intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Giáo dục nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay" tìm hiểu quan niệm về nhân cách văn hóa, sự cần thiết phải giáo dục nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay và đề ra một số nội dung giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” GIÁO DỤC NHÂN CÁCH VĂN HÓA CHO THẾ HỆ TRẺ TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY Nguyễn Thuỳ Dương Trường Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch Sơn La Tác giả liên hệ: Nguyễn Thùy Dương, email: duongnguyen0609@gmail.com Tóm tắt: Ý thức quốc gia - dân tộc Việt Nam được hình thành, vun đắp và phát triển bởi các thế hệ người dân Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Nhất là trong thời đại của trí tuệ và những phát minh khoa học, xã hội đặc biệt quan tâm, chú ý đến khả năng sáng tạo và sự phát triển nhân cách của cá nhân con người. Song sự phát triển nhân cách con người lại không tách rời mà là sản phẩm của một nền văn hoá nhất định, sự phát triển nhân cách dựa vào quá trình cá nhân học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hoá, xã hội. Vì vậy, để bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống dân tộc, giáo dục nhân cách văn hoá Việt Nam cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay là một trong những khâu chủ đạo. Bài viết tìm hiểu quan niệm về nhân cách văn hoá, sự cần thiết phải giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay và đề ra một số nội dung giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Từ khóa: nhân cách văn hoá; chủ nghĩa xã hội; giáo dục; thế hệ trẻ. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Xây dựng nhân cách con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta đã sớm có những định hướng cụ thể thông qua các nghị quyết ở mỗi kỳ đại hội và những nghị quyết chuyên đề về văn hóa. Nhất là khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ cao, đời sống nhân dân tăng lên, nhiều người đã trở nên giàu có. Nhân cách con người, đặc biệt là thế hệ trẻ cũng từ đó mà thay đổi. Bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, lười học, lười lao động; thiếu lễ phép với thầy cô, cha mẹ, người lớn tuổi, gây gổ, đánh nhau; mơ hồ về truyền thống dân tộc, chưa có sự tự hào về đất nước… Vì vậy, việc nghiên cứu giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đang được đặt ra với những vấn đề mới. 21
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2. NỘI DUNG 2.1. Nhân cách văn hoá Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ thuộc nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau, trong đó có khoa học tâm lí. Có thể nhận thấy, nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của nhân cách con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Theo đó, nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy. Trong Tuyên ngôn của Liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đề xướng về phẩm giá con người. Trong Lời kêu gọi ở báo Người cùng khổ, Người đưa lên mục tiêu sự giải phóng con người, thì trong Di chúc (1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến công việc “đầu tiên là công việc đối với con người” (Hồ, 1995, 503). Người khái quát việc hình thành nhân cách con người trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con người trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi và đẹp về lẽ sống (Hoàng, 2018). Nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ bao hàm những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một cấu tạo tâm lý mới. Do đó không phải con người sinh ra đã có nhân cách. Ngoài ra, nhân cách còn quy định bản sắc, cái riêng của cá nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái phổ biến của cộng đồng mà cá nhân đó là đại biểu. Ví dụ: mỗi con người Việt Nam đều là nhân cách duy nhất với tất cả những đặc điểm riêng biệt của mình, song đều có cái chung của con người Việt Nam với tình yêu làng xóm, yêu đất nước Việt Nam... Vì vậy, nhân cách cũng là một giá trị thuộc phạm trù văn hóa đạo đức - thẩm mỹ, nên mới có nhân cách văn hóa. Ở mỗi nước, do đặc thù lịch sử, địa lý, tâm lý, tâm hồn, đạo đức, kinh tế, văn hóa… nên giá trị nhân cách được mô hình hóa khác nhau. 22
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình, trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ) đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người. Tóm lại, nhân cách văn hoá biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của năng lực, của đạo đức và các giá trị, các chuẩn mực xã hội khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu - những nhu cầu bên trong thuộc về đời sống văn hoá tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, đã xác định: “trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” (Ban Chấp hành Trung ương, 2014). Trên cơ sở những đặc tính đề ra, mỗi người, mỗi gia đình và tổ chức, đoàn thể hoặc nhóm xã hội... lưu tâm định hướng, giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay để khi đi đến bất cứ đâu, tại bất cứ thời điểm nào trong tương lai, bản sắc văn hoá Việt Nam theo đó vẫn toả sáng. 23
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2.2. Sự cần thiết phải giáo dục nhân cách văn hoá Việt Nam cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhân cách chỉ được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động xã hội, trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình và xã hội. Khi mới sinh ra con người chưa phải là một nhân cách, ở đó chỉ mang tiềm năng của một con người để hình thành nên một nhân cách với tính cách là chủ thể của nhận thức, của hoạt động, của các quan hệ xã hội. Chỉ trong giao tiếp, trong quan hệ xã hội và trong hoạt động thực tiễn… nhân cách mới được hình thành và phát triển. Đảng ta rất quan tâm đến việc xây dựng nhân cách con người, từng bước “làm mới” nhận thức về nhân cách cho phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại, từ nhân cách xã hội chủ nghĩa đến nhân cách con người Việt Nam trong mối quan hệ đa chiều với tư tưởng, đạo đức, lối sống, với lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và các mối quan hệ trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội. Nhân cách trở thành giá trị sống cốt lõi của con người. Vấn đề xây dựng nhân cách được đưa vào Nghị quyết của Đại hội, đoạn nói về nhiệm vụ phát triển giáo dục: “Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ” (Văn et al., 2006, 402), nhằm tạo ra một lớp người vừa hồng, vừa chuyên, có đức, có tài, thực hiện lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(Hồ, 2011c, 66). Những con người mới xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, là những con người “có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”, “có ý thức làm chủ Nhà nước”, “thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà”, “biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ, đùn đẩy công việc”; đồng thời, phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác”, bởi nó là “kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011c, 66-67). Đại hội XIII của Đảng xác định, phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa chủ yếu vào việc phát huy tối đa nhân tố con người; lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 116). Đó chính 24
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” là một bước nhận thức mới rõ hơn, sâu sắc và toàn diện hơn về văn hóa và con người Việt Nam, vừa khẳng định giá trị tốt đẹp, những giá trị tích cực có ý nghĩa căn bản và quyết định làm nên bản sắc văn hóa dân tộc và con người Việt Nam, không những phát huy những mặt tốt đẹp trong truyền thống đồng thời góp phần xây dựng và không ngừng hoàn thiện con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Đảng ta thẳng thắn chỉ rõ: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 84). Trong năm năm tới, thanh niên Việt Nam chủ yếu thuộc thế hệ Z, chiếm gần 1/3 dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam. Đại đa số thanh niên thế hệ này tổng hòa ưu điểm của các thế hệ trước, ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc và nhân dân, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường phát triển của đất nước, thể hiện rõ lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, lối sống vì cộng đồng. Thế hệ này có nhiều khác biệt về tính cách, phong cách sống, kỹ năng và mối quan tâm đến xã hội. Họ được tiếp cận mạng Internet, công nghệ hiện đại từ rất sớm, sẽ không còn là thế hệ đi đầu xu hướng mà đã trở thành người tạo ra xu hướng, được kỳ vọng là thế hệ sẽ thay đổi đất nước ở nhiều khía cạnh. Thế hệ Z mạnh mẽ trong thể hiện quan điểm, cá tính, đề cao sự tự do, tính sáng tạo và trải nghiệm đặc sắc trong công việc, cuộc sống, vui chơi, giải trí. Tuy nhiên, tác động của suy thoái kinh tế do đại dịch Covid-19; xu hướng già hoá dân số nhanh; mặt trái của công nghiệp hoá, đô thị hoá, kinh tế thị trường, mạng xã hội; khoảng cách giữa kỹ năng của thanh niên và nhu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng do công nghệ không ngừng phát triển; vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo; các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh... sẽ làm ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của thanh niên, nhất là bộ phận thanh niên yếu thế, thanh niên công nhân, nông thôn, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với 25
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nguyễn, 2022, 27) . Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ tiến gần đến với văn hoá, làm cho văn hoá đi sâu vào nhận thức, hành động, trở thành năng lực tự thân… không có con đường nào tốt hơn con đường giáo dục. Như vậy, giáo dục nhân cách văn hoá làm cho người được giáo dục trở thành người có văn hoá thông qua quá trình trao đổi, giao tiếp, định hướng văn hoá bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi thái độ, lối sống trong quá trình giáo dục sẽ giúp thế hệ trẻ học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân theo những chuẩn mực và giá trị của văn hoá Việt Nam, làm cho từng cá nhân hình thành và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục nhân cách văn hoá cho họ. 2.3. Nội dung giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay Bởi, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa (Ban Chấp hành Trung ương, 2014). Trong giai đoạn hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, việc giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ Việt Nam cần tập trung đến một số nội dung sau: 2.3.1. Truyền thống yêu nước nồng nàn Lòng yêu nước là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa và dịch bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ, 2011b, 38). 26
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Ngày nay, đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng rất cụ thể, sinh động: Lòng yêu nước hiển hiện thông qua ý thức chấp hành pháp luật, là tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, nỗ lực góp sức dựng xây quê hương, đất nước, kiên quyết chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; là lối sống giản dị, chan chứa tình yêu thương con người, không vô cảm trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, sẻ chia và cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau khi gặp nguy nan, thử thách. Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước phải trở thành động cơ để gắn kết mọi người dân Việt Nam trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu nước đồng nghĩa với yêu đồng bào và cao hơn chính là trân trọng truyền thống lịch sử cách mạng, gắn bó và bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng; trung thành với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, cần thấm nhuần sâu sắc và chú trọng xây dựng lòng yêu nước, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước; đồng thời, chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách... theo tinh thần các văn kiện Đại hội của Đảng. Lòng yêu nước của mỗi người gắn với vận mệnh của đất nước, quốc gia, dân tộc. Vinh dự, tiền đồ, hạnh phúc của mỗi người dân Việt Nam gắn liền với sự sống còn, hùng cường, thịnh vượng của đất nước. Sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của tổ quốc. Chính vì vậy bản thân mỗi người “phải có ý chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” (Hồ, 2011a, 120). Đây là một trong số những nét đẹp thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta mà thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay cần có, để mỗi người trở thành những công dân có tài và có đức, kiên định và tiếp tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, góp 27
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. 2.3.2. Hướng về giá trị truyền thống của gia đình, cộng đồng Trong gia đình truyền thống Việt Nam, các thế hệ có trách nhiệm và niềm vui kính trọng, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Ngày nay, khi Internet và các thiết bị thông minh đã trở nên phổ biến và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhiều gia đình, sau giờ làm việc ở công sở hoặc doanh nghiệp, mọi người chỉ kịp chào hỏi, ăn uống rồi say sưa với thế giới online của mình. Sự xa cách vô hình giữa các thế hệ, thậm chí giữa vợ và chồng ngày càng gia tăng. Sự xa cách vô hình ít nhiều giải phóng cá nhân, mở rộng biên giới của tự do cá nhân, đã tác động khá tiêu cực tới giá trị gia đình Việt Nam. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Thủ tướng Chính phủ, 2012). Dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay rất trân trọng giá trị gia đình, là một thành phần làm nên hệ giá trị quốc gia - dân tộc, là tổ ấm đầu tiên có chức năng đặc biệt trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho từng thành viên và cho thế hệ trẻ. Nổi bật với những giá trị truyền thống là những giá trị đạo đức, chuẩn mực ứng xử trong gia đình, trong cộng đồng vẫn tiếp tục được mọi người cũng như từng gia đình kế thừa, tiếp thu và phát huy, trong đó chuẩn mực cao nhất của hạnh phúc gia đình không phải là sự sang giàu về vật chất, mà là tình nghĩa, sự gắn bó, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Với mỗi mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, tình nghĩa, sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau được biểu hiện khác nhau. Trong quan hệ vợ chồng, nếu tình nghĩa, thủy chung vừa là chuẩn mực đạo đức, vừa là yêu cầu, nguyên tắc cơ bản, tiêu chí hàng đầu trong quan hệ hôn nhân thì hoà thuận - “thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn” là một yếu tố đặc biệt quan trọng để duy trì hạnh phúc gia đình. Dù cuộc sống hiện đại có những khó khăn, trắc trở, nhưng mỗi cặp vợ chồng đều chú trọng gìn giữ sự thủy chung, tình nghĩa và hòa thuận, tạo nên sức mạnh to lớn để gia đình vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống, cùng nhau xây đắp hạnh phúc và tương lai. 28
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trong mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với con cháu, chuẩn mực ông bà, cha mẹ nhân từ, con cháu hiếu thảo, tôn kính là nét đặc trưng văn hóa của gia đình Việt Nam. Ông bà, cha mẹ luôn yêu thương, giúp đỡ, có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm lo tiền đồ và hạnh phúc cho con cháu. Để xứng đáng với công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, đạo làm con không chỉ kính trọng, yêu thương, vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà, mà còn phải phấn đấu tu dưỡng bản thân, không ngừng học tập vươn lên, mang lại vinh dự, tự hào cho gia đình, dòng họ. Trong quan hệ anh, chị, em, sự hòa thuận, thương yêu, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau là tình cảm hai chiều, giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam. Trong đó, “hòa thuận” được coi là yêu cầu, chuẩn mực hàng đầu, bên cạnh sự yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, hoà thuận giúp cho họ không xích mích, tranh giành quyền lợi với nhau ngay cả khi đã có gia đình riêng, cuộc sống riêng. Hòa thuận không chỉ là nhu cầu nội tại của mối quan hệ giữa anh - chị - em mà còn là yêu cầu, mong muốn của cha, mẹ, họ hàng. Dù xã hội có nhiều biến đổi, dù giàu có hay nghèo khó về vật chất nhưng sự hòa thuận, gắn bó keo sơn, bền chặt giữa những người ruột thịt vẫn giữ vị trí cao trong hệ giá trị xã hội, giúp anh, chị, em luôn giữ trọn tình nghĩa với nhau, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, giúp đỡ nhau cùng vươn lên trong cuộc sống. Cùng với quan hệ gia đình, gia đình Việt Nam luôn đề cao ý thức cộng đồng, chú trọng đến trách nhiệm, nghĩa vụ đối với cộng đồng và xã hội. Mỗi gia đình luôn gắn bó chặt chẽ với làng xã, cộng đồng và đất nước. Nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi gia đình, không chỉ xoay quanh những nhu cầu và lợi ích của các thành viên trong gia đình mà còn là với làng xã và rộng hơn là dân tộc. Mỗi gia đình luôn coi trọng tình cảm họ hàng, dòng tộc, trọng tình nghĩa, sống chan hòa trong tình làng, nghĩa xóm, “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “lá lành đùm lá rách”... Gia đình gắn bó mật thiết với cộng đồng và Tổ quốc là nét văn hóa tốt đẹp mà đến nay vẫn luôn được các gia đình chú trọng gìn giữ, vun đắp. Bên cạnh đó, với gia đình hiện đại cũng cần xây dựng lòng tin giữa các thành viên trong gia đình. Tạo dựng được niềm tin giữa các thành viên với nhau sẽ là cầu nối giúp mọi người gần nhau hơn, chia sẻ, hiểu nhau hơn mà không cần xâm phạm quyền riêng tư của nhau. Đối với ba mẹ thì việc trao cho con sự tin tưởng sẽ giúp con tự tin và sẵn sàng mở lòng với mọi người xung quanh. Đồng thời, khi con cái 29
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG có thể chia sẻ nhiều điều trong cuộc sống với ba mẹ sẽ hạn chế việc con cảm thấy cô đơn và rơi vào trầm cảm. Gia đình là nơi phát sinh và gìn giữ văn hóa dân tộc. Trong quá trình đồng hành cùng lịch sử dân tộc, gia đình Việt Nam không ngừng bồi đắp những truyền thống tốt đẹp, là dòng chảy liên tục và bền vững, tạo nên một diện mạo văn hóa hết sức độc đáo. Đó đều là những chất liệu ban đầu để thế hệ trẻ có những nền tảng nhân cách văn hóa vững chắc cho cuộc sống tương lai. 2.3.3. Lòng nhân ái và đoàn kết dân tộc Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên tai thường xuyên đe doạ cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước mà công cuộc dựng nước gắn với công cuộc khai hoang mở đất. Cuộc sống lao động và đấu tranh gian khổ đã rèn giũa, hun đúc nên những con người có nghị lực phi thường, có lòng yêu thương, đùm bọc, đồng cam cộng khổ, chung lưng đấu cật, nương tựa vào nhau… Chính vì vậy, lòng nhân ái là một truyền thống nổi bật, cốt lõi của dân tộc Việt Nam trong lao động và chiến đấu để dựng nước và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là minh chứng rõ nét nhất về những dấu ấn truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam thông qua từng lời nói, hành động, cử chỉ. Bác đã căn dặn: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa… Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” (Hồ, 1995, 554). Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường, tinh thần nhân ái vẫn tiếp tục được nhân dân ta kế thừa, phát huy trong xây dựng lối sống mới, con người Việt Nam thời đại mới. Một điều đáng quý nữa là, lòng nhân ái của dân tộc ta ngày nay không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà nó đã vượt ra ngoài biên giới, đến với các nước trong khu vực và quốc tế. Trong cuộc chiến chống đại dịch Covid- 19 hiện nay, truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc càng được thể hiện một cách sâu đậm và mạnh mẽ với tinh thần “Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Lá lành đùm lá rách”;... Thành công bước đầu trong cuộc chiến chống Covid-19 minh chứng cho tinh thần yêu nước, nhân ái, đoàn kết, đồng lòng quý báu của dân tộc ta luôn được thể hiện 30
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” rõ nhất mỗi khi đất nước lâm vào tình thế khó khăn, nguy hiểm, thử thách, thể hiện ở những điểm sau: Tinh thần “thương người như thể thương thân”, sống hoà thuận, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau, yêu thương đồng loại; sống chung thuỷ, biết ơn, tôn kính, noi gương những anh hùng, nghĩa sĩ có công, đức với dân với nước. Sự bao dung, rộng mở, là cách chúng ta trao yêu thương, đem đến cho nhau hạnh phúc qua những hành động, cử chỉ, đôi khi rất lặng lẽ, âm thầm, nhưng chân thành, độ lượng. Một sự giúp đỡ, tương trợ, san sẻ khó khăn. Một lời động viên, an ủi, cảm thông… tự đáy lòng cũng sẽ dấy lên tình cảm dâng trào, hạnh phúc. Lòng biết ơn - đau xót - tự hào đối với những anh hùng, chiến sĩ có công, đức với dân, với nước đồng thời cũng có những phản bác những luận điệu, hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức của xã hội, trái với truyền thống văn hoá dân tộc, bôi nhọ đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Phát huy truyền thống đoàn kết gia tộc, mở rộng ra đoàn kết làng xã có ý nghĩa thực tế đối với mỗi gia đình, dòng họ, và các nhóm xã hội, các đoàn thể trong cộng đồng dân tộc. Tìm kiếm các lợi ích chung để phát động sự gắn kết cộng đồng, đoàn kết các thành phần, các giới để phát triển xã hội bền vững. Dân tộc Việt Nam với lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết dân tộc biểu hiện cho tình yêu thương, là sự gắn kết giữa con người với con người Việt Nam khắp nơi trên thế giới để “không ai bị bỏ lại phía sau”. 2.3.4. Cần cù - Sáng tạo - Khoa học - Trách nhiệm Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống, phẩm chất vượt trội cần cù, thông minh, dũng cảm, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm… xuyên suốt từ thủa dựng nước, khởi nguyên đến bây giờ. Phẩm chất, truyền thống quý báu đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển lên tầm cao mới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người cũng là tấm gương sáng về “năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Cần cù là sự chăm chỉ, siêng năng trong công việc hằng ngày, thể hiện rất rõ ở lao động chân tay, còn lao động trí óc thêm phụ thuộc vào cảm hứng và trí tưởng tượng hoặc óc sáng tạo. Cần cù là phần quan trọng trong đức “cần” trong “cần kiệm 31
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG liêm chính” theo truyền thống đạo lý của cha ông chúng ta, và nay được Bác Hồ truyền giảng với ý nghĩa thời đại. Chữ cần còn bao gồm việc làm có kế hoạch tốt, có tư duy sáng tạo không ngừng nâng cao năng suất lao động. Cần cù, là đức tính của người lao động chân chính; điều này chỉ phát huy cao nhất khi chúng ta chọn được cho mình một nghề nghiệp thích hợp, nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Đó là ý nghĩa thực tiễn của đặc tính cần cù trong thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Sáng tạo, là một chuỗi lao động miệt mài, nhuần nhuyễn, cộng thêm sự tác động của trí tuệ và bản năng bẩm sinh; từ đổi mới từng phần đến thay đổi tổng thể mang đến hiệu quả lao động tốt hơn. Để sáng tạo, con người cần tâm huyết với việc mình đang làm, biết vì sự tiến bộ cho mình và cho xã hội để đáp ứng một yêu cầu cao hơn của cộng đồng; do đó sáng tạo là đỉnh cao của con người có nhận thức đúng, ham thích việc đang làm, phát huy năng lực bẩm sinh, cùng với học hỏi tri thức xã hội mới có thể có sáng tạo không ngừng cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất... Sáng tạo là đức tính nổi trội của con người mới hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho phương pháp làm việc khoa học. Theo Người, cán bộ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có phương pháp làm việc khoa học; trước khi thực hiện nhiệm vụ, bất kể việc gì, từ lớn đến nhỏ, người cán bộ đều phải xác định đúng mục đích, tư tưởng, nội dung, chương trình, kế hoạch thật cụ thể, sát thực, có trọng tâm, trọng điểm, không chung chung, dàn trải, vừa sức; “Kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai, ba mươi” (Hồ, 2011a, 285) và tổ chức hoạt động thực tiễn một cách khoa học. Làm việc khoa học là phải giờ nào, việc ấy, chấp hành đúng giờ giấc, biết tôn trọng thời giờ của người khác, tránh lối làm việc tùy tiện, “được chăng hay chớ”, “bạ đâu hay đó”. Đồng thời, khi làm xong một công việc, dù thành công hay thất bại, đều phải tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, thực hiện các nhiệm vụ được tốt hơn. Bác Hồ khái quát về “Tinh thần trách nhiệm là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ” (Hồ, 2011b, 249), là “khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy,..., là không có tinh thần trách nhiệm” (Hồ, 2011b, 248). Vậy, trách 32
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhiệm gia đình, xã hội là trách nhiệm trong quan hệ giữa những người cùng chung sống hoặc tham gia hợp tác, khoan dung, gắn bó với nhau, với cộng đồng xã hội, đóng góp vào công cuộc bảo vệ, phát triển bền vững cộng đồng xã hội từ xóm giềng, phố phường đến quốc gia - dân tộc, thế giới - loài người. Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hoá, hội nhập, mở cửa, khi cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động sâu sắc đến đời sống của người Việt Nam, việc nhận dạng cho rõ các giá trị bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa nhân loại trở nên khó phân định. Vì vậy, ngoài sự cần cù, sáng tạo, con người Việt Nam rất cần rèn luyện cho mình phong cách làm việc khoa học, trách nhiệm để hoàn thiện bản thân, góp sức mình xây dựng quê hương, đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 3. KẾT LUẬN Nhân cách là một vấn đề vô cùng phức tạp và rất khó lý giải nhưng nó lại hiện diện quanh chúng ta từng ngày từng giờ. Trong sự phát triển hiện nay, một bộ phận không nhỏ giới trẻ đang có những biểu hiện của suy thoái nhân cách thì việc nghiên cứu, tìm hiểu sự hình thành và phát triển nhân cách văn hoá, đề xuất những nội dung giáo dục nhân cách văn hoá cho thế hệ trẻ trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội càng được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Có thể khẳng định, giáo dục là phương pháp tốt nhất giúp con người hướng về những chuẩn mực đạo đức lối sống văn hóa xã hội của quê hương đất nước và vấn đề giáo dục nhân cách văn hoá không chỉ đặt ra cho nhà trường mà còn cả trong gia đình, xã hội ngay từ khi còn nhỏ. Muốn vậy, các nhà giáo dục phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng của dân tộc, truyền thống yêu nước nồng nàn; hướng về giá trị truyền thống gia đình, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái và đoàn kết dân tộc; rèn luyện đức tính cần cù, chăm chỉ, “chịu thương chịu khó”, phương pháp tư duy sáng tạo, làm việc khoa học để phát triển trí tuệ, tinh thần trách nhiệm đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Đó là những lực đẩy cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách văn hoá Việt Nam. Nó còn cần thiết hơn để thức tỉnh những người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào đó, họ có thể hoàn lương và hướng thiện. 33
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Chấp hành Trung ương. (2014). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (No. 33-NQ/TW). [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [3]. Hồ, C. M. (1995). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [4]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia. [5]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia. [6]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hoàng, C. B. (2018). Nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách. Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. https://www.hcmuc.edu.vn/nhan-cach-va-giao-duc- van-hoa-nhan-cach.html [8]. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa. (2000). Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng: Dùng cho hệ cử nhân chính trị. Chính trị quốc gia. [9]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [10]. Phạm M. H. (2002). Giá trị học: Cơ sở lý luận góp phần đúc ké̂t, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay. Dân trí. [11]. Thủ tướng Chính phủ. (2012). Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (No. 629/QĐ-TTg). [12]. Văn, N. T., Bùi, T. H., Lê, H. C., & Đỗ, H. T. (2006). Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam (N. L. Phan, Ed.). Từ điển Bách khoa. 34
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2