intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

GIÁO TRÌNH BỆNH TRUYỀN NHIỄM THÚ Y (PHẦN ĐẠI CƯƠNG) part 4

Chia sẻ: ágffq ằefgsd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

238
lượt xem
72
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cảm nhiễm và phát bệnh: vai trò dịch tễ học của cảm nhiễm ẩn tính Động vật đã cảm nhiễm mầm bệnh có phát bệnh hay không phát bệnh phụ thuộc vào sự cân bằng giữa tính gây bệnh của mầm bệnh và tính đề kháng của ký chủ và tác động ảnh hƣởng đối với sự cân bằng đó từ phía các nhân tố ngoại cảnh. Tổn hại có thể chỉ trong trƣờng hợp phát bệnh do cảm nhiễm hiển tính (apparent infection), nhƣng cảm nhiễm ẩn tính (inapparent infection) không phát bệnh cũng có ý nghĩa quan trọng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: GIÁO TRÌNH BỆNH TRUYỀN NHIỄM THÚ Y (PHẦN ĐẠI CƯƠNG) part 4

  1. 64 5. Cảm nhiễm và phát bệnh: vai trò dịch tễ học của cảm nhiễm ẩn tính Động vật đã cảm nhiễm mầm bệnh có phát bệnh hay không phát bệnh phụ thuộc vào sự cân bằng giữa tính gây bệnh của mầm bệnh và tính đề kháng của ký chủ và tác động ảnh hƣởng đối với sự cân bằng đó từ phía các nhân tố ngoại cảnh. Tổn hại có thể chỉ trong trƣờng hợp phát bệnh do cảm nhiễm hiển tính (apparent infection), nhƣng cảm nhiễm ẩn tính (inapparent infection) không phát bệnh cũng có ý nghĩa quan trọng trong dịch học. Các cá thể động vật bị cảm nhiễm ẩn tính trong nhiều trƣờng hợp có thể là vật mang trùng và bài xuất mầm bệnh. Ngƣợc lại, do kích thích cơ thể động vật sản sinh miễn dịch sau đó, cảm nhiễm ẩn tính làm tăng tính đề kháng tập đoàn nên đóng vai trò trong quá trình làm ngừng dịch. II. Nguồn bệnh Vật bảo lƣu mầm bệnh và là ngọn nguồn của sự tán phát, truyền bá mầm bệnh gọi là nguồn bệnh (nguồn mầm bệnh cảm nhiễm, hay nguồn cảm nhiễm - source of infection). Nguồn bệnh nhƣ vậy có thể là động vật bị mắc bệnh, động vật mang mầm bệnh nhƣng không mắc bệnh (vật mang trùng) và thổ nhƣỡng,... Suy rộng hơn, cũng có trƣờng hợp nguồn bệnh là những vật thể bị ô nhiễm hay vật môi giới lan truyền đóng vai trò của đƣờng truyền lây mầm bệnh. Tuy vậy, khái niệm nguồn bệnh thƣờng đƣợc giới hạn ở những động vật duy trì thuộc tính ký sinh (tính gây bệnh) của mầm bệnh. Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và là khâu chủ yếu của quá trình sinh dịch, nguồn bệnh là nơi mầm bệnh cƣ trú và sản sinh thuận lợi, và từ đó trong những điều kiện nhất định sẽ xâm nhập vào cơ thể bằng cách này hay cách khác để gây bệnh. Nguồn bệnh phải là nơi tạo điều kiện cho mầm bệnh tồn tại và duy trì những thuộc tính của nó qua các thế hệ. Mặc dù trực khuẩn nhiệt thán (Bacillus anthracis) có thể phát triển trong những điều kiện có thể gặp ở những bãi chăn ở những vùng đất kiềm nhẹ, mƣa nhiều, nóng ẩm, hoặ c tƣơng tự, vi khuẩn Listeria, Erysipelothrix cũng có thể phát triển trong đất, trong nƣớc,... nhƣng các yếu tố thổ nhƣỡng (đất, nƣớc,...) thƣờng không đƣợc coi là những nguồn bệnh. Tuy cần lƣu ý về khả năng tồn tại lâu dài của một số loại mầm bệnh riêng biệt nhƣng quan điểm chung của dịch tễ học là không coi bất cứ nhân tố ngoại cảnh nào cũng là nguồn bệnh, vì tuy ở đó có chứa mầm bệnh, thậm chí có mầm bệnh tồn tại khá lâu, nhƣng không có điều kiện để chúng tồn tại lâu dài với những thuộc tính ký sinh của chúng. Nƣớc, đất,... chỉ đƣợc coi là môi trƣờng chứa mầm bệnh tạm
  2. 65 thời, là các nhân tố trung gian mang mầm bệnh tạm thời. Nhiều loại mầm bệnh có thể sống rất lâu trong đất, nƣớc,... nhƣng nguồn bệnh chính vẫn là súc vật bị cảm nhiễm, vì có chúng thì đất và nƣớc mới có mầm bệnh và mầm bệnh mới tồn tại mãi mãi trong thiên nhiên với những đặc tính gây bệnh của chúng đối với ký chủ. Nguồn bệnh phải là một sinh vật đang mắc bệnh hoặc đang mang mầm bệnh vì cơ thể sinh vật ký chủ là điều kiện tự nhiên duy nhất cho mầm bệnh sinh sống và phát triển tƣơng đối thuận lợi và lâu dài. Nguồn bệnh có thể chia thành hai loại: động vật (đang mắc) bệnh và động vật mang trùng. Động vật (đang mắc) bệnh gồm có gia súc, gia cầm và dã thú phát bệnh ở các thể khác nhau, tức đang biểu hiện các triệu chứng đặc trƣng của bệnh. Gia súc, gia cầm đang mắc bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm vì trong khi mắc bệnh cơ thể chứa lƣợng mầm bệnh và độc tố cao nhất và có thể bài xuất ra ngoài bằng nhiều đƣờng, độc lực của mầm bệnh thƣờng tăng khi trải qua cơ thể thụ cảm và phát bệnh. Một số triệu chứng của bệnh nhƣ đi tháo, ho, hắt hơi,... có tác dụng gieo rắc mầm bệnh ra ngoài môi trƣờng. Trong nhiều bệnh, con vật bệnh ở thời kỳ nung bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm nhất (lở mồm long móng, dịch tả lợn, viêm phổi truyền nhiễm, dại,...) vì con vật bệnh đã mang và bài xuất mầm bệnh ra ngoài một thời gian trƣớc khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng đầu tiên. Ngƣời mắc bệnh trong nhiều trƣờng hợp cũng là nguồn bệnh động vật. Dã thú gậm nhấm cũng là nguồn bệnh rất nguy hiểm đối với gia súc, vì chúng là những nguồn (ổ chứa) di động và khó kiểm soát của nhiều vi sinh vật trong thiên nhiên trong đó có rất nhiều vi sinh vật là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm. Về mặt dịch tễ học, những con vật mắc bệnh nhẹ nguy hiểm hơn những con vật mắc bệnh nặng vì chúng thƣờng khó đƣợc phát hiện, dễ bị bỏ qua hoặc coi thƣờng, lại có khả năng đi lại tiếp súc với con khỏe nên làm bệnh dễ lây lan. 1. Các con đường bài xuất mầm bệnh Mầm bệnh có thể bài xuất từ bề mặt cơ thể, các lỗ tự nhiên hoặc chỗ tổn thƣơng của động vật mắc bệnh một cách trực tiếp từ nơi ổ bệnh (bệnh sào, ổ cảm nhiễm) hoặc cùng với chất tiết xuất hoặc chất bài tiết. Con đƣờng bài xuất mầm bệnh có tính đặc trƣng đối với các loại bệnh cảm nhiễm khác nhau và là yếu tố trọng yếu trong quá trình nhận biết đặc tính của các dạng lan truyền của bệnh cảm nhiễm.
  3. 66 Ở các bệnh cảm nhiễm đƣờng hô hấp, mầm bệnh thƣờng đƣợc bài xuất ra ngoài cơ thể vật bệnh ở dạng những giọt nhỏ và khí dung chứa dịch bài xuất từ xoang miệng hoặc đƣờng hô hấp nhƣ dịch nƣớc bọt, dịch mũi, dịch hắt hơi,... Ở các mầm bệnh cảm nhiễm đƣờng tiêu hóa mầm bệnh chủ yếu bài xuất theo phân ra ngoài. Ở các mầm bệnh cảm nhiễm toàn thân mầm bệnh bài xuất theo nhiều loại dịch tiết xuất khác nhau: nƣớc tiểu, phân, dịch mũi, nƣớc bọt, sữa,... Con đƣờng bài xuất mầm bệnh có thể nhiều loại, và một bệnh cảm nhiễm có đƣờng bài xuất mầm bệnh khác nhau phụ thuộc vào thể bệnh. 2. Vật mang trùng Vật mang trùng gồm có gia súc, gia cầm, dã thú, động vật chân đốt và ngƣời mà nhìn ngoài thấy khỏe mạnh nhƣng bên trong cơ thể có chứa mầm bệnh đang phát triển và bài xuất mầm bệnh đó ở mức độ này hay mức độ khác. Hiện tƣợng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch học. Súc vật mang trùng làm lây lan bệnh lớn hơn cả súc vật bệnh. Trong một số bệnh truyền nhiễm, súc vật mang trùng có tác dụng quyết định trong việc làm phát sinh dịch. Có thể có vật mang trùng kỳ nung bệnh, vật mang trùng kỳ hồi phục (kỳ lành bệnh) và vật mang trùng khỏe mạnh. 2.1. Vật mang trùng kỳ nung bệnh Vật mang trùng kỳ nung bệnh là những con vật bài xuất mầm bệnh trƣớc khi xuất hiện triệu chứng bệnh. Ở bệnh lở mồm long móng và bệnh mụn nƣớc trƣớc khi xuất hiện bệnh 1 - 3 ngày trong niêm dịch hầu họng và sữa đã thấy xuất hiện mầm bệnh. Ở bệnh dịch tả lợn trƣớc khi phát b ệnh trong nƣớc tiểu đã thấy lƣợng lớn virut bài xuất và trở thành nguồn bệnh nguy hiểm. 2.2. Vật mang trùng kỳ hồi phục Vật mang trùng kỳ hồi phục là những con vật bài xuất mầm bệnh sau khi các triệu chứng chủ yếu của bệnh đã hết và trở thành nguồn bệnh cảm nhiễm. Động vật khỏi bệnh leptô, chẳng hạn, vẫn tiếp tục bài xuất mầm bệnh (các xoắn khuẩn) trong nƣớc tiểu một số tuần đến một số tháng. Ở bệnh viêm dạ dày - ruột truyền nhiễm lợn (TGE) virut tiếp tục bài xuất trong phân lợn con trong một số ngày đến một số tuần. Vật mang trùng kỳ hồi phục xuất hiện nhiều hay ít ở hầu hết các bệnh cảm nhiễm nhƣng tần độ xuất hiện hiện tƣợng mang trùng kỳ hồi phục tùy thuộc loại bệnh. Hiện tƣợng mang trùng có thể có ở gia súc, gia cầm sau khi mắc bệnh có miễn dịch (ví dụ bệnh lao) hoặc không có miễn dịch (bệnh leptô).
  4. 67 2.3. Vật mang trùng khỏe mạnh Vật mang trùng khỏe mạnh là những động vật cảm nhiễm ẩn tính, không biểu hiện triệu chứng bệnh nhƣng bài xuất mầm bệnh ra môi trƣờng (bệnh đóng dấu lợn, tụ huyết trùng, phó thƣơng hàn,...). Côn trùng, ve bét,... cũng đƣợc coi là nguồn bệnh hay vật mang trùng khi chúng có khả năng truyền mầm bệnh từ đời này sang đời khác. Các con vật mắc bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm bài xuất lƣợng lớn mầm bệnh nhƣng dễ phát hiện hơn vật mang trùng nên có thể xử lý kịp thời và thuận tiện hơn bằng giết hủy hoặc cách ly,... Còn các vật mang trùng do khó phát hiện và cũng di động nhƣ các động vật khỏe nên chúng là những nguồn bệnh nguy hiểm hơn vật mắc bệnh. 3. Cảm nhiễm ẩn tính và tái phát Ở bệnh giả dại ở lợn và bệnh viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò có điểm chung là cùng cảm nhiễm herpesvirut, sau khi lành bệnh, virut tiềm phục trong tế bào thần kinh. Trong tế bào bị cảm nhiễm có thể phát hiện ADN virut nhƣng cũng có trƣờng hợp không tìm thấy các virion virut có tính gây nhiễm. Trạng thái ẩn này kéo dài suốt đời con vật, nhƣng trong thời gian đó cũng có khi virut hoạt hóa một cách gián đoạn gây tái phát bệnh. Tái phát các bệnh này thƣờng do cảm ứng bởi các yếu tố stress nhƣ lạnh, vận chuyển, mang thai,... Trong thời kỳ tái phát, động vật trở thành nguồn bệnh. 4. Vai trò của thổ nhưỡng Đất đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mầm bệnh trong tự nhiên. Nếu cảm nhiễm các nha bào có trong đất của các vi khuẩn nhiệt thán, uốn ván, thủy thũng ác tính, ung khí thán,... động vật sẽ phát bệnh nên các bệnh này thƣờng đƣợc gọi là các bệnh thổ nhưỡng. Cùng với cái chết của động vật bệnh, vi khuẩn hình thành nha bào trong cơ thể. Các vi khuẩn bệnh nguyên bệnh ung khí thán, thủy thũng ác tính là những vi khuẩn tồn tại trong đƣờng tiêu hóa của động vật khỏe mạnh nhƣ những vi sinh vật thƣờng trú (khu hệ vi sinh vật "bình thƣờng") bài xuất theo phân ra ngoài gây ô nhiễm đất. Nha bào đề kháng cao với các yếu tố ngoại cảnh và tồn tại rất lâu dài ở trong đất. Ở trong môi trƣờng đó các vi khuẩn này có phát triển hay không thì còn chƣa biết, nhƣng gần đây ngƣời ta thấy rằng nếu gặp điều kiện thổ nhƣỡng nhất định vi khuẩn nhiệt thán có thể phát triển và là nguyên nhân lƣu hành mạnh của bệnh này. Điều kiện môi trƣờng thích hợp đó là tính kiềm yếu, nhiệt độ cao (gần 37 °C), ẩm độ cao
  5. 68 (gần 100%) và sẵn các chất dinh dƣỡng hữu cơ. Những bãi chăn thả có đất kiềm nhẹ vào mùa mƣa có nhiệt độ cao thƣờng có thể thỏa mãn điều kiện nêu trên và trở thành vùng ủ mầm bệnh (incubator area) nguy hiểm, là nơi bệnh phát thƣờng xuyên. 5. Ổ bệnh (ổ cảm nhiễm) Ổ bệnh (ổ cảm nhiễm, hay bệnh sào) là vị trí trong cơ thể ký chủ bị cảm nhiễm mà mầm bệnh tập trung và gây những biến đổi bệnh lý đặc trƣng của bệnh. Theo định đề của Koch, mầm bệnh phải phân lập đƣợc từ ổ bệnh. Vị trí hay chủng loại cơ quan tổ chức ổ bệnh chủ yếu phụ thuộc vào tính hƣớng của mầm bệnh. Nhiều mầm bệnh hình thành ổ bệnh nguyên phát và thứ phát khác nhau. Ví dụ, vi khuẩn bệnh giang mai ở ngƣời (Treponema pallidum) khởi đầu gây ổ bệnh ở cơ quan sinh dục nhƣng sau một thời gian phát bệnh (kỳ thứ ba của bệnh giang mai) ổ bệnh thƣờng ở các nội quan khác nhau. Tƣơng tự, bệnh viêm phổi do phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) ở ngƣời ban đầu có ổ bệnh là phổi nhƣng sau đó ổ bệnh có thể nội tâm mạc và ổ khớp,... Nếu ổ bệnh hở (không nằm sâu trong cơ thể và/hoặc thông với cơ quan hình ống) từ nguồn bệnh mầm bệnh dễ dàng bài xuất ra ngoài dẫn đến lây lan nhanh chóng bệnh cảm nhiễm. Ngƣợc lại, nếu ổ bệnh kín, nhƣ trong bệnh lao xƣơng chẳng hạn, khả năng lây lan mầm bệnh từ nguồn bệnh thƣờng hạn chế. III. Ảnh hưởng của ngoại cảnh đến sự lan truyền vi sinh vật ngoài cơ thể Vi sinh vật mầm bệnh có tính phụ thuộc ký chủ cao, quá trình tồn tại ngoài cơ thể ký chủ là không thích hợp với chúng, trừ trƣờng hợp nha bào. Các virut, Rickettsia và Chlamydia không thể sinh sản ngoài cơ thể sống. Sự phát triển của nhiều vi khuẩn gây bệnh cũng vậy, tƣơng tự trƣờng hợp vi khuẩn nhiệt thán chỉ có thể diễn ra trong điều kiện môi trƣờng đặc thù đảm bảo các điều kiện cần thiết. Tuy nhiên, là những nguồn dinh dƣỡng phong phú các loại thực phẩm là môi trƣờng tƣơng đối thuận lợi đối với sự phát triển của vi khuẩn, nếu nhiệt độ và các điều kiện khác thích hợp cho phép vi khuẩn phát triển, thì thực phẩm trở thành nguyên nhân trúng độc (ngộ độc) thực phẩm. Đối với sự tồn tại của mầm bệnh ngoài môi trƣờng thì nhiệt độ thấp thƣờng có lợi hơn nhiệt độ cao. Trong điều kiện ẩm độ khác nhau thì sự sinh tồn của các vi sinh vật mầm bệnh là khác nhau phụ thuộc vào chủng loại của chúng. Nhìn chung, các virut không có áo ngoài tồn tại tốt hơn ở
  6. 69 nhiệt độ cao, còn các virut có áo ngoài và các vi khuẩn tồn tại thích hợp hơn ở điều kiện nhiệt độ thấp. Trƣờng hợp trúng độc thực phẩm thì mối quan hệ với nhiệt độ môi trƣờng là khá rõ nhƣng đối với các mầm bệnh gây bệnh hô hấp phát sinh nhiều vào mùa đông thì có mối quan hệ giữa nhiệt độ môi trƣờng với sự tồn tại của mầm bệnh ngoài cơ thể hay không thì còn chƣa rõ. IV. Đường truyền lây và hình thức truyền lây Nhân tố trung gian truyền bệnh là khâu thứ hai của quá trình phát sinh dịch, có vai trò chuyển mầm bệnh từ nguồn bệnh tới động vật thụ cảm. Cách thức mầm bệnh cảm nhiễm truyền lan từ động vật này sang động vật khác gọi là đƣờng truyền lây hay hình thức truyền lây. Có thể có các hình thức truyền lây sau: nhờ tiếp xúc, qua không khí, qua thức ăn nƣớc uống và nhờ động vật môi giới (qua vector truyền lây). Muốn lây truyền từ cơ thể bệnh sang cơ thể khỏe, trong nhiều trƣờng hợp mầm bệnh thƣờng phải sống một thời gian nhất định ở ngoại cảnh trên các nhân tố trung gian. Thời gian đó dài hay ngắn phụ thuộc vào loài mầm bệnh, loại nhân tố trung gian truyền bệnh, điều kiện thời tiết khí hậu,... Nói chung, mầm bệnh không sinh sản và phát triển ở đó, và sau một thời gian nhất định sẽ bị tiêu diệt. Lây truyền mầm bệnh có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Lây truyền gián tiếp là con đƣờng lây truyền phổ biến và thông qua ngoại vật bị ô nhiễm mầm bệnh. Mầm bệnh không chỉ truyền lan từ vật bệnh đến những con vật gần mà trong nhiều trƣờng hợp thông qua thức ăn, phƣơng tiện vận tải, dụng cụ chăm sóc nuôi dƣỡng, và nhiều khi qua con ngƣời nữa. Các phƣơng tiện và dụng cụ không đƣợc tiêu độc thích hợp rất dễ làm lây lan mầm bệnh đến quần thể lớn động vật. Có rất nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh: nƣớc, đất, không khí, thức ăn, dụng cụ, sản phẩm gia súc, ngƣời và động vật khác, và đặc biệt là các động vật chân đốt (côn trùng, ve bét,...). 1. Truyền lây nhờ tiếp xúc Có thể phân biệt truyền lây tiếp xúc trực tiếp và truyền lây tiếp xúc gián tiếp. Bệnh truyền nhiễm có thể lây trực tiếp từ động vật bệnh sang động vật khỏe do chúng tiếp xúc với nhau khi cọ xát khi giao phối, khi bú, liếm, cắn hoặc cào. Lây truyền mầm bệnh viêm hạch truyền nhiễm ngựa có thể do cọ xát giữa vật bệnh và vật khỏe. Cảm nhiễm đƣờng sinh dục bởi virut viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò ở bò, bệnh do Campylobacter ở bò và bệnh ban giao cấu ngựa (equine coital exanthyma, do herpesvirut gây ra) ở ngựa thƣờng do mầm bệnh lây truyền thông qua giao cấu, mầm
  7. 70 bệnh brucellosis có thể lây truyền khi bò khỏe liếm vùng đít bò bệnh, bệnh dại lây truyền thƣờng do động vật dại bài xuất virut theo nƣớc bọt và phát triệu chứng thần kinh mà cắn động vật khác,... Ngoài ra dịch ho, hắt hơi do chỉ phát tán gần động vật bệnh nên thƣờng cũng đƣợc coi nhƣ yếu tố gây lây truyền mầm bệnh trực tiếp. Dụng cụ đồ vật: Tất cả dụng cụ, đồ vật dùng cho động vật trong chăn nuôi, sản xuất,... hoặc tiếp xúc với gia súc, đều có thể truyền mầm bệnh. Mức độ tác hại của dụng cụ, đồ vật phụ thuộc vào thời gian tồn tại của mầm bệnh trên dụng cụ đồ vật đó. Nếu có điều kiện tối, độ ẩm và độ nhiệt thích hợp, thì mầm bệnh tồn tại đƣợc lâu. Trên dụng cụ nhẵn nhụi và bằng kim loại mầm bệnh chóng bị tiêu diệt hơn so với dụng cụ bằng gỗ xù xì. Sản phẩm gia súc: Sản phẩm động vật có thể trở thành nguy hiểm đối với ngƣời và gia súc. Thịt động vật bệnh có thể là nguyên nhân làm lây lan bệnh. Sữa gia súc bệnh hay sữa gia súc mang trùng chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh. Trong quá trình vắt sữa và chế biến, sữa rất dễ bị nhiễm trùng. Bệnh lao, sẩy thai truyền nhiễm, lở mồm long móng, đậu,... có thể truyền qua sữa. Da lông thú vật nhiễm nha bào nhiệt thán, thịt ƣớp lạnh có thể nhiễm virut lở mồm long móng và đƣa mầm bệnh đi rất xa. Các thú sản khác nhƣ xƣơng, lông, sừng, móng,... và các sản phẩm nông nghiệp nhƣ rơm, cỏ, củ, hạt giống,... đều có thể mang và truyền mầm bệnh đi xa. Người: Ngƣời có thể mang nhiều loại mầm bệnh, nhất là những ngƣời trực tiếp tiếp xúc với động vật nhƣ công nhân chăn nuôi, vắt sữa, cán bộ nhân viên thú y, ngƣời chăm sóc gia súc,... Mầm bệnh trong các trƣờng hợp có thể dính vào quần áo, tay chân, giày dép,... hoặc tạm thời ở đƣờng tiêu hóa của ngƣời và đƣợc bài xuất theo phân ra ngoài. 2. Truyền lây qua thức ăn, nước và đất Thức ăn nước uống là nhân tố trung gian truyền bệnh phổ biến nhất vì đa số bệnh truyền nhiễm lây bằng đƣờng tiêu hóa. Thức ăn, nƣớc uống bị ô nhiễm là do các chất bài tiết của con bệnh (phân, nƣớc tiểu, đờm rãi,...), do đất bị ô nhiễm, do dụng cụ chứa hoặc chế biến thức ăn không sạch, do các loại gia súc gia cầm khác và các loại động vật chân đốt xâm nhiễm,... Nƣớc uống, nƣớc tắm rửa rất cần thiết cho đời sống hàng ngày của súc vật, nhƣng nƣớc ô nhiễm là nguyên nhân phát sinh ồ ạt nhiều bệnh truyền nhiễm (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn, lở mồm long móng). Mức độ ô
  8. 71 nhiễm của nƣớc phụ thuộc vào thành phần của đất và điều kiện vệ sinh của đất vùng lân cận. Nƣớc tự làm sạch do tác dụng của ánh sáng mặt trời, do chuyển động cơ giới của nƣớc, do các chất hữu cơ trong nƣớc đƣợc loãng ra và do tác dụng của các chất độc đối với vi khuẩn (chất kháng sinh tự nhiên) hoặc tác động thực bào (bắt mồi ăn thịt) của các loại sinh vật đối kháng (động vật nguyên sinh,...) hoặc tác dụng dung giải của các thực khuẩn thể. Đất đóng vai trò quan trọng trong việc làm lây lan bệnh. Có những vùng đất đặc biệt thƣờng xuyên chứa mầm bệnh. Đất bị ô nhiễm là do các chất bài tiết, bài xuất của con bệnh, do chất thải của cống rãnh, của các nhà máy chế biến thú sản, lò sát sinh, do xác súc vật,... Từ đất mầm bệnh qua vết thƣơng hay qua thức ăn, nƣớc uống bị dính đất mà vào cơ thể. Nƣớc và các chất hữu cơ trong đất, tính chất vật lý và nhiều tính chất khác của đất có ảnh hƣởng đến mầm bệnh. Đất ẩm và chứa nhiều chất hữu cơ thƣờng thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của nhiều mầm bệnh. Vi khuẩn đóng dấu lợn có thể sinh sản ngay cả trong đất. Nha bào nhiều loại vi khuẩn (nhiệt thán, ung khí thán, uốn ván,...) tồn tại khá lâu trong đất. Đất đƣợc coi là môi trƣờng sống tự nhiên của những vi khuẩn đó. Các loại vi khuẩn tồn tại lâu trong đất gây ra những bệnh gọi là bệnh thổ nhƣỡng. 3. Truyền lây qua không khí Không khí có thể là nơi mầm bệnh tồn tại và làm lan truyền bệnh. Không khí có chứa mầm bệnh là do mầm bệnh dính vào bụi (khi quét dọn chuồng trại, khi cọ rửa gia súc,...) hoặc dính vào các bọt nƣớc nhỏ khi động vật kêu, rống hoặc ho, hắt hơi bắn ra. Mầm bệnh dính vào bụi và bọt nƣớc có thể đƣợc đƣa đi rất xa và xâm nhập qua đƣờng hô hấp để lây bệnh theo hai phƣơng thức: truyền bệnh bằng giọt và truyền bệnh bằng bụi. Ngoài ra, thƣờng gặp hiện tƣợng bụi (pha rắn) và giọt (pha lỏng) lơ lửng trong không khí (pha khí), gọi là khí dung. Mức độ tác hại của khí dung phụ thuộc vào độ lớn của chúng, vào số lƣợng mầm bệnh chứa trong giọt và bụi đó và phụ thuộc vào độ ẩm, độ nhiệt và sự chuyển động của không khí. Ví dụ, giọt lớn (đƣờng kính trên 10 m) chứa nhiều mầm bệnh, lâu khô hơn giọt nhỏ, nhƣng không tồn tại lâu trong không khí, không đi đƣợc xa và không vào sâu trong khí quản đƣợc. Trái lại, giọt nhỏ (0,3 - 2 m) tuy chứa ít mầm bệnh hơn và chóng khô hơn nên mầm bệnh chóng chết, nhƣng lại tồn tại lơ lửng lâu trong không khí, dịch chuyển đƣợc xa và vào
  9. 72 đƣợc sâu trong các phế quản nhỏ. Vì vậy, sự lan truyền của mầm bệnh thƣờng phụ thuộc vào mật độ động vật cảm thụ. Phƣơng thức truyền bệnh bằng giọt ngắn hơn và là đƣờng lây truyền của những mầm bệnh không chịu đƣợc khô và không sống đƣợc lâu trong không khí. Tuy nhiên trong nhiều trƣờng hợp giọt trong không khí không rơi xuống mà tiếp tục phát tán đi xa. Khi vắt sữa hoặc khi động vật tiết nƣớc tiểu mầm bệnh cảm nhiễm có thể phát tán vào không khí. Phƣơng thức truyền bệnh bằng bụi dài hơn, nguy hiểm hơn phƣơng thức trên, nhƣng chỉ giới hạn trong một số mầm bệnh sống đƣợc lâu trong ngoại cảnh và chịu đƣợc khô (nhƣ trực khuẩn lao, lở mồm long móng,...). Những bệnh cảm nhiễm đó thƣờng đƣợc gọi là bệnh cảm nhiễm lây truyền nhờ bụi (dust-borne infection). Thông thƣờng, phƣơng thức lây truyền bằng bụi và phƣơng thức truyền lây bằng giọt đƣợc gọi chung là phƣơng thức lây truyền qua không khí và phân biệt với trƣờng hợp bệnh chỉ lây truyền cho động vật lân cận gọi là lây truyền tiếp xúc. Không khí là nhân tố truyền bệnh chủ yếu của những bệnh cảm nhiễm đƣờng hô hấp. Truyền bệnh qua không khí có thể do mầm bệnh phát tán theo không khí nhƣng cũng có thể do động vật môi giới (vector truyền lây) đƣợc mang theo gió. Bệnh sốt lƣu hành bò, bệnh Akabane, dịch tả ngựa châu Phi là những bệnh thỉnh thoảng lan rộng sang các vùng lân cận một cách bất thƣờng xuyên có thể là do các vector truyền lây đƣợc vận chuyển theo gió. 4. Truyền lây qua vector Động vật chân đốt (động vật tiết túc) gồm rất nhiều loại, đặc biệt một số động vật thuộc lớp Côn trùng (ruồi, muỗi, rận,...) và lớp Nhện (ve bét, ghẻ,...) có vai trò hết sức nguy hiểm trong việc truyền bệnh. Là những nhân tố sống truyền bệnh, chúng có thể chủ động mang mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác. Vì vậy chúng đƣợc coi là yếu tố môi giới truyền bệnh hay vector truyền bệnh. Có hai phƣơng thức truyền bệnh do động vật chân đốt gây ra: cơ học và sinh học. Trong phương thức truyền bệnh cơ học, những sinh vật trên chỉ đơn thuần là vật mang và chuyển mầm bệnh từ chỗ này sang chỗ khác. Ruồi là một ví dụ về phƣơng thức truyền bệnh cơ học. Chúng mang mầm bệnh ở chân, vòi, thân hoặc trong ống tiêu hóa. Thời gian mầm bệnh sống
  10. 73 trên cơ thể chúng rất ngắn. Giữa mầm bệnh và sinh vật mang mầm bệnh không có mối quan hệ sinh vật học nào cả. Trong phương thức truyền bệnh sinh học, mầm bệnh tồn tại, sinh sản trong sinh vật mang mầm bệnh. Khi đã mang mầm bệnh sinh vật đó có thể truyền bệnh suốt cả đời sống của nó (ví dụ, chấy, rận chứa mầm bệnh sốt phát ban, ve bét mang các arenavirut,...). Cũng có loại mầm bệnh phải trải qua một hoặc một số giai đoạn sinh trƣởng trong cơ thể sinh vật mang mầm bệnh (muỗi Culex đối với virut viêm não Nhật Bản) rồi mới trở nên cảm nhiễm và gây phát bệnh. Gia súc, gia cầm và các động vật cảm nhiễm khác có thể là ký chủ trung gian trong quá trình dịch hoặc ngƣợc lại chỉ là ký chủ chung mạt (ký chủ cuối cùng – dead-end host) của vi sinh vật mầm bệnh. Các ký chủ trung gian có thể tham gia vào quá trình làm tăng số lƣợng tế bào (hoặc virion) mầm bệnh gọi là ký chủ khuyếch đại (host - amplifier). Nếu sinh vật chân đốt mang mầm bệnh có thể truyền mầm bệnh cho các hệ sau của chúng thì chúng không những là sinh vật môi giới (vector truyền lây) mà còn đƣợc coi là nguồn bệnh. Trong lớp Nhện và lớp Côn trùng có rất nhiều loài (ruồi, muỗi, rận, ve, bọ chét,...) có thể là vector truyền lây bệnh truyền nhiễm. Ruồi nhà có thể mang vi khuẩn nhiệt thán, lao, xoắn khuẩn, virut dịch tả lợn, lở mồm long móng. Khi đó, trực trùng lao có thể sống trong ruồi 16 ngày. Ruồi trâu hút máu động vật, mang và truyền bệnh nhiệt thán, bệnh tiêm mao trùng, bệnh tula (bệnh thỏ hoang), bệnh leptô (leptospirosis, hay bệnh nghệ). Muỗi truyền bệnh sốt rét cho ngƣời, mang mầm bệnh gây bệnh thiếu máu truyền nhiễm của ngựa. Muỗi, ruồi nhà, ruồi trâu chứa vi khuẩn Brucella nhiều ngày. Rệp, ve chứa vi khuẩn này trong nhiều năm, có thể truyền cho đời sau. Bọ chét truyền bệnh tula, bệnh sốt rét,... Các loại động vật khác: Tất cả các loại động vật khác không cảm thụ hoặc ít cảm thụ bệnh đều có thể là những nhân tố trung gian truyền bệnh cơ học. Mầm bệnh dính vào cơ thể (thân, chân, đầu, cánh,...) của các loài động vật trên và đƣợc truyền đi. Mầm bệnh có thể truyền bệnh qua phân sau khi đi qua đƣờng tiêu hóa nhƣ trƣờng hợp quạ ăn xác chết vì bệnh nhiệt thán sẽ bài một số lƣợng lớn nha bào theo phân. Gia cầm, chim có thể truyền bệnh nhiệt thán, đóng dấu lợn, dịch tả lợn,... Các loại dã thú nhƣ chồn, cáo, chó sói, dơi,... có thể truyền bệnh dại, lở mồm long móng, sẩy thai truyền nhiễm,... Các loại dã thú, các loài gậm nhấm không những
  11. 74 là nguồn tàng trữ các ổ dịch thiên nhiên mà còn là những nhân tố truyền bệnh. Trong các loài động vật cần chú ý đến các loài chim và gậm nhấm, nhất là chuột. Với khả năng bay lƣợn, chim có khả năng mang mầm bệnh đi xa, có khi rất xa, từ lục địa này sang lục địa khác. Với số lƣợng khổng lồ và gồm nhiều loại, chuột sinh sống khắp nơi, tiếp xúc thƣờng xuyên với gia súc và các chất chứa mầm bệnh. Chuột vì vậy có vai trò rất nguy hiểm trong việc truyền bệnh cảm nhiễm cho gia súc và ngƣời. Đối với gia súc, chuột có thể truyền các bệnh nhƣ lao, lở mồm long móng, đóng dấu lợn, tụ huyết trùng, sẩy thai truyền nhiễm, bệnh xoắn trùng (leptô), dại, dịch tả lợn,... Tóm lại, nhân tố trung gian truyền bệnh có rất nhiều loại. Bệnh truyền từ con bệnh sang con vật khỏe bằng nhiều đƣờng thông qua một nhân tố trung gian, có khi phải qua một chuỗi nhân tố trung gian. Vì vậy, một biện pháp vô cùng trọng yếu trong công tác phòng chống bệnh là phải tìm cách phá hủy các nhân tố trung gian đó, nhƣ giữ vệ sinh thức ăn, nƣớc uống, tiêu diệt chân đốt, chuột,... 5. Truyền lây dọc và truyền lây ngang Truyền lây cảm nhiễm từ bố mẹ sang con gọi là truyền dọc, truyền lây giữa các cá thể trong tập đoàn mà không phải từ bố mẹ sang con gọi là truyền ngang. Trong cơ chế truyền dọc mầm bệnh cảm nhiễm đƣợc truyền sang con qua tinh trùng, trứng hoặc sang thai qua tử cung, hoặc qua đƣờng sinh dục khi sinh đẻ, hoặc con con bị nhiễm do bú sữa hoặc tiếp xúc với mẹ sau khi sinh. Ở gia cầm, các loại chim và bò sát,... truyền lây theo chiều dọc là truyền lây qua trứng. Nếu mầm bệnh cảm nhiễm xâm nhập vào trứng trƣớc khi hình thành vỏ trứng thì gọi là truyền lây trong trứng hay cảm nhiễm trong trứng (in-egg infection). Trong trƣờng hợp mầm bệnh cảm nhiễm lây truyền vào trứng sau khi vỏ trứng đã hình thành hoặc khi trứng ở bên ngoài thì gọi là cảm nhiễm trên trứng (on-egg infection). Các bệnh cảm nhiễm truyền lây dọc cho phôi và thai thƣờng d ẫn đến sẩy thai, đẻ con chết, không thụ thai, giảm lƣợng con sinh ra (đối với động vật đa thai), con yếu, trứng không phôi, trở ngại sinh sản, suy giảm miễn dịch hay dung nạp miễn dịch. Ở các bệnh nhƣ brucellosis ở bò, vibriosis, Akabane, viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò, phó thƣơng hàn ngựa, virut viêm não Nhật Bản của lợn, bệnh parvovirut lợn và bạch lỵ gà con,... động vật mẹ thƣờng cảm nhiễm ẩn tính hoặc biểu hiện bệnh tƣơng
  12. 75 đối nhẹ độ nhƣng ở phôi, thai hoặc con non thƣờng thấy tổn hại trầm trọng. Ví dụ về trƣờng hợp truyền lây cảm nhiễm dọc sau sinh có thể là những bệnh hô hấp mãn tính nhƣ bệnh viêm phổi do Mycoplasma (suyễn) ở lợn và bò, bệnh viêm teo mũi ở lợn,... Trong những trƣờng hợp này động vật mẹ là những vật mang trùng nhƣng con con cảm nhiễm trong thời kỳ bú sữa. Sau đó, động vật con trở thành vật mang trùng, nếu sinh trƣởng thành động vật giống (sinh sản) thì lại truyền lây cho thế hệ sau. Các bệnh Mycoplasma và bạch lỵ gà con ở gia cầm cũng truyền mầm bệnh tƣơng tự. Còn bệnh bạch huyết bò thƣờng truyền lây từ mẹ sang con qua sữa. Những bệnh này truyền lây dễ dàng theo chiều ngang nhƣng sự truyền lây dọc đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mầm bệnh trong tập đoàn động vật. Bệnh bạch huyết gà cũng là bệnh truyền lây chủ yếu qua trứng. Trong trƣờng hợp đó những gà con đã bị cảm nhiễm qua trứng trở nên dung nạp miễn dịch suốt đời không bao giờ sản sinh kháng thể, do đó phát sinh chứng virut huyết làm tăng khả năng truyền lây ngang. Trƣờng hợp dung nạp miễn dịch do truyền lây dọc có thể là bệnh dịch tả lợn, bệnh tiêu chảy niêm mạc bò,... động vật con khi nào cũng trở thành vật mang trùng. Lợn con đƣợc sinh ra từ những lợn nái mắc bệnh dịch tả lợn mãn tính thƣờng cảm nhiễm virut trong thời kỳ phôi thai và hình thành dung nạp miễn dịch. Những lợn con này không có phản ứng đề kháng với cảm nhiễm virut dịch tả lợn nhƣng không phát bệnh và chết ngay là nhờ thừa hƣởng kháng thể thụ động chống dịch tả lợn từ sữa mẹ (miễn dịch thụ động). Chúng duy trì nguồn virut lâu dài trong tập đoàn lợn và mầm bệnh này sẽ phát sinh dịch một khi miễn dịch đàn trở nên giảm sút. V. Tập đoàn động vật cảm thụ 1. Cơ cấu tuổi của tập đoàn và cảm nhiễm Động vật cảm thụ bệnh là khâu thứ ba không thể thiếu đƣợc của quá trình sinh dịch. Có nguồn bệnh và nhân tố trung gian truyền bệnh thuận lợi nhƣng nếu cơ thể súc vật không cảm thụ với bệnh (do có miễn dịch bẩm sinh hoặc miễn dịch tiếp thu) thì dịch không thể phát sinh. Sức cảm thụ của súc vật đối với bệnh là điều kiện bắt buộc để dịch phát sinh và phát triển. Sức cảm thụ đối với bệnh của súc vật phụ thuộc vào sức đề kháng (bẩm sinh và tiếp thu, đặc hiệu và không đặc hiệu) của chúng. Vì vậy, làm tăng sức đề kháng không đặc hiệu (làm tốt việc nuôi dƣỡng, chăm
  13. 76 sóc, vệ sinh, phòng bệnh,...) và sức đề kháng đặc hiệu (tiêm phòng) là những biện pháp chủ động và tích cực nhằm xóa bỏ khâu thứ ba của quá trình sinh dịch, làm dịch không thể phát sinh. Nhìn chung, có khuynh hƣớng là tuổi càng tăng cao tính đề kháng của ký chủ đối với mầm bệnh cảm nhiễm càng tăng, nhƣng sau đó khi động vật già thì tính đề kháng giảm. Điều này phản ánh sự thành thục và sự lão hóa của sức đề kháng của cơ thể cũng nhƣ của đáp ứng miễn dịch. Cảm nhiễm tinh trùng, trứng, phôi, thai dẫn đến vô sinh, giảm số lƣợng con đẻ ra hoặc sản lƣợng trứng, đẻ thai chết hoặc con chết non, nhƣng trong nhiều trƣờng hợp ở động vật mẹ cũng nhƣ các động vật thành thục khác trong đàn không nhận thấy sự bất thƣờng. Cảm nhiễm parvovirut, enterovirut, bệnh viêm não Nhật Bản ở lợn, cảm nhiễm adenovirut và virut viêm não tủy gà thuộc dạng này. Nhiều bệnh truyền nhiễm đƣờng ruột đa phát với tỷ lệ chết cao ở kỳ sơ sinh nhƣng tuổi càng cao thì tỷ lệ bệnh cũng nhƣ tỷ lệ chết giảm hẳn. Khi tuổi càng tăng dạng bệnh cũng thƣờng thấy thay đổi. Cảm nhiễm E. coli ở lợn phát chứng bại huyết ở lợn sơ sinh, bệnh ỉa chảy phân trắng ở kỳ bú sữa, bệnh phù (bệnh phù đầu) ở kỳ sau cai sữa, nhƣng ở lợn trƣởng thành thấy phát bệnh cục bộ nhƣ bệnh viêm phổi, viêm khớp, viêm vú,... Cảm nhiễm Salmonella gây sẩy thai ở ngựa con thƣờng phát bệnh bại huyết và viêm đa khớp, ở ngựa trƣởng thành gây nung mủ cục bộ, còn ở ngựa chửa thƣờng gây sẩy thai, tuổi càng cao bệnh càng trở nên cục bộ. Sự phát sinh bệnh viêm dạ dày - ruột truyền nhiễm (TGE) ở một trại nuôi lợn tập trung thƣờng kéo dài 2 - 3 tuần. Nguyên nhân là miễn dịch trong đàn phát triển nhanh do cảm nhiễm lan rộng nhanh. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp của trại chăn nuôi lợn sinh sản và lợn vỗ béo quy mô lớn dịch cấp tính kéo dài ít nhất là 2 năm. Virut phát triển trong động vật non mẫn cảm, còn những động vật này khi trƣởng thành với mức độ thụ cảm nhất định trở thành vật mang trùng và là nguồn bệnh cảm nhiễm lƣu cửu trong đàn. Khi có động vật non sơ sinh với độ cảm thụ cao hơn thì virut lại tiếp tục phát triển làm cho quá trình dịch kéo dài. Do đó, gần đây chăn nuôi gà, lợn, bò tập trung thƣờng cơ cấu đàn theo độ tuổi. Điều này làm cho việc quản lý chăm sóc nuôi dƣỡng thuận lợi hơn và có tác dụng ức chế sự duy trì bệnh cảm nhiễm rất có hiệu quả.
  14. 77 2. Miễn dịch tập đoàn Một khi bệnh truyền nhiễm phát sinh trong đàn động vật thụ cảm bệnh thƣờng lan rộng, nhƣng một bộ phận không phát bệnh và tiếp tục sống qua vụ dịch. Điều này là do khi bệnh lƣu hành số cá thể động vật hồi phục và miễn dịch tăng, hình thành một bức tƣờng thành gồm những cá thể miễn dịch ngăn sự phát tán của dịch. Đối với việc tiêm phòng vacxin phòng bệnh cũng vậy, hiệu quả phòng bệnh thƣờng không đạt 100% nhƣng làm cho sự lƣu hành bệnh dịch trở nên khó khăn. Hiện tƣợng đề kháng của toàn đàn nhƣ vậy đƣợc gọi là miễn dịch đàn (herd immunity), miễn dịch tập đoàn hay miễn dịch quần thể. Trong việc làm tăng tính miễn dịch cho đàn bằng tiêm vacxin ngƣời ta chỉ cần đạt mục tiêu tạo đƣợc tỷ lệ đáp ứng miễn dịch có hiệu quả khoảng 70 - 80% cá thể. Miễn dịch đàn thay đổi theo thời gian. Mức độ miễn dịch đàn do cảm nhiễm tự nhiên giảm theo thời gian do miễn dịch cá thể giảm dần cùng với việc xuất hiện thế hệ động vật mới không đƣợc miễn dịch. Khi miễn dịch tập đoàn hạ thấp đến một mức độ nhất định thì bệnh lại lƣu hành trở lại. Cũng có thể cho rằng sự biến hóa có tính chu kỳ của dịch là do sự biến động của miễn dịch tập đoàn tạo ra. Phƣơng thức đánh giá miễn dịch đàn thông thƣờng thông qua điều tra kháng thể. Lấy huyết thanh một cách định kỳ, trắc định hiệu giá kháng thể, xác định tỷ lệ động vật mang kháng thể, điều tra phân bố hiệu giá kháng thể là những công tác cần thiết cho việc đánh giá miễn dịch đàn. Nhờ đo đƣợc sự biến động mức đề kháng nên có thể ƣớc định đƣợc nguy cơ phát sinh dịch. Dự báo dịch cúm ở ngƣời thƣờng nhờ vào phƣơng pháp này. Trong các trại gà lớn, việc trắc định phân bố hiệu giá kháng thể do tiêm phòng vacxin và trên cơ sở kết quả này đề ra kế hoạch tiêm phòng là việc làm thƣờng gặp. 3. Vòng cảm nhiễm Trong các trƣờng hợp trong tập đoàn ở khu vực rộng gồm nhiều loại động vật thụ cảm trong đó có các động vật hoang dã thƣờng có hiện tƣợng bệnh cảm nhiễm truyền lan thành chuỗi lây truyền giữa các động vật này, tạo thành vòng cảm nhiễm (infection cycle). Vòng cảm nhiễm có tính địa lý do phụ thuộc chủng loại, phân bố và mật độ của động vật thụ cảm trong hệ sinh thái nhất định. Trong trƣờng hợp bệnh dịch tả lợn châu Phi các loại ve bét ở châu Phi là ổ chứa mầm bệnh, virut tồn tại lƣu cửu trong tập đoàn ve bét. Ở tập đoàn lợn đã cảm nhiễm virut từ ve bét có thể còn xảy ra cảm nhiễm do tiếp xúc và điều này làm cho vòng cảm nhiễm lan
  15. 78 rộng. Tuy nhiên, do tỷ lệ chết cao và mật độ lợn thấp nên dịch không thể duy trì. Lợn rừng hoặc những động vật hoang dã khác cũng bị cảm nhiễm từ ve bét nhƣng chúng duy trì virut lâu dài ở dạng ký chủ chung mạt (dead- end host) và không trở thành nguồn bệnh. Ngƣợc lại ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ve bét và lợn là những ổ chứa virut. Ở khu vực này độc lực của virut đối với lợn giảm, virut có thể lan truyền và duy trì trong đàn lợn. Điều này có đƣợc còn nhờ mật độ nuôi lợn ở vùng này cao hơn ở châu Phi. Ổ chứa virut viêm não Nhật Bản là lợn. Sau khi cảm nhiễm lợn mắc chứng virut huyết nhiều ngày với hiệu giá virut cao, cho nên muỗi hút máu cảm nhiễm virut với tỷ lệ cao nhiều ngày. Muỗi cảm nhiễm đốt ngƣời và động vật có vú (ngựa, bò, lợn, chuột,...) làm những động vật này cũng bị cảm nhiễm. Tuy vậy, các loài động vật ngoài loài lợn thƣờng không mắc chứng virut huyết nên không thể làm cho muỗi trở nên mang virut. Do đó vòng cảm nhiễm cũng bị cắt đứt. Lợn đƣợc coi là ký chủ khuyếch đại (host-amplifier) của virut viêm não Nhật Bản, trong khi các loài động vật khác đƣợc coi là ký chủ chung mạt (dead-end host) đối với virut này. Diệt muỗi (thả cá diệt ấu trùng muỗi,...) và gây miễn dịch chủ động cho lợn có thể cắt đƣợc vòng cảm nhiễm bệnh viêm não Nhật Bản. Đối với mầm bệnh dại ổ chứa mầm bệnh chủ yếu ở châu Âu là cáo, ở Bắc Mỹ là chồn (skunk) còn ở Nam Mỹ là dơi hút máu, cho nên ở mỗi vùng có vòng cảm nhiễm với những đặc trƣng riêng. Do nguồn bệnh là động vật hoang dã nên bệnh dại khó bị chống chế, cho đến nay vẫn còn có khuynh hƣớng lan rộng. VI. Cơ chế và phương thức truyền bệnh 1. Cơ chế truyền mầm bệnh Mầm bệnh cảm nhiễm không chỉ thích nghi với việc ký sinh trong cơ thể động vật mà còn sự dịch chuyển từ động vật này sang động vật khác. Sự thích nghi của một vi sinh vật đối với sự dịch chuyển và thay đổi cá thể ký chủ với cơ chế lây truyền tƣơng ứng cũng thiết yếu đối với việc duy trì tính liên tục của quá trình dịch. Thậm chí khi có mặt của cả nguồn mầm bệnh cảm nhiễm và động vật thụ cảm cũng không xuất hiện đƣợc dịch nếu không đƣợc bảo đảm quá trình truyền vi sinh vật mầm bệnh từ động vật bệnh (hay mang trùng) sang động vật khỏe tức là không thực hiện quá trình truyền mầm bệnh. Động lực tự nhiên làm cho loài vi sinh vật mầm bệnh dịch chuyển đƣợc từ động vật nguồn bệnh sang động vật cảm thụ khỏe đƣợc thiết lập
  16. 79 trong quá trình tiến hóa lâu dài bảo đảm trƣờng hợp lây nhiễm mới và tính liên tục của quá trình dịch gọi là cơ chế truyền mầm bệnh. Cơ chế này bao gồm ba khâu (ba pha): 1) thải mầm bệnh từ cơ thể, 2) tồn tại của mầm bệnh, trong đa số trƣờng hợp, ở ngoại cảnh, và 3) xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể ký chủ mới. Trong đa số trƣờng hợp các bệnh truyền nhiễm cơ chế truyền mầm bệnh diễn ra ở dạng ba pha này. Đặc điểm của quá trình truyền lây phụ thuộc vào chỗ khu trú của mầm bệnh (ổ bệnh, hay ổ cảm nhiễm) trong cơ thể động vật bị cảm nhiễm cũng nhƣ những con đường bài xuất mầm bệnh, còn sự xâm nhập vào cơ thể mới đƣợc thực hiện thông qua cửa cảm nhiễm. Có những vi sinh vật bệnh nguyên có tính đơn hƣớng, chúng chỉ ký sinh ở một tổ chức hoặc một cơ quan, chẳng hạn vi khuẩn bệnh Johne (á lao) chỉ ký sinh ở đƣờng ruột. Nhƣng cũng có những bệnh nguyên có tính đa hƣớng và tính toàn hƣớng, ký sinh ở nhiều hoặc ở tất cả các tổ chức, chẳng hạn, virut dịch tả lợn, lở mồm long móng, vi khuẩn lao,... Tuy nhiên, chỉ những vị trí khu trú của vi sinh vật trong cơ thể khả dĩ làm quá trình lây truyền mầm bệnh từ con vật bệnh sang vật lành là có ý nghĩa dịch học. Nơi khu trú đầu tiên của mầm bệnh trong cơ thể là kết quả hợp quy luật tiến hóa thích nghi của vi sinh vật đối với sự ký sinh và thay đổi ký chủ. Tính đặc hiệu của nơi cƣ trú đầu tiên quyết định con đƣờng bài xuất của mầm bệnh khỏi cơ thể cũng nhƣ quy định ngoại cảnh mà mầm bệnh bài xuất ra cũng nhƣ lây nhiễm con vật mới. Vì vậy, trong những điều kiện giống nhau cơ chế truyền lây đƣợc thực hiện theo một dạng thức của riêng mỗi loại mầm bệnh và điều đó bảo đảm tính đặc hiệu của dạng cơ chế truyền lây đối với mỗi loại bệnh. Trong cơ chế truyền lây các bệnh, các pha bài xuất và xâm nhập của mầm bệnh là những bƣớc diễn ra chỉ trong thời gian ngắn. Pha bài xuất mầm bệnh từ một cơ thể có thể gắn với quá trình sinh lý (hô hấp, tiết nƣớc bọt, đi tiêu, đi tiểu, bào mòn biểu bì,...) cũng nhƣ các hiện tƣợng bệnh lý (ho, chảy nƣớc mũi, nôn, tiêu chảy, sẩy thai,...) và còn cả quá trình hút máu của các động vật chân đốt. Sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh vào cơ thể động vật thụ cảm có thể diễn ra bằng hai con đƣờng: 1) qua các cơ quan hình ống thông với bên ngoài, và 2) qua da và lớp niêm mạc. Do đó, mặc dù vi sinh vật bệnh nguyên rất đa dạng, vị trí khu trú đặc hiệu của mầm bệnh chỉ giới hạn ở bốn hệ thống của cơ thể: tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp và các lớp che phủ cơ thể. Do đó, với bệnh truyền nhiễm của động vật, nhìn chung ngƣời ta phân biệt bốn phương thức truyền lây mầm bệnh cảm nhiễm: phân - miệng, hô hấp, nhờ vector truyền lây và tiếp xúc.
  17. 80 Pha tồn tại của mầm bệnh bên ngoài cơ thể ở ngoại cảnh là giai đoạn dài nhất và quan trọng nhất trong cơ chế lây truyền. Ở môi trƣờng ngoài, mầm bệnh không chỉ đƣợc bảo tồn mà còn cùng với các vật thể của giới tự nhiên vô sinh và hữu sinh (yếu tố chuyển vận) có thể dịch chuyển và phát tán trên diện tích rộng lớn. Hơn nữa, việc lây truyền một vi sinh vật bệnh nguyên từ cơ thể cảm nhiễm sang cơ thể khỏe trong đa số trƣờng hợp bệnh đƣợc thực hiện cùng với sự tham gia trực tiếp của môi trƣờng ngoài bị ô nhiễm. Vì vậy các yếu tố môi trƣờng tham gia vào quá trình truyền lây của mầm bệnh đƣợc gọi là các yếu tố truyền lây. Chúng bao gồm các vật thể vô sinh ô nhiễm các vi sinh vật bệnh nguyên (thức ăn, nƣớc, đất, không khí, chuồng trại, dụng cụ chăm sóc, xác chết,...). Mặc dù nhiều vi sinh vật bệnh nguyên không có khả năng tồn tại lâu ngoài môi trƣờng, thời gian sống còn của chúng ở đó có thể đo bằng ngày, nhƣng cũng có vi sinh vật mầm bệnh tồn tại ở ngoại cảnh hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm. Điều này phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố mà trƣớc hết là vào bản chất của mầm bệnh và đặc điểm của môi trƣờng ngoài. Trong phạm trù các yếu tố truyền lây mầm bệnh ngƣời ta chú trọng đặc biệt đến các vật chuyển tải mầm bệnh, tức là các vật trung gian sống là các động vật chân đốt (côn trùng và ve bét), cũng nhƣ các động vật hoang dã và gia súc. Việc vận chuyển có thể đƣợc thực hiện một cách cơ giới, nếu giữa vật mang và mầm bệnh không có mối liên hệ sinh học nào, và một cách đặc hiệu nếu có sự liên hệ sinh học nhất định (sinh sản của ký sinh vật trong động vật mang). Trong trƣờng hợp cuối (vận chuyển đặc hiệu) các vật trung gian sinh học còn đƣợc gọi là ổ chứa mầm bệnh. Trong cơ chế lây truyền mầm bệnh cảm nhiễm có thể có sự tham gia của một hoặc một số yếu tố truyền lây. Tổ hợp các yếu tố tham gia vận chuyển mầm bệnh và tƣơng tác của chúng với động vật thụ cảm khỏe xác định đặc điểm quá trình dịch gọi là các con đường truyền lây, hay con đƣờng phát tán mầm bệnh cảm nhiễm. Trong dịch học ngƣời ta phân biệt, một cách có cơ sở khoa học và có định hƣớng ứng dụng, bốn con đƣờng phát tán mầm bệnh cảm nhiễm: 1) nhờ tiếp xúc, 2) qua không khí, 3) thức ăn và nƣớc, và 4) nhờ vector truyền lây. Sự lây lan của mầm bệnh từ cơ thể bệnh sang cơ thể khỏe không những là một yếu tố cần thiết của quá trình sinh dịch, mà còn cần thiết cho sự tồn tại của mầm bệnh trong thiên nhiên. Quá trình lây lan đó của bệnh cảm nhiễm do những quy luật nhất định chi phối, Gramasepsky gọi là quy luật truyền bệnh hay cơ chế truyền mầm bệnh, nhƣ sau:
  18. 81 Nơi khu trú đầu tiên có tính chất chuyên biệt đối với từng loại mầm bệnh và ảnh hưởng đến cách bài mầm bệnh ra khỏi cơ thể. Nếu nơi khu trú đầu tiên là phổi thì mầm bệnh chỉ bài ra ngoài theo nƣớc mũi, đờm; nếu là ruột thì bài ra ngoài theo phân; nếu là máu thì chỉ ra khỏi cơ thể nhờ chân đốt hút máu. Cách bài xuất mầm bệnh ra ngoài cơ thể quyết định nơi tồn tại của mầm bệnh ở ngoại cảnh: nếu theo đờm, nƣớc bọt thì mầm bệnh sẽ lƣu lại ở không khí, nếu theo phân thì sẽ lƣu lại ở đất, nƣớc, cây cỏ,... Nơi tồn tại và khu trú đầu tiên của mầm bệnh quyết định phương thức mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể con vật khỏe. Thí dụ, nếu mầm bệnh ở trong không khí thì nó phải xâm nhập qua đƣờng hô hấp để về phổi. Phương thức xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể phải đảm bảo cho nó tới được nơi khu trú đầu tiên. 2. Phương thức truyền bệnh Căn cứ vào nơi khu trú đầu tiên và chủ yếu là cách truyề n mầm bệnh, có thể chia ra hai nhóm phƣơng thức truyền bệnh: trực tiếp và gián tiếp. 2.1. Phƣơng thức truyền bệnh trực tiếp Trong phƣơng thức truyền bệnh này mầm bệnh đƣợc truyền thẳng từ con bệnh sang con khỏe không phải thông qua các nhân tố trung gian. Ví dụ, trong bệnh dại phƣơng thức truyền lây chủ yếu là trực tiếp. Trong phƣơng thức này, tính chất dây chuyền giữa các con vật là yếu tố quan trọng duy trì dịch. Mầm bệnh của những bệnh lây truyền trực tiếp thƣờng là loại ký sinh bắt buộc, không thể sinh sản trong môi trƣờng nhân tạo đƣợc, và thƣờng có sức đề kháng kém với ngoại cảnh. 2.2. Phƣơng thức truyền bệnh gián tiếp Trong phƣơng thức này, mầm bệnh phải thông qua các nhân tố trung gian mới truyền đƣợc bệnh. Có những bệnh bắt buộc phải lây gián tiếp, ví nhƣ các bệnh ký sinh trùng đƣờng máu. Trong các bệnh truyền gián tiếp, mầm bệnh có sức đề kháng tƣơng đối cao với ngoại cảnh, và có thể tồn tại một thời gian trên các nhân tố trung gian truyền bệnh. Sức đề kháng của mầm bệnh càng cao thì thời gian tồn tại của nó trong ngoại cảnh càng lâu, khả năng sinh dịch càng kéo dài, nhƣng không ồ ạt, ác liệt, mà âm ỉ, dịch có tính chất địa phƣơng. Sức đề kháng của mầm bệnh càng yếu thì
  19. 82 thời gian sống ở ngoại cảnh càng ngắn nhƣng dịch thƣờng càng ồ ạt, lan rộng và biểu hiện rõ ràng. Căn cứ vào cơ chế truyền bệnh, có thể chia ra bốn phương thức truyền bệnh chính. - Truyền theo đường tiêu hóa hay đường phân - miệng: Nơi khu trú đầu tiên của mầm bệnh là ruột. Mầm bệnh bài ra ngoài theo phân, sống tạm thời ở ngoại cảnh trên các nhân tố trung gian nhƣ thức ăn, nƣớc uống, đất, ruồi nhặng,... rồi xâm nhập vào đƣờng tiêu hóa chủ yếu theo thức ăn, nƣớc uống. Đƣờng truyền bệnh này là đƣờng từ phân tới miệng. - Truyền theo đường hô hấp: Nơi khu trú đầu tiên là phổi. Mầm bệnh theo nƣớc bọt, nƣớc mũi bắn ra ngoài, sống trong không khí, rồi lại xâm nhập vào phổi khi con vật hít phải, đƣờng truyền bệnh này còn gọi là đƣờng không khí - mũi. - Truyền bệnh theo đường máu: Nơi khu trú đầu tiên là máu. Mầm bệnh từ máu súc vật bệnh, đƣợc các động vật chân đốt trung gian hút máu hút ra theo máu vào ống tiêu hóa của chúng, sống một thời gian dài trong những động vật chân đốt này và đƣợc truyền vào máu súc vật khỏe khi chúng bị động vật chân đốt mang mầm bệnh chích hút. Đƣờng truyền bệnh này là đƣờng máu - động vật chân đốt hút máu - máu. - Truyền bệnh qua da và niêm mạc: Do có nhiều nơi khu trú đầu tiên nên có nhiều đƣờng truyền bệnh và nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh. Dựa vào các phƣơng thức truyền bệnh, ngƣời ta có thể phân loại bệnh truyền nhiễm theo các nhóm bệnh nhất định, và nhờ phân loại theo quan điểm dịch học này chúng ta có thể đề ra những phƣơng hƣớng và các biện pháp phòng trừ thích hợp với từng loại bệnh. 3. Các giai đoạn của quá trình dịch bệnh cảm nhiễm Quá trình dịch có tính quy luật. Bản chất sinh học của quá trình dịch bị chi phối bởi tính đặc hiệu của tác động qua lại của các yếu tố chính của nó. Một quá trình dịch có thể tiếp tục dài bất tận nếu ba khâu của nó là nguồn bệnh, cơ chế truyền lây và động vật thụ cảm tồn tại và tƣơng tác qua lại. Các khâu nêu trên của một chuỗi dịch bảo đảm không chỉ sự xuất hiện mà còn sự phát triển tiếp theo của quá trình dịch, nghĩa là trở thành động lực của quá trình dịch.
  20. 83 Các động lực của một quá trình dịch có những mối tƣơng tác phức tạp đặc trƣng. Chẳng hạn, động vật bị cảm nhiễm khi gây ô nhiễm môi trƣờng tạo điều kiện tiên quyết cho sự thực hiện sau đó của cơ chế truyền lây và làm tăng lƣợng nguồn bệnh mới. Kết quả của quá trình lây nhiễm hàng loạt là một phần động vật trong các điều kiện tự nhiên chết đi còn trong những động vật sống sót phát triển miễn dịch tập đoàn sau cảm nhiễm, theo quy tắc tác động ngƣợc, có tác động giảm hoạt tính của dịch. Điều này hạn chế sự lan truyền tiếp theo hoặc thậm chí làm gián đoạn quá trình dịch trên một lãnh thổ nhất định. Nhƣ vậy, giữa các động lực của một quá trình dịch có mối tác động qua lại chặt chẽ. Trong khi đó, ý nghĩa mỗi khâu trong các khâu của chuỗi dịch trong trƣờng hợp bệnh cụ thể không giống nhau, và là điều cần phải tính đến trong công tác chống dịch. Sự tự điều tiết của một hệ thống sinh học nhƣ một quá trình dịch bảo đảm bởi mâu thuẫn nội tại chủ yếu của nó, và nằm ở chỗ sự tƣơng tác của các động lực là điều kiện bắt buộc tạm thời của sự xuất hiện và nguyên nhân làm yếu hoặc thậm chí làm gián đoạn một quá trình dịch trong một lãnh thổ nhất định. Liên quan với mâu thuẫn này, một quá trình dịch trong một vụ dịch xuất hiện bình lặng thƣờng trải qua một cách có chu kỳ: xuất hiện, lan truyền và ngừng tắt. Tính quy luật của sự xuất hiện của nó cho phép phân chia sáu giai đoạn trong động thái dịch: giữa các dịch, trƣớc dịch, phát triển dịch, cao trào dịch, tắt dịch và sau dịch. Kỳ giữa các vụ dịch (kỳ yên lặng) là khoảng thời gian giữa hai đợt dịch. Giai đoạn này đặc trƣng bởi những trƣờng hợp bệnh riêng rẽ có tác dụng duy trì dịch nhƣng không kéo theo sự tăng trƣởng đột ngột tỷ lệ ca bệnh mới cũng không có sự lan truyền bệnh. Mang trùng và cảm nhiễm không triệu chứng chiếm ƣu thế. Ở nhiều động vật còn mang miễn dịch nhƣng số động vật mẫn cảm tăng dần. Kỳ trước dịch là thời kỳ vẫn duy trì các điều kiện để xuất hiện dịch do động vật mất miễn dịch, do sản sinh động vật non không miễn dịch hoặc/và do nhập thêm vào đàn những động vật mẫn cảm. Đặc trƣng của kỳ này là tăng số lƣợng động vật bệnh tức tăng nguồn bệnh và xuất hiện những trƣờng hợp bệnh có triệu chứng lâm sàng điển hình. Kết cục là thiết lập đƣợc những điều kiện thích hợp đối với sự lây truyền mầm bệnh cảm nhiễm đó. Kỳ phát triển dịch tiếp sau kỳ trƣớc dịch và đặc trƣng bởi các điều kiện thích hợp cho sự lây truyền bệnh và sự chiếm ƣu thế của các dạng bệnh lâm sàng điển hình cấp tính và quá cấp tính. Hoạt tính của các khâu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2