực

hiện chính sách của Nhà nước về phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa với nước

ngoài, góp phần tăng cường sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ

quyền và an ninh quốc gia”. Chức năng của hải quan được xác định là: “quản lí Nhà

nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh,

quá cảnh, mượn đường Việt Nam. Đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái

phép hàng hóa, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới.” Ngành đã từng bước cải

tiến các quy trình nghiệp vụ, trang bị máy kiểm tra hiện đại thay thế kiểm tra thủ

công. Từ năm 1987,các trạm hải quan bưu điện ngoại dịch Hà Nội, thành phố Hồ

Chí Minh và sau đó ở các cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất đã được

lắp đặt máy kiểm tra bưu phẩm, bưu kiện và hành lý của khách xuất nhập cảnh.

Công tác kiểm soát kết hợp với các biện pháp quản lí công khai đã giúp hải quan

phát hiện nhiều tài liệu phản động, ấn phẩm đồi trụy, vũ khí, chất nổ .v.v… thẩm

lậu vào nước ta, ngăn chặn nhiều vụ xuất lậu đồ cổ. Bắt đầu từ năm 1994, Hải quan

Việt Nam chính thức bắt tay vào công cuộc đổi mới. Ngày 07/03/1994, Chính phủ

ban hành Nghị định 16/CP quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của

Tổng cục Hải quan thay thế cho Nghị định 139/HĐBT ngày 20/10/1984. Cuối năm

1995, Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo thí điểm mở địa điểm thông quan nội địa (ICD)

tại Phước Long, Thủ Đức thuộc Cục Hải quan TP.HCM; và tháng 05/1996 thành

lập Hải quan ICD Gia Thụy thuộc Cục hải quan thành phố Hà Nội để đáp ứng yêu

cầu tiếp nhận và giải phóng nhanh hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua cảng Sài

Gòn, Hải Phòng. Thực hiện chủ trương cải cách hành chính và giảm bớt đầu mối

các cơ quan thuộc Chính phủ, ngày 04/09/2002, Thủ tướng Chính phủ có Quyết

định số 113/2002/QĐ-TTg chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính. Cũng

trong thời gian này, một số thay đổi về chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ cấu của

Tổng cục Hải quan đã được thực hiện. Bên cạnh đó, Tổng cục hải quan đã từng

bước tiến hành hiện đại hóa hải quan để phù hợp với tình hình mới như áp dụng

phương pháp quản lí rủi ro trong quá trình thu thuế và kiểm tra sau thông quan, ứng

dụng công nghệ thông tin trong việc thành lập trung tâm dữ liệu và mạng LAN của

ngành, từng bước xây dựng hệ thống hải quan điện tử hoàn thiện và hiệu quả. Toàn

ngành trang bị 158 máy chủ với khoảng 3.000 máy tính cá nhân hoạt động trên hai

hệ thống mạng là hệ thống mạng máy tính cục bộ LAN và hệ thống mạng diện rộng

ngành hải quan WAN. Đã triển khai được 10 hệ thống ứng dụng công nghệ thông

tin vào các khâu nghiệp vụ, phục vụ công tác quản lí và điều hành của ngành, đặc

biệt đã tạo ra một cơ sở dữ liệu quốc gia về hàng hóa xuất nhập khẩu, giúp cơ quan

hải quan lập các báo cáo thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu định kì, đầy đủ và chính

xác. Đặc biệt, ngày 26/03/2004, Bộ trưởng Bộ Tài chính ký Quyết định số 810/QĐ-

BTC ban hành “Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành hải quan giai

đoạn 2004-2006”. Kế hoạch gồm 5 chương trình: cải cách thể chế; hiện đại hóa

công nghệ thông tin và trang thiết bị phương tiện nghiệp vụ ngành hải quan; cải

cách tổ chức bộ máy; chuẩn hóa cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hải quan;

và đầu tư xây dựng cơ bản. Nhờ những cải cách này mà hoạt động hải quan giai

đoạn 1986 cho đến nay đã thu được nhiều kết quả khả quan và tạo tiền đề cho việc

mở rộng hoạt động cho những giai đoạn tiếp theo.

c,Đại lí hải quan ở Việt Nam:

Đại lí hải quan là loại pháp nhân xuất hiện cùng với doanh nghiệp xuất nhập

khẩu ở các nước và tạo nên một xu hướng mà giá trị của nó mang lại cho hoạt động

ngoại thương là không thể phủ nhận được. Tổ chức Thương mại thế giới WTO thừa

nhận đại lí hải quan như một thực thể trong lĩnh vực thương mại. Đại lí hải quan

được phép thay mặt cho các doanh nghiệp thực hiện các công việc như kê khai hải

quan, kê khai thuế, cung cấp chứng từ … và chịu trách nhiệm về mặt pháp lí đối với

những nội dung kê khai của doanh nghiệp mà đại lí hải quan nhận làm dịch vụ.

Trước năm 2004, Bộ Tài chính cho phép dịch vụ khai thuê hải quan, mà theo đó,

doanh nghiệp thực hiện dịch vụ này được phép làm hộ cho doanh nghiệp xuất nhập

khẩu các hoạt động thông quan. Tuy nhiên, khai thuê hải quan không ràng buộc

trách nhiệm đối với doanh nghiệp làm dịch vụ, mà trách nhiệm thuộc về doanh

nghiệp xuất hoặc nhập khẩu thuê dịch vụ. Xuất phát từ tình hình thực tế có nhiều

bất cập trong quá trình thuê dịch vụ hải quan, ngày 16/6/2005, Chính phủ ban hành

Nghị định 79/2005/NĐ-CP quy định điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lí hải

quan, tạo cơ sở pháp lí rõ ràng cho dịch vụ này phát triển một cách có hệ thống.

Nghị định nêu rõ muốn thành lập đại lí hải quan thì phải đáp ứng được đầy đủ các

điều kiện sau:

- Đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.

- Có ngành nghề kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất khẩu, nhập

khẩu hoặc dịch vụ khai thuê hải quan ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh.

- Có ít nhất một (01) nhân viên đại lý hải quan.

- Đáp ứng điều kiện nối mạng máy tính với cơ quan Hải quan để thực hiện

thủ tục hải quan điện tử tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố (dưới đây gọi tắt là

Cục Hải quan tỉnh) đã thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

Ngoài ra, nhân viên đại lí hải quan cũng phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

- Là công dân Việt Nam.

- Có bằng từ trung cấp trở lên thuộc các ngành kinh tế, luật.

- Có chứng chỉ về nghiệp vụ khai hải quan.

Hoạt động của đại lí hải quan được thể hiện rõ thông qua hợp đồng bằng văn

bản với chủ hàng. Các công việc thuộc thủ tục hải quan mà chủ hàng có thể thuê đại

lí hải quan bao gồm: khai và nộp tờ khai hải quan; nộp, xuất trình chứng từ thuộc hồ

sơ hải quan. Trong trường hợp thực hiện hải quan điện tử, người khai hải quan được

khai và gửi hồ sơ hải quan qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử của hải quan; đưa

hàng hóa, phương tiện vận tải đến địa điểm qui định cho việc kiểm tra thực tế hàng

hóa, phương tiện vận tải; nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo qui

định của pháp luật. Theo nội dung của Nghị định, đại lí hải quan sẽ bảo lãnh cho

từng lô hàng, từng doanh nghiệp thuê làm dịch vụ hải quan nếu như lô hàng đáp

ứng được những yêu cầu cho quá trình xuất, nhập khẩu hàng hóa. Với sự bảo lãnh

này, cơ quan hải quan đã giảm thiểu được thời gian tìm hiểu thông tin của từng lô

hàng, giảm sai sót trong quá trình kiểm soát hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Tuy nhiên, hoạt động của đại lí hải quan trong thời gian này chưa nhận được sự

quan tâm đúng mức từ phía cơ quan hải quan nên hiệu quả hoạt động chưa cao.

Ngày 05/09/2005, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 73/2005/TT-BTC nhằm hướng

dẫn những điểm còn vướng mắc trong Nghị định 79/2005 do Chính phủ ban hành

trước đó. Cụ thể như qui định về việc kết nối mạng máy tính của đại lý hải quan với

cơ quan hải quan được hiểu là chỉ những nơi cơ quan hải quan đã thực hiện thủ tục

hải quan điện tử hoặc thực hiện khai báo hải quan qua mạng và phải bảo đảm các

chứng từ hải quan điện tử tuân thủ theo chuẩn dữ liệu hải quan và hệ thống phần

cứng phù hợp;thực hiện được việc truyền dữ liệu đến cơ quan hải quan và nhận kết

quả phản hồi từ cơ quan hải quan theo quy định của hệ thống thông tin hải quan.

Kết quả đào tạo nhân viên hải quan chỉ được công nhận từ các cơ sở có đăng kí đào

tạo với Tổng cục hải quan. Bên cạnh đó, trách nhiệm pháp lí của đại lí hải quan

cũng được làm rõ khi làm chậm thủ tục, khai báo không chính xác… gây thiệt hại

cho chủ hàng.Bản mẫu hợp đồng đại lí hải quan cũng như những hoạt động trong

phạm vi của đại lí hải quan được chi tiết hóa và ban hành cùng với Thông tư này

của Bộ Tài chính. Tính cho đến cuối tháng 10/2010,sau hơn 4 năm thực hiện, nước

ta đã có 91 doanh nghiệp được công nhận là đại lí hải quan, hàng năm khai và làm

các thủ tục liên quan cho hơn 70 nghìn tờ khai. Đây là một con số còn khiêm tốn so

với trung bình 2,5 đến 3 triệu tờ khai xuất nhập khẩu mỗi năm,chứng tỏ hiệu quả

của dịch vụ hải quan ở Việt Nam còn chưa cao. Đầu năm 2011, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 14/NĐ-CP qui định về điều kiện và hoạt động của đại lí hải quan

vào ngày 16/02/2011 trên cơ sở nội dung của Nghị định 79 và Thông tư 73 kể trên,

giữ nguyên các điều kiện về đăng kí làm đại lí và yêu cầu đối với nhân viên của đại

lí nhưng có bổ sung thêm các điều khoản về trách nhiệm, khen thưởng và kỉ luật. Vì

đây là văn bản mới ban hành nên hiệu quả mà nó mang lại đối với dịch vụ hải quan

ở Việt Nam phải trải qua một thời gian mới có thể kiểm nghiệm được. Đại lí hải

quan vẫn cần được sự quan tâm và định hướng đúng đắn để có thể phát triển và hỗ

trợ tốt hơn cho cơ quan hải quan trong tình hình kinh tế hiện nay.

2.2.2. Dịch vụ giao nhận vận tải qua các thời kì

Nghề giao nhận của Việt Nam đã hình thành từ lâu. Miền Nam Việt Nam

trước ngày giải phóng đã có nhiều công ty giao nhận, phần lớn là làm công việc

khai quan thuế vận tải đường bộ nhưng manh mún, một số là đại lí của các hãng

giao nhận của nước ngoài. Ở miền Bắc, từ năm 1960 các đơn vị kinh doanh xuất

nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ chức chuyên chở hàng hóa của mình, vì vậy các

công ty xuất nhập khẩu đã thành lập riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập

khẩu, trạm giao nhận ở các ga liên vận đường sắt. Ở thời kì này, hoạt động giao

nhận không được chuyên sâu, công việc và thủ tục đơn giản chỉ là trong phạm vị

của công ty, lĩnh vực, mặt hàng, loại hàng…

Sau khi thống nhất đất nước, để tập trung đầu mối quản lí chuyên môn hóa

khâu vận tải giao nhận, Bộ Ngoại thương (sau là Bộ Thương mại và hiện nay là Bộ

Công thương) đã đưa tổ chức giao nhận vào một mối từ Bắc tới Nam là Tổng công

ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (VIETRANS). Trong thời kì bao cấp, phạm vi

dịch vụ giao nhận còn hạn chế, người giao nhận chủ yếu là do giao hàng xuất, nhập

hàng nhập tại cảng nước mình và VIETRANS là cơ quan duy nhất được phép giao

nhận hàng hóa xuất nhập khẩu trên cơ sở ủy thác của các đơn vị kinh doanh xuất

nhập khẩu. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, đất nước ta

chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, hoạt động

thương mại được mở rộng, nghề giao nhận do đó mà phát triển khá nhanh, Tổng

công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương cũng không còn giữ độc quyền nữa. Các

hoạt động giao nhận được mở rộng, số lượng các công ty giao nhận tăng và trình độ

nghề nghiệp được tăng lên nhanh chóng. Đã có nhiều công ty giao nhận của Việt

Nam tham gia Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế - FIATA. Tính đến

31/1/1998 Việt Nam đã có 13 công ty giao nhận vận tải được công nhận là thành

viên liên kết của FIATA. Đến tháng 7/2000 thì đã có thêm 30 công ty, nâng tổng số

công ty giao nhận Việt Nam được công nhận là thành viên liên kết của FIATA lên

con số 43 công ty. Có thể kể ra một số công ty có uy tín và kinh nghiệm trong nghề

giao nhận hiện nay như : Mekong Cargo Freight Co.,Ltd; Saigon Ship Channdler

Corp_Saigon;Shipchanco;VIETFRANCHT;VINAFCO… So với các nước trên thế

giới, ngành giao nhận Việt Nam hiện nay là một ngành hoàn toàn non trẻ. Trên thực

tế hiện nay ở nước ta chưa có một cơ quan quản lí thống nhất việc cấp giấy phép

hành nghề, kiểm tra giám sát hoạt động với loại hình kinh doanh giao nhận hàng

hóa dẫn đến có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh dịch vụ giao

nhận hàng hóa và phát triển dịch vụ tràn lan trên thị trường. Tính đến năm 1997 cả

nước có 189 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận vận tải, trong đó

trên 90% các công ty giao nhận mới được thành lập từ năm 1994-1995 trở lại đây.

Con số này trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên. Đến cuối năm 2002 đã có

khoảng 542 doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ này. Trong đó: doanh

nghiệp tư nhân chiếm 13,2%; doanh nghiệp Nhà nước chiếm 78,3% và doanh

nghiệp liên doanh chiếm 8,5%. Hiệp hội giao nhận Việt Nam – VIFFAS, với tư

cách là tổ chức đại diện quyền lợi cho cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam về

lĩnh vực giao nhận kho vận thành lập năm 1994, được kết nạp là thành viên chính

thức của FIATA (thay thế VIETRANS) tại đại hội thế giới FIATA tổ chức tháng

9/1994 tại Hamburg, CHLB Đức. Theo số liệu thống kê của văn phòng hiệp hội

VIFFAS, từ khi đại hội thành lập năm 1994 tình đến tháng 3/1998, VIFFAS mới chỉ

xét cấp giấy chứng nhận hội viên cho 27 doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện tham

gia Hiệp hội, trong đó có 18 hội viên chính thức và 9 hội viên liên kết đại diện cho

các thành phần kinh tế khác nhau đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực giao nhận kho

vận. Tính đến đầu năm 2003, VIFFAS đã có 65 hội viên chính thức và 22 hội viên

liên kết. So sánh số hội viên của Hiệp hội giao nhận với số doanh ngiệp tham gia

dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam lúc bấy giờ quả là chiếm tỉ lệ còn thấp khoảng

14%. Nhưng những hội viên của Hiệp hội đã thực sự đóng vai trò chính trong các

hoạt động giao nhận vận tải hiện nay của Việt Nam do có bề dày kinh nghiệm, có

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có cơ sở vật chất kĩ thuật và quan hệ chặt chẽ với

mạng lưới đại lý nước ngoài bảo đảm cung cấp các dịch vụ chất lượng hiệu quả.

Sau hơn 6 năm thành lập, tại đại hội toàn thể lần thứ 6 được tổ chức vào ngày 15

tháng 12 năm 2010 ở TP. Hồ Chí Minh, số hội viên của Hiệp hội đã nâng lên con số

130, cho thấy sự lớn mạnh của Hiệp hội. Tuy nhiên, tỉ lệ hội viên của Hiệp hội so

với tổng số lượng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải vẫn ở mức

thấp (16,25%), chưa thấy được sự thay đổi rõ rệt so với năm 2003.

Bên cạnh các hoạt động sôi động của các công ty giao nhận trong nước còn

có hoạt động của các văn phòng đại điện của các hãng giao nhận vận tải nước ngoài

được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Con số này tăng nhanh trong các năm

từ 1991 mới có 7 văn phòng đại diện được cấp giấy phép hoạt động đến cuối năm

1997 tại Việt Nam đã có 105 văn phòng đại diện của các hãng giao nhận vận tải

nước ngoài được chính thức cấp giấy phép hoạt động tại các thành phố Hà Nội và

Hồ Chí Minh. Đến cuối năm 2002, con số này đã lên tới hơn 200 văn phòng. Điều

này chứng tỏ giao nhận hàng hóa ở Việt Nam đang phát triển mạnh và là một thị

trường đầy tiềm năng.

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dịch vụ giao nhận vận tải biển hầu như

được mở cửa hoàn toàn. Công ty vận tải biển nước ngoài được phép thành lập liên

doanh với vốn góp không quá 51% ngay từ khi VN gia nhập WTO và được phép

thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để thực hiện

các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động vận tải biển của chính công ty đó. Với cam kết

này, các hãng tàu nước ngoài sẽ thành lập công ty liên doanh để được thực hiện các

dịch vụ hỗ trợ vận tải cho chính hãng tàu đó tại Việt Nam, thay vì như trước đây,

khi các hãng tàu nước ngoài vận chuyển hàng hoá đến cảng biển Việt Nam phải

thông qua các đại lý tàu biển và đại lý vận tải để thực hiện các công việc của chủ

tàu và cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng của mình. Ngay sau khi gia nhập,

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt động sau:

bán và tiếp thị dịch vụ vận tải biển qua giao dịch trực tiếp với khách hàng, từ niêm

yết giá tới lập chứng từ; đại diện cho chủ hàng; cung cấp các thông tin kinh doanh

theo yêu cầu; chuẩn bị tài liệu liên quan tới chứng từ vận tải bao gồm chứng từ hải

quan hoặc các chứng từ khác liên quan đến xuất xứ và đặc tính của hàng vận

chuyển; và cung cấp dịch vụ vận tải nội địa bằng tàu mang cờ Việt Nam trong

trường hợp cung cấp dịch vụ vận tải tích hợp.Sau 5 năm kể từ khi gia nhập, các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới được phép thực hiện thêm hai hoạt

động: thay mặt công ty tổ chức cho tàu vào cảng hoặc tiếp nhận hàng khi có yêu

cầu; đàm phán và ký kết hợp đồng vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa

liên quan tới hàng hoá do công ty vận chuyển. Các ngành dịch vụ vận tải đường bộ,

đường sắt, thủy nội địa, hàng không chỉ mở dần từng cánh với mức độ cam kết ít

hơn. Đối với dịch vụ vận tải đường bộ, đa số nhà cung cấp dịch vụ trong nước là

các doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình, vì vậy cam kết chỉ dừng ở mức độ cho phép

liên doanh đến 49% vốn nước ngoài ngay khi gia nhập; sau 3 năm tuỳ theo nhu cầu

thị trường có thể cho phép liên doanh đến 51% để vận tải hàng hóa và 100% lái xe

của liên doanh phải là công dân Việt Nam. Như vậy, có thể thấy rằng, doanh nghiệp

kinh doanh giao nhận vận tải trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh rất

khốc liệt với các hãng giao nhận vận tải danh tiếng ở nước ngoài sau khi mở cửa thị

trường này. Những vấn đề còn tồn tại trong nhiều năm qua của các doanh nghiệp

trong nước chưa tháo gỡ được triệt để lại càng trở nên trầm trọng hơn trong bối

cảnh kinh tế mới. Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy, ngành giao nhận hiện chỉ

đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường. Kinh doanh giao nhận giữa doanh nghiệp

nước ngoài hoặc liên doanh và công ty nội địa, giữa khu vực phía Nam và các khu

vực còn lại, cũng có nhiều chênh lệch. Giá cả dịch vụ hậu cần tại Việt Nam tương

đối rẻ nhưng không chắc chắn. Các công ty giao nhận địa phương kém phát triển

nên khó chiếm lĩnh thị trường nội địa. Các doanh nghiệp ngành hiện chưa liên kết

với nhau trong kinh doanh, điều đặc biệt cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh mạnh

mẽ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Hệ thống kho bãi nhỏ,

quy mô rời rạc, chất lượng dưới trung bình và không phát huy đầy đủ chức năng.

Việc xây dựng, quản lý và khai thác thiếu khoa học. Những phương tiện trang thiết

bị như xe nâng hạ hàng hóa, dây chuyền, băng tải, phương tiện đóng gói mã hóa, hệ

thống đường ống, an ninh an toàn, đèn chiếu sáng... đều còn hết sức thô sơ. Sự yếu

kém đều diễn ra tương tự ở các cảng biển, sân bay, đường sắt, đường bộ. Nếu không

có những thay đổi kiên quyết và kịp thời thì ngành kinh doanh giao nhận Việt Nam

khó lòng có thể vươn ra được thị trường thế giới trong điều kiện như hiện nay.

2.3. Thực trạng dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam

hiện nay

2.3.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây

Việt Nam đã tiến hành đổi mới được 25 năm và thu được nhiều thành tựu

đáng tự hào, không những duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khá

cao trong nhiều năm (mức 7%-8%) mà còn là một trong những quốc gia đi đầu

trong xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đi đôi với những nỗ lực

vượt bậc trong phát triển kinh tế, nước ta đã không ngừng quan tâm đổi mới và

hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thu

được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Chế độ sở hữu được đổi mới cơ bản từ hình thức

sở hữu toàn dân và tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành

phần kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo; từng

bước xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo động lực và điều kiện

thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế-

xã hội. Quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh ngày càng được tôn trọng và được

pháp luật bảo vệ. Kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế có đầu tư nước ngoài được

thừa nhận và khuyến khích phát triển. Các đơn vị sự nghiệp bước đầu được đổi mới

theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các loại thị trường chức năng

đã ra đời và từng bước phát triển theo hướng thông suốt và thống nhất trong cả

nước, mở rộng dần ra khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và

công bằng xã hội được quan tâm ngay trong từng bước phát triển, từng chính sách

phát triển. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc

làm được quan tâm.Các chính sách xã hội, chính sách chăm sóc người có công, hỗ

trợ các nhóm người yếu thế, trợ giúp đồng bào ở những vùng bị thiên tai được thực

thi ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong quá trình

xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhưng

nó đã mở ra những cơ hội mới cho công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế

trong những năm vừa qua.

Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị

khu vực và quốc tế. Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng thế giới (WB), quỹ

Tiền tệ quốc tế(IMF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC),

Diễn đàn hợp tác Á-Âu(ASEM)… nhưng sự kiện quan trọng nhất phải nói tới

chính là gia nhập chính thức Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh dấu một

bước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình mở cửa ra thế giới. Tăng trưởng và ổn

định kinh tế vĩ mô, nâng cao vị thế của Việt Nam thông qua thu hút đầu tư nước

ngoài và những tác động tích cực đối với thể chế kinh tế là những điểm sáng nổi bật

sau gần 4 năm chúng ta tham gia tổ chức này. Nhìn vào con số tăng trưởng kinh tế

cho thấy sự bứt phá ngoạn mục:năm 2007 tăng trưởng kinh tế đạt 8.5%;năm 2008

đạt 6.2%;năm 2009, mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều nền

kinh tế tăng trưởng âm- thì Việt Nam vẫn tăng trưởng dương, ở mức 5.3%. Cuối

tháng 12/2010, nước ta ghi nhận sự phục hồi của nền kinh tế khi tăng trưởng GDP

đạt 6.78% cao hơn mục tiêu đề ra là 6.5%.Thị trường xuất nhập khẩu cũng đạt được

một số kết quả nhưng tốc độ tăng trưởng không thể hiện mức độ bứt phá so với các

năm trước và như kì vọng. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm

trong hai năm 2007-2008 là 25.5% và trong ba năm 2007-2009 là 12.8%, trong khi

tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn trước khi gia nhập WTO

2004-2006 cũng đã đạt 25.5%. Hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ

quan và khách quan. Năng suất sản xuất có hạn, khả năng cạnh tranh thấp do quy

trình thủ tục xuất khẩu vẫn còn chưa thuận tiện; chi phí liên quan đến dịch vụ hậu

cần (chuyên chở, bưu chính viễn thông, kho bãi, cảng) và dịch vụ tài chính ngân

hàng còn cao; công nghiệp phụ trợ chưa phát triển nên phải nhập hầu hết nguyên vật

liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.. cũng là các yếu tố kìm hãm đáng kể. Bên cạnh đó,

khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các

thị trường xuất khẩu còn hạn chế. Các doanh nghiệp cũng chưa tận dụng triệt để lợi

ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực để

khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, liên minh châu Âu,

Trung Quốc… Công tác xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.

Song song với các yếu tố trên, không thể không nhắc tới sự biến động của nền kinh

tế toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Hội nhập

sâu rộng hơn cũng có nghĩa là tăng trưởng xuất khẩu của nhiều mặt hàng, nhất là

đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, biến động mạnh cùng với thăng trầm của

nền kinh tế thế giới, nhất là của các bạn hàng chính. Tốc độ tăng kim ngạch xuất

khẩu dệt may suy giảm và kim ngạch xuất khẩu gạo tăng đột biến là hai thí dụ điển

hình minh chứng cho điều này. Trong giai đoạn tới, nền kinh tế thế giới có những

thay đổi mạnh mẽ không những tạo ra nhiều cơ hội mà còn mang đến những thách

thức cho thương mại Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu và những dịch vụ

kèm theo.

Nhìn trên góc độ hẹp của nhà kinh doanh giao nhận vận tải, cơ hội mở ra đối

với thị trường logistics Việt Nam là rất tiềm năng. Theo một báo cáo của Ngân hàng

thế giới (WB) đưa ra vào giữa năm 2010, Việt Nam xếp thứ 53 trong tổng số 155

nền kinh tế được đưa ra trong bảng xếp hạng logistics(LPI). Điều này chứng tỏ Việt

Nam đang dần cải thiện một cách toàn diện việc phát triển hệ thống logistics, bao

gồm kho vận, giao nhận, vận chuyển và phân phối. Tuy thị trường ở Việt Nam với

chỉ đang ở giai đoạn đầu của việc phát triển, nhưng so với các quốc gia và vùng

lãnh thổ ở châu Á, đây là thị trường có sự tăng trưởng nhanh về kinh tế, đặc biệt là

khâu sản xuất và bán lẻ - những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của

ngành logistics. Tầm nhìn đến năm 2015, Việt Nam sẽ nâng gấp đôi năng lực xếp

dỡ hàng hóa so với hiện tại (khoảng 250 triệu tấn/ năm). Trung bình hàng năm dịch

vụ logistics Việt Nam chiếm khoảng 15-20% GDP,nếu chỉ tính riêng khâu quan

trọng nhất của logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị

trường dịch vụ khổng lồ. Nắm bắt được cơ hội này, nhiều hãng kinh doanh dịch vụ

logistics đã không ngừng đầu tư mở rộng kho bãi cũng với hệ thống vận tải tại các

trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh. Dự báo trong những

năm tới, nhiều doanh nghiệp quốc tế sẽ vào khi Việt Nam mở cửa thị trường rộng

hơn theo cam kết gia nhập WTO khiến cho khối lượng cũng như lưu lượng luân

chuyển hàng hóa không ngừng gia tăng. Bên cạnh đó, hiện đang có một trào lưu

muốn có một bản sao về logistics, hay nhỏ hơn là phân phối và kho vận, tại thị

trường Việt Nam sau khi đã mở tại các nước khác của doanh nghiệp trong ngành.

Đây đều là những tín hiệu tốt cho việc phát triển hệ thống dịch vụ kinh doanh giao

nhận vận tải Việt Nam trong giao đoạn phục hồi kinh tế sắp tới.

2.3.2. Các hoạt động hải quan chính được thực hiện ở Việt Nam

a,Công tác thu thuế xuất nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà

nước:

Như chúng ta đã biết, vai trò của thuế hàng hóa nói chung và vai trò của thuế

hàng hóa xuất nhập khẩu nói riêng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của bất

cứ quốc gia nào trên thế giới. Ngoài việc là nguồn thu thường xuyên cho ngân sách

Nhà nước, thuế hàng hóa còn đóng góp vào việc xây dựng các chính sách vĩ mô và

các quyết định vi mô cho thương mại quốc tế. Bảo hộ nền sản xuất trong nước, tăng

cường mối quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài có hiệu quả hay không một phần

lớn nhờ vào chính sách thuế của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, ngành hải

quan luôn đặt công tác thu đúng, thu đủ thuế xuất nhập khẩu vào ngân sách Nhà

nước ở vị trí trọng tâm trong việc thực hiện nhiệm vụ hàng năm. Hoạt động này

luôn được quan tâm và có những cải tiến phù hợp với tình hình kinh tế thực tế ở

trong và ngoài nước. Trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế thế giới có những

biến động mạnh mẽ, cùng với việc Việt Nam gia nhập vào nhiều tổ chức kinh tế thế

giới dẫn đến nhiều thay đổi trong hệ thống biểu thuế, nhiều dòng thuế được hạ thấp

tiến tới xóa bỏ hoàn toàn trong nhiều năm tới. Bên cạnh đó, lạm phát nghiêm trọng

trong một vài năm gần đây buộc Chính phủ phải thực thi nhiều biện pháp kiềm chế

trong đó có điều chỉnh tăng thuế của nhiều mặt hàng tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến

hoạt động này. Nhìn chung, công tác thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu trong giai

đoạn 2007-2010 đều được đánh giá là thực hiện tốt, tuy không tăng cao qua các năm

do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng luôn vượt mức thu chỉ tiêu đã đề

ra. Bên cạnh đó, toàn ngành đã triển khai đồng bộ các biện pháp chống buôn lậu,

gian lận thương mại, cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như thực hiện song song các biện pháp chống

thất thu qua mã số, giá tính thuế nên kết quả đạt được rất khả quan. Cụ thể:

TÌNH HÌNH THU NGÀNH HẢI QUAN GIAI ĐOẠN 2007-2010

Đơn vị tính:triệu đồng

Năm Số thu phấn Số thu thực tế % so với phấn % so với năm

đấu đấu trước

2007 72.000.000 72.602.397 100,84 121,23

2008 89.000.000 117.349.000 130,39 142,2

2009 121.000.000 122.293.000 100,9 103,6

2010 145.000.000 180.700.000 124,9 126,5

(Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo công tác hàng năm của Tổng cục hải

quan)

Ảnh hưởng từ việc gia nhập WTO nên kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt

hàng tăng mạnh, đặc biệt là các sản phẩm của ngành nông-lâm-ngư nghiệp như gạo,

chè, cà phê, cao su… Giá của một số mặt hàng sắt, thép, phân bón … tăng hơn so

với dự toán (năm 2007:tăng thu từ giá khoảng 9.400 tỷ VNĐ, năm 2010 là khoảng

19.935 tỷ VNĐ). Các chính sách nhằm kiềm chế lạm phát như tăng mức thuế đối

với hàng tiêu dùng nhóm xa xỉ phẩm làm tăng số thu một cách đáng kể(điển hình

như mặt hàng ô tô nguyên chiếc 9 tháng đầu năm 2008 nhập khẩu 45.369 chiếc, số

thu tăng lên 11.070 tỷ VNĐ). Nhà máy lọc dầu Dung Quất được đưa vào hoạt động,

dầu thô đưa vào nhà máy tăng thuế GTGT qua các năm(2009: 2.000 tỷ VNĐ; 2010:

785 tỷ VNĐ). Từ giữa năm 2009, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi, nhiều

doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã thoát khỏi tình trạng hoạt động cầm chừng, tiến tới

phát triển kinh doanh cũng là một nguyên nhân góp phần làm tăng số thu thuế qua

các năm. Tuy nhiên, hoạt động này đang còn tồn tại nhiều hạn chế như công tác chỉ

đạo, kiểm tra thực hiện chính sách thuế, giá và các quy định khác về kiểm tra thu

thuế xuất nhập khẩu vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới, vẫn chưa

đơn giản thủ tục, chậm giải quyết xử lí nợ, làm khó khăn cho các doanh nghiệp

trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế. Tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn

chưa giải quyết dứt điểm, việc gian lận thương mại qua giá, đặc biệt là khâu khai

báo giá tính thuế của doanh nghiệp còn phổ biến, vẫn còn tồn tại tình trạng xác định

giá một mặt hàng nhập khẩu giữa các địa phương chênh lệch nhau quá nhiều nhưng

vẫn chưa được ngăn chặn gây thất thoát nguồn thu, chưa xây dựng được cơ sở dữ

liệu chuẩn về giá. Tình trạng quản lí nợ thuế ở các Cục hải quan địa phương bị

buông lỏng, Tổng cục chưa kiểm tra sát sao. Những nguyên nhân này đều đang

được ngành nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ và có hiệu quả nhất.

b,Công tác làm thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa:

Quy trình thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa hiện nay của nước ta được

đánh giá là cồng kềnh, phức tạp yêu cầu nhiều giấy tờ cùng với việc thay đổi văn

bản pháp luật trong một thời gian ngắn nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lí

nhưng vô hình chung gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Bên cạnh

đó, khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng về số lượng cũng như đa

dạng về chủng loại, phức tạp về xuất xứ đòi hỏi hải quan phải có những đổi mới kịp

thời, tăng hiệu quả phân loại hàng hóa cũng như rút ngắn được thời gian thông

quan. Chính vì vậy mà trong những năm trở lại đây, Tổng cục hải quan đã không

ngừng rà soát, xây dựng, tham mưu sửa đổi, bổ sung hàng loạt các văn bản quy

phạm pháp luật, quy trình thủ tục hải quan hướng đến mục tiêu cải cách thủ tục

hành chính, đơn giản hóa thủ tục tạo thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu.

Những thành tựu nổi bật mà ngành hải quan đã đạt được:

* Vận hành tốt hệ thống quản lí rủi ro, tự động phân luồng hàng hóa xuất

nhập khẩu thương mại. Tỉ lệ doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu chấp

hành tốt pháp luật về hải quan trên toàn quốc tăng, tỉ lệ tờ khai luồng đỏ (kiểm tra

thực tế hàng hóa) có xu hướng chiếm tỉ lệ thấp, càng về sau càng giảm. Cụ thể:

SỐ LIỆU PHÂN LUỒNG HÀNG HÓA 2007-2008

Năm 2007 Năm 2008 Mức thay đổi

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỷ lệ

Luồng xanh 1.220.232 50% 1.470.978 52% +250.746 +2%

Luồng vàng 690.318 28% 739.068 26% +48.750 -2%

Luồng đỏ 532.025 22% 645.697 23% +113.672 +1%

Tổng số 2.442.575 2.855.743 +413.168 +16.9%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 của Tổng cục hải quan)

Năm 2009, triển khai đề án nâng cấp hệ thống quản lí rủi ro áp dụng trong

lĩnh vực nghiệp vụ hải quan giai đoạn 2007-2010 phục vụ tốt cho việc vận hành hệ

thống quản lí rủi ro đồng bộ trong toàn ngành, giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa

xuống còn 17%, đạt chỉ tiêu đề ra tại Chỉ thị số 02/CT-BTC do Bộ Tài chính ban

hành ngày 04/08/2009 về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện cải cách hành chính,

hiện đại hóa ngành hải quan giai đoạn 2009-2010. Trong năm này, hệ thống quản lí

rủi ro đã cập nhật 1.024 tiêu chí, loại bỏ 1.017 tiêu chí. Trong 2.982.877 tờ khai đã

làm thủ tục, được hệ thống phân luồng như sau:

- Số tờ khai luồng xanh : 1.877.834, tăng 11% so với năm 2008.

- Số tờ khai luồng vàng: 601.419, giảm 5% so với năm 2008.

- Số tờ khai luồng đỏ: 503.624, giảm 6% so với năm 2008.

Kết quả phân luồng, kiểm tra hải quan trong năm 2010 cũng thu được nhiều

tiến bộ:

SỐ LIỆU PHÂN LUỒNG TỜ KHAI 2010

Số lượng tờ Năm 2010 Năm 2009 So với năm

khai 2009

Tổng số 3.167.537

Luồng xanh 1.217.484 38.44% 63.27% -28.83%

Luồng vàng 1.452.164 45.85% 19.82% +26.03%

Luồng đỏ 497.889 15.72% 16.91% -1.19%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của Tổng cục hải quan)

- Thời gian thông quan trung bình cho một lô hàng có chiều hướng rút

ngắn,giảm so với khi chưa thực hiện quản lí rủi ro. Điển hình như trong năm 2008,

tại Cục hải quan TP. Hà Nội, thời gian thông quan trung bình cho 01 lô hàng thuộc

luồng xanh là 20 phút (giảm 1/3 thời gian so với năm 2007); luồng vàng là 34,5

phút (giảm 1/3 thời gian so với năm 2007); luồng đỏ là 150 phút (giảm 1/3 thời gian

so với năm 2007). Đối với Cục hải quan TP. Hồ Chí Minh, thời gian thông quan

trung bình cho 01 lô hàng thuộc luồng xanh là 30 phút (giảm 10 phút so với năm

2007); luồng vàng là 60 phút (giảm 30 phút so với năm 2007) và luồng đỏ là 120

phút (giảm 30 phút so với năm 2007). Đến năm 2010, thời gian xử lí tổng thể về thủ

tục hải quan tại cảng biển (tính từ khi hàng đến, đến khi giải phóng hàng) là 7,78

ngày hoặc 186 giờ 48 phút (nếu đo theo giờ), giảm 7% so với năm 2004 (8,41

ngày); thời gian xử lí hải quan (kể từ khi đăng kí tờ khai hải quan đến khi giải

phóng hàng) tại cảng biển giảm từ 56 giờ 55 phút trong năm 2004 xuống còn 14 giờ

16 phút (giảm 75%) và tại cửa khẩu đường bộ là 1 giờ 50 phút, giảm 32% so với

năm 2004 (2 giờ 42 phút).

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào một số khâu khi làm thủ tục hải quan

như khai báo hải quan, nộp thuế… nhằm đơn giản hóa thủ tục, giảm bớt áp lực tại

các địa điểm khai báo và nộp tờ khai hải quan cũng như góp phần rút ngắn thời gian

thông quan. Điển hình như mở rộng khai báo từ xa cho 33 Cục hải quan trong toàn

quốc; đã hoàn tất việc triển khai khai hải quan từ xa trên phạm vi toàn quốc. Cho

đến nay đã có khoảng 85% đến 90% tờ khai được thực hiện bằng hình thức khai hải

quan từ xa và thủ tục hải quan điện tử. Thời gian thông quan trung bình: đối với

luồng xanh 3-15 phút; luồng vàng điện tử từ 10-20 phút; luồng vàng giấy từ 10-60

phút; luồng đỏ phụ thuộc thời gian kiểm tra thực tế hàng hóa. Thực hiện nâng cấp

hệ thống quản lí văn phòng bằng phần mềm NetOffice lên phiên bản 5.0 mới nhất

hiện nay nhằm nâng cao mức độ tự động hóa phục vụ công tác văn phòng, chỉ đạo

điều hành của các cấp cũng như cung cấp nhiều chức năng cho cán bộ hải quan

phục vụ tốt hơn công tác nghiệp vụ. Triển khai đề án xây dựng cổng thanh toán điện

tử giai đoạn I: xây dựng và ký các thỏa thuận hợp tác, trao đổi thông tin song

phương giữa Tổng cục hải quan và 03 Ngân hàng thương mại (BIDV,VietinBank,

AgriBank). Triển khai thu thử qua Kho bạc đối với VietinBank và BIDV tại Hải

Phòng và Quảng Ninh; triển khai thí điểm việc áp dụng chữ ký điện tử trong việc

trao đổi thông tin giữa hải quan và ngân hàng thương mại; triển khai mở rộng cấu

phần hải quan thuộc đề án hiện đại hóa quy trình thu nộp Ngân sách Nhà nước giữa

4 cơ quan Thuế - Hải quan-Kho bạc-Tài chính.

Tuy đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng công tác này vẫn đang còn

có một số tồn tại cần phải khắc phục như tỉ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa vẫn chưa

đạt được mục tiêu là giảm xuống còn 12% do nhiều mặt hàng tiêu dùng theo quy

định của Bộ Công thương thuộc danh mục hàng hóa phải kiểm tra Nhà nước về

chất lượng và danh mục hàng hóa phải kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm bị áp

dụng chuyển luồng đỏ để kiểm tra thực tế. Nhận thức về quản lí rủi ro, thu thập, xử

lí thông tin nghiệp vụ còn hạn chế, việc bố trí lực lượng, trang thiết bị, áp dụng biện

pháp nghiệp vụ ở một số đơn vị cơ sở còn chưa được đầy đủ. Công tác phối hợp

giữa các đơn vị trong ngành còn thiếu hiệu quả nhất là việc cập nhật, điều chỉnh

thông tin, tiêu chí quản lí rủi ro, phản hồi thông tin. Nguồn kinh phí phục vụ cho

quá trình ứng dụng công nghệ thông tin phải qua một quá trình phê duyệt nên gây

chậm tiến độ trong việc thực hiện.

c,Công tác xây dựng và phát triển các đại lí làm thủ tục hải quan:

Năm 2007, việc hình thành và phát triển hệ thống đại lí làm thủ tục hải quan

được đánh giá là đang còn chậm, vướng mắc trong quản lí chuyên ngành, đặc biệt

với một số mặt hàng như khoáng sản, than, nhập phế liệu, phế thải, trang thiết bị y

tế; gỗ xuất khẩu… Thủ tục và các điều kiện cấp thẻ cho nhân viên đại lí hải quan

còn mất nhiều thời gian và chưa hợp lí, không phù hợp với điều kiện thực tế nên

chưa đem lại nhiều lợi ích cho việc hỗ trợ các doanh nghiệp đăng kí làm đại lí hải

quan. Công tác này sang năm 2008 đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tổng cộng có 52

đại lí hải quan đăng ký trong đó xây dựng được 07/10 đại lí hải quan mẫu tại các

Cục hải quan thành phố Hải Phòng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Số tờ khai mà đại

lí hải quan làm thủ tục hải quan đã ký tên và đóng dấu vào khoảng 4.829 tờ khai.

Trình độ nghiệp vụ khai hải quan đã được nâng lên. Về phía cơ quan hải quan đã

thành lập tổ công tác chuyên trách giải quyết các vướng mắc và cung cấp thông tin

liên quan đến đại lí hải quan từ Tổng cục đến các Chi cục; đã có sự thay đổi nhận

thức về đại lí hải quan đối với doanh nghiệp và công chức hải quan. Tuy nhiên,

trong năm 2008 vẫn còn tồn tại một số vấn đề như số lượng đại lí mẫu chưa đáp ứng

được chỉ tiêu đề ra là 10 đại lí; các đại lí mẫu chưa có kế hoạch hoạt động cụ thể vì

vấn đề nhân lực chưa được đảm bảo. Nhiều doanh nghiệp đại lí vẫn làm dịch vụ

khai thuê cho khách hàng. Nguyên nhân bắt nguồn từ lí do chưa có cam kết cụ thể

về ưu tiên thủ tục hải quan và hỗ trợ từ phía cơ quan hải quan gắn với trách nhiệm

của đại lí hải quan. Công tác tuyên truyền giới thiệu về đại lí hải quan còn hạn chế.

Công tác đào tạo và thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ hải quan cho các nhân viên đại lí

hải quan chưa đáp ứng được yêu cầu. Tính đến cuối năm 2009, đã có 86 doanh

nghiệp được công nhận là đại lí làm thủ tục hải quan tại 11 Cục hải quan tỉnh, thành

phố (tăng lên 34 doanh nghiệp); cấp 224 thẻ nhân viên đại lí (tăng 54 thẻ). Xây

dựng được kế hoạch, lộ trình cụ thể để triển khai, chủ động trao đổi với doanh

nghiệp để nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc của các đại lí làm thủ tục hải

quan khi thàm thủ tục gặp phải để có hướng xử lí. Riêng tại Cục hải quan TP. Hải

Phòng và TP. Hồ Chí Minh các Chi cục đã thành lập tổ giải quyết vướng mắc liên

quan đến đại lí làm thủ tục hải quan do Chi cục trưởng trực tiếp chỉ đạo, có cửa

dành riêng để tiếp nhận hồ sơ hải quan do đại lí làm thủ tục hải quan làm thủ tục.

Hạn chế công tác này gặp phải vẫn là tình trạng số lượng doanh nghiệp làm thủ tục

hải quan thông qua các đại lí làm thủ tục hải quan còn ít; số lượng tờ khai do các đại

lí ký tên, đóng dấu không nhiều; nhiều đơn vị hải quan và chủ hàng chưa thực sự

quan tâm đến hoạt động của đại lí làm thủ tục hải quan. Một phần xuất phát từ hoạt

động của tổ giải quyết vướng mắc về đại lí làm thủ tục hải quan còn hạn chế; mặt

khác là do nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về đại lí làm thủ tục hải quan

và có phần chưa tin tưởng vào nghiệp vụ cũng như hiệu quả hoạt động của các đại lí

này. Có thể do công tác tuyên truyền, giới thiệu về đại lí làm thủ tục hải quan chưa

mang tính thuyết phục và hấp dẫn các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có

nhu cầu thuê dịch vụ hải quan. Số lượng đại lí làm thủ tục hải quan tăng lên con số

91 đại lí trong năm 2010 nhưng những bất cập trong hoạt động vẫn chưa có dấu

hiệu khắc phục triệt để. Tiềm năng của dịch vụ này cần phải được khai thác một

cách có hiệu quả hơn để góp phần giảm bớt gánh nặng cho công việc của cơ quan

hải quan.

d,Công tác hợp tác quốc tế:

Nằm ở ngã tư các mối quan hệ quốc tế phức tạp và đa dạng, Việt Nam có

nhiều cơ hội để mở rộng buôn bán quốc tế và cũng đứng trước nhiều nguy cơ tiềm

ẩn về buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới. Vì vậy, hải quan Việt Nam coi

trọng việc phát triển quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới cũng như các nước

trong khu vực với mục tiêu hoà bình và phát triển, thúc đẩy quan hệ đa dạng với hải

quan các nước phát triển và các Tổ chức Hải quan Quốc tế nhằm tạo môi trường

thuận lợi cho hợp tác, thương mại, đầu tư, xuất nhập khẩu và tăng cường hiệu quả

công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, góp phần giữ vững chủ quyền

quốc gia. Sau khi gia nhập WTO, công tác này càng được mở rộng và có nhiều nét

đột phá. Năm 2008, hoạt động hợp tác giữa hải quan Việt Nam với các nước đã góp

phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập và cải cách, hiện đại hóa ngành hải quan. Trong

thời gian này, cơ quan hải quan đã hoàn tất thủ tục xây dựng và ký kết dự án quản lí

rủi ro; dự án viện trợ máy soi container của Chính phủ Nhật Bản. Ngoài ra, chúng ta

còn triển khai được nhiều hoạt động trong khuôn khổ dự án ETV2, ký kết biên bản

ghi nhớ về hợp tác chống buôn lậu và tăng cường năng lực với một số quốc gia và

đối tác khác. Không những vậy, Tổng cục hải quan còn chủ trì tham gia đàm phán

hiệu quả trong WCO,WTO, APEC, ASEAN, GMS…Về vấn đề nâng cao trình độ

nghiệp vụ, hải quan Việt Nam đã triển khai tốt các chương trình hợp tác như kiểm

tra một lần, cơ chế một cửa, khung tiêu chuẩn FOS, kiểm soát xuất khẩu (EXBS),

an ninh container (CSI), tự động TRACKER, Megaports…Sang năm 2009, chúng

ta đã hoàn tất và ký kết thỏa thuận tạm quản với đối tác và biên bản thỏa thuận hợp

tác trao đổi thông tin chống buôn lậu (MOU) với hải quan Pháp, triển k hai đúng

tiến độ dự án 02 máy soi container cỡ lớn do Nhật Bản tài trợ tại TP. Hồ Chí Minh

và Hải Phòng, hoàn tất việc dự thảo các văn bản thỏa thuận hợp tác song phương để

có thể ký kết với New Zealand, Úc, Italia, Ucraina, Mỹ…Cơ quan hải quan còn chủ

trì nhóm liên bộ triển khai thí điểm thành công Chương trình phục hồi thương mại

(TRP) tại Việt Nam, chuẩn bị tốt các Hội nghị Tổng cục trưởng trong khuôn khổ

WCO, ASEAN, khu vực Châu Á Thái Bình Dương…Thành công trong hợp tác

quốc tế giữa hải quan nước ta với các nước bạn được nối tiếp trong năm 2010, thực

hiện đúng tiến độ, bắt nhịp được với yêu cầu, tiến trình hiện đại hóa của ngành.

Ngoài ra, nhiều hoạt động hợp tác quốc tế về những vấn đề nghiệp vụ đã đi vào

chiều sâu như việc thực hiện các cam kết hải quan trong khuôn khổ ASEAN,

APEC, WCO, ASEM, GMS và WTO. Các kết quả đạt được cụ thể như thực hiện tốt

các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế mà

hải quan Việt Nam đang là thành viên. Tổ chức thành công Hội nghị Nhóm làm

việc Hải quan ASEM lần thứ 4 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 04/2010, chuẩn bị

cho hội nghị Tổng cục trưởng hải quan ASEAN, các hội nghị có liên quan trong

năm chủ tịch ASEAN của Việt Nam, cuộc họp thường niên Hội đồng hợp tác hải

quan tại Brussels- Bỉ cũng như phối hợp tham gia Hội nghị Tổng cục trưởng Hải

quan khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Chúng ta còn thực hiện tốt các hoạt động

hợp tác song phương với các nước láng giềng, các nước công nghiệp phát triển, các

nước có quan hệ truyền thống với Việt Nam. Năm 2010 đã ký kết 02 Hiệp định hợp

tác và hỗ trợ hành chính về hải quan cấp Chính phủ với Ucraina và Nga và 02 thỏa

thuận hơp tác hải quan cấp ngành với hải quan New Zealand và hải quan

Ucraina.Đạt được nhiều thành công nhưng công tác này đang vấp phải một số trở

ngại như một số thỏa thuận hợp tác song phương phụ thuộc vào tiến độ đàm phán

với các đối tác như Nga, Úc, Iran; một số chương trình hợp tác, hội nhập trong các

tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC tùy thuộc tiến độ triển khai chung của các khối

nên nhiều cam kết quốc tế và hải quan Việt Nam đã tham gia còn chậm triển khai

thực hiện. Nguyên nhân còn xuất phát từ chính nhận thức chung của cán bộ trong

Tổng cục về công tác hợp tác và hội nhập quốc tế còn đơn giản, phân giao nhiệm vụ

trong đàm phán, theo dõi các hoạt động hợp tác quốc tế chưa rõ ràng.Chúng ta

không thể phủ nhận thái độ chưa chủ động, tích cực , kịp thời xử lí các vấn đề đoàn

ra, đôn đốc tiến độ thực hiện các cam kết quốc tế, thông tin tuyên truyền về hợp tác

và hội nhập quốc tế gây ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác này.Hải quan Việt

Nam đang lên kế hoạch dần hoàn thiện cơ chế hợp tác với hải quan nước bạn cũng

như các tổ chức quốc tế để hiện đại hóa quá trình làm thủ tục hải quan, rút ngắn thời

gian thông quan, giảm bớt tình trạng gian lận thương mại, qua đó nâng cao uy tín và

thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

2.3.3. Tình hình tác động của hoạt động hải quan đến dịch vụ giao nhận vận

tải hàng hóa

Hoạt động hải quan trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu đáng

tự hào, góp phần thúc đẩy buôn bán quốc tế, thông qua đó hỗ trợ cho dịch vụ giao

nhận vận tải hàng hóa quốc tế có cơ hội phát triển. Theo số liệu thống kê của Tổng

cục hải quan, tính đến tháng 11/2008, cơ quan hải quan đã làm thủ tục cho

2.990.000 tờ khai xuất nhập khẩu (tăng 15,32% so với cùng kỳ năm 2007); làm thủ

tục cho 431.035 lượng phương tiện xuất nhập cảnh (tăng 14,9% so với cùng kỳ năm

2007). Đến năm 2010, con số này đã tăng lên 3.167.537 tờ khai với với tổng trị giá

là 155,63 tỷ USD. Cũng trong năm qua, hải quan Việt Nam đã ứng dụng nhiều biện

pháp kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu hiện đại như tiếp nhận và vận hành 01 hệ

thống máy soi container do Nhật Bản tài trợ tại cảng Cát Lái, TP.Hồ Chí Minh, tiếp

tục triển khai trang bị máy soi container cho một số Cục hải quan tỉnh, thành phố có

lưu lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu lớn, như Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai,

Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương. Tiến hành lắp đặt hệ thống camera giám sát tại các

cảng biển: Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, cửa khẩu đường bộ Lao Bảo(Quảng

Trị), Mộc Bài (Tây Ninh) và cải tạo hệ thống camera giám sát tại các sân bay quốc

tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Nhờ áp dụng các biện pháp trên mà thời gian kiểm tra

các lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu giảm xuống đáng kể, giúp cho thời gian thông

quan được rút ngắn. Số lượng xử lí tờ khai tăng lên kèm theo thời gian thông quan

trung bình cho 01 lô hàng giảm xuống đã làm tăng khối lượng hàng hóa đi qua cửa

khẩu trên toàn quốc. Không những vậy, cơ quan hải quan còn xây dựng và tổ chức

kiểm tra thực tế hàng hóa tại địa điểm kiểm tra tập trung tại một số địa phương

trọng điểm như Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh, đồng thời

chỉ đạo 14 Cục Hải quan địa phương khác tiếp tục xây dựng và phải hoàn thành ít

nhất thêm 4-5 địa điểm kiểm tra tập trung tại các địa bàn trọng điểm trong năm

2011. Theo qui định của thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận tải đa phương thức

thì thời hạn tiếp nhận, đăng ký, kiểm tra hồ sơ hải quan phải là ngay sau khi người

khai hải quan nộp, xuất trình hồ sơ hải quan đúng quy định của pháp luật (Khoản 1,

Điều 19 Luật Hải quan) và thời hạn hoàn thành thành kiểm tra thực tế hàng hóa,

phương tiện vận tải chậm nhất là 08 giờ làm việc đối với lô hàng xuất khẩu, nhập

khẩu áp dụng hình thức kiểm tra thực tế một phần hàng hóa theo xác suất;chậm nhất

là 02 ngày làm việc đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng hình thực kiểm

tra thực tế toàn bộ hàng hóa. Trong trường hợp áp dụng hình thức kiểm tra thực tế

tòan bộ hàng hóa mà lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu có số lượng lớn, việc kiểm tra

phức tạp thì thời hạn kiểm tra có thể được gia hạn nhưng không quá 08 giờ làm

việc. Nếu không bổ sung kịp thời các điểm kiểm tra tập trung như trên thì không thể

đẩy nhanh tốc độ hoàn thành các dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa đúng hạn.

Dịch vụ giao nhận vận tải có liên quan đến hoạt động hải quan thông thường

là các dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế. Dịch vụ này thường mất nhiều thời gian ở

khâu vận chuyển hàng hóa qua biên giới, lãnh thổ các quốc gia thông qua cửa khẩu

đường bộ khi hải quan hai phía đều tiến hành kiểm tra, làm thủ tục riêng lẻ. Nắm

bắt được khó khăn này, hải quan Việt Nam đã và đang tiến hành hợp tác sâu rộng

hơn với hải quan các nước có chung đường biên giới như Lào, Campuchia và Trung

Quốc để tạo thuận lợi cho hoạt động thông thương hàng hóa được triển khai nhanh

chóng hơn. Cụ thể như trong khuôn khổ hợp tác khu vực Tiểu vùng sông Mê kông

mở rộng (GMS), Chính phủ hai nước Việt Nam và Campuchia đã ký kết Bản ghi

nhớ về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải người và hàng hóa qua biên giới tại cặp

cửa khẩu Mộc Bài – Ba Vet vào ngày 02/06/2009. Thực hiện Bản ghi nhớ giữa hai

Chính phủ, sau một thời gian trao đổi, hải quan hai nước đã thống nhất nội dung

thỏa thuận về triển khai bước một kiểm tra "một cửa, một điểm dừng" tại Mộc Bài –

Ba Vet.Bản ghi nhớ này được mở rộng đối với Lào (Lao Bảo-Đensavanh) và Trung

Quốc (Lào Cai-Hà Khẩu) với 4 giai đoạn như sau:

- Giai đoạn 1 : Tại địa điểm kiểm tra chung nước xuất khẩu, hải quan kiểm

tra hồ sơ hàng xuất khẩu. Hải quan 2 nước phối hợp kiểm tra với hàng nhập khẩu tại

địa điểm chung nước nhập khẩu (mỗi địa điểm chung đặt trên một nước) và theo qui

định pháp luật của từng nước. Các thủ tục khác (hộ chiếu, y tế, kiểm dịch, chất

lượng…) tiến hành bình thường.

- Giai đoạn 2: Hải quan tiến hành kiểm tra 1 lần, nghĩa là không kiểm tra

hàng xuất khẩu, hải quan 2 bên phối hợp kiểm tra khi hàng nhập khẩu tại địa điểm

chung ở nước nhập khẩu, các thủ tục kiểm tra khác vẫn tiến hành bình thường.

- Giai đoạn 3: Hai bên tiến hành kiểm tra một lần với thủ tục hải quan, kiểm

dịch, y tế..v.v.. tại địa điểm chung ở nước nhập khẩu, thủ tục xuất nhập cảnh tiến

hành bình thường.

- Giai đoạn 4: Thực hiện kiểm tra 1 lần với tất cả các thủ tục liên quan tại

địa điểm kiểm tra chung của nước nhập khẩu.

Tuy nhiên, mô hình áp dụng giữa Việt Nam với từng nước có khác nhau tùy

thuộc quy định pháp lí của từng nước và mối quan hệ, thông lệ thương mại vốn có.

Kiểm tra 1 lần đòi hỏi có sự hài hòa cao về tất cả các phương diện như thủ tục hải

quan, giấy tờ chứng từ, hệ thống hạ tầng thông tin và áp dụng triệt để công nghệ

thông tin. Giai đoạn 4 sau khi hoàn thành xong sẽ có tác dụng lớn trong việc thúc

đẩy hoạt động của dịch vụ giao nhận vận tải với các nước láng giềng cũng như với

các tuyến vận tải đường bộ quốc tế.

Song song với các hoạt động trên, vấn đề nâng cao năng lực, nghiệp vụ và

đạo đức của nhân viên ngành hải quan cũng có tác động tích cực đến việc giải

phóng hàng hóa. Năm 2010, ngành đã hoàn thành việc triển khai Đề án 220 phần

đào tạo tiếng Anh nâng cao cho cán bộ, công chức hải quan; tổ chức cho khoảng

240 đoàn với khoàng 565 lượt cán bộ, công chức tham gia hội nghị, hội thảo, học

tập, công tác tại nước ngoài; làm các thủ tục chọn cử trên 750 lượt cán bộ, công

chức tham dự các lớp lý luận chính trị và quản lí Nhà nước do Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh và Tổng cục hải quan phối hợp tổ chức. Đã có trên 5.890

lượt cán bộ, công chức tham dự các khóa bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ như

phân tích phân loại, xác định trị giá, kiểm tra sau thông quan, kiểm soát hải quan…

do Tổng cụ, đơn vị và đơn vị khác tổ chức. Đến 30/11/2010, Trường Hải quan Việt

Nam đã tổ chức đào tạo cho 1.961 lượt cán bộ, công chức, trong đó có 4 lớp bồi

dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu dài hạn với 119 lượt cán bộ công chức, 22

lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu ngắn hạn với số lượng 1.133 lượt cán

bộ công chức. Trong quá trình thông quan hàng hóa, công nghệ thông tin đã được

ứng dụng một phần và đang được phổ biến rộng rãi, công tác nâng cao trình độ của

nhân viên hải quan là một phần không thể thiếu khi muốn công tác này được hoàn

thiện và có kết quả thiết thực. Chỉ khi mỗi công đoạn của hoạt động hải quan được

tiến hành trôi chảy thì dịch vụ giao nhận và vận tải hàng hóa quốc tế mới có cơ hội

phát triển ở thị trường Việt Nam. Những tác động của hoạt động này đối với dịch vụ

giao nhận vận tải có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn

nhưng nhìn chung, hải quan Việt Nam đã không ngừng đổi mới giúp cho dịch vụ

giao nhận vận tải còn non trẻ dần trở nên lớn mạnh.

2.4. Đánh giá chung về tác động của hoạt động hải quan đến sự phát triển

của dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa

2.4.1. Những tác động tích cực

- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lí, thông quan

hàng hóa cũng như kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi cho các

doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu cũng như các hãng giao nhận và

vận tải trong và ngoài nước. Thực hiện toàn diện kế hoạch triển khai thực hiện Đề

án 30 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2 (giai đoạn rà soát), phối hợp với các

đơn vị trong và ngoài ngành hiệu quả được Bộ đánh giá cao. Cụ thể hơn, ngành đã

cải cách đơn giản hóa quy trình thủ tục hải quan, rà soát, xây dựng, tham mưu sửa

đổi, bổ sung hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình thủ thục hải quan

hướng đến mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời

gian thông quan, tạo thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và xuất

nhập cảnh các phương tiện giao thông vận tải.

- Chú trọng và thực hiện tốt công tác tuyên truyền hỗ trợ cung cấp thông tin

với nội dung hỗ trợ đa dạng, nhiều vướng mắc của doanh nghiệp đã được tháo gỡ,

hỗ trợ kịp thời, giải quyết ngay tại cấp cơ sở. Nhiều thông tin về các qui định về

lĩnh vực hải quan được công bố rộng rãi qua nhiều phương tiện, giúp cho người

khai hải quan cũng như người làm dịch vụ giao nhận vận tải dễ dàng tiếp cận với

các thông tin, quy định của pháp luật, từ đó thực hiện theo đúng qui định, giảm thời

gian thông quan và tránh những sai phạm không đáng có. Khi đã có đầy đủ thông

tin, dịch vụ giao nhận vận tải thuận lợi hơn trong khi hoạt động, định hướng làm

việc rõ ràng và chính thống.

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hải quan, đảm bảo hạ tầng

mạng, trang thiết bị công nghệ thông tin, an ninh, an toàn bảo mật. Duy trì an toàn

thông suốt hệ thống mạng diện rộng WAN ngành hải quan và hệ thống mạng LAN

tại cơ quan Tổng cục hải quan; từng bước hoàn thành cơ sở dữ liệu về áp mã hàng

hóa và hệ thống biểu thuế kèm theo, thu thập mẫu phân tích phân loại hàng hóa

nhằm giảm thời gian kiểm tra tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu nhưng vẫn bảo đảm

thu đúng, thu đủ thuế; tạo điều kiện cho công tác kiểm tra sau thông quan và hạn

chế thấp nhất những phiền phức không đáng có cho doanh nghiệp.

- Công tác đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên hải quan được tiến

hành sâu rộng và có nhiều đổi mới. Nhiều chương trình nâng cao thái độ phục vụ và

tinh thần trách nhiệm cho cán bộ công chức hải quan cũng như nhân viên làm đại lí

hải quan được xây dựng và triển khai đồng bộ. Thiết lập nhiều kênh thông tin phản

ánh những biểu hiện thiếu trung thực, đi ngược với những qui định của pháp luật về

lĩnh vực hải quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực liên quan

đến xuất nhập khẩu có cơ hội thể hiện ý kiến của mình, hạn chế tiêu cực trong quá

trình thông quan hàng hóa.

- Hợp tác quốc tế bắt nhịp được với yêu cầu, chú trọng hợp tác với các quốc

gia có chung đường biên giới, hoàn thiện các hiệp định song phương và đa phương

có liên quan đến dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế, giao nhận vận tải đa phương

thức; chú trọng nhiều đến các văn bản, quy định quốc tế đến giao nhận vận tải bằng

đường biển.

2.4.2. Những tác động tiêu cực

- Quy trình thủ tục hải quan vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập. Mặc dù đã

ứng dụng công nghệ thông tin vào khai báo hải quan, áp dụng hải quan điện tử

nhưng việc triển khai trong điều kiện thực tế ở Việt Nam còn kém hiệu quả do trình

độ nhận thức của cả cơ quan hải quan lẫn doanh nghiệp còn chưa cao. Hệ thống qui

phạm pháp luật được xây dựng qui mô nhưng một số qui định có thời gian hiệu lực

ngắn, cách hiểu của mỗi đơn vị tham gia khác nhau dẫn đến sự lúng túng của các

doanh nghiệp. Tỉ lệ các lô hàng xuất nhập khẩu phải kiểm tra thực tế có giảm, tuy

chưa đạt được theo đúng chỉ tiêu, yêu cầu đề ra của Tổng cục hải quan.

- Lực lượng tham gia giải quyết trực tiếp các công việc liên quan đến thông

quan hàng hóa còn mỏng, kể cả công chức hải quan lẫn nhân viên làm đại lí hải

quan. Một bộ phận nhỏ chưa cập nhật hết các qui định mới ban hành và ý thức, thái

độ phục vụ còn hạn chế. Trong thời gian gần đây, số vụ việc tiêu cực của cán bộ và

nhân viên hải quan tuy có giảm nhưng vẫn gây nhiều khó khăn trong hoạt động của

nhiều công ty cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải vì thời gian thông quan bị kéo dài,

chi phí ngoài luồng vẫn còn xuất hiện.Việc làm thủ tục hải quan ở một số chi cục

vẫn tiếp tục bị kêu ca, phàn nàn, thái độ tác phong của một số cán bộ công chức

chưa được chấn chỉnh, uốn nắn theo quy chế giao tiếp lịch sự, văn minh nơi công

sở.

- Cơ sở vật chất hạ tầng tại các điểm làm thủ tục hải quan đường bộ chủ yếu

nằm ở các địa thế hiểm yếu, tuy đã được đầu tư nhưng chưa tương xứng với tốc độ

phát triển của dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế. Đặc biệt, một số khu vực hải quan

này lại chưa được trang bị các phương tiện kĩ thuật hiện đại nhằm phục vụ cho mục

đích kiểm tra, kiểm soát hàng hóa được dễ dàng. Nhiều mặt hàng đưa ra phục vụ thị

trường có tính chất thời vụ dẫn đến việc khó khăn trong bố trí lực lượng hải quan.

Bên cạnh đó, lưu lượng hàng hóa tăng nhanh, doanh nghiệp mới xuất hiện nhiều,

trong khi áp dụng cơ chế quản lí thông thoáng trên cơ sở quản lí rủi ro, miễn kiểm

tra nhiều, thông quan hàng hóa nhanh mâu thuẫn với năng lực thu thập, phân tích xử

lí thông tin chưa cao nên hiệu quả công tác kiểm tra giám sát không cao.

- Công tác tuyên truyền gặp phải nhiều trở ngại khi nhiều qui định về thủ tục

hải quan còn chưa được công khai rõ ràng. Kết quả thu được tập trung vào một số

đợt phát động và các chi cục kiểu mẫu. Trình độ ngoại ngữ còn hạn chế cũng tác

động xấu đến công tác hướng dẫn cho các doanh nghiệp giao nhận vận tải nào khi

mới gia nhập vào thị trường Việt Nam. Nhân sự phục vụ thiếu tính chuyên nghiệp

và chuyên môn về báo chí, tuyên truyền.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN NHẰM

TẠO THUẬN LỢI TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ GIAO

NHẬN VẬN TẢI Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng hoạt động hải quan trong những năm tới

3.1.1. Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam

a,Tình hình kinh tế thế giới trong những năm tới:

Thời kỳ khủng hoảng nhất của kinh tế thế giới gần như đã lùi lại đằng sau.

Mặc dù còn nhiều lo ngại, nhưng sự hồi phục kinh tế đang được hỗ trợ bởi chính

sách tiền tệ và tài khoá thông thoáng hơn. Những nền kinh tế mới nổi và đang phát

triển sẽ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Chiến lược hiện thực hoá

lợi nhuận đã và đang được áp dụng sớm ở các nền kinh tế phát triển là một trong

những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu.

Tuy thời kì khó khăn với nhiều biến động của nền kinh tế toàn cầu đã đi qua,

nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn còn lo ngại với thực trạng không mấy sáng sủa. Điều

này thể hiện ở việc: tăng trưởng kinh tế chậm ở Mỹ, sức cầu từ doanh nghiệp tăng

trưởng mạnh hơn và yếu hơn từ các hộ gia đình, tăng trưởng kinh tế Mỹ không còn

được hỗ trợ bởi việc điều chỉnh hàng tồn kho, chu kỳ kinh doanh có xu hướng dài

hơn chu kỳ hàng tồn kho và GDP được kéo bởi việc đầu tư vào nhà ở trong ngắn

hạn.Các điều kiện thuận lợi được duy trì, đặc biệt với các nền kinh tế mới nổi và

đang phát triển. Chính sách tiền tệ thông thoáng hơn ở các nước phát triển có khả

năng lan rộng ra toàn cầu và bù đắp cho chính sách thắt chặt ở các nền kinh tế mới

nổi và đang phát triển.Tuy các nền kinh tế Châu Âu bắt đầu thắt chặt chính sách tài

khoá, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vẫn cần tiếp tục dùng nguồn lực

trong nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Sự phát triển của tầng lớp trung lưu và thượng

lưu ở các nền kinh tế thứ 3 cũng là một yếu tố tích cực.Tốc độ tăng trưởng tại các

nền kinh tế thứ cấp cao hơn ở các nền kinh tế cao cấp. Các nền kinh tế mới nổi và

đang phát triển tiếp tục đóng vai trò quan trọng hơn. Sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu

càng thuận lợi hơn với khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Tuy nhiên, việc hiện thực

hoá lợi nhuận sớm làm giảm tính thanh khoản là một rủi ro với sự hồi phục kinh tế

cầu. toàn

Có thể nói, kinh tế thế giới hiện nay xuất hiện 3 nguồn lực mới. Thứ nhất,

nền kinh tế các nước châu Á tiếp tục tăng trưởng mạnh trong khi các thị trường phát

triển như Mỹ, châu Âu, Nhật lại có sức bật yếu hơn. Với môi trường lãi suất tích

cực, xu thế này có thể sẽ còn tiếp tục được duy trì trong thời gian tới. Thứ hai, bên

cạnh Nhật Bản, Trung Quốc đã trở thành một “quyền lực” mới ở châu Á. Hiện nay,

Nhật đã và đang tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và điều này sẽ

khiến cho trao đổi mậu dịch liên khu vực rất có thể sẽ tăng trong thời gian tới. Các

nước châu Âu chủ yếu hoạt động mậu dịch nội khối.Thứ ba, phần doanh thu từ

nước ngoài tiếp tục tăng trong khu vực sản xuất. Xuất khẩu sang các nước châu Á

tăng trong những năm gần đây. Các nhà xuất khẩu Nhật có lợi từ sự tăng trưởng

mạnh của châu Á. Chính những nguồn lực mới này đã tạo ra những chuyển biến

đáng kể. Động lực chính của sự phát triển kinh tế chung là sự hình thành vốn xuất

phát ban đầu từ ODA và FDI, gần đây từ cả chi tiêu vốn công cộng và vốn tư nhân.

Ngoài ra, Trung Quốc đang trở thành một trong nguồn lực thúc đẩy sự phát triển

của châu Á. Chúng ta hi vọng rằng từ một nền kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư,

Trung Quốc sẽ dần chuyển sang một nền kinh tế với người tiêu dùng làm động lực

thúc đẩy chính, hấp dẫn ngày càng nhiều nhà sản xuất trên toàn thế giới và trở thành

thị trường tiêu thụ chính của toàn cầu.

b,Tình hình Việt Nam trong những năm tới:

Triển vọng kinh tế Việt Nam những năm tiếp theo phụ thuộc vào ba yếu tố

chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong

nước và sự điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi

thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả ba yếu tố trên.

Trong ngắn hạn, năm 2011 sẽ tiếp tục chứng kiến sự phục hồi ở những nền

kinh tế trên thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục

nhanh hơn sau khi có sự phục hồi chậm trong năm 2010. Hơn nữa, Việt Nam vẫn

được đánh giá là một trong những thị trường đầu tư hấp dẫn và nhiều doanh nghiệp

đầu tư nước ngoài có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tới.

Những điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam

để có thể duy trì tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2011. Tuy nhiên, xuất khẩu

của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng

những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại

tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt

hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.

Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô và những yếu kém trong nội tại nền

kinh tế sẽ trở thành thách thức lớn cho phát triển kinh tế. Trước hết, những nhân tố

tiềm ẩn lạm phát vẫn tiếp tục trong năm 2011. Đó là giá cả thị trường thế giới sẽ

tăng khi kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, chính sách điều chỉnh tăng lương sẽ tạo

ra tâm lý và lý do để thị trường tăng giá hàng hóa tiêu dùng, tỷ giá biến động, đầu tư

công chưa hiệu quả và bội chi ngân sách tiếp tục gây sức ép lên lạm phát… Thứ hai,

mặc dù tình trạng nhập siêu đã được cải thiện nhưng chưa tạo được nền tảng vững

chắc. Tình trạng này chắc chắn không dễ giải quyết trong ngắn hạn khi cơ cấu kinh

tế kém hiệu quả, công nghiệp phụ trợ yếu kém và nguyên phụ liệu, máy móc, thiết

bị, phụ tùng còn phụ thuộc khá nặng nề vào nước ngoài. Thứ ba, bội chi ngân sách

cũng là áp lực cần giải quyết. Với mức bội chi cao và nếu nguồn vốn bù đắp ngân

sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu

cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng… Bội chi vẫn là thách thức khi

chưa có những biện pháp nghiêm khắc và cụ thể để giải quyết thông qua việc nâng

cao hiệu quả đầu tư từ Ngân sách Nhà nước và tiết kiệm chi thường xuyên. Trong

bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi, hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện dấu

hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các khoản chi tiêu của chính phủ không tạo

nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới. Thứ tư, đồng nội tệ sẽ

tiếp tục bị áp lực giảm giá trong thời gian tới vì lạm phát của Việt Nam luôn ở mức

cao hơn so với khu vực và thế giới và Ngân hàng Nhà nước không thể dùng dự trữ

ngoại hối ít ỏi để can thiệp mạnh theo nhu cầu vì cần ngoại tệ để giải quyết các nhu

cầu thiết yếu khác. Thứ năm, những “nút thắt” của tăng trưởng kinh tế như cơ sở hạ

tầng, trình độ nguồn nhân lực và cải cách hành chính vẫn chưa có sự chuyển biến rõ

rệt. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của các nhà đầu tư trong và

ngoài nước mà còn cản trở lớn đến tăng trưởng kinh tế theo hướng hiệu quả và bền

vững trong các năm tiếp theo.

Về điều hành kinh tế vĩ mô, hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để

tác động đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách

cán cân thanh toán. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các chính sách đó còn lúng túng và

thiếu linh hoạt. Nhiều chính sách mang nặng tính hành chính và thiếu kết hợp với

các giải pháp dựa trên nguyên tắc thị trường. Hơn nữa, các cơ quan quản lý Nhà

nước còn đưa ra các giải pháp mang tính tình thế, giật cục, thiếu sự minh bạch và

nhất quán làm giảm lòng tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Năng lực dự

báo kém cộng với dự kiến các biện pháp ứng phó với diễn biến kinh tế thấp kém

cũng là những hạn chế quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nói chung, bối cảnh kinh tế Việt

Nam trong những năm tiếp theo còn có nhiều thách thức cần phải giải quyết, tìm ra

định hướng đúng đắn cho phát triển kinh tế không chỉ trong ngắn hạn mà cả dài hạn.

3.1.2. Yêu cầu và nhiệm vụ hải quan Việt Nam trong tình hình mới

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan, tiếp tục tạo thuận lợi

cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Ngành phải tiếp tục tăng cường rà soát, đơn giản

hóa thủ tục hải quan, giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa xuống dưới 15%, nâng

cao chất lượng hiệu quả kiểm tra, giảm thời gian thông quan, tạo thuận lợi xuất

khẩu, kiểm soát chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó,

phải tiến hành xem xét bộ tiêu chí quản lí rủi ro, loại bỏ tiêu chí không phù hợp,

tăng cường thu thập, phân tích thông tin từ bản lược khai hàng hóa, thông tin từ

chương trình quản lí tờ khai và thông tin khác.

- Tập trung nâng cao hiệu quả công tác giám sát quản lí, đặc biệt chú trọng

đến việc quản lí phải gắn với giám sát tại khu vực cảng biển, sân bay quốc tế, cửa

khẩu quốc tế đường bộ; công tác giám sát quản lí gắn với việc sử dụng các trang

thiết bị hiện đại như máy soi container, cân điện tử, camera giám sát… Quy hoạch

các địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung đến năm 2015 tại các cảng biển, khu vực

có lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu lớn theo hướng hiện đại hóa(về quy mô,

trang thiết bị giám sát cũng như quy trình giám sát).

- Nghiên cứu, tìm hiểu thời gian thông quan trung bình một lô hàng của các

nước trong khu vực, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan (Giao thông

vận tải, Y tế, Kiểm dịch…) để thống nhất, chuẩn hóa về tiêu chuẩn kỹ thuật, hệ

thống hạ tầng quản lí công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng tại các cửa khẩu đường

bộ, cảng biển, cảng hàng không nhằm rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, nâng

cao khả năng cảnh tranh cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam.

- Xây dựng chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động hải quan: nghiên cứu, đánh

giá hiệu quả hoạt động của các Cục hải quan địa phương theo các tiêu chí sau: nhận

thức của khách hàng về hoạt động của hải quan; tỷ lệ tổng số thu/tổng số chi cho

cán bộ công chức hải quan; Số tờ khai/số cán bộ; thời gian thông quan trung bình; tỉ

lệ kiểm tra thực tế và số thuế thu được, truy thu từ các hoạt động nghiệp vụ hải

quan.

- Thống nhất mô hình thông quan điện tử với sự hỗ trợ của các phương tiện

kỹ thuật hiện đại như các thiết bị kiểm tra không xâm nhập, hệ thống định vị và

kiểm soát container từ xa… để hoàn thiện quy trình thủ tục hải quan, đồng thời tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu.Đẩy mạnh công tác

xử lý lỗi và sớm hoàn thiện các phần mềm theo loại hình hàng hóa xuất nhập khẩu,

triển khai hạ tầng công nghệ phục vụ cho mở rộng thủ tục hải quan điện tử cho các

địa bàn mới triển khai; xây dựng chuẩn trao đổi dữ liệu với cộng đồng doanh

nghiệp.

- Mở rộng công tác hợp tác quốc tế với các cơ quan hải quan trên thế giới,

phối hợp hoạt động theo chuẩn quốc tế và tránh kiểm tra hàng hóa hai lần trên cơ sở

tin tưởng tiêu chí kiểm tra của các bên. Chủ động thực hiện có hiệu quả những cam

kết quốc tế cùng với cơ chế một cửa quốc gia và ASEAN. Thường xuyên trao đổi,

chia sẻ thông tin nghiệp vụ cũng như hàng hóa xuất nhập khẩu có những dấu hiệu

đặc biệt cần chú ý trong công tác kiểm tra, kiểm soát.

3.2.Phương hướng phát triển thương mại quốc tế và các dịch vụ vận tải

của Việt Nam giai đoạn từ nay cho đến năm 2020

3.2.1. Những điều kiện thuận lợi

- Kinh tế thế giới đang chuyển dần từ giai đoạn phục hồi mạnh mẽ sau thời kì

khủng hoảng sang giai đoạn tăng trưởng chậm hơn nhưng vững chắc trong nhiều

năm tới. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng GDP toàn cầu, tăng 3,9% vào năm 2010,

sẽ giảm xuống 3,3% vào năm 2011 trước khi đạt mức 3,6% vào năm 2012. Các

nước đang phát triển được dự tính sẽ tăng trưởng 7% vào năm 2010, 6% vào năm

2011 và 6,1% vào năm 2012. Các nước này sẽ tiếp tục vượt các nước thu nhập cao

về tăng trưởng vì các nước có thu nhập cao có mức độ tăng trưởng dự kiến chỉ đạt

2,8% năm 2010, 2,4% vào năm 2011 và 2,7% vào năm 2012. Điều này chứng tỏ thị

trường hàng hóa và dịch vụ còn rộng mở không những đối với những nước có nền

kinh tế phát triển mà còn đối với những nước đang phát triển với lợi thế dân cư lớn

và nhu cầu sử dụng hàng hóa ngày một tăng nhanh. Nhu cầu của thị trường lớn tạo

ra cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như dịch

vụ giao nhận vận tải hàng hóa đẩy mạnh đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng

hóa, dịch vụ, chăm sóc khách hàng nhằm tăng khả năng cạnh tranh cũng như thu

nhập của các doanh nghiệp.

- Thương mại thế giới ngày càng một phát triển giúp cho các doanh nghiệp

có thể hạn chế được sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống khi ở các thị

trường này vấp phải sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp mới. Doanh nghiệp sản xuất

không chỉ đơn thuần cung cấp hàng hóa cho thị trường nội địa mà còn vươn ra các

thị trường khu vực và thế giới hoặc có thể chuyển hẳn sang hình thức kinh doanh

chuyên xuất khẩu hàng hóa. Đa dạng hóa thị trường còn giảm bớt rủi ro cho các

doanh nghiệp khi thị trường truyền thống có những biến động hoặc sụt giảm trong

nhu cầu tiêu dùng, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có khả năng phân bổ nguồn

vốn một cách hiệu quả và an toàn. Khi thị trường đã bão hòa hoặc không còn khả

năng tiêu thụ một loại hình sản phẩm, tìm kiếm một thị trường mới là yếu tố quan

trọng trong việc nâng cao lợi nhuận cũng như kéo dài chu kì sống của sản phẩm,

giúp cho doanh nghiệp sản xuất có thời gian nghiên cứu và tung ra thị trường những

sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Mở rộng thị

trường đồng nghĩa với việc mở rộng dịch vụ giao nhận vận tải tới nhiều thị trường

trên toàn thế giới. Tuy nhiên, lợi ích từ các thị trường mới cần phải có thời gian

đánh giá một cách toàn diện từ nhiều góc độ khác nhau.

- Xu hướng sử dụng thương mại điện tử ngày càng phát triển với ưu điểm tiết

kiệm thời gian, mở rộng thị trường với chi phí thấp, đặc biệt là khả năng hội nhập

với nền kinh tế quốc tế sâu rộng kết hợp với phương thức thanh toán đơn giản, dễ

dàng. Các phương tiện điện tử như Internet/web giúp cho các doanh nghiệp nắm

được thông tin phong phú về thị trường, từ đó có thể xây dựng được chiến lược sản

xuất, kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của của thị trường trong nước, khu

vực và quốc tế. Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối

quan hệ giữa các nhân tố tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng, các

đối tượng tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau nhờ đó sự hợp tác

lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục; tạo điều kiện tìm kiếm

các bạn hàng mới, cơ hội kinh doanh mới trên bình diện toàn quốc, khu vực và thế

giới. Ngoài ra, giúp cho các doanh nghiệp tiếp xúc với nhiều thông tin, kiến thức

kinh doanh và khoa học kĩ thuật hiện đại trên thế giới. Thương mại điện tử rút ngắn

khoảng cách giữa người cung cấp dịch vụ với khách hàng, giúp khách hàng có khả

năng so sánh giá cả và chất lượng dịch vụ của nhiều hãng giao nhận vận tải khác

nhau, từ đó đưa ra được quyết định đúng đắn.

- Trong thời gian tới, nhiều rào cản thương mại tiếp tục được dỡ bỏ, tạo điều

kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào thị trường nội địa, tạo

nhiều cơ hội việc làm và nhiều nguồn lợi cho nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, sẽ

có sự chuyển dịch rõ rệt trong xu hướng đầu tư của doanh nhân nước ngoài khi xu

hướng đầu tư vào các ngành sản xuất, chế tác giảm để dành sự quan tâm nhiều hơn

cho những ngành nghề thuộc lĩnh vực dịch vụ. Ngoài khuyến khích đầu tư nước

ngoài mạnh vào các lĩnh vực ngành nghề truyền thống như đào tạo, y tế, du lịch;

trong những năm tới đây, những ngành nghề nhạy cảm như ngân hàng, tài chính,

vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá được mở cửa rộng hơn đúng như

cam kết khi gia nhập WTO. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực giao nhận

vận tải với 100% vốn nước ngoài sẽ được phép thành lập tạo nên một môi trường

kinh doanh cạnh tranh, thúc đẩy quá trình tự hoàn thiện của nhiều doanh nghiệp

trong nước. Tuy nhiên, thuận lợi do thu hút đầu tư nước ngoài mang lại cần phải

được xem xét và đánh giá một cách đúng đắn vì nó còn kéo theo nhiều bất lợi và

thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm tới.

- Hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như trên

thế giới ngày càng sâu rộng, mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh cũng như ưu đãi

thuế cho nhiều mặt hàng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các

ngành dịch vụ có liên quan. Xu hướng chung cho hợp tác quốc tế trong những năm

gần đây và sẽ được tiếp tục duy trì trong giai đoạn sắp tới là hạn chế tổ chức các

cuộc đàm phán đa phương tốn kém nhưng hiệu quả không cao sang tập trung đầu tư

vào các mối quan hệ song phương, đặc biệt đối với những nước có chung đường

biên giới hoặc những đối tác, bạn hàng chiến lược của Việt Nam. Từ những mối

quan hệ song phương này, doanh nghiệp Việt Nam có định hướng rõ ràng hơn trong

kế hoạch phát triển kinh doanh cũng như tìm hiểu chính sách thương mại của nước

đối tác. Quan hệ thương mại song phương được xây dựng dựa trên các mối quan hệ

về mặt chính trị lâu dài giữa 2 quốc gia giúp cho việc giải quyết các tranh chấp

thương mại được diễn ra nhanh hơn và đạt được sự thống nhất cùng có lợi cho các

bên tham gia. Riêng đối với lĩnh vực giao nhận vận tải, mối quan hệ song phương

giữa các nước có chung đường biên giới giúp cho quá trình lưu thông hàng hóa

quốc tế được nhanh chóng và dễ dàng.

3.2.2. Một số khó khăn và thách thức

- Khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển mạnh, nhiều hàng rào thuế

quan được dỡ bỏ hoàn toàn thì hàng hóa Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rào

cản thương mại mới, điển hình là hàng rào kĩ thuật từ thị trường các nước phát triển.

Thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là phải chấp nhận tiêu chuẩn

quốc tế như một loại ngôn ngữ quốc tế thống nhất về tiêu chuẩn chất lượng hàng

hóa. Trong khi đó, trình độ công nghệ, quản lý và khả năng tài chính còn hạn chế,

nhiều doanh nghiệp Việt Nam khó có thể áp dụng ngay tiêu chuẩn quốc tế đối với

sản phẩm hàng hóa của mình. Theo đó, doanh nghiệp thiếu thông tin về tiêu chuẩn,

chất lượng sản phẩm, đối thủ cạnh tranh hàng hóa cùng loại, khiến doanh nghiệp

khó có những bước đi thích hợp để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa của mình,

đặc biệt là chất lượng. Nhiều doanh nghiệp đã có ý thức trong việc đáp ứng yêu cầu

kĩ thuật của các thị trường mục tiêu bằng cách đầu tư trang thiết bị máy móc cho

quy trình sản xuất, nhưng khâu kiểm tra sản phẩm cuối cùng lại bị bỏ ngỏ, khiến

cho sản phẩm sản xuất ra vẫn không thể tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Từ những

khó khăn trong việc xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế, dịch vụ giao nhận vận

tải có khả năng mất đi một lượng lớn đơn hàng quan trọng, đặc biệt là dịch vụ giao

nhận vận tải bằng đường biển.

- Các yếu tố về môi trường được quan tâm hơn ở nhiều quốc gia và vùng

lãnh thổ trên thế giới. Ngoài yếu tố về chất lượng, sản phẩm trong những năm gần

đây và trong tương lai sẽ phải đáp ứng được một số yêu cầu về môi trường như

giảm bớt hàm lượng các chất độc khó phân hủy, không sử dụng nguyên liệu từ động

vật quí hiếm, có khả năng tái chế…Những qui định về môi trường được áp dụng

không chỉ đối với sản phẩm cuối cùng mà còn đối với qui trình sản xuất sản phẩm.

Ở nhiều nước đang lên kế hoạch và chuẩn bị ban hành “thuế cacbon” nhằm giảm

bớt tác hại của hiệu ứng nhà kính. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam,

đang lo ngại các nước phát triển đang sử dụng công cụ biến đổi khí hậu làm công cụ

chiến lược để duy trì thị trường trên toàn cầu. Đây là một thách thức khó vượt qua

bởi nguồn vốn để đầu tư ban đầu cho các trang thiết bị, kĩ thuật sản xuất hiện đại

thân thiện với môi trường thường khá lớn và yêu cầu có chuyên gia lắp đặt và bảo

dưỡng từ nước ngoài với chi phí cao. Nếu chọn giải pháp tự nghiên cứu, doanh

nghiệp Việt Nam sẽ phải mất nhiều thời gian nhưng kết quả thu được chưa chắc đã

thành công.

- Khi nhiều thị trường đã mở cửa hoàn toàn, hàng hóa Việt Nam phải cạnh

tranh trực tiếp với nhiều hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài với nhiều ưu thế

vượt trội hơn như chất lượng tốt, mẫu mã đẹp với giá cả hợp lí. Cạnh tranh diễn ra

gay gắt không những giữa các doanh nghiệp trong nước mà với cả doanh nghiệp

nước ngoài khiến cho thị phần dành cho hàng hóa nội địa ngày càng nhỏ hẹp và

manh mún. Cùng với việc mở cửa thị trường bán lẻ, nhiều thị trường khác trong đó

có thị trường giao nhận vận tải cũng dần mở cửa, đặc biệt trong lĩnh vực giao nhận

vận tải bằng đường biển. Hiện nay, các hàng tàu biển nước ngoài đang chiếm tỉ lệ

lớn. Nhờ lợi thế có kinh nghiệm trong nhiều năm, cùng với khả năng đầu tư kho bãi

nội địa đồng bộ và đại lí mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, khối lượng hàng hóa

vận chuyển của các hãng này chiếm gần 80% và có nguy cơ mở rộng hơn nếu như

các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải trong nước không có những

thay đổi vượt trội để nâng cao hiệu quả phục vụ cũng như mở rộng thị phần trong

và ngoài nước.

- Nguồn nhân lực dồi dào với giá nhân công rẻ không còn là một điểm mạnh

của thị trường Việt Nam. Yêu cầu đặt ra đối với người lao động trong hoàn cảnh hội

nhập kinh tế quốc tế hiện nay là phải có trình độ chuyên môn vững vàng với vốn

ngoại ngữ, công nghệ thông tin cơ bản đủ khả năng làm việc trong môi trường

thương mại quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nước ta vẫn chưa đáp ứng được

những điều kiện trên. Lượng kiến thức được giảng dạy trong các nhà trường còn

mang nặng tính lí thuyết, ít được thay đổi và cập nhật trong nhiều năm. Cơ sở hạ

tầng phục vụ cho công tác đào tạo chưa được đầu tư đúng mức và thỏa đáng. Nguồn

nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản ở nước ngoài quay trở về phục vụ

cho các doanh nghiệp trong nước chiếm tỉ lệ ít. Chế độ đãi ngộ cho người lao động

ở doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra yếu thế so với các công ty có nguồn vốn từ nước

ngoài. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước khi muốn mở rộng

hoạt động kinh doanh để có thể cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp nước

ngoài trong tất cả các lĩnh vực.

- Khả năng nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt

động của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Một bộ phận lớn những người chủ

của các doanh nghiệp chưa có thói quen tìm kiếm, thu thập, sử dụng thông tin để ra

các quyết định. Họ thường điều hành và định hướng phát triển doanh nghiệp theo

kinh nghiệm từ những người đi trước. Không ít các đơn vị trong số họ hiện khó

khăn về phương tiện, nhân lực làm công nghệ thông tin, thường lúng túng trong đề

xuất ý tưởng, tìm kiếm và lựa chọn công nghệ cho cải thiện sản xuất kinh doanh,

thiếu nhân lực khoa học công nghệ. Những phần mềm hiện hành để theo dõi quá

trình di chuyển, cập nhật hiện trạng của hàng hóa mới chỉ triển khai những bước

đầu. Để đuổi kịp công nghệ hiện đại của các nước trên thế giới, chúng ta còn phải

nỗ lực rất nhiều.

- Nhiều thông lệ quốc tế khác với qui định hiện hành của luật pháp Việt Nam

trong giao nhận vận tải hàng hóa cũng đang gây khó khăn cho các hãng hoạt động

trong nước. Điển hình như quy định kiểm tra tải trọng xe. Theo quy định hiện nay,

tổng tải trọng xe và hàng hóa không được quá 40 tấn, trong khi phần lớn các

container hàng đang nhập vào cảng Việt Nam theo thông lệ quốc tế thường có trọng

lượng từ 35 - 38 tấn/ container, nên khi xếp hàng lên container thì tổng tải trọng của

phương tiện đều lên tới 48-50 tấn/phương tiện (vượt quy định khoảng 10 tấn). Về

phương pháp kiểm tra tải trọng hiện cũng còn nhiều bất cập.Ngoài việc cân tổng

trọng tải của phương tiện, các trạm cân còn thực hiện phương pháp cân tải trọng

theo đầu trục xe. Đây là một đòi hỏi mà người làm dịch vụ vận chuyển rất khó thực

hiện, nhất là đối với những hàng đóng trong container. Việc quy định đối với những

rơ moóc và sơ mi rơ moóc đã có thời hạn sử dụng trên 20 năm theo quy định phải

thực hiện kiểm định 3 tháng/lần tại cơ quan đăng kiểm là không cần thiết đối với

loại thiết bị giản đơn như rơ moóc. Quy định này đã gây khó khăn và tốn kém cho

doanh nghiệp và là nguyên nhân dễ nảy sinh tiêu cực trong khâu kiểm định.

3.2.3. Triển vọng phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, dịch vụ giao nhận vận tải phát triển mạnh mẽ và

được chuyên môn hóa khá cao, trở thành một trong những ngành dịch vụ xương

sống của hoạt động thương mại quốc tế. Tại Việt Nam, thị trường cho loại hình dịch

vụ này ngày càng được mở rộng với nhiều điều kiện thuận lợi cả về đầu tư cơ sở hạ

tầng lẫn cơ chế chính sách, hứa hẹn nhiều tiềm năng được khai thác và đưa vào hoạt

động có hiệu quả. Trong đó, ngành vận tải biển được đặc biệt chú trọng trong phát

triển hệ thống cảng biển cũng như đưa ra những định hướng hoạt động trong nhiều

năm tới. Trong nội dung của “Quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm

2020 và định hướng đến năm 2030” được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số

1601/QĐ-TTg ngày 15/10/2009, mục tiêu quan trọng nhất của ngành được nhấn

mạnh là "Phát triển vận tải biển theo hướng hiện đại hóa với chất lượng ngày càng

cao, chi phí hợp lý, an toàn, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng;

tăng sức cạnh tranh của vận tải biển để chủ động hội nhập và mở rộng thị trường

vận tải biển trong khu vực và trên thế giới". Quy hoạch cũng nêu rõ mục tiêu của

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, kinh tế hàng hải đứng thứ hai và sau 2020

kinh tế hàng hải đứng đầu trong 5 lĩnh vực phát triển kinh tế biển; đồng thời góp

phần củng cố an ninh, quốc phòng của đất nước.

Trên cơ sở các phân tích về các nhân tố tác động đến sự thành công của cảng

biển cũng như xu hướng phát triển cảng biển khu vực châu Á – Thái Bình Dương

và Việt Nam, cùng với cơ sở từ “Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam

đến năm 2020, định hướng đến 2030” thì các định hướng phát triển hàng hải và

cảng biển Việt Nam tập trung: về vận tải biển, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải

biển, đáp ứng nhu cầu vận tải biển nội địa, nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa

xuất nhập khẩu đạt 27-30%, kết hợp chở thuê hàng hóa nước ngoài trên các tuyến

vận tải biển xa. Khối lượng do đội tàu Việt Nam đảm nhận khoảng 110-126 triệu

tấn vào năm 2015; 215-260 triệu tấn vào năm 2020 và đến năm 2030 tăng gấp 1,5-2

lần so với năm 2020; số lượng hành khách đạt 5 triệu năm 2015; 9-10 triệu năm

2020 và năm 2030 tăng 1,5 lần so với năm 2020. Phát triển đội tàu biển Việt Nam

theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển các loại tàu chuyên dùng (tàu container,

hàng rời, dầu...) và tàu trọng tải lớn. Năm 2010 có tổng trọng tải 6-6,5 triệu DWT;

năm 2015 có tổng trọng tải 8,5-9,5 triệu DWT đến năm 2020 đạt 11,5-13,5 triệu

DWT. Từng bước trẻ hóa đội tàu biển Việt Nam đến năm 2020 đạt độ tuổi bình

quân 12 năm. Về công nghiệp tàu thủy, đến năm 2020, phát triển ngành công

nghiệp tàu thủy nước ta đạt mức tiên tiến trong khu vực, đóng mới được tàu hàng

trọng tải đến 300.000 DWT, các tàu khách, tàu dịch vụ dầu khí, tàu cứu hộ cứu nạn,

bảo đảm hàng hải, công trình... Về định hướng phát triển hệ thống cảng biển trong

giai đoạn tới, ngoài việc nâng cấp, đầu tư chiều sâu, phát huy hết công suất, hiệu

quả của các cảng hiện hữu, cần tập trung vào việc xây dựng cảng trung chuyển quốc

tế, cảng cửa ngõ quốc tế tại các vùng kinh tế trọng điểm, một số cảng nước sâu

chuyên dụng xếp dỡ container, than quặng và dầu quy mô lớn, trang thiết bị hiện

đại...

Thương mại quốc tế giữa Việt Nam và thế giới đã có những sự phát triển

mạnh mẽ, và đây thực sự trở thành một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển

ngành vận tải biển của Việt Nam. Và trong quá trình phát triển đó, yêu cầu về việc

phát triển vận tải biển theo hướng hiện đại hóa với chất lượng ngày càng cao, chi

phí hợp lý, an toàn, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng; tăng sức

cạnh tranh của vận tải biển là rất cần thiết để ngành vận tải biển Việt Nam có thể

chủ động hội nhập và mở rộng thị trường vận tải biển trong khu vực và trên thế

giới.

Song song với phát triển giao nhận vận tải bằng đường biển, nhiều loại hình

khác đã được qui hoạch và tiến hành những bước đầu tiên cho quá trình phát triển

đồng bộ dịch vụ giao nhận vận tải trên cả nước. Điển hình như hoạt động giao nhận

vận tải bằng đường bộ và đường sắt, đã có “Quy hoạch phát triển mạng đường bộ

cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020” của Bộ Giao thông vận

tải qui định rõ mục tiêu của việc xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam phía

Đông là “kết nối các trung tâm kinh tế trọng điểm, các đầu mối giao thông quan

trọng, tạo khả năng liên kết cao với các phương thức vận tải khác (đường sắt, cảng

biển, sân bay…) nhằm nâng cao năng lực vận tải trên hành lang Bắc Nam, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông trên Quốc

lộ 1, nhất là tại cửa ngõ các đô thị lớn;” tạo nền tảng cho việc phát triển các dịch vụ

giao nhận vận tải đa phương thức. Ngoài ra, chú trọng đầu tư nâng cấp con đường

xuyên Á đi qua các tỉnh miền Trung, kì vọng sẽ là con đường ngắn nhất để hàng

hóa từ Lào, vùng đông bắc Thái Lan và một phần của Myanmar đến cảng cửa ngõ

quốc tế của Việt Nam, từ đó đi các thị trường trên thế giới.Miền Nam cũng có

đường xuyên Á từ Thành phố Hồ Chí Minh qua Campuchia, Thái Lan, Malaysia

với thị trường khoảng 100 triệu dân, hứa hẹn nhiều cơ hội thông thương và thu được

nhiều lợi nhuận từ thị trường các nước trong khu vực, từ đó mở rộng ra thế giới.

3.3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động hải quan nhằm tạo thuận lợi trong

việc phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải

3.3.1. Nhóm giải pháp về chính sách và thủ tục hải quan

- Xây dựng qui trình thông quan thống nhất, hợp lí dựa trên chuẩn chung của

WCO, có sự kết hợp hài hòa giữa luật pháp trong nước với luật pháp quốc tế. Thành

lập và cử các đoàn nghiên cứu đi học hỏi, mở rộng kiến thức nghiệp vụ ở những

nước có truyền thống hoạt động hải quan minh bạch, chặt chẽ, hiện đại và hiệu quả

cao. Thống nhất mô hình thông quan điện tử với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ

thuật hiện đại như các thiết bị kiểm tra không xâm nhập, hệ thống định vị và kiểm

soát container từ xa.. để hoàn thiện quy trình thủ tục hải quan, đồng thời tạo điều

kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu, xuất khẩu cũng như doanh nghiệp kinh

doanh dịch vụ giao nhận và vận tải quốc tế.Triển khai hạ tầng công nghệ phục vụ

cho mở rộng thủ tục hải quan điện tử cho các địa bàn mới triển khai; xây dựng

chuẩn trao đổi dữ liệu với cộng đồng doanh nghiệp. Lựa chọn 2 đến 3 Cục hải quan

trọng điểm để triển khai “Đề án xử lý dữ liệu điện tử thông quan tập trung cấp

Cục”, tiến tới năm 2015 tập trung hóa cấp Tổng cục. Xây dựng và triển khai các dự

án kết nối thông tin, trao đổi dữ liệu điện tử giữa các cơ quan Hải quan nhằm phối

hợp hoạt động chặt chẽ, xử lí công việc nhanh và hạn chế, ngăn ngừa rủi ro có thể

xảy ra.

- Cụ thể hóa các nội dung “Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020”

bằng các kế hoạch phát triển ngành hải quan giai đoạn 2011-2015 trình Bộ trưởng

Bộ Tài chính ký Quyết định ban hành. Trong đó tập trung 5 nội dung trọng tâm là :

thủ tục hải quan điện tử; quản lí rủi ro; doanh nghiệp ưu tiên; địa điểm kiểm tra tập

trung và hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động hải quan. Đặc biệt, chú trọng

đến công tác phân loại hàng hóa và xếp hạng mức độ tuân thủ pháp luật về lĩnh vực

hải quan của các doanh nghiệp tham gia, từ đó có những đánh giá đúng đắn, chính

xác khi phân tích tờ khai hải quan, quyết định hình thức kiểm tra dựa trên thông tin

cơ bản có được.Tổ chức tuyên truyền và triển khai thực hiện “Chiến lược phát triển

hải quan đến năm 2020” cho toàn thể công nhân viên chức trong ngành và các đại lí

hải quan cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến

hoạt động hải quan.Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực từ các Bộ, Ngành liên

quan để thực hiện các nội dung của Chiến lược, chủ động đẩy nhanh quá trình

nghiên cứu, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án liên quan.

- Đối với công tác xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động

giao nhận vận tải hàng hóa, đầu tư thời gian nghiên cứu đặc thù của loại hình dịch

vụ, xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, lấy ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp

tham gia trước khi chính thức ban hành áp dụng vào thực tế. Thường xuyên rà soát,

đánh giá hiệu quả của các văn bản pháp luật đã có hiệu lực, đánh giá kết quả đã đạt

được, xem xét những hạn chế còn tồn tại, kịp thời báo cáo lãnh đạo các cấp các

vướng mắc để đề ra hướng giải quyết, đưa ra khỏi văn bản những qui định không

đáp ứng được nhu cầu thực tế hoặc chưa có điều kiện triển khai. Trong trường hợp

văn bản có tính chất phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực hoặc yêu cầu sự phối hợp

của nhiều ban ngành, cần tổ chức hướng dẫn cho các đối tượng liên quan được hiểu

rõ và chấp hành đúng pháp luật về lĩnh vực mình tham gia. Đẩy mạnh cả về bề rộng

và chiều sâu công tác tuyên truyền, hỗ trợ các doanh nghiệp doanh nhận vận tải

trong việc tiếp nhận thông tin và giải quyết khiếu nại.

- Tăng cường công tác phúc tập hồ sơ hải quan, đảm bảo 98% hồ sơ được

phúc tập; hoàn thiện cơ chế doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt (AOE), trong đó lưu ý

đến việc phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan để xây dựng, ký kết thỏa thuận

công nhận lẫn nhau giữa hải quan Việt Nam và hải quan các nước nhằm tạo điều

kiện thuận lợi và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh

dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế. Triển khai thực hiện Chương trình doanh nghiệp

ưu tiên đặc biệt (lựa chọn doanh nghiệp, công nhận ưu tiên, tổ chức quản lí…).

Kiểm tra ngay, phát hiện sớm gian lận thương mại và cung cấp thông tin kịp thời về

doanh nghiệp, thủ đoạn gian lận giúp cho các đơn vị ở khâu thông quan nhận dạng,

có biện pháp xử lí kịp thời. Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lí theo địa bàn

nhằm bổ sung nguồn cung cấp thông tin cho lực lượng kiểm tra sau thông quan.

- Tập trung hoàn thành việc rà soát, hệ thống hóa, phân tích hoạt động của

hải quan Việt Nam theo từng cấp tổ chức; nghiên cứu về mạng lưới cấp Chi cục khi

triển khai thủ tục hải quan; đánh giá tồn tại, hạn chế của hệ thống tổ chức bộ máy

hải quan hiện nay và đề xuất giải pháp khắc phục; phân tích, đánh giá những lợi ích

và hạn chế khi triển khai mô hình hải quan vùng, xác định các nguồn lực cần có và

lộ trình để triển khai mô hình hải quan vùng. Cập nhật các chủ trương, chính sách,

văn bản mới của Nhà nước, của ngành, của nước ngoài liên quan đến hoạt động

giao nhận vận tải hàng hóa; nâng cao kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ cho cán

bộ công chức trực tiếp xử lí các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động giao nhận vận

tải. Ngoài ra, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính, kiên quyết chống tiêu cực

phiền hà sách nhiễu của cán bộ, công chức hải quan bằng cách thực hiện tốt công

tác luân chuyển cán bộ; xử lí kiên quyết, nghiêm khắc đối với cán bộ công chức gây

phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực và trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của

người đứng đầu đơn vị khi để xảy ra tiêu cực. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra việc thực hiện các qui định của pháp luật và của ngành về phòng, chống tham

nhũng, tiêu cực và chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công

việc.

3.3.2. Nhóm giải pháp về nhân lực và cơ sở vật chất kĩ thuật

a,Giải pháp về nhân lực:

- Quá trình nhận thức, xây dựng kỹ năng quản trị, kỹ năng thực hành các

loại hình dịch vụ cần thời gian và công tác vận động, hướng nghiệp. Vì vậy, công

tác đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực cho ngành hải quan phải bắt nguồn từ các

cơ sở đào tạo cấp đại học. Muốn thực hiện được mục tiêu trên, chúng ta phải thiết

lập được một hệ thống các môn học chuyên ngành về hải quan dành cho các trường

có chuyên ngành đào tạo liên quan đến lĩnh vực này đồng thời tổ chức mở các lớp

đào tạo giảng viên, biên soạn bộ giáo trình về kỹ thuật, nghiệp vụ các ngành liên

quan đến hải quan theo chuẩn quốc tế. Xây dựng các trung tâm đào tạo về nhân viên

đại lí hải quan một cách có hệ thống để xây dựng một lực lượng làm việc trong

ngành có đủ kiến thức và kĩ năng cần thiết cho công việc sau này. Kết hợp với các

trung tâm đào tạo ngoại ngữ, tin học để mở rộng, hoàn thiện các kĩ năng mềm như

khả năng giao tiếp với khách hàng, tìm hiểu được tài liệu có nguồn gốc từ nước

ngoài, cập nhật và xử lí thông tin dựa trên các phần mềm tin học hiện đại, hiệu quả

và có tính logic. Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, các

trường, để đẩy mạnh công tác đào tạo với nhiều hình thức linh hoạt, cung cấp nhân

lực đáp ứng cho ngành; cần tranh thủ tài trợ, hợp tác đào tạo từ nước ngoài để có thể

đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này một cách bài bản.

- Nhà nước và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hải quan cần phối hợp

tạo nguồn đầu tư cho xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đạt

chuẩn quốc tế; xây dựng thương hiệu cho các cơ sở đào tạo đạt chất lượng cao; thị

trường hoá ở mức độ thích hợp đối với sự nghiệp đào tạo; hỗ trợ học sinh, sinh viên

đi du học tại các nước phát triển các ngành nghề liên quan đến lĩnh vực giao nhận

vận tải và logistics ...Chú trọng thu hút đầu tư vào nguồn nhân lực từ các ngành

nghề khác nhưng có nhu cầu chuyển đổi sang làm việc cho ngành, có chế độ khuyến

khích và đãi ngộ đối với những người có kinh nghiệm hay sáng kiến tốt trong nghề.

Mặt khác, doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác nghiên cứu tình hình cung ứng

lao động thực tế trên thị trường để có những giải pháp phát triển nguồn nhân lực

hợp lí và có tính chiến lược lâu dài, không chỉ dừng lại ở nguồn nhân lực hiện tại

mà đặt ra kế hoạch cho từng giai đoạn cụ thể trong tương lai phù hợp với qui mô và

định hướng mở rộng của doanh nghiệp.

- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lao động trong nước với thu hút lao động quốc

tế có chuyên môn, tận dụng được lợi thế từ nhiều nguồn lao động, xây dựng môi

trường làm việc không những phù hợp với tình hình trong nước mà còn mở rộng

theo đúng chuẩn quốc tế. Doanh nghiệp nên thiết lập một chính sách luân chuyển

nhân sự giữa các bộ phận hoặc giữa các vùng miền trong phạm vi công ty nhằm

cung cấp cho nhân viên khả năng thích ứng và xử lí nhanh với nhiều loại hình công

việc, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh, khuyến khích lao động trong công ty thể

hiện những khả năng khác nhau của mỗi cá nhân và từng bộ phận. Bên cạnh đó, hệ

thống truyền tin nội bộ cần được sử dụng và nâng cấp một cách thường xuyên nhằm

nâng cao hiệu quả khả năng phối hợp giữa các chi nhánh, phòng ban của công ty.

Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hải quan cũng cần có một kênh thông tin

riêng nhằm phối hợp cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tổng thể, hoàn hảo.

b,Giải pháp về cơ sở hạ tầng:

- Nhà nước nên đầu tư phát triển hệ thống cảng biển một cách toàn diện bao

gồm việc phát triển hệ thống cầu cảng, kho bãi, cảng thông quan nội địa (ICD), đầu

tư các phương tiện xếp dỡ, phương tiện vận chuyển hàng hóa trong cảng cũng như

phương tiện vận chuyển hàng hóa từ ICD đến cảng và ngược lại, áp dụng các ứng

dụng của công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả xử lí công việc. Phát triển loại

hình dịch vụ kinh doanh giao nhận vận tải đa phương thức gắn với quá trình phát

triển hàng hải, với sự phát triển của phương thức vận chuyển bằng container, đáp

ứng yêu cầu nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Các cảng cần đầu tư, hiện đại hóa để

đủ sức tiếp nhận các tàu container thế hệ mới phù hợp với xu hướng phát triển hàng

hải của thế giới. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, đường sắt, đường bộ, đường

sông… cũng phải phát triển theo hướng này đề đồng bộ hóa các khâu trong quá

trình vận chuyển, giảm chi phí dịch vụ có liên quan, nâng cao sức cạnh tranh cho

doanh nghiệp.

- Xây dựng hành lang, khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất

quán, thông thoáng và hợp lí trong các văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực

giao nhận vận tải với mục đích tạo cơ sở cho một thị trường minh bạch.Để đạt được

yêu cầu này, các cơ quan ban ngành có liên quan phải có sự kết hợp chặt chẽ trong

việc ban hành các văn bản, tài liệu quản lí hoạt động dịch vụ kinh doanh giao nhận

vận tải. Các văn bản hướng dẫn thi hành cần rõ ràng, ngắn gọn và tuân theo đúng

các qui định của pháp luật quốc tế. Tính minh bạch, công khai còn được thể hiện rõ

thông qua việc thông báo các văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng, các

kênh dịch vụ và địa điểm thực hiện các thủ tục có liên quan. Ngoài ra, cần thiết lập

các kênh đối thoại đa dạng để doanh nghiệp có thể đóng góp, bổ sung những qui

định còn chưa sát thực với điều kiện thực tế, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai

những văn bản pháp luật này.

- Các doanh nghiệp trong nước cần tham gia vào những liên kết để phát huy

lợi thế riêng trong cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Theo đó, một công ty

giao nhận có thể gắn kết cùng tổ chức kho bãi, vận tải, môi giới hoặc dịch vụ khác

để hình thành chuỗi liên kết của một ngành hàng. Các đơn vị trong cùng ngành hàng

cũng cần tính đến khả năng sát nhập để trở thành đơn vị cung ứng lớn gồm nhiều tổ

chức để đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài nước. Mặt khác, có thể

liên doanh, liên kết với các tổ chức giao nhận vận tải quốc tế hướng vào tiếp nhận

công nghệ chuyển giao, tích lũy năng lực, vốn và kinh nghiệm để có thể hoạt động

độc lập sau này.

- Trang bị hệ thống máy tính kèm theo cập nhật các chương trình quản trị,

theo dõi hoạt động vận chuyển, giao nhận hàng hóa hiện đại và có tính đồng bộ. Sau

khi đã có hệ thống công nghệ thông tin đầy đủ phù hợp với tính chất của công việc,

yêu cầu cần đặt ra là phải thay đổi thói quen, tác phong làm việc cũ, trong quản lý

các dự án cụ thể cần đặc biệt chú trọng công tác tổ chức diễn tập thực hành, chạy

thử. Cần phải xây dựng chi tiết các phương án phòng chống rủi ro khi triển khai và

vận hành hệ thống; công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sâu sát, kết hợp các biện

pháp tổ chức nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để mang lại những hiệu quả to lớn.

Thiết kế, kết nối mạng máy tính với cơ quan hải quan khác, các hãng tàu, khách

hàng nhằm trao đổi dữ liệu nhanh chóng, chính xác và từng bước triển khai hình

thức làm thủ tục giao nhận từ xa, thanh toán qua hệ thống ngân hàng, phát huy

phương án khai báo điện tử và sử dụng hệ thống máy soi của hải quan. Đối với các

doanh nghiệp còn yếu về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động, cần tổ

chức học tập kinh nghiệm từ các doanh nghiệp đã ứng dụng thành công hoặc từ các

phần mềm nước ngoài mang tính chất phù hợp với điều kiện kinh doanh của Việt

Nam.Thành lập các lớp học nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên làm quen và làm việc

thành thạo với công nghệ thông tin, đồng thời hướng dẫn và tuyên truyền cho khách

hàng sử dụng hiệu quả ứng dụng của những phần mềm này.

3.3.3. Nhóm giải pháp về hợp tác

- Tổng cục hải quan cần xây dựng các chương trình đào tạo nghiệp vụ cho

các đại lí hải quan hoặc các doanh nghiệp có dịch vụ khai thuê hải quan theo các

khóa học ngắn hạn và dài hạn. Đảm bảo nhân viên đại lí hải quan thực hiện các tiêu

chí về thái độ phục vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp giống như những yêu cầu đối

với cán bộ nhân viên ngành hải quan. Thành lập kênh thông tin tuyên truyền công

khai những thay đổi trong qui định pháp luật về hải quan và các lĩnh vực có liên

quan cho doanh nghiệp được nắm vững. Cần xây dựng một phòng ban chuyên xử lí

các phản hồi từ phía doanh nghiệp và khuyến khích các nhân viên thực hiện dịch vụ

khai thuê hải quan có những phản ánh kịp thời khi có những hiện tượng tiêu cực

xảy ra. Ngành hải quan cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thuê hải quan

không những thực hiện tốt những yêu cầu về thủ tục hải quan trong nước mà còn

phải chủ động đóng góp cho ngành hải quan những biện pháp cải cách thủ tục hải

quan từ nước ngoài mà những doanh nghiệp này đút rút được từ kinh nghiệm thực

tế. Mối quan hệ hai chiều hải quan - doanh nghiệp cần có thái độ hợp tác tích cực

xuất phát từ lợi ích của hai phía.

- Phối hợp hoạt động, chia sẻ trách nhiệm giữa các ban ngành, lĩnh vực có

liên quan như ngành thuế, ngân hàng, giao thông vận tải trong việc tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp giao nhận vận tải thực hiện thủ tục hải quan một

cách dễ dàng và nhanh chóng. Các tổ chức có liên quan nên tiến hành cải cách hành

chính một cách đồng bộ, đồng thời đẩy mạnh sử dụng các ứng dụng của công nghệ

thông tin trong hoạt động của mình để tránh xử lí những công việc giấy tờ không

cần thiết. Hoạt động hải quan và các ban ngành cần được ban hành thành một qui

trình chuẩn hóa, dễ thực hiện và theo dõi ở các khâu. Ngoài ra, tăng cường phối hợp

với các báo, đài ở Trung ương và địa phương đăng các tin, bài, phóng sự phản ánh

về các mặt hoạt động của ngành hải quan và đại lí hải quan, định hướng dư luận,

giúp cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải, các Bộ, ngành

liên quan hiểu, chia sẻ và ủng hộ công tác hải quan. Báo Hải quan, các website của

Tổng cục và hải quan địa phương luôn chủ động cung cấp thông tin cho doanh

nghiệp được biết, nhất là các sự kiện liên quan đến công tác hiện đại hóa hải quan

và cải cách thủ tục hải quan.

- Duy trì các mối quan hệ sẵn có trong các hoạt động hợp tác và hội nhập

quốc tế trong khuôn khổ GMS, ASEAN,APEC,ASEM,WCO và tiến hành thiết lập

nên các mối quan hệ mới. Xây dựng pháp luật hải quan dựa trên chuẩn chung của

pháp luật và thông lệ quốc tế, kèm theo quá trình nghiên cứu từng đặc điểm riêng

của luật lệ các nước. Tiếp tục đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các biện pháp nhằm giảm

thiểu sự kiểm tra chồng chéo giữa hải quan các nước, tiến tới rút ngắn các khâu

không cần thiết, giảm tối đa thời gian thông quan. Chú trọng tăng cường quan hệ

với hải quan các nước có chung đường biên giới bằng nhiều cách như trao đổi cán

bộ hải quan, xây dựng cơ chế kiểm tra hàng hóa riêng, thành lập danh sách những

doanh nghiệp nên được ưu đãi của cả hai bên...Tham gia tích cực hơn nữa vào các

buổi hội thảo quốc tế trong ngành cũng như các ngành liên quan, đóng góp ý kiến,

tham luận vào hội thảo, chủ động tiếp thu những bài học về quản lí hoạt động giao

nhận vận tải từ những nước đã có kinh nghiệm trong xử lí các vấn đề liên quan đến

lĩnh vực này. Giữa hải quan các nước nên xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thông

tin một số doanh nghiệp kinh doanh giao nhận vận tải có thị trường kinh doanh trên

nhiều quốc gia hoặc những doanh nghiệp thường xuyên có dấu hiệu vi phạm pháp

luật về hải quan quốc tế để dễ dàng quản lí. Hợp tác hải quan quốc tế dựa trên nền

tảng pháp luật của từng nước và của tổ chức hải quan thế giới.

3.4. Kiến nghị

Đề nghị Tổng cục Hải quan mở rộng một số hoạt động sau:

- Ban hành những văn bản và tài liệu rõ ràng cho quy trình thông quan hàng

hóa cùng với các hoạt động có liên quan trước, trong và sau thông quan. Bên cạnh

đó, mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ cơ bản và nâng cao cho đơn vị hải quan địa

phương, đại lí hải quan và các doanh nghiệp giao nhận vận tải. Thường xuyên cử

các cán bộ có kinh nghiệm về các địa bàn vùng sâu vùng xa, khó tiếp cận với công

nghệ thông tin để giúp đỡ, tư vấn cho các cán bộ giải quyết những vấn đề còn khúc

mắc.

- Giúp đỡ các Cục trong việc xây dựng trang web riêng của Cục hải quan

Quảng Bình. Mở rộng và làm phong phú nội dung của trang web

www.customs.gov.vn . Kết hợp với các trang web đã có của các đơn vị để tạo thành

một hệ thống đồng bộ, cập nhật và thuận tiện cho doanh nghiệp và các cá nhân quan

tâm đến hoạt động xuất nhập khẩu và giao nhận vận tải có điều kiện cập nhật thông

tin và phản hồi cho ngành hải quan.

- Công khai hoặc công khai một phần các sai phạm quá trình thông quan

hàng hóa cho các doanh nghiệp nhằm tiến hành rút kinh nghiệm trong đội ngũ cán

bộ hải quan. Ngoài công tác huấn luyện về nghiệp vụ, đẩy mạnh những lớp bồi

dưỡng về tinh thần, thái độ phục vụ doanh nghiệp và đạo đức nghề nghiệp cho cán

bộ công chức trong toàn ngành và nhân viên đại lí hải quan.

- Tiếp tục đổi mới, cải cách thủ tục hải quan theo hướng khoa học, thuận

tiện, hiệu quả cho cả 2 phía : doanh nghiệp và hải quan. Chấm dứt tình trạng tồn

đọng hàng hóa trong kho ngoại quan vì thủ tục kéo dài nhiều ngày. Để đạt được

điều này, ngành phải có sự phối hợp với một số ban ngành có liên quan để xây dựng

một lộ trình thông quan hàng hóa chặt chẽ nhưng nhanh gọn.

- Tăng cường công tác thanh tra trong nội bộ ngành, phát hiện nhanh và giải

quyết dứt điểm những sai phạm nghiêm trọng nhằm củng cố lòng tin trong nhân dân

và các doanh nghiệp. Xử phạt công khai và nghiêm minh khi phát hiện cán bộ hải

quan có những hành vi trái đạo đức nghề nghiệp, yêu sách, nhận hối lộ gây ảnh

hưởng xấu đến bộ mặt của ngành. Duy trì các đường dây nóng để doanh nghiệp

phản ánh thông tin một cách hiệu quả đồng thời có các biện pháp xử lí kịp thời,

tránh thái độ bao che, lảng tránh trong xử lí các tiêu cực.

- Thực hiện các giải pháp được đề xuất ở trên một các đồng bộ và có hệ

thống.Trong quá trình thực hiện, Tổng cục cần đề ra chiến lược, kế hoạch cụ thể và

tiến hành kiểm tra thường xuyên kết quả thực hiện để có những chỉ đạo, uốn nắn kịp

thời. Đối với những giải pháp cần có sự phối hợp của các ban ngành, Tổng cục cần

có những văn bản qui định rõ ràng trách nhiệm cũng như phân công nhiệm vụ cho

từng bộ phận có liên quan. Cần chú trọng quản lí hoạt động của đại lí hải quan và

các doanh nghiệp có dịch vụ khai thuê hải quan theo đúng pháp luật.

Đề nghị các ban ngành có liên quan đẩy mạnh các hoạt động sau:

- Ngành giao thông vận tải cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng cơ sở vật chất

hạ tầng về đường sá, hệ thống cảng biển, đường bộ, đường sắt… phù hợp với tình

hình phát triển của hệ thống dịch vụ giao nhận vận tải. Đặc biệt, để phục vụ cho

hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế, một số

hệ thống đường sá, cảng biển… phải được xây dựng theo đúng tiêu chuẩn để phù

hợp với trọng tải hàng hóa, cấu tạo của xe chở hàng, container. Chất lượng các

công trình giao thông vận tải cần được kiểm định và gia cố một cách thường xuyên

trên những đoạn đường có lưu lượng vận chuyển hàng hóa lớn, điển hình như

đường từ cảng đến các trung tâm phân phối.

- Ngân hàng, kho bạc phối hợp chặt chẽ với ngành hải quan trong quá trình

thu thuế trong quá trình thông quan. Nâng cấp hệ thống máy tính, cơ chế chuyển

tiền nhanh gọn, hiệu quả, chính xác. Các ngân hàng được chọn trong việc hỗ trợ

ngành hải quan cần nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác phục vụ doanh

nghiệp nộp thuế, giải đáp thắc mắc cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh

nghiệp có những chứng từ cần thiết để thông quan nhanh chóng.

- Các cơ sở đào tạo phối hợp với ngành hải quan cần nghiên cứu, xây dựng

các khóa học cho cán bộ ngành hải quan và nhân viên đại lí hải quan có hiệu quả và

phù hợp với yêu cầu thực tế. Hệ thống giáo trình cần được biên soạn và sửa đổi

hàng năm dựa trên các văn bản pháp luật, thông lệ quốc tế, chính sách thương

mại… giúp cho học viên có nền tảng kiến thức vững vàng trong xử lí công việc. Kết

hợp dạy lí thuyết với thực hành và chia sẻ kinh nghiệm thực tế giữa các học viên,

giáo viên nhằm nâng cao khả năng ứng dụng của môn học trong thực tế. Phân phối

khối lượng các môn học một cách hợp lí nhằm tránh hiện tượng lãng phí thời gian

mà kết quả lại không cao.

- Chính quyền địa phương cần tạo mọi điều kiện để giúp đỡ hoạt động của

ngành hải quan, các đại lí hải quan và các doanh nghiệp giao nhận vận tải đóng trên

địa bàn. Lãnh đạo chính quyền các tỉnh cần chỉ đạo tăng cường công tác cải cách

thủ tục hành chính trong việc thực hiện cấp phép đầu tư và trong thực hiện thủ tục

tại trạm kiểm soát liên ngành của các cơ quan chức năng, công tác cải cách thủ tục

hành chính theo hướng đồng bộ với nhau (giữa các cơ quan làm việc tại cửa khẩu),

nâng cao hiệu quả công tác phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng tại cửa khẩu,

cảng biển và các trạm giao nhận quốc tế. Mở rộng và nâng cấp hệ thống mạng nội

bộ giữa các cơ quan trong tỉnh, tạo điều kiện trao đổi công việc và phối hợp giải

quyết những vấn đề cần có sự tham gia của nhiều ngành.

- Viện Nghiên cứu thương mại cần có những kế hoạch nghiên cứu về lĩnh

vực hải quan và logistics, trong đó có chú trọng nhấn mạnh mối quan hệ giữa hoạt

động hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải nhằm giúp cho những đối tượng quan

tâm có cơ sở, tài liệu tìm hiểu về những lĩnh vực này. Bổ sung và cập nhật thường

xuyên những ấn phẩm có liên quan dưới nhiều hình thức như báo, tạp chí, sách…

nhằm dễ dàng tra cứu khi cần thiết. Đây là những lĩnh vực mới nên được sự quan

tâm nghiên cứu để giúp cho cộng đồng doanh nghiệp cũng như sinh viên có cơ hội

được mở mang kiến thức, nhất là đối với những người có định hướng phát triển

nghề nghiệp trong lĩnh vực giao nhận vận tải sau này.

Trong những năm tới đây, khi dịch vụ giao nhận vận tải ở trong nước ngày

càng phát triển và vững mạnh, hoạt động hải quan đòi hỏi cũng phải có những thay

đổi trong cơ chế chính sách cũng như hoạt động thực tiễn nhằm hỗ trợ cho dịch vụ

này ngày một hoàn thiện. Tuy chỉ là một mắt xích trong chuỗi vận chuyển hàng hóa

từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng cuối cùng nhưng hoạt động hải quan có ảnh hưởng

quan trọng đến thời gian cung cấp và chất lượng của dịch vụ, từ đó ảnh hưởng đến

uy tín của doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ này. Vì vậy,

hoạt động này rất cần được sự quan tâm, giúp đỡ và phối hợp chặt chẽ từ các cơ

quan, ban ngành, doanh nghiệp có liên quan mới có thể đạt được kết quả tối ưu. Có

như vậy, hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải trong nước mới có điều kiện cạnh

tranh công bằng với các hãng nước ngoài, chiếm được vị thế làm chủ ngay trên thị

trường trong nước trước khi mở rộng ra thị trường thế giới.

KẾT LUẬN

Trong thời gian trở lại đây, kinh tế quốc tế đem lại cho doanh nghiệp Việt

Nam nhiều cơ hội mở rộng thị trường, tận dụng nguồn lực của đối tác nước ngoài về

vốn, trang thiết bị, công nghệ, thương hiệu và kinh nghiệm quản lí, có điều kiện vận

dụng các chiến lược kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Vì

vậy, phát triển quan hệ buôn bán với đối tác nước ngoài là xu thế tất yếu của doanh

nghiệp Việt Nam. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như uy tín của doanh

nghiệp trên trường quốc tế, không thể không xây dựng một hệ thống giao nhận vận

tải hàng hóa quốc tế có qui mô và phát triển đồng bộ, tương ứng với khối lượng

hàng hóa xuất nhập khẩu có xu hướng ngày càng tăng. Thông qua hệ thống, không

những nguyên vật liệu và máy móc thiết bị cần thiết cho sản xuất được cung cấp kịp

thời mà sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng cũng được nhanh chóng và

thuận tiện. Không những vậy, quá trình chuyên môn hóa dịch vụ giao nhận vận tải

tách rời khỏi hoạt động sản xuất giúp cho doanh nghiệp có thể tập trung nguồn vốn

vào công việc chuyên môn và giảm chi phí và nhân công cho hoạt động điều phối

đầu ra của sản phẩm. Hoạt động giao nhận vận tải kịp thời và hợp lý sẽ giúp hàng

hoá luân chuyển nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cả người gửi lẫn người

nhận hàng. Trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa,

giao lưu quốc tế, do đó lượng hàng hoá lưu chuyển ngày càng nhiều, kim ngạch

xuất nhập khẩu cũng ngày càng lớn. Với tư cách là một dịch vụ phục vụ đắc lực cho

hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động giao nhận vận tải đang ngày càng khẳng định

vai trò quan trọng của mình. Hoạt động giao nhận giờ đây không chỉ bó gọn trong

việc nhận hàng tại cảng bốc để chuyên chở đến cảng đích mà còn mở rộng dịch vụ

đưa hàng từ bất cứ địa điểm nào theo yêu cầu của người gửi đến tận tay người nhận.

Để thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ này trên thị trường Việt Nam trong thời gian

tới, cần phải có những giải pháp cụ thể và đồng bộ từ nhiều phía, đặc biệt là từ các

hoạt động hỗ trợ có liên quan như hoạt động hải quan. Sau một thời gian nghiên cứu

về mối quan hệ giữa hoạt động hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa ở thị

trường Việt Nam hiện nay, đề tài đã điểm qua những đặc điểm chính cũng như thực

trạng tác động của hải quan Việt Nam đối với loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ

này.Từ đó, đề ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động hải quan thúc đẩy dịch

vụ giao nhận vận tải ngày càng phát triển, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động

xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như lợi ích của việc tham gia thương mại quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình Logistics và vận tải quốc tế, PGS.TS Hoàng Văn Châu,

Nxb.Giao thông vận tải, 2003.

2.Logistics những vấn đề cơ bản, GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân, Nxb. Lao

động xã hội, 9.2010.

3.Quản trị Logistics, PGS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân ,Nxb. Thống kê, 2006.

4.Quản trị chuỗi cung ứng, Michael Hugo, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

2010.

5.Vận tải – giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải, Dương Hữu Hạnh, Nxb.

Thống kê, 2004.

6.Tài liệu tham khảo về nghiệp vụ hải quan, Nxb. Trường Đại học Kinh tế

quốc dân, 2010

7.Giáo trình Kinh tế hải quan I, GS.TS Hoàng Đức Thân, Nxb. Trường Đại

học Kinh tế quốc dân, 2009

8.Báo cáo tổng kết năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2007

của ngành Hải quan.

9.Báo cáo tổng kết năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2008

của ngành Hải quan.

10.Báo cáo tổng kết năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm

2009 của ngành Hải quan.

11.Báo cáo tổng kết năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm

2010 của ngành Hải quan.

12. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm

2011 của ngành Hải quan.

13.60 năm Hải quan Việt Nam, Nxb. Thống kê, 2010

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH

VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI HÀNG HÓA TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ....... 3

1.1. Dịch vụ hải quan, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa và mối quan hệ

trong quá trình phát triển hoạt động thương mại ............................................... 3

1.1.1. Dịch vụ hải quan ..................................................................................... 3

1.1.2. Dịch vụ giao nhận vận tải ....................................................................... 7

1.1.3. Mối quan hệ giữa dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải hàng

hóa .................................................................................................................. 11

1.2. Dịch vụ hải quan và những tác động của nó đến những dịch vụ giao nhận

vận tải hàng hóa ................................................................................................ 14

1.2.1. Pháp luật, cơ chế chính sách hiện hành................................................. 14

1.2.2. Thủ tục hải quan ................................................................................... 18

1.2.3. Năng lực và đạo đức cán bộ, nhân viên hải quan .................................. 26

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải

trong thương mại quốc tế ở Việt Nam ............................................................... 28

1.3.1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng ...................................................... 28

1.3.2. Cơ chế, chính sách thương mại ............................................................. 29

1.3.3. Nguồn nhân lực ..................................................................................... 32

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN VỚI DỊCH VỤ

GIAO NHẬN VẬN TẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................... 33

2.1. Giới thiệu về Viện Nghiên cứu thương mại ............................................... 33

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Viện Nghiên cứu thương mại ........ 33

2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của các bộ phận trực thuộc Viện Nghiên cứu

thương mại...................................................................................................... 36

2.2. Quá trình phát triển hoạt động hải quan và các dịch vụ giao nhận vận tải ở

Việt Nam qua các thời kì ................................................................................... 45

2.2.1. Quá trình phát triển hoạt động hải quan qua từng giai đoạn ................. 45

2.2.2. Dịch vụ giao nhận vận tải qua các thời kì ............................................. 54

2.3. Thực trạng dịch vụ hải quan và dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam hiện

nay ..................................................................................................................... 57

2.3.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây ............................ 57

2.3.2. Các hoạt động hải quan chính được thực hiện ở Việt Nam .................... 60

2.3.3. Tình hình tác động của hoạt động hải quan đến dịch vụ giao nhận vận tải

hàng hóa ......................................................................................................... 70

2.4. Đánh giá chung về tác động của hoạt động hải quan đến sự phát triển của

dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa .................................................................. 73

2.4.1. Những tác động tích cực........................................................................ 73

2.4.2. Những tác động tiêu cực........................................................................ 74

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN NHẰM

TẠO THUẬN LỢI TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ GIAO NHẬN

VẬN TẢI Ở VIỆT NAM ....................................................................................... 76

3.1. Định hướng hoạt động hải quan trong những năm tới ............................. 76

3.1.1. Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam .................................................. 76

3.1.2. Yêu cầu và nhiệm vụ hải quan Việt Nam trong tình hình mới................. 79

3.2.Phương hướng phát triển thương mại quốc tế và các dịch vụ vận tải của

Việt Nam giai đoạn từ nay cho đến năm 2020 .................................................. 80

3.2.1. Những điều kiện thuận lợi ..................................................................... 80

3.2.2. Một số khó khăn và thách thức .............................................................. 83

3.2.3. Triển vọng phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ở Việt Nam ........... 87

3.3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động hải quan nhằm tạo thuận lợi trong việc

phát triển các dịch vụ giao nhận vận tải ........................................................... 89

3.3.1. Nhóm giải pháp về chính sách và thủ tục hải quan ................................ 89

3.3.2. Nhóm giải pháp về nhân lực và cơ sở vật chất kĩ thuật .......................... 91

3.3.3. Nhóm giải pháp về hợp tác .................................................................... 95

3.4. Kiến nghị .................................................................................................... 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101