intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại dịch vụ bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

110
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong phạm vi bài viết này tác giả đề cập tới thực trạng việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại dịch vụ thông qua Trọng tài thương mại dựa trên hai khía cạnh là luật pháp và thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đang được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại dịch vụ bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam

Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ BẰNG TRỌNG TÀI<br /> THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM<br /> Hà Công Anh Bảo1<br /> 1<br /> <br /> ThS. Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 03/14<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 27/08/14<br /> Ngày chấp nhận đăng: 06/15<br /> Title:<br /> Solving commercial service<br /> contract disputes by<br /> Commercial Arbitration in<br /> Vietnam<br /> Từ khóa:<br /> Trọng tài thương mại, giải<br /> quyết tranh chấp, hợp đồng<br /> thương mại dịch vụ<br /> Keywords:<br /> Commercial arbitration,<br /> dispute solution, commercial<br /> service contract<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Becoming a member of the WTO has brought a great deal of benefits to<br /> Vietnamese companies as well as the development of commercial service.<br /> However, going along with such advantages, there are some remarkable<br /> drawbacks caused by the integration of the commercial service. Despite the<br /> profitable contracts, the service providing companies have to face many disputes<br /> derived from such contracts. In order to solve such disputes, some methods such<br /> as Negotiation, Mediation, Arbitration or Litigation can be applied to solve<br /> disputes. Each method has their own advantages and disadvantages, from which<br /> each party can have a choice. In the scope of this article, the author refers to the<br /> reality of resolving commercial service contract dispute by Commercial<br /> Arbitration from 2 aspects: in laws and in reality of Vietnam companies<br /> nowadays.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã mang lại nhiều thuận lợi cho các<br /> doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời ngành thương mại dịch vụ cũng càng ngày<br /> phát triển. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đó là những khó khăn và hậu quả<br /> của quá trình hội nhập của ngành thương mại dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp<br /> tham gia cung cấp dịch vụ, ngoài những hợp đồng mang lại doanh thu, lợi nhuận<br /> cao thì họ cũng phải đối mặt với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương<br /> mại dịch vụ. Để giải quyết được những tranh chấp này thì tại Việt Nam các bên<br /> có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp được pháp luật thừa nhận<br /> là: Thương lượng, Hòa giải, Tòa án hoặc Trọng tài. Mỗi phương thức đều có ưu<br /> và nhược điểm của nó để cho các bên có sự lựa chọn. Trong phạm vi bài viết này<br /> tác giả đề cập tới thực trạng việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại<br /> dịch vụ thông qua Trọng tài thương mại dựa trên hai khía cạnh là luật pháp và<br /> thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đang được các doanh nghiệp Việt<br /> Nam sử dụng hiện nay.<br /> <br /> luật nhằm xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và<br /> nghĩa vụ đối với nhau trong việc mua bán, cung<br /> cấp, trao đổi dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi” (Hà<br /> Công Anh Bảo, 2014).<br /> <br /> 1. HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ<br /> TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG<br /> MẠI DỊCH VỤ<br /> Cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất<br /> nào về hợp đồng thương mại dịch vụ (TMDV).<br /> Dựa trên đối tượng hợp đồng là dịch vụ và tính<br /> chất thương mại của loại hợp đồng này tác giả đã<br /> đưa ra khái niệm về hợp đồng TMDV là “sự thỏa<br /> thuận giữa các bên, căn cứ vào qui định của pháp<br /> <br /> Tranh chấp về hợp đồng TMDV cũng chưa có<br /> khái niệm thống nhất, từ việc nghiên cứu khái<br /> niệm về tranh chấp, về hoạt động thương mại<br /> được qui định trong luật thương mại (3.1 Luật<br /> Thương mại, 2005) và khái niệm về hợp đồng<br /> 70<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> TMDV ở trên thì có thể đưa ra khái niệm về tranh<br /> chấp hợp đồng TMDV như sau: “là những mâu<br /> thuẫn, những bất đồng, những xung đột về quyền<br /> và lợi ích của các bên ký kết hợp đồng TMDV<br /> liên quan đến cả quá trình từ khi ký kết cho đến<br /> khi thực hiện hợp đồng TMDV”.<br /> <br /> cuộc. Xét xử bằng Trọng tài sẽ làm giảm mức độ<br /> xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ<br /> sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian<br /> kín đáo nhẹ nhàng. Đó là những yếu tố tạo điều<br /> kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan<br /> hệ thiện chí đối với nhau. Và đặc biệt, sự tự<br /> nguyện thi hành quyết định Trọng tài của một bên<br /> sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong<br /> quan hệ đối tác trong tương lai; (6) Với các tranh<br /> chấp về hợp đồng TMDV có yếu tố quốc tế,<br /> Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp<br /> được các doanh nghiệp nước ngoài ưa chuộng hơn<br /> so với Tòa án, một mặt vì Trọng tài là tổ chức phi<br /> chính phủ, mặt khác vì việc cưỡng chế thi hành<br /> phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã trở nên dễ<br /> dàng hơn nhờ có Công ước New York 1958 về<br /> thừa nhận và thi hành phán quyết Trọng tài nước<br /> ngoài, và Việt Nam đã gia nhập công ước này vào<br /> năm 1995. Bên cạnh đó, đối với hợp đồng TMDV<br /> là loại hợp đồng có đối tượng là dịch vụ, thường<br /> là vô hình và tính chất phức tạp cao nên các bên<br /> có thể lựa chọn được những Trọng tài viên có<br /> kinh nghiệm và kiến thức về lĩnh vực tranh chấp<br /> xảy ra, điều này là không thể đối với tòa án, các<br /> bên không có quyền lựa chọn thẩm phán.<br /> <br /> 2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP<br /> ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ BẰNG<br /> TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI<br /> Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại<br /> là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó, vụ<br /> việc tranh chấp sẽ do Trọng tài – cơ quan phi<br /> chính phủ - đứng ra giải quyết theo thủ tục tố tụng<br /> do pháp luật về Trọng tài thương mại qui định.<br /> Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh<br /> chấp mang tính tài phán, so với Tòa án, việc giải<br /> quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại có<br /> những ưu điểm như: (1) Phán quyết của Trọng tài<br /> là chung thẩm đối với bên đương sự: tức là phán<br /> quyết Trọng tài có giá trị cuối cùng và Trọng tài<br /> chỉ xét xử một lần duy nhất và các bên không có<br /> quyền kháng cáo hoặc kháng nghị; (2) Quá trình<br /> giải quyết tranh chấp không công khai: Hầu hết<br /> pháp luật về Trọng tài của các nước đều thừa nhận<br /> nguyên tắc Trọng tài xử kín (in camera) nếu các<br /> bên không quy định khác. Đây là ưu điểm đối với<br /> những doanh nghiệp không muốn các chi tiết<br /> trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai,<br /> tiết lộ trước công chúng; (3) Giải quyết tranh chấp<br /> bằng Trọng tài có tính linh hoạt, mềm dẻo, năng<br /> động và dễ thích ứng hơn so với tòa án: Tòa án,<br /> khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và<br /> nghiêm khắc (cứng nhắc) các quy định có tính<br /> quy trình, thủ tục, trình tự… được quy định trước<br /> đó. Điều này không phải là hoàn toàn phù hợp với<br /> hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; (4) Tiết<br /> kiệm thời gian: Tính liên tục, tốc độ của các hoạt<br /> động kinh tế và kinh doanh, đặc biệt hoạt động<br /> kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng<br /> phí thời gian, điều mà các tòa án sẽ rất khó đáp<br /> ứng được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp<br /> cùng một lúc gây ra khả năng ách tắc hồ sơ; (5)<br /> Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp<br /> thân thiện giúp cho các bên duy trì được quan hệ<br /> đối tác: việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài có<br /> tính bí mật sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn<br /> thương đến mối quan hệ hợp tác. Trong khi đó,<br /> xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các<br /> bên rơi vào tình thế đối địch nhau với kết cục là<br /> một bên được thừa nhận như là người chiến thắng,<br /> còn bên kia thấy mình thật sự như một kẻ thua<br /> <br /> 3. THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ<br /> GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG<br /> TÀI THƯƠNG MẠI<br /> - Khung pháp luật về Trọng tài ngày càng được<br /> hoàn thiện: Năm 2003 Pháp lệnh Trọng tài<br /> Thương mại ra đời đã tạo cơ sở pháp lý phù hợp<br /> cho việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài<br /> Thương mại trong đó có giải quyết tranh chấp về<br /> hợp đồng TMDV. Luật Trọng tài Thương mại<br /> Việt Nam năm 2010 ra đời đã thay thế Pháp lệnh<br /> Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa<br /> những chế định tiến bộ, phù hợp với những quy<br /> định mới, hoàn chỉnh hơn nhằm tạo dựng cơ sở<br /> pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương của<br /> Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài<br /> trong giải quyết các tranh chấp thương mại nói<br /> chung và tranh chấp về hợp đồng TMDV nói<br /> riêng.<br /> - Chính phủ đã ban hành Nghị định số<br /> 63/2011/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi<br /> hành một số điều của Luật Trọng tài Thương mại<br /> nhằm hoàn thiện pháp luật về Trọng tài Thương<br /> mại: Phạm vi điều chỉnh của Nghị định chủ yếu<br /> quy định về các trình tự, thủ tục hành chính liên<br /> quan đến tổ chức Trọng tài, không hướng dẫn về<br /> tố tụng Trọng tài vì vấn đề này đã được thảo luận<br /> 71<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> rất kỹ khi soạn thảo Luật Trọng tài Thương mại<br /> và cũng đã được quy định trong Luật Trọng tài<br /> Thương mại năm 2010.<br /> <br /> những cách hiểu khác nhau, đặc biệt là các quy<br /> định về việc phân định thẩm quyền của Trọng tài<br /> và Tòa án, quy định về thỏa thuận Trọng tài, hủy<br /> phán quyết Trọng tài... Do đó, để đảm bảo tính<br /> khả thi cũng như hiệu quả thi hành của Luật<br /> Trọng tài Thương mại 2010 thì năm 2012 Hội<br /> đồng Thẩm phán đã tiến hành soạn thảo Nghị<br /> quyết hướng dẫn theo đó dự thảo tập trung vào 6<br /> nhóm vấn đề: Phân biệt thẩm quyền Trọng tài<br /> Thương mại và thẩm quyền của Tòa án đối với<br /> Trọng tài; Thỏa thuận Trọng tài vô hiệu và thỏa<br /> thuận Trọng tài không thể thực hiện được; Thành<br /> lập hội đồng Trọng tài vụ việc, thay đổi Trọng tài<br /> viên.<br /> <br /> - Luật Thi hành án dân sự 2008 là cơ sở để cho<br /> các doanh nghiệp đặt niềm tin vào Trọng tài<br /> Thương mại: về nguyên tắc thì sẽ có sự bình đẳng,<br /> không có sự phân biệt hoặc ưu tiên nào trong việc<br /> thi hành án, quyết định của Tòa án hoặc quyết<br /> định của Trọng tài hay quyết định của Hội đồng<br /> xử lý vụ việc cạnh tranh. Luật Thi hành án dân sự<br /> cũng qui định hai cơ chế thi hành án, đó là chủ<br /> động thi hành án và thi hành án theo đơn yêu cầu.<br /> Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp<br /> tạm thời của Trọng tài được thi hành theo thủ tục<br /> chủ động thi hành án, tức là Thủ trưởng cơ quan<br /> thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án và<br /> tổ chức việc thi hành loại việc này sau khi nhận<br /> được quyết định do Trọng tài chuyển giao. Đối<br /> với phán quyết của Trọng tài về xử lý vụ việc<br /> Trọng tài thì đây là việc thi hành án theo đơn yêu<br /> cầu. Điều này cho thấy pháp luật về thi hành án<br /> dân sự đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho từng<br /> loại phán quyết của Trọng tài.<br /> <br /> 4. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP<br /> VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ<br /> BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI<br /> Tại Việt Nam hiện có 7 Trung tâm Trọng tài<br /> Thương mại (gồm Trung tâm Trọng tài Thương<br /> mại Á Châu, VIAC, Trọng tài Thương mại TP.<br /> HCM, Trọng tài Thương mại Cần Thơ, Trọng tài<br /> Thương mại Quốc tế Thái Bình Dương; Trọng tài<br /> Thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam và<br /> Trọng tài Thương mại Tài chính) trong đó VIAC<br /> là Trung tâm Trọng tài có nhiều kinh nghiệm và<br /> uy tín trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng<br /> TMDV, còn các Trung tâm Trọng tài khác hoạt<br /> động chưa hiệu quả và không có nhiều vụ việc<br /> liên quan đến hợp đồng TMDV. Vì vậy, trong<br /> phần này tác giả sẽ phân tích tình hình giải quyết<br /> tranh chấp hợp đồng TMDV tại VIAC để làm<br /> khái quát bức tranh về giải quyết tranh chấp hợp<br /> đồng TMDV tại các Trung tâm Trọng tài thương<br /> mại ở Việt Nam.<br /> <br /> - Các Trung tâm Trọng tài Thương mại đã xây<br /> dựng Quy tắc tố tụng riêng của mình nhằm hướng<br /> dẫn các bên tranh chấp về thủ tục, tố tụng Trọng<br /> tài: Để tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp<br /> tại Trọng tài thì tất cả các Trung tâm Trọng tài<br /> Thương mại tại Việt Nam đã có quy tắc tố tụng<br /> riêng của mình, được soạn theo hướng đơn giản<br /> nhằm giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính.<br /> - Việt Nam đã gia nhập Công ước New York năm<br /> 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết Trọng<br /> tài nước ngoài nhằm tạo điều kiện để phán quyết<br /> của Trọng tài Thương mại Việt Nam được thi<br /> hành thuận lợi ở nước ngoài: Công ước này áp<br /> dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết<br /> định Trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một<br /> Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công<br /> nhận và thi hành quyết định Trọng tài đó, xuất<br /> phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp<br /> nhân. Công ước còn được áp dụng cho những<br /> quyết định trong nước tại Quốc gia nơi việc công<br /> nhận và thi hành chúng được yêu cầu (Điều 3,<br /> Công ước New York, 1958).<br /> <br /> Nhìn từ Biểu đồ 1 dưới đây cho thấy tranh chấp<br /> về mua bán hàng hóa chiếm 70%, tranh chấp về<br /> dịch vụ chiếm 3%, về xây dựng chiếm 5%, về đại<br /> lý chiếm 1%, về đầu tư chiếm 4%, về gia công<br /> chiếm 5%, về tài chính ngân hàng chiếm 3% đây<br /> là loại hình tranh chấp mới được xuất hiện tại<br /> VIAC. Tuy nhiên, đây là cách phân loại của<br /> VIAC. Còn theo quan điểm của tác giả, xây dựng,<br /> đầu tư (mặc dù đầu tư có nhiều hình thức như hợp<br /> tác kinh doanh, BOT, BTO, BT nhưng một phần<br /> nào đó phản ánh được tính dịch vụ trong hoạt<br /> đồng đầu tư), đại lý và tài chính ngân hàng cũng<br /> là hoạt động dịch vụ, do đó có thể thấy tranh chấp<br /> về hoạt động TMDV do VIAC giải quyết tranh<br /> chấp từ năm 1993 đến năm 2012 là 21%. Trong<br /> năm 2013, số lượng vụ tranh chấp về hợp đồng<br /> TMDV tại VIAC cũng có xu hướng tăng lên về<br /> <br /> - Chuẩn bị ban hành Nghị quyết của Hội đồng<br /> Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành<br /> một số quy định của Luật Trọng tài Thương mại<br /> 2010: Các quy định của Luật Trọng tài Thương<br /> mại 2010 mặc dù đã được xây dựng đầy đủ và<br /> toàn diện nhưng một số quy định của Luật còn có<br /> 72<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> dịch vụ (13 vụ), xây dựng (9 vụ), thuê (10 vụ),<br /> hợp tác kinh doanh (4 vụ), tài chính (1 vụ), bảo<br /> hiểm (2 vụ) chiếm 36/99 tổng số vụ tranh chấp<br /> trong năm 2013 (VIAC, báo cáo năm 2013).<br /> <br /> trong xây dựng (ví dụ như dịch vụ giám sát công<br /> trình xây dựng, dịch vụ nghiệm thu, đánh giá các<br /> hạng mục xây dựng…), trong đào tạo vận hành<br /> thiết bị từ hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong<br /> lĩnh vực tín dụng, tài chính ngân hàng v.v… Số<br /> liệu thống kê của VIAC cho thấy, từ năm 2005<br /> đến năm 2013, trong tổng số các vụ tranh chấp do<br /> VIAC thụ lý có: mua bán hàng hóa (495 vụ), gia<br /> công (37 vụ), phân phối (8 vụ), thuê mua (6 vụ),<br /> hợp tác kinh doanh (15 vụ), dịch vụ (22 vụ), xây<br /> dựng (37 vụ), đại lý (15 vụ), hợp tác đầu tư (30<br /> vụ), tài chính ngân hàng (22 vụ) và các tranh chấp<br /> trong lĩnh vực khác (81 vụ) và như vậy, rõ ràng<br /> tranh chấp về hợp đồng TMDV ngày càng gia<br /> tăng về số lượng và phức tạp về tình tiết vụ việc.<br /> <br /> Biểu đồ 1. Các loại hình tranh chấp được giải quyết tại<br /> VIAC từ 1993-2013<br /> <br /> Số vụ kiện có tính chất phức tạp ngày càng nhiều,<br /> một số vụ phải trưng cầu giám định, kéo dài thời<br /> gian. Tuy nhiên, nhờ sự mẫn cán nghiên cứu của<br /> các hội đồng Trọng tài, nhờ trình độ chuyên sâu<br /> về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết<br /> bằng Trọng tài của các Trọng tài viên ngày càng<br /> tốt hơn nên phần lớn số vụ đều được giải quyết<br /> đạt chất lượng cao trong một thời gian ngắn, tiết<br /> kiệm được thời gian, tiền bạc cho các bên tranh<br /> chấp. Tính trung bình, thời gian giải quyết một vụ<br /> kiện là 6 tháng, trong đó nhiều vụ được giải quyết<br /> trong vòng 3 tháng.<br /> <br /> Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của VIAC<br /> <br /> Xét xử là hoạt động trọng tâm của VIAC. Theo<br /> thống kê, số lượng vụ kiện giải quyết tại VIAC<br /> ngày càng tăng theo các năm. Nếu như trước năm<br /> 2002, số lượng vụ kiện tại VIAC chỉ khoảng trên<br /> dưới 10 vụ/năm, thì trong giai đoạn 2002 – 2013,<br /> con số này đã tăng lên khoảng 37 vụ/năm. Riêng<br /> năm 2013, số lượng vụ kiện tăng cao nhất, đạt 99<br /> vụ, tiếp đó là năm 2011 đạt 83 vụ và 2012 đạt 64<br /> vụ (Biểu đồ 2). Tuy nhiên trong đó thì chủ yếu là<br /> giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán chiếm<br /> đa số (67%), trong khi đó các vụ giải quyết tranh<br /> chấp về Hợp đồng TMDV chỉ chiếm 21%. Điều<br /> đó cho thấy, việc giải quyết tranh chấp về lĩnh vực<br /> dịch vụ vẫn còn hạn chế.<br /> <br /> Trong hoạt động Trọng tài, giới chuyên môn<br /> thường coi Trọng nguyên tắc “một kết quả hòa<br /> giải tồi còn hơn một phán quyết tốt”. Bởi vậy, một<br /> trong những yếu tố thể hiện hiệu quả của hoạt<br /> động giải quyết tranh chấp tại Trung tâm là số vụ<br /> các bên đạt được hòa giải hoặc nguyên đơn rút<br /> đơn kiện chiếm tỷ lệ cao (30%) (Vũ Ánh Dương,<br /> 2012)<br /> <br /> Biểu đồ 2. Số vụ tranh chấp tại VIAC<br /> Đơn vị: số vụ<br /> <br /> 5. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ BẤT CẬP NHƯ<br /> SAU<br /> - Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ít chọn Trọng<br /> tài để giải quyết tranh chấp về hợp đồng TMDV<br /> trong nước: nhất là hợp đồng có giá trị lớn hầu<br /> như không lựa chọn Trọng tài tại Việt Nam để<br /> giải quyết. Trong khi đó các tranh chấp ở Việt<br /> Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải quyết thông<br /> qua hệ thống tòa án hoặc Trọng tài nước ngoài.<br /> Theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế<br /> Singapore (SIAC) thì hàng năm đều có từ 3-5 vụ<br /> việc mà một bên là phía Việt Nam được giải quyết<br /> tại SIAC vì vậy sẽ không ngạc nhiên khi tại<br /> website của SIAC quy tắc tố tụng của tổ chức này<br /> ngoài tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung còn thấy<br /> cả định dạng của tiếng Việt.<br /> <br /> Nguồn: Báo cáo VIAC, 2014<br /> <br /> Nếu như trước đây, nội dung của các vụ tranh<br /> chấp thường tập trung vào lĩnh vực mua bán hàng<br /> hóa, thanh toán, vận tải, bảo hiểm thì nay đã xuất<br /> hiện các loại tranh chấp mới hoặc trước đây ít gặp<br /> như: Tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng liên<br /> doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, về<br /> quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong đầu tư,<br /> 73<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 70 – 76<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> do đó không đúng qui trình giải quyết tranh chấp,<br /> mặc dù thông báo này nêu rõ thời gian và địa<br /> điểm tổ chức phiên họp, được gửi hợp lệ đến các<br /> bên tranh chấp. Một số phán quyết khác bị hủy<br /> với những lý do không hợp lý. Chẳng hạn, theo<br /> quy định tại Điều 81 Luật Trọng tài Thương mại<br /> 2010, đối với các thoả thuận Trọng tài ký trước<br /> ngày luật có hiệu lực thì áp dụng pháp luật tại thời<br /> điểm ký thoả thuận Trọng tài. Tuân thủ quy định<br /> này, các Hội đồng Trọng tài đã áp dụng Pháp lệnh<br /> TTTM 2003 đối với các vụ kiện có thoả thuận<br /> Trọng tài ký trước ngày Luật Trọng tài có hiệu<br /> lực. Tuy nhiên, Toà đã tuyên hủy các phán quyết<br /> này với lý do Hội đồng Trọng tài không áp dụng<br /> các quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010<br /> vì phán quyết Trọng tài được tuyên tại thời điểm<br /> Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã có hiệu lực.<br /> Cũng liên quan tới việc áp dụng luật, Hội đồng<br /> Trọng tài không triệu tập người có quyền lợi và<br /> nghĩa vụ liên quan vì quá trình tố tụng Trọng tài<br /> chỉ ràng buộc đối với các bên ký thoả thuận Trọng<br /> tài. Trong tố tụng Trọng tài không có khái niệm<br /> người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như<br /> trong tố tụng Toà án. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài<br /> không có thẩm quyền triệu tập người có quyền<br /> lợi, nghĩa vụ liên quan. Thế nhưng có những phán<br /> quyết bị hủy chỉ với lý do Hội đồng Trọng tài đã<br /> không triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên<br /> quan. VIAC cho biết thực tế số phán quyết bị hủy<br /> có thể nhiều hơn con số thống kê với một số phán<br /> quyết bị hủy mà VIAC cũng không biết Toà án<br /> không thông báo cho dù Luật Trọng tài Thương<br /> mại năm 2010 quy định việc gửi Quyết định hủy<br /> hoặc không hủy phán quyết Trọng tài phải được<br /> gửi cho các Trung tâm Trọng tài sau 05 ngày Tòa<br /> ra quyết định.<br /> <br /> - Vẫn còn tình trạng thỏa thuận của các bên trong<br /> hợp đồng TMDV về thỏa thuận Trọng tài bị Tòa<br /> án tuyên là vô hiệu: do sự không thống nhất giữa<br /> bản hợp đồng bằng tiếng Anh và tiếng Việt, các<br /> bên có những thỏa thuận Trọng tài không đúng<br /> theo qui định hoặc thỏa thuận Trọng tài và Tòa án<br /> theo nước đôi, điều này dẫn đến Trọng tài không<br /> có đủ thẩm quyền giải quyết. Ví dụ trong năm<br /> 2010, VIAC đã phải giải quyết một vụ tranh chấp<br /> liên quan đến hợp đồng TMDV, nguyên đơn là<br /> một công ty Nhật, bị đơn là phía Việt Nam trong<br /> đó thỏa thuận Trọng tài được quy định trong bản<br /> hợp đồng bằng tiếng Anh là chọn VIAC là cơ<br /> quan giải quyết tranh chấp, còn bản bằng tiếng<br /> Việt thì lựa chọn Tòa án Kinh tế của Việt Nam là<br /> cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều đáng tiếc là<br /> trong hợp đồng này đều công nhận giá trị pháp lý<br /> của 2 bản tiếng Anh và tiếng Việt là ngang nhau.<br /> VIAC đã phải tiến hành phiên họp và cuối cùng ra<br /> phán quyết là VIAC không có thẩm quyền giải<br /> quyết tranh chấp vì giữa hai bên không thống nhất<br /> được với nhau về thẩm quyền của Trọng tài.<br /> - Nhiều phán quyết của Trọng tài vẫn bị Tòa án<br /> tuyên hủy do vi phạm tố tụng Trọng tài: mặc dù<br /> phán quyết của Trọng tài là chung thẩm nhưng<br /> trong một số trường hợp phán quyết này vẫn bị<br /> hủy bởi Tòa án nếu thỏa mãn những điều kiện<br /> được nêu ra ở điều 68 của Luật Trọng tài Thương<br /> mại 2010. Chính vì pháp luật trao quyền cho Tòa<br /> án trong việc hủy phán quyết Trọng tài cho nên<br /> dẫn đến niềm tin vào Trọng tài bị giảm sút. Thống<br /> kê sơ bộ của VIAC cho thấy từ năm 2006 đến<br /> 2011 chỉ có khoảng 3 phán quyết Trọng tài bị Toà<br /> án tuyên huỷ. Thế nhưng từ khi Luật Trọng tài<br /> Thương mại 2010 chính thức có hiệu lực từ<br /> 1/1/2011 thì tỷ lệ phán quyết Trọng tài bị hủy<br /> bỗng nhiên tăng vọt với 5 phán quyết Trọng tài bị<br /> tuyên hủy. Thậm chí, chỉ trong tháng 11 năm<br /> 2012, có tới 3 phán quyết Trọng tài bị huỷ, tỷ lệ<br /> phán quyết Trọng tài bị hủy trong vòng 1 năm đã<br /> bằng tổng số 8 năm về trước, gần đây nhất là<br /> tháng 3 năm 2013 một phán quyết của Trung tâm<br /> Trọng tài Thương mại quốc tế Cần Thơ cũng bị<br /> hủy. Trên thực tế có nhiều phán quyết của Trọng<br /> tài bị hủy chỉ dựa vào những cách hiểu khác nhau<br /> về thủ tục qui trình tố tụng giữa Tòa án và Trọng<br /> tài, khi Tòa án chủ yếu dựa vào các thủ tục trong<br /> Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 để áp dụng vào xem<br /> xét các quyết định của Trọng tài. Trong năm<br /> 2012, Tòa án đã ra quyết định hủy phán quyết<br /> Trọng tài chỉ vì đơn triệu tập lại được viết thành<br /> “thư mời” nên các bên có thể đến hoặc không đến<br /> <br /> - Bên thua kiện chưa tự nguyện tuân thủ thi hành<br /> phán quyết của Trọng tài Thương mại: phán quyết<br /> Trọng tài được thi hành dựa trên nguyên tắc tự<br /> thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, các doanh<br /> nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa xem Trọng<br /> việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vì đây<br /> không phải cơ quan Nhà nước nên chưa có ý thực<br /> tự giác.<br /> Nguyên nhân của những bất cập:<br /> Thực tế có thể cho thấy rằng có quá ít tranh chấp<br /> thương mại được giải quyết tại Trọng tài. Lí giải<br /> cho việc doanh nghiệp không mặn mà với Trung<br /> tâm Trọng tài có một số nguyên nhân sau:<br /> - Chi phí giải quyết tranh chấp cao khi so với Tòa<br /> án: Hiện nay, pháp luật không quy định mức phí<br /> 74<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2