intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình An sinh xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:124

9
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình An sinh xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Tổng quan về an sinh xã hội; Mô hình an sinh xã hội ở một số nước trên thế giới; An sinh xã hội ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình An sinh xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: AN SINH XÃ HỘI NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCGNB ngày…….tháng….năm 2021 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình Ninh Bình, năm 2021 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
  2. Giáo trình An sinh Xã hội Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2
  3. Chương 1. Tổng quan về an sinh xã hội 1. Giới thiệu 2. Bản chất và chức năng của an sinh xã hội 3. Vai trò, ý nghĩa an sinh xã hội 4. An sinh xã hội trong các mối quan hệ 5. Các chính sách an sinh xã hội Chương 2. Mô hình an sinh xã hội ở một số nước trên thế giới. 1. Sự hình thành và phát triển 2. Mô hình an sinh xã hội ở một số nước 3. Phương pháp tiếp cận mới về an sinh xã hội Chương 3. An sinh xã hội ở Việt Nam 1. Sự hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam 2. Mô hình hoá an sinh xã hội qua các thời kỳ 3. Các bộ phân cấu thành của an sinh xã hội ở Việt Nam 4. Nguồn lực thực hiện an sinh xã hội 5. Nâng cao nhận thức về an sinh xã hội TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  4. Giáo trình An sinh Xã hội LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay ở nước ta, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến an sinh xã hội cũng như bộ máy tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế mọi thành phần, hệ thống dịch vụ xã hội về an sinh xã hội khá phát triển. Để góp phần đào tạo được một đội ngũ những người có lý luận và có kỹ năng làm việc trên các lĩnh vực của an sinh xã hội, Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình tổ chức biên soạn giáo trình này. Giáo trình được bố cục theo 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về an sinh xã hội; Chương II: Mô hình an sinh xã hội và phương pháp tiếp cận mới về an sinh xã hội; Chương III: An sinh xã hội ở Việt nam; Do biên soạn lần đầu, giáo trình này không thể tránh khỏi những hạn chế về nội dung cũng như hình thức thể hiện, tác giả mong muốn nhận được sự đóng góp của đông đảo người đọc để tài liệu được hoàn chỉnh hơn trong những lần xuất bản khác. Nhóm biên soạn: GIÁO TRÌNH MÔN HỌC 4
  5. Tên môn học: An sinh xã hội Mã số môn học: MH 17 Vị trí, tính chất của môn học Vị trí: An sinh xã hội là môn học chuyên ngành quan trọng của chương trình đào tạo Cao đẳng nghề Công tác xã hội có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền con người và cung cấp dịch vụ xã hội cho đối tượng hưởng các chính sách về an sinh xã hội. Môn học này được giảng dạy sau khi học các môn học cơ sở. Tính chất: Là môn học chuyên môn nghề bắt buộc. Mục tiêu của môn học + Kiến thức: - Nắm được các vấn đề cơ bản về an sinh xã hội. - Hiểu và phân tích được các khái niệm, các đặc điểm, các quan điểm nhận thức về các chính sách an sinh xã hội; - Hiểu được các dịch vụ, chính sách, pháp luật trong an sinh xã hội. + Kỹ năng: - Đánh giá, lập kế hoạch và quản lý trường hợp được hưởng các chính sách an sinh xã hội. - Tham vấn, biện hộ, thương thuyết, làm việc nhóm, huy động cộng đồng trong trợ giúp người được hưởng an sinh xã hội. + Năng lực tự chủ và trách nhiệm: - Nhìn nhận đúng đắn hơn về các trường hợp được hưởng an sinh xã hội. - Tích cực tuyên truyền, vận động, phối hợp với gia đình và xã hội trong can thiệp và giúp đỡ các đối tượng liên quan. Nội dung môn học: Chương 1: Tổng quan về an sinh xã hội Mục tiêu: - Kiến thức: + Nêu được đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của môn học; + Trình bày được một số khái niệm liên quan đến môn học; + Phân tích được ý nghĩa của an sinh xã hội và các tác nhân tiêu cực đe dọa an sinh xã hội. 5
  6. Giáo trình An sinh Xã hội - Kỹ năng: Xác định được vị trí của môn học trong chương trình đào tạo nghề công tác xã hội. Từ đó, áp dụng có hiệu quả kiến thức an sinh xã hội trong nghề nghiệp. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tích cực rèn luyện những đức tính tốt trong học tập như sự chăm chỉ, cần cù, sáng tạo và nâng cao khả năng tự học nghiên cứu tài liệu. Nội dung chương: I. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của môn học 1- Đối tượng nghiên cứu của môn học: An sinh xã hội là nguyện vọng, ước muốn của con người mọi dân tộc, mọi thời đại, là tất yếu của xã hội. Các nhà nước tiến bộ, đặc biệt là nhà nước dân chủ, với tư cách là đại diện cho quyền lợi của nhân dân đã biết thể chế hoá nguyện vọng đó thành "pháp luật an sinh" và tạo cơ chế, bộ máy nhà nước quản lý và thực hiện an sinh xã hội, biến an sinh xã hội từ ước muốn của nhân dân thành "nền an sinh xã hội quốc gia" hay "hệ thống an sinh quốc gia". Như vây, có thể thấy rõ rằng, an sinh xã hội là một tất yếu của lịch sử xã hội, mang tính khách quan nhưng trong mỗi nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nền an sinh quốc gia mang tính chất chủ quan, phản ánh đầy đủ, rõ nét, tập trung ý chí của giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của hệ an sinh của nhiều nước trên thế giới thuộc nhiều chế độ xã hội khác nhau đã chứng minh rằng, nền an sinh quốc gia của nước nào đó có bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào tính khách quan của hệ thống pháp luật an sinh của nước đó. Nói cách khác, các chính sách, các biện pháp an sinh xã hội tốt nếu chúng được xây dựng dựa trên những nền tảng của những quy luật khách quan của các khoa học tự nhiên, khoa học về con người và khoa học xã hội; quy luật kinh tế- xã hội, chi phối hoạt động sống, hoạt động sản xuất và tiêu dùng, đầu tư và tích luỹ. Như vậy, an sinh xã hội hay nền an sinh quốc gia hay hệ thống an sinh xã hội, vừa thể hiện ý chí của giai cấp thống trị vừa phản ánh quy luật khách quan, là "hiện tượng" xã hội phức tạp. Môn học an sinh xã hội như một khoa học, không thể "sao chụp", "miêu tả" hệ thống an sinh của các quốc gia đơn lẻ mà phải khái quát lại thành những 6
  7. mô hình chung, thành những giá trị chung của nhân loại như những vấn đề "quyền con người", "nhân đạo", "lương tâm", " bình đẳng", "bác ái",… Như vậy, đối tượng nghiên cứu của môn học an sinh xã hội là quy luật chi phối nhu cầu của cá nhân, nhóm, cộng đồng "yếu thế" dễ bị tổn thương; là những quy luật xã hội nhằm đáp ứng, thoả mãn nhu cầu của những cá nhân, nhóm xã hội đặc thù…; là sự tác động qua lại giữa kiến thức thượng tầng và cơ sở hạ tầng; về quy luật về tổ chức xã hội, quản lý xã hội….Và với việc nghiên cứu các quy luật đó, môn học an sinh xã hội có thể được xem xét như là một khoa học nghiên cứu về các chính sách an sinh xã hội, về các hình thức tổ chức thực hiện an sinh xã hội… 2- Nội dung nghiên cứu của môn học: Để nắm được an sinh xã hội như khoa học đòi hỏi nội dung giảng dạy phải thể hiện được những nội dung cơ bản:  Những khái niệm, phạm trù về an sinh xã hội; sự phát triển nhận thức về an sinh xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định;  ý nghĩa, vai trò của an sinh xã hội trong đời sống cá nhân, nhóm, cộng đồng và toàn xã hội;  Những yếu tố xã hội trong phạm vi quốc gia, quốc tế tác động tích cực, tiêu cực đến hệ thống an sinh quốc gia, quốc tế;  Lịch sử hình thành, phát triển an sinh xã hội và mô hình an sinh xã hội ở một số nước điển hình ;  Hệ thống pháp luật an sinh xã hội của một quốc gia, một thể chế cụ thể nào đó;  Bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội thực hiện an sinh xã hội;  Nguồn lực tài chính thực hiện an sinh xã hội ở mỗi quốc gia;  Nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam dưới ánh sáng lý luận chung về an sinh xã hội ; tìm ra những đặc điểm chung, phổ biến ở tất cả các nền an sinh khác và đặc điểm riêng có tính cá biệt, đặc thù của Việt Nam do điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống dân tộc chi phối. 3- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu môn học: Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của an sinh xã hội là phương pháp biện chứng duy vật, biện chứng lịch sử. 7
  8. Giáo trình An sinh Xã hội  Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng của nó: mối quan hệ biện chứng giữa "quyền lợi và nghĩa vụ", giữa "nhu cầu vô cùng và điều kiện có hạn"; mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả giữa việc các phạm trù khái niệm an sinh như "sản xuất- tiêu dùng", "cung- cầu', "nhà nước- thị trường- xã hội dân sự" giữa " cá nhân- gia đình- cộng đồng", giữa" rủi ro- cơ hội"…  Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong điều kiện lịch sử cụ thể: không thể so sánh mô hình an sinh xã hội ở Thuỵ Điển với an sinh xã hội ở Việt Nam, cũng giống như không thể so sánh an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành độc lập chủ quyền với an sinh xã hội trong thời kỳ hoà bình; vai trò nhà nước hôm nay với vai trò nhà nước trong nhiều thập kỷ trước mắt; cách tiếp cận mới về an sinh xã hội trong điều kiện xã hội đầy biến động ngày nay…  Nhận thức xã hội là sự phản ánh khách quan của tồn tại xã hội: tồn tại xã hội trong điều kiện của toàn cầu hoá, của thảm hoạ môi trường, của biến đổi cơ cấu dân số… ngày nay là tiền đề thay đổi nhận thức xã hội về phát triển bền vững, về ngăn ngừa nguy cơ gây tổn thương cho các đối tượng thiệt thòi, yếu thế; là san sẻ rủi ro… Phương pháp nghiên cứu cụ thể: như trên đã nói, an sinh xã hội là một phần của chính sách vì con người, vì hạnh phúc, ấm no của con người, nhóm người, tộc người, vì thế, phương pháp nghiên cứu môn học an sinh xã hội là phương nghiên cứu của khoa học tâm lý: tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội, tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá…phương pháp điều tra, phỏng vấn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch….là những phương pháp khoa học cụ thể cần thiết để nghiên cứu môn học an sinh xã hội. II. Khái niệm về an sinh xã hội và một số khái niệm có liên quan An sinh là từ Hán- Việt: an -trong chữ "an toàn", sinh- trong chữ "sinh sống", an sinh có nghĩa là an toàn sinh sống. Như vậy, có thể hiểu một cách khái lược nhất, đơn giản nhất "xã hội an sinh " là một xã hội mà mọi người được an 8
  9. toàn sinh sống hay là có cuộc sống an toàn. Tuy nhiên, điều giải thích quá đơn giản trên đây chưa thể trả lời được nhiều vấn đề, trong đó câu hỏi cơ bản, trung tâm của an sinh xã hội là, làm thế nào để con người được an toàn sinh sống. Nếu nhìn lại quá trình phát triển xã hội loài người, chúng ta thấy rằng dù ở chế độ nào, thời đại nào, con người luôn mong muốn được an toàn sinh sống, có nghĩa là muốn được an sinh. Nhưng trong tất cả những bất hạnh, những nỗi thăng trầm của cuộc đời con người, không phải lúc nào cũng do lỗi của con người, càng không phải do cá nhân người đó. Nhiều điều bất hạnh của con người xuất phát từ quy luật tự nhiên (như quy luật sinh- lão- bệnh- tử") hoặc do lỗi của quy luật kinh tế- xã hội (như "đời cha ăn mặn, đời con khát nước") và trong nhiều trường hợp khác, nguyên nhân bất hạnh của con người, thậm chí của loài người xuất phát từ ý chí của một nhóm người, một bè lũ độc tài nhất định ( thí dụ chủ nghĩa độc tài phát xít, chủ nghĩa Apacthai, bè lũ diệt chủng Pôn pốt…) Mặt khác, ở mỗi thời đại, mỗi xã hội, con người nói riêng, xã hội như một chỉnh thể nói chung có những cách thức khác nhau để khắc phục, để đương đầu với khó khăn, bất hạnh một cách rất khác nhau. Thời đại tiền công nghiệp, khi đại bộ phận người dân sống bằng nông nghiệp, lao động tập trung ít, thiết chế gia đình còn vững mạnh, hệ thống nhà thờ ( ở phương tây) và nhà chùa (ở phương Đông) có sức mạnh ưu thế thì các thiết chế gia đình và tôn giáo hoặc những nhà hảo tâm… luôn là "những nhà từ thiện" sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ họ, cả vật chất lẫn tinh thần. Ngày nay, ở mọi nơi, mọi chỗ, các vấn đề xã hội diễn biến càng ngày càng phức tạp, nhiều rủi ro luôn rình rập, đe doạ cuộc sống của nhiều người, nhiều gia đình, nhiều cộng đồng hơn nên đại bộ phận các quốc gia trên thế giới phải tổ chức các hoạt động, đưa ra những cơ chế, chính sách nhằm hoặc là ngăn ngừa, quản lý những khó khăn, hoặc giúp đối tượng vượt qua khó khăn….trên phạm vi cả nước. Những cơ chế, chính sách, dịch vụ hay các hoạt động của nhà nước và của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu được an toàn sinh sống gọi là an sinh xã hội. Với cách giải nghĩa như trên, an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Xin trích dẫn một số khái niệm: 9
  10. Giáo trình An sinh Xã hội 1- An sinh xã hội ở nghĩa hẹp: Theo T.S Darkwa, Trường tổng hợp Illinois, Chicago, trong Nhập môn an sinh xã hội thì : " An sinh xã hội theo nghiã hẹp là những khoản trợ cấp và các dịch vụ giúp cho con người đáp ứng nhu cầu cơ bản " hay "Là sự chuyển dịch các phúc lợi bên ngoài thị trường"; "An sinh xã hội là chức năng phi lợi nhuận của xã hội, nhà nước và giới tình nguyện nhằm mục đích xoá bỏ sự đói rách, những tình cảnh bần cùng hoá của xã hội" ( Dolgilf Feldstein, 1993); "An sinh xã hội là những quy tắc để trợ cấp cho những người cần tới sự trợ giúp để đáp ứng nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như việc làm, thu nhập, lương thực, thực phẩm, y tế và mối quan hệ" (Karger & Soesz, 1990); 2- An sinh xã hội ở nghĩa rộng: Theo Karger & Soesz " An sinh xã hội là một bộ phận cấu thành của chính sách xã hội được coi là chính thức và là sự quy định phù hợp với những vấn đề của con người" (Karger & Soesz, 1994); " An sinh xã hội là bất cứ điều gì nhà nước quyết định làm và không làm vì chất lượng cuộc sống cuả công dân nước đó"( Dinikito, 1991); Tổ chức Lao động Quốc (ILO) đưa ra khỏi niệm trong Cụng ước 102 (Cụng ước về an sinh xó hội) năm 1952 như sau: “An sinh xó hội là sự bảo vệ mà mỗi xó hội dành cho cỏc thành viờn của mỡnh thụng qua một số biện phỏp cụng cộng nhằm đối phú với những khú khăn về kinh tế và xó hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập một cách đáng kể vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già hoặc chết , đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho những gia đình đông con” . Theo B.R. Compton trong cuốn sỏch “ Nhập mụn An sinh xó hội và Cụng tỏc xó hội “ (1980) thỡ: “ An sinh xó hội là một thiết chế bao gồm cỏc chớnh sỏch và luật phỏp được thực thi bởi cỏc tổ chức tự nguyện hay tổ chức nhà nước nhằm cung ứng cho cỏc cỏ nhõn, gia đỡnh, nhúm xó hội, cỏc dịch vụ xó hội, tiền và quyền lơi khỏc ( y tế, giỏo dục, nhà ở ...) do họ khụng nhận được 10
  11. từ gia đỡnh hoặc thị trường nhằm mục đớch ngăn ngừa, giảm nhẹ hay đúng gúp vào việc giải quyết cỏc vấn đề xó hội, cải thiện trực tiếp cuộc sống cỏ nhõn, nhúm, cộng đồng”. Theo J.M. Romanyshyn- trong cuốn sỏch “ An sinh xó hội từ bỏc ỏi đến cụng bằng” (1971) thỡ: “ An sinh xó hội là sự can thiệp vào xó hội với mối quan tõm trực tiếp và cơ bản là phỏt huy an sinh xó hội cho cỏ nhõn và cho toàn xó hội.... An sinh xó hội bao gồm cỏc biện phỏp và quỏ trỡnh liờn quan đến việc giải quyết và phũng ngừa cỏc vấn đề xó hội, sự phỏt triển tài nguyờn nhõn lực và cải tiến chất lượng cuộc sống. Điều này bao gồm cỏc dịch vụ xó hội cho cỏ nhõn, gia đỡnh và những nỗ lực củng cố và cải tiến cỏc thiết chế xó hội” . An sinh xã hội, theo từ điển bỏch khoa VN toàn tập (1995)" là sự bảo vệ của xó hội đối với cụng dõn thụng qua cỏc biện phỏp cụng cộng nhằm giỳp họ khắc phục những khú khăn về kinh tế và xó hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập từ nguyờn nhõn ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, người già cụ đơn, trẻ mồ cụi...) đồng thời đảm bảo chăm súc y tế và trợ cấp cho gia đỡnh đụng con". Từ những khái niệm trên đây có thể rút ra một số điểm sau đây:  Đối tượng của An sinh xó hội: là bất cứ cá nhân, gia đình, nhóm xã hội hoặc cộng đồng nào ( nghĩa rộng), không phân biệt giới tính, thành phần xã hội, tôn giáo, sắc tộc, màu gia. Mọi cá nhân, gia đình, cộng đồng đều có thể bị rơi vào những hoàn cảnh khó khăn bất thường nên họ đều cần được chuẩn bị để chủ động ngăn ngừa, giảm nhẹ và đối phó nếu rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trong bất cứ xã hội nào, một bộ phận dân cư dễ bị tổn thương nhất như phụ nữ, trẻ em, người già, người tàn tật, gia đình nghèo, gia đình đông con, gia đình có người hay ốm đau, bệnh tật, gia đình có tệ nạn xã hội, nhóm dân tộc thiểu số, các cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là đối tượng mục tiêu, cần được chú ý đặc biệt quan tâm trong các chính sách an sinh xã hội (ở nghĩa hẹp). 11
  12. Giáo trình An sinh Xã hội  Mục tiờu của An sinh xó hội : là một mặt, cải thiện mụi trường, cải thiện cuộc sống, tăng khả năng của cỏ nhõn, gia đỡnh, nhúmá cộng đồng để ngăn ngừa, giảm nhẹ và đối phú ( ở nghĩa rộng) một cỏch hữu hiệu với khú khăn, rủi ro, mặt khác, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nguồn lực của nhà nước, thị trường để can thiệp trong phòng ngừa, quản lý, đối phó thiên tai trên phạm vi quốc gia, khi cá nhân, gia đình, cộng đồng không thể ứng phó được.  Nội dung và cỏc biện phỏp của an sinh xó hội : là các chính sách điều tiết một cách hợp lý nhất thu nhập của các đối tượng khác nhau trong xã hội và sử dụng để tổ chức các dịch vụ xã hội, ngăn ngừa rủi ro và phân phối lại nguồn lực chung trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật thông qua trợ giúp xó hội, bảo hiểm xã hội, phỳc lợi xó hội (nghĩa rộng) hoặc chỉ là hình thức cung cấp nhu yếu phẩm , dịch vụ xã hội cho một số người, gia đình gặp khó khăn( theo nghĩa hẹp);  Trách nhiệm thực hiện an sinh xó hội : truớc hết là cá nhân, gia đình, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, tiếp đó là các kinh tế, hoạt động theo cơ chế thị trường và cuối cùng nhưng quan trọng nhất, bao quát nhất, quyết định tới bộ mặt của an sinh xã hội của mỗi quốc gia thuộc về trách nhiệm của nhà nước.  Cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội: được chia thành các tầng lớp khác nhau, tầng phổ cập: phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản để mọi người dân được hưởng thụ, phát triển và ngăn ngừa rủi ro; tầng phát triển bảo hiểm, bảo hiểm xã hội và nhiều cơ chế thị trường khác gắn với việc làm của người lao động; tầng trợ giúp đặc biệt: trợ giúp đối tượng rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà các cơ chế gia đình, thị trường bị bất lực. Như vậy, có thể nhìn nhận an sinh xã hội ở rất nhiều khớa cạnh khỏc nhau: a) từ khía cạnh pháp lý thỡ an sinh xã hội cú thể được hiểu là những chớnh sỏch, hệ thống luật phỏp của nhà nước, một măt, trực tiếp thực hiện An sinh xã hội trên phạm vi quốc gia, mặt khác, tạo mụi trường phỏp lý để mọi cỏ nhõn, tổ chức hoạt động, bảo đảm sự an sinh của mọi người dõn; b) từ khía cạnh hoạt động 12
  13. thực tế thì anh sinh xã hội là những hoạt động hàng ngày của cá nhân, gia đình, cộng đồng, các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện, các tổ chức kinh tế, của nhà nước nhằm phát triển kinh tế, phòng ngừa rủi ro, tổ chức các dịch vụ y tế, giáo dục….; 3-Một số thuật ngữ gần nghĩa với an sinh xã hội: Ở nước ta, do thuật ngữ an sinh xó hội được dịch từ nhiều thứ tiếng khỏc nhau, trong nhiều giai đoạn khỏc nhau nờn cú nhiều tờn gọi khỏc nhau như an sinh xó hội, an toàn xó hội, đảm bảo xó hội, bảo trợ xó hội. Xột về bản chất, cỏc thuật ngữ trờn bao hàm những nội dung như nhau, đú là sự đảm bảo cho người dõn một cuộc sống tối thiểu khi họ gặp khú khăn.. Thớ dụ, trong từ điển bỏch khoa VN toàn tập (1995) khi đưa ra khỏi niệm Bảo đảm xó hội, các tác giả đã cho rằng "thuật ngữ này tương đương với bảo trợ xã hội, An sinh xã hội". Hiện nay, trong thực tế cuộc sống cũng như trong tài liệu chớnh thức của Đảng, Nhà nước ta, cỏc thuật ngữ an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, đảm bảo xã hội vẫn được sử dụng đan xen với nhau, chưa một thuật ngữ nào được coi là chớnh thống, duy nhất. 13
  14. Giáo trình An sinh Xã hội III- ý nghĩa của an sinh xã hội: 1- An sinh xã hôị là quyền con người: Thừa nhận, tôn trọng phẩm giá và quyền con người của mọi thành viên trong xã hội là mục tiêu đích thực của an sinh xã hội. Trong hiến chương Đại Tõy Dương, "An sinh xó hội được hiểu theo nghĩa rộng là sự bảo đảm thực hiện quyền con người trong hoà bỡnh, được tự do làm ăn, cư trỳ, di chuyển, phỏt triển chớnh kiến trong khuụn khổ phỏp luật, được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, cú nhà ở, được chăm súc y tế và bảo đảm về thu nhập để thoả món những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già". Trong tuyờn ngụn nhõn quyền do Đại hội đồng Liờn hợp quốc thụng qua 10/12/ 1948 cú viết: “Tất cả mọi người với tư cỏch là thành viờn của xó hội cú quyền hưởng an sinh xó hội. Quyền đú đặt cơ sở trờn sự thoả món cỏc quyền về kinh tế, xó hội và văn hoỏ cần cho nhõn cỏch và sự tự do phỏt triển con người...”. Điều 25 của Công ước này ghi rõ ”Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khoẻ cho bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp....” Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình trong ngày 2/9/1945, đã trích từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm 14
  15. được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Con người có các quyền này không phải tự nhiên như kiểu "Trời sinh voi, trời sinh cỏ" mà nó dựa trên cơ sở kinh tế vững chắc là mọi người dân, khi họ lao động, họ đóng thuế cho nhà nước, khi gặp khó khăn nhà nước phải giúp đỡ. Để đảm bảo cái quyền thiêng liêng đó, người lao động không chỉ đóng thuế là đủ, trong xã hội nhà nước pháp quyền, người lao động phải đấu tranh để nhà nước phải cam kết thực hiện bằng hệ thống chính sách, luật pháp, dịch vụ xã hội. Như vậy an sinh xó hội là sự đảm bảo trờn thực tế con người được thực hiện quyền của mỡnh, hay nói cách khác, chỉ có một xã hội an sinh thì quyền con người mới được tôn trọng, bảo vệ. Ngược lại, quyền con người bị đe doạ trong một xã hội nghèo đói, chiến tranh, bạo lực… Không thể nói tới an sinh xã hội trong một đất nước có chiến tranh, bạo lực và nghốo đúi.... 2- An sinh xã hội là nhu cầu, ước vọng ngàn đời của con người, là truyền thống văn hoá của các dân tộc: Con người từ bao đời nay, ở mọi nơi, mọi lúc luôn "trông trời, trông đất, trông mây", luôn luôn mong ước "sao cho chân cứng, đá mềm, trời yên biển lặng mới yên tấm lòng"…. Đã sinh ra làm người, không ai muốn phải đói, rét, bệnh tật, không ai muốn nghèo đói, chiến tranh…. Vì lẽ đó mà các cộng đồng dân cư , các dân tộc đã biết đoàn kết nhau lại, chống trọi với thiên tai, địch hoạ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn và những giá trị đó đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. 3- An sinh xã hội góp phần thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã hội: Xã hội tiến bộ, công bằng là xã hội mà ở đó mọi người , không phân biệt dân tộc, giới tính, không phân biệt địa vị kinh tế, chính trị, tôn giáo, màu da, sắc tộc… được tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, xây đắp cuộc sống hạnh phúc, được hưởng thụ thành quả lao động của mình và được bảo vệ, giúp đỡ không rơi vào cảnh bị bần cùng hoá do bất cứ một lý do nào.… An sinh xã hội là mục tiêu, là công cụ, là phương tiện để thực hiện sự tiến bộ công bằng đó thông qua việc phân phối lại, điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư trong xã hội, xoá 15
  16. Giáo trình An sinh Xã hội đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tiến tới một xã hội bình đẳng cho mọi người. An sinh xã hội không chỉ là sự tiến bộ mà nhìn ở khía cạnh chính trị- xã hội thì an sinh xã hội còn là sự đảm bảo an ninh, ổn định, là chính sách làm yên dân. Dân có yên thì các thể chế chính trị mới tồn tại, ổn định. Có ổn định mới có phát triển kinh tế. Từ khía cạnh kinh tế thì an sinh xã hội chính là điều kiện, là chất xúc tác thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Hỗ trợ người nghèo, người yếu thế vươn lên làm chủ cuộc đời họ chính là giảm bớt những khoản chi cho tệ nạn xã hội…Khi họ thoát khỏi nghèo đói, họ là lực lượng lao động quan trọng, là những người sản xuất, kinh doanh, làm ra của cải cho xã hội, là người tiêu thụ hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. IV- an sinh xã hội trong các mối quan hệ An sinh xó hội nằm trong mối quan hệ nhõn quả với nhiều phạm trự, khỏi niệm khỏc. An sinh xã hội như một thiết chế, liên quan nhiều đến các thiết chế khác. 1- An sinh xã hội và việc làm, thu nhập: Các khái niệm về việc làm, thất nghiệp, người thiếu việc làm được định nghĩa không giống nhau ở mỗi nước. Điều 13, Bộ luật Lao động Việt Nam quy định: “ Việc làm là những hoạt động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật cấm". Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Người có việc làm là người đang làm những việc mà pháp luật không cấm, được trả tiền công hoặc lợi nhuận, hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người tham gia vào các hoạt động tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hay hiện vật” ( ILO Report 1983). Như vậy, khái niệm việc làm ở đây được mở rộng từ người làm việc có lương và người không có lương (nội bộ, làm việc trong gia đình....). Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm. Họ có thể là người chưa có việc làm, hoặc đã có việc làm nhưng đã thôi việc và đang tìm việc làm có tiền công. ở Việt Nam , người 16
  17. được coi là thất nghiệp gồm: - Người lao động đang làm việc, bị mất việc làm vì lý do như: doanh nghiệp phá sản, giải thể, dôi dư do doanh nghiệp sắp xếp lại; bị chấm dứt hợp đồng, bị sa thải..- Người mới đến tuổi lao động, học sinh, sinh viên mới tốt nghiệp hoặc thôi học, bỏ học chưa tìm được việc làm;- Bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong hết nghĩa vụ, lao động xuất khẩu về nước chưa có việc làm;- Đối tượng trong độ tuổi lao động sau thời gian quản giáo, chữa trị bệnh đang có nhu cầu tìm việc làm...; - Những người phải nghỉ việc tạm thời không có thu nhập do tính thời vụ của sản xuất. Những người cũng trong độ tuổi lao động, có sức lao động mà không làm việc do không có nhu cầu tìm việc làm thì không được coi là thất nghiệp. Thất ngiệp là một hiện tượng kinh tế, xã hội bình thường trong nền kinh tế thị trường. Những nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới như Mỹ, Anh, Đức, Nhật bản, Italia, Pháp.... vẫn có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Ví dụ, Pháp 9,5% trong tháng 5/2000; Đức 10,3% tháng 5/2000; Canada 6,3% ( tháng 6/ 2000), Mỹ 3,9% (tháng 5/2000) , Nhật bản 4,9% ( tháng 2/2000). Việc làm / thất nghiệp gắn với con người và xã hội loài người, nó không gắn với bất cứ một sinh vật nào khác trên trái đất. Các con vật kiếm ăn theo theo bản năng của quy luật sinh tồn. Còn con người làm việc dưới tác động của tư duy, làm việc không chỉ để tồn tại mà làm việc còn để cải biến xã hội, làm chủ cuộc đời và để xã hội tốt đẹp hơn, an sinh hơn. Con người bị thất nghiệp cũng do các yếu tố kinh tế- xã hội đem lại. Xã hội sẽ xoá bỏ hoàn toàn nạn thất nghiệp nếu các nguồn lực được phân phối công bằng hơn, mọi người, đặc biệt là nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương như phụ nữ, người tàn tật, người nghèo được quan tâm hơn trong việc tiếp cận y tế, giáo dục… Điều 23 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1948) đã chỉ rõ: "Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi, chính đáng và được bảo vệ chống nạn thất nghiệp; mọi người, không có bất kỳ sự phân biệt nào , đều có quyền được trả lương ngang nhau cho những công việc như nhau; Mọi người đi làm đều có quyền được trả lương hợp lý và thuận lợi cho bản thân và gia đình một cuộc sống có đầy đủ giá 17
  18. Giáo trình An sinh Xã hội trị nhân phẩm, được phụ cấp, nếu cần thiết, bằng các biện pháp bảo trợ xã hội khác". Theo H.Beveridge, nhà kinh tế học và xó hội học người Anh thỡ: "An sinh xó hội là sự đảm bảo về việc làm khi người ta cũn cú sức làm việc và đảm bảo một lợi tức khi nguời ta khụng cũn làm việc nữa". Việc làm có một tầm quan trọng to lớn trong đời sống mỗi con người nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Nhìn lại tiến trỡnh phỏt triển xã hội, ta có thể nhận thấy lao động núi chung, việc làm núi riêng không chỉ nuôi sống con người, phát triển xã hội mà nó còn gúp phần cải biến loài vượn người thành con người ngày nay. Trong xó hội nghèo nàn, chưa phát triển thì việc làm là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi người để có ăn, có mặc nhưng trong các nước đã phát triển, cái ăn, cái mặc không còn là mối quan tâm hàng đầu thì việc làm là nhu cầu khẳng định bản thân, khẳng định giá trị cũng như tài năng của con người trong xã hội. Đảm bảo để mọi người dõn cú nhu cầu làm việc cú việc làm, cú thu nhập là một điều kiện tất yếu của một xó hội tiến bộ. Như vậy, một trong những nội dung chính yếu của an sinh xã hội là tạo việc làm có thu nhập cho người dân đủ sinh sống và có một phần tích lũy khi ốm đau, về già. Khụng thể núi tới xó hội an sinh nếu con người đang độ tuổi lao động khụng cú cụng ăn việc làm, khụng cú thu nhập. Việc làm không chỉ đem lại thu nhập cho con người mà nó còn đem lại các cơ hội thoả mãn nhu cầu giao lưu, nâng cao trình độ nghề nghiệp, là thước đo giá trị, sự đóng góp của mỗi người vào sự phát triển đất nước. Điều quan trọng khác là cỏc nguồn lực cần thiết cho an sinh xó hội khụng thể bắt nguồn từ bất cứ nơi nào khỏc nếu không bắt đầu từ các nguồn đóng góp một phần thu nhập của mỗi người dõn trong thời gian lao động của mỡnh. Xã hội có tích luỹ được nguồn lực trong sản xuất xã hội thông qua thuế hoặc thông qua các khoản đóng góp khác mới nói tới sự hỗ trợ cho các thành viên của nó khi gặp hoạn nạn, rủi ro- ở đây thể hiện quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước. 18
  19. Việc làm và giải quyết việc làm đang là một trong những vấn đề xã hội không chỉ riêng với từng quốc gia mà có tính chất toàn cầu. Theo đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) thế giới hiện đang ở tình trạng khủng hoảng việc làm. Uớc tính trên thế giới hiện có trên 1 tỷ người không có việc làm hoặc có việc làm không đầy đủ . Tình trạng thất nghiệp xẩy ra không chỉ ở các nước đang phát triển mà ở cả các nước phát triển. Cộng đồng thế giới phải tập trung mọi nỗ lực để giải quyết việc làm cho người lao động và đấu tranh để giảm tỷ lệ thất nghiệp . Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội Copenhaghen 1995 coi giải quyết việc làm là 1 trong 3 vấn đề quan tâm nhất để phát triển xã hội (việc làm, giảm nghèo và hoà nhập xã hội). Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 2000 đã nhắc lại vấn đề cấp bách này. Về khía cạnh xã hội, việc làm cho công dân là một trong những chỉ tiêu quan trọng cùng với các chỉ tiêu khác như GDP/ đầu nguời; tỷ lệ lạm phát; tốc độ tăng trưởng kinh tế... để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia, tính ưu việt của một chế độ xã hội. Về mặt pháp lý, việc làm là một phạm trù thuộc quyền con người được cộng đồng thế giới thừa nhận. Việc làm và thu nhập của mỗi người dân, người lao động không chỉ là nhu cầu của cá nhân mà là đòi hỏi của xã hội, nó không chỉ giúp cá nhân tích luỹ để đảm bảo an sinh của cá nhân họ mà còn phải đóng góp phần thuế của mình (nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ công dân) tạo nên ngân sách nhà nước. Đến lượt mình, ngân sách nhà nước phải góp phần mở rộng công ăn, việc làm cho nhiều người khác tức là phát triển an sinh xã hội, đây là những mối quan hệ biện chứng, tạo thế xoáy chôn ốc cho sự phát triển con người và xã hội. An sinh xã hội bị đe doạ nếu người lao động thiếu việc làm, thất nghiệp hoặc làm việc nhưng không có tiền công. Để có một nền kinh tế năng động, đội ngũ lao động cạnh tranh, xã hội nào cũng cần có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định (Khoảng 4-5%), vượt quá những con số nói trên sẽ là hiện tượng xã hội không tốt. Hai trong 4 mục tiêu của Chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và Việc làm 2001-2005 xác định: "Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,4 đến 1,5 19
  20. Giáo trình An sinh Xã hội triệu lao động; Giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80%". 2- An sinh xã hội và phúc lợi xã hội: Nếu xem xột an sinh xó hội như những biện phỏp can thiệp cần thiết để bảo vệ cỏc thành viờn xó hội khỏi rơi vào cảnh cựng quẫn do mất hoặc giảm thu nhập thỡ phỳc lợi xó hội ở nghĩa rộng nhất chớnh là loại nguồn lực cần thiết để bự đắp những khoản thiếu hụt đú. Muốn cú một xó hội an sinh mà khụng cú phỳc lợi xó hội (một nguồn lực cần thiết cho mọi người cú thể tiếp cận đựơc) là một điều khụng tưởng. Ngược lại, một quốc gia giàu cú, nhưng những nguồn lực chủ yếu tập trung vào tay một số người giàu, nhà nước khụng cú một chớnh sỏch thoả đỏng để điều tiết thu nhập, phõn bố lại sự giàu cú, tạo nờn một phỳc lợi chung, làm cho cỏc tầng lớp nghốo cú thể tiếp cận được thỡ xó hội đú, quốc gia đú khụng thể coi là một xó hội an sinh. Nguồn lực dành cho phúc lợi xã hội chính là các khoản thuế được đóng vào ngân sách nhà nước. Chính phủ mỗi nước đưa ra các chính sách thuế phù hợp để điều tiết sự bất bình đẳng trong thu nhập. Ngân sách nhà nước phải được chi cho an sinh xã hội nói chung, cho các chương trình trợ giúp đối với các đối tượng thiệt thòi, dễ bị tổn thương nói riêng mà trước hết là người nghèo, người tàn tật, trẻ mồ côi… theo một tỷ lệ thích đáng. Trong Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội của Thế giới (1995) (Hội nghị 20:20) đã kêu gọi các quốc gia "dành 20% ngân sách quốc gia để cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản". Tuy nhiên, hầu hết các nước trong khu vực vẫn chưa thực hiện được cam kết này. Năm 2000, khi điểm lại kế hoạch 5 năm của cam kết tại Hội nghị thưởng đỉnh về xã hội, các nhà tài trợ song phương đã tính ra tỷ lệ trung bình về chi tiêu ngân sách quốc gia cho phát triển xã hội mới chỉ khoảng 8,5%. Hội nghị Bộ trưởng Khu vực Châu á, Thái Bình Dương lần thứ 5 năm 1997 đã cân nhắc lại các mục tiêu phát triển quốc tế do Hội nghị thượng đỉnh về xã hội năm 1997 đưa ra. Các nước đang phát triển trong khu vực phải tăng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2