GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI<br />
CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO VIỆT NAM<br />
THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0<br />
<br />
ThS. Nguyễn Thị Diệu Thanh<br />
Trường Đại học Quảng Bình<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Bài viết tập trung nghiên cứu thực trạng thu hút vốn đầu tư tại các doanh<br />
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam thời gian qua. Từ các số liệu thống kê thu thập<br />
được, tác giả nhận thấy, việc đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Việt<br />
Nam có xu hướng tăng mạnh trong một vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, nếu so với thị<br />
trường đầu tư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của khu vực ASEAN nói<br />
chung, thì Việt Nam đang chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng dưới 5%). Điều này cho<br />
thấy dòng vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vẫn còn hạn chế, chưa<br />
tương xứng với tiềm năng của thị trường khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam. Từ đó,<br />
bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thu hút vốn đầu tư khởi<br />
nghiệp sáng tạo tại Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.<br />
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,<br />
giải pháp, thực trạng, vốn đầu tư.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Thời gian qua, khởi nghiệp đã tạo thành làn sóng mạnh mẽ trong cộng đồng<br />
người dân Việt Nam. Năm 2016 cũng đã được Chính phủ chọn là Năm quốc gia khởi<br />
nghiệp. Theo thống kê của Tạp chí Echelon (Singapore) - một trong những tạp chí<br />
lớn về khởi nghiệp ở Đông Nam Á - Việt Nam hiện có khoảng 3.000 DN khởi nghiệp<br />
(DNKN), tăng gần gấp đôi so với năm 2015. Bên cạnh đó, hiện nay, sự hiện diện của<br />
các nhà đầu tư (NĐT) quốc tế ở Việt Nam là rất lớn với số lượng giao dịch chiếm tới<br />
hơn 1/3, giá trị đầu tư từ quốc tế cũng gấp hơn 5 lần so với đầu tư trong nước; các<br />
khoản đầu tư lớn nhất trong năm 2017 vừa qua cũng đều đến từ các NĐT nước ngoài.<br />
Thậm chí đã có một số NĐT nước ngoài còn có ý định sáng lập quỹ đầu tư mạo hiểm<br />
tại Việt Nam. DNKN nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST)<br />
nói riêng đã và đang góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo và tạo<br />
việc làm cho thị trường lao động trong nước. Hai năm trở lại đây, mặc dù Chính phủ<br />
đã có nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy khởi nghiệp, thế nhưng tỷ lệ thất bại ở các<br />
DNKN vẫn chiếm tới 90%. Mặc dù đang có tốc độ tăng trưởng ấn tượng song các<br />
DNKNST tại Việt Nam đang phải đối diện với không ít các rào cản trong quá trình<br />
<br />
<br />
381<br />
phát triển. Cụ thể: theo Báo cáo bảng xếp hàng điều kiện kinh doanh năm 2018 (Báo<br />
cáo Doing Business 2018) của 54 quốc gia, Việt Nam đang dẫn đầu ở các chỉ số: năng<br />
động ở thị trường nội địa (5/54), văn hóa chuẩn mực xã hội (6/54), cơ sở hạ tầng<br />
10/54… song lại đang lép vế ở các chỉ số: tài chính (39/54), giáo dục kinh doanh sau<br />
phổ thông (40/54), chuyển giao công nghệ (34/54)… Rõ ràng, tài chính là một trong<br />
những nguyên nhân quan trong mà các DNKNST Việt Nam đang đối mặt và cần được<br />
giải quyết nhanh chóng, kịp thời trong thời gian tới.<br />
Bài viết phân tích thực trạng gặp phải trong quá trình gọi vốn đầu tư đối với<br />
các DNKNST Việt Nam, đồng thời gợi ý một số giải pháp giúp các doanh nghiệp<br />
(DN) khai thông nguồn vốn trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0),<br />
trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nước nhà.<br />
2. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam giai đoạn 2011-2018<br />
2.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo<br />
Theo Blank và Dorf (2012), DNKNST “là tổ chức lâm thời tìm kiếm mô hình<br />
kinh doanh có khả năng tăng tốc phát triển, nhân rộng và mang lại lợi nhuận”. Bên<br />
cạnh khả năng tăng tốc (có tiềm năng tăng trưởng), các DNKNST cũng thường mang<br />
đặc điểm đổi mới sáng tạo (Sarkar, 2016) vì các DN này thường có xu hướng phát<br />
triển hoặc hướng tới tạo ra những sản phẩm và dịchvụ mới cho thị trường. Theo<br />
Schumpeter (1934) - một trong những học giả có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lĩnh<br />
vực khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, doanh nhân là tác nhân của đổi mới sáng tạo và<br />
chuyển đổi kinh tế. Tuy nhiên, các DNKNST chưa có nhiều thành tựu và thành công<br />
nên NĐT khó có thể hiểu rõ và định giá DN (Holstein, 2015). Vì vậy, DNKNST được<br />
xem là loại hình DN rủi ro và khó tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng. Đây là<br />
một trong nhiều lý do khiến DNKNST phải tìm kiếm các nguồn vốn khác, thường<br />
dựa trên việc trao đổi cổ phần trong các giai đoạn phát triển đầu tiên, bao gồm vốn từ<br />
NĐT thiên thần và vốn đầu tư mạo hiểm (Thiel và Masters, 2014). Tại Việt Nam,<br />
thuật ngữ “khởi nghiệp sáng tạo” lần đầu tiên xuất hiện trong Nghị quyết số 35/NQ-<br />
CP của Chính phủ: Về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 được thông qua ngày<br />
16 tháng 5 năm 2016, tiếp đó được định nghĩa trong Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi<br />
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 8442) được thông qua ngày<br />
18 tháng 5 năm 2016, và sau đó là trong Luật hỗ trợ DN vừa và nhỏ được thông qua<br />
ngày 12 tháng 6 năm 2017. Cả Đề án 844 và Luật này đều tập trung nhấn mạnh các<br />
đặc điểm tiềm năng tăng trưởng cao và tính sáng tạo của DNKNST và cùng định<br />
nghĩa: “DNKNST được thành lập để triển khai một ý tưởng kinh doanh trên cơ sở<br />
khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới và có tiềm năng mở<br />
rộng quy mô nhanh chóng”. Sự khác biệt giữa hai văn bản chính sách này là loại hình<br />
DNKN mà từng văn bản hướng tới. Đề án 844 áp dụng đối với các DNKNST với thời<br />
<br />
<br />
382<br />
gian hoạt động tối đa 5 năm kể từ ngày đăng ký thành lập trong khi Luật hỗ trợ DN<br />
vừa và nhỏ không quy định giới hạn này. Luật cũng xác định DNKN là DN vừa và<br />
nhỏ (dựa trên quy mô lao động và doanh thu). Khác biệt này quyết định phạm vi và<br />
phổ rộng đối tượng thụ hưởng của hai văn bản.<br />
Trong khuôn khổ của bài viết này, thuật ngữ “DN khởi nghiệp” và “DN khởi<br />
nghiệp sáng tạo” được sử dụng với hàm ý tương đương nhằm đề cập đến những DN<br />
non trẻ có tiềm năng tăng trưởng cao hoạt động dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công<br />
nghệ và/hoặc mô hình kinh doanh mới.<br />
2.2. Sự phát triển của DN khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam giai đoạn 2011-2018<br />
Do định nghĩa DNKNST mới chỉ xuất hiện trong Luật DN nhỏ và vừa mới<br />
được thông qua 6/2017, cũng không có phân loại DNKNST trong thống kê của cơ<br />
quan đăng ký kinh doanh, hiện không có bất kỳ số liệu chính thức nào về số lượng,<br />
quy mô và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các DNKNST ở Việt Nam. Do đó, tác giả<br />
tham khảo số liệu thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và<br />
Đầu tư về DNKN nói chung như sau (biểu đồ 1):<br />
<br />
<br />
90.651<br />
2018 1.478.101<br />
131.275<br />
38.869<br />
2017 1.295.911<br />
126.859<br />
40.750<br />
2016 891.094<br />
110.100<br />
80.858<br />
2015 601.519<br />
94.754<br />
67.823<br />
2014 432.286<br />
74.842<br />
60.737<br />
2013 398.681<br />
76.955<br />
54.261<br />
2012 467.265<br />
69.874<br />
54.198<br />
2011 513.700<br />
77.548<br />
0 200000 400000 600000 800000 1000000 1200000 1400000 1600000<br />
<br />
DN giải thể hoặc tạm dừng hoạt động (đvt: doanh nghiệp)<br />
Số vốn (đvt: tỷ đồng)<br />
Số DN (đvt: doanh nghiệp)<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1: Thống kê số lượng DN và số vốn đầu tư giai đoạn 2011-2018<br />
Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư<br />
<br />
<br />
383<br />
Qua biểu đồ 1 ta thấy, giai đoạn 2011-2018 là mốc quan trọng đánh dấu sự phát<br />
triển của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam so với 20 năm trước đó. Số lượng DN đăng<br />
ký thành lập có xu hướng tăng cả về số lượng lẫn vốn đăng ký. Năm 2011, cả nước có<br />
thêm 77.548 DN đăng ký thành lập mới, năm 2015 là 94.754 và đến năm 2018, cả nước<br />
có 131.275 DN đăng ký thành lập mới, tăng 3,5% về số DN so với cùng kỳ năm 2017.<br />
Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN cũng có sự cải thiện từ 6,6 tỷ đồng năm<br />
2011 lên 11,3 tỷ đồng vào năm 2018. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế<br />
trong năm 2018 là 3.886.892 tỷ đồng, tăng 22,8% so với năm 2017, bao gồm: 1.478.101<br />
tỷ đồng của DN đăng ký thành lập mới và 2.408.791 tỷ đồng vốn tăng thêm của các<br />
DN đang hoạt động với 42.538 lượt đăng ký tăng vốn. Đây là năm thứ tư liên tiếp có<br />
số lượng DN thành lập mới và số vốn đăng ký đạt cao nhất trong lịch sử. Những chỉ số<br />
được đưa ra ở trên là tín hiệu rõ ràng cho thấy niềm tin của những DN đang hoạt động<br />
khi họ tiếp tục bổ sung vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tế này cho thấy,<br />
mục tiêu đạt 1 triệu DN vào năm 2020 là khả thi. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn 2011-<br />
2018, DN tạm ngừng hoạt động có thời hạn có xu hướng tăng. Điều này phản ánh xu<br />
thế thanh lọc mạnh mẽ của thị trường, Việt Nam cũng giống như xu hướng chung của<br />
các DN khởi nghiệp trên thế giới (khó khăn trong những năm đầu hoạt động).<br />
Hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam trong những năm gần đây, nhất là năm<br />
2018, được Chính phủ và DN đặc biệt quan tâm.<br />
<br />
30 27<br />
25<br />
25 22 22<br />
20<br />
14 14 13 14 13 13<br />
15<br />
9 9<br />
10 6 6<br />
4 4<br />
5<br />
0<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2016 2017<br />
<br />
Ghi chú: Accelerators: Tổ chức hỗ trợ, thúc đẩy kinh doanh<br />
Pre-seed, Seed investors : Quỹ/NĐT giai đoạn sơ khai<br />
Series A, Series B: Quỹ/ NĐT giai đoạn Series A, Series B<br />
Biểu đồ 2: Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam<br />
Nguồn: Trịnh Đức Chiều (2018).<br />
<br />
384<br />
Biểu đồ 2 cung cấp một số dữ liệu về hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam trong<br />
hai năm 2017 và 2018. Có thể thấy, so với các nước, hệ sinh thái khởi nghiệp của<br />
Việt Nam còn tương đối non trẻ và chưa kết nối chặt chẽ với nhau. Dù 2018 là năm<br />
thứ 4 liên tiếp Việt Nam đạt được mốc thống kê về số lượng DNKN cũng như số vốn<br />
đầu tư rất cao nhưng hệ sinh thái khởi nghiệp lại tăng trưởng chậm. Trong 8 yếu tố<br />
của hệ sinh thái khởi nghiệp, chỉ có quỹ/ NĐT giai đoạn Series A, Series B và khu<br />
làm việc chung có sự tăng trưởng nhẹ về mặt số lượng, 6 yếu tố còn lại hầu như không<br />
có nhiều biến động.<br />
Một số DNKNST ở Việt Nam đã có những thành công ban đầu, có kinh<br />
nghiệm trong các dự án lớn trong và ngoài nước. Một số cá nhân từng làm việc tại<br />
các hãng như: FPT, CMC, VSW, Microsoft Vietnam,... đã tách ra, mở công ty,<br />
hoạt động có kết quả. Tại nhiều đại học đã hình thành việc hợp tác với DN để phát<br />
triển hoạt động khởi nghiệp (ví dụ BKHoldings - một công ty trong lòng Đại học<br />
Bách khoa Hà Nội hợp tác với UP - Coworking Space để phát triển không gian<br />
làm việc chung).<br />
Nhìn chung, DNKNST Việt Nam đang trong quá trình phát triển, hệ sinh<br />
thái khởi nghiệp cũng đang trong quá trình hình thành. Dù những thành tựu đem<br />
lại còn khá khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, tuy<br />
vậy đây vẫn thực sự là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước nhà trong thế kỷ<br />
hội nhập 4.0.<br />
3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư tại các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo<br />
Việt Nam<br />
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chỉ rõ, mặc dù có tiềm năng đóng góp lớn<br />
cho sự phát triển kinh tế, song các DNKN lại có những trở ngại lớn, xu thế chung là<br />
gặp khó khăn trong những năm đầu khởi sự. Tại Anh, tỷ lệ DN còn tồn tại sau 3 năm<br />
hoạt động là 70%. Tại New Zealand, tỷ lệ này là dưới 50%. Ở 26 nước trong khu vực<br />
Liên minh châu Âu (EU), tốc độ gia tăng số lượng DN thành lập mới và DN giải thể<br />
ở mức tương đương nhau, tỷ lệ DN tồn tại sau 5 năm là 46%. Tại Mỹ, tỷ lệ DN tồn<br />
tại sau 5 năm hoạt động là dưới 50% (Phạm Tiến Đạt, 2018). Trong những trở ngại<br />
mà DNKN gặp phải, trở ngại đầu tiên, cũng giống như mọi sự bắt đầu khác, là vốn<br />
đầu tư. Trong mọi hoạt động kinh doanh, đều cần đến vốn đầu tư, song DNKNST cần<br />
một lượng vốn lớn do đặc điểm kinh doanh gắn với công nghệ hoặc mô hình kinh<br />
doanh mới. Vì vậy, thu hút vốn đầu tư luôn là vấn đề được quan tâm không chỉ đối<br />
với DNKN mà còn quan tâm hơn đến DNKNST.<br />
3.1. Phương thức thu hút vốn đầu tư tại các DN khởi nghiệp sáng tạo<br />
Đối với DNKNST, vòng đời phát triển sẽ trải qua các giai đoạn từ tiền ươm<br />
mầm (pre-seed), ươm mầm (seed), giai đoạn đầu, các giai đoạn phát triển tiếp theo<br />
<br />
385<br />
và cuối cùng là trải qua mua bán/sáp nhập hoặc chào bán cổ phiếu công chúng (IPO).<br />
Trong tất cả các giai đoạn, nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Ở các giai<br />
đoạn khác nhau, với khả năng tài chính, tiềm năng phát triển cũng như thực lực khác<br />
nhau, một DNKNST sẽ cần lượng vốn và loại hình vốn khác nhau. Thông thường,<br />
các nguồn vốn có thể huy động được của DNKNST được chia thành hai nhóm: Nguồn<br />
vốn bên trong (vốn tự có, vốn từ gia đình bạn bè); Các nguồn vốn bên ngoài mà<br />
DNKNST có thể tiếp cận gồm có các khoản tài trợ (phần lớn đến từ chính phủ), vốn<br />
vay, vay bảo lãnh, vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm và NĐT thiên thần, từ<br />
doanh thu và một số hình thức tài chính mới hiện nay như cho vay ngang hàng, gọi<br />
vốn cộng đồng hay ICO, ... (bảng 1).<br />
Bảng 1. Các phương thức huy động vốn đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo<br />
Các nhà<br />
Các NĐT không chính thức Các NĐT chính thức<br />
đầu tư<br />
Đối tượng huy Nhà sáng lập, bạn Các NĐT Các quỹ đầu tư mạo Thoái<br />
động vốn bè, người thân thiên thần hiểm, gọi vốn cộng đồng vốn, cổ<br />
Quy mô huy