intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hội nhập vào thị trường quốc tế và tiềm năng, thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu

Chia sẻ: Tt Cao | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

62
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

lời mở đầu Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội theo chính sách mở cửa, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “Chiến lược phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn này là hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu”. Việt nam với chính sách đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu. Việt nam hiện...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hội nhập vào thị trường quốc tế và tiềm năng, thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu

  1. lời mở đầu Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội theo chính sách mở cửa, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “Chiến lược phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn này là hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu”. Việt nam với chính sách đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu. Việt nam hiện nay đã là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM... đã ký hiệp định thương mại với Mỹ và cố gắng đến năm 2005 Việt nam sẽ là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Không thể phủ nhận rằng trong thời gian qua, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã và đang góp phần quan trọng giúp cho nền kinh tế Việt Nam từng bước chuyển mình và hội nhập vào với nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong đó luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam đã và đang tăng lên nhanh chóng. Không chỉ tính đến nguồn lực về tài chính mà cả các công nghệ hiện đại cũng được chuyển vào Việt Nam. Trong rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài đó thì công ty TNHH Volex là một điển hình. Đây là một công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, sản xuất xuất khẩu những hàng hoá thiết bị truyền dẫn, là mặt hàng rất mới phục vụ cho thị trường hàng hoá công nghệ thông tin điện tử mà Việt Nam chưa sản xuất được. Theo xu hướng phát triển mạng lưới công nghệ thông tin điện tử như hiện nay thì thị trường Việt Nam cần phải có các mặt hàng đó để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường điện tử viễn thông. Chính vì vậy, vai trò của công ty TNHH Volex là
  2. vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động sản xuất xuất khẩu hàng hoá thiết bị điện của công ty trước hết là để phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước vì đây là sản phẩm mà các công ty trong nước chưa sản xuất được và tiếp sau đó là để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu và đưa ra giải pháp để thúc đẩy hoạt động này phát triển là một vấn đề mang tính cấp thiết đối với công ty hiện nay. Do vậy em đã quyết định chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty TNHH Volex Việt Nam trong tiến trình hội nhập Kinh tế Quốc tế” làm đề tài nghiên cứu cho Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là dựa trên những cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu, cũng nh ư nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty TNHH Volex để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này trong thời gian tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu hàng hoá thiết bị điện của công ty TNHH Volex. Phương pháp nghiên cứu : Đề tài này có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như là phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh phương pháp dự báo. Ngoài lời mở đầu và phần kết luận thì kết cấu nội dung của Chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
  3. Chương 2 : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hó của công ty TNHH Volex Việt Nam trong những năm qua. Chương 3 : Phương hướng, các giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty TNHH Volex Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian có hạn và trình độ nghiên cứu còn có nhiều hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những sai sót và nhược điểm. Vì vậy em kính mong thầy cô và các bạn sẽ có thêm góp ý để đề tài này được hoàn thiện hơn. chương 1 những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 1.1. 1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu. Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với nội thương - hoạt động trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương, hoặc các thành phố trong phạm vi một nước. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động thương mại quốc tế trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động
  4. kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến hàng hoá vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Nó diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gi an và thời gian, có thể diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm, có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn h ướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài và đây được coi là chiến lược quan trọng của công ty. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu như là : + Sử dụng khả năng vượt trội hay những lợi thế của công ty để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá và thu lợi nhuận tối đa.
  5. + Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. + Giảm được rủi ro do có thể tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó. Những điều này luôn nằm trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong thương mại quốc tế. 1.1.2. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế. Các lý thuyết về thương mại quốc tế nhằm giải thích cơ sở hình thành nên hoạt động thương mại giữa các quốc gia, xác định cơ cấu thương mại và lợi ích mà mỗi quốc gia thu được khi tham gia vào thương mại quốc tế. Các quốc gia tham gia vào thương mại với những lợi thế của mình với mục đích thu được thật nhiều những lợi ích từ thương mại. 1.1.2.1. Quan điểm của trường phái trọng thương : Quan điểm của trường phái trọng thương về thương mại cho rằng các quốc gia cần tích luỹ nguồn của cải tài chính, thường là bằng vàng, bằng cách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Quan điểm này cho rằng lượng của cải của một quốc gia là thước đo phúc lợi duy nhất của quốc gia đó. Các quan điểm trọng thương được biểu hiện như sau : Các quốc gia có thể tăng lượng của cải của mình bằng cách duy trì mức thặng dư thương mại - tức khi giá trị xuất khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị
  6. nhập khẩu của quốc gia đó. Thặng dư thương mại có nghĩa là quốc gia thu được nhiều vàng hơn từ xuất khẩu so với lượng vàng phải thanh toán cho nhập khẩu. Thâm hụt thương mại là tình huống ngược lại và xảy ra khi giá trị nhập khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị xuất khẩu của quốc gia đó. Theo quan điểm trọng thương thì quốc gia cần phải tránh tình trạng thâm hụt thương mại bằng mọi giá. Các Chính phủ phải tích cực can thiệp vào thương mại quốc tế để duy trì mức thặng dư thương mại. Quá trình tích luỹ của cải phụ thuộc vào việc gia tăng mức thặng dư thương mại, chứ không nhất thiết phải dựa vào việc mở rộng quy mô hoặc gia tăng giá trị thương mại. Chính phủ có thể đạt được điều này bằng cách cấm nhập khẩu một số mặt hàng, hoặc áp đặt các công cụ hạn chế nhập khẩu như thuế quan và hạn ngạch. Đồng thời, các ngành công nghiệp trong nước được trợ cấp để có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính phủ cũng thường áp dụng biện pháp cấm chuyển vàng bạc tới các nước khác. Các quốc gia theo quan điểm của trường phái trọng thương tìm cách biến các vùng lãnh thổ kém phát triển (các thuộc địa) thành nơi cung cấp nguồn nguyên vật liệu thô rẻ tiền, và đồng thời thành nơi tiêu thụ các thành phẩm với giá cao. Mặc dầu chính sách trọng th ương mang lại nhiều lợi ích cho những quốc gia theo đuổi nó, nhưng chính sách này có rất nhiều mặt hạn chế. Hạn chế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương là ở chỗ nếu tất cả các quốc gia đều tìm cách ngăn cản nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường của mình và đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước khác thì thương mại quốc tế sẽ bị thu hẹp một cách ghê gớm. Ngoài ra, việc nhập khẩu từ các thuộc địa với giá rẻ trong khi xuất khẩu sang các nước đó với giá cao
  7. đã ngăn cản sự phát triển kinh tế ở những nước thuộc địa, từ đó làm giảm sức tiêu thụ hàng hoá ở những nước này. Các quốc gia này còn cho rằng của cải của thế giới là có hạn cho nên sự giàu có của một quốc gia chỉ có thể diễn ra khi ít nhất có một quốc gia khác nghèo đi. Thương mại quốc tế vì vậy được coi là một trò chơi có tổng lợi ích bằng 0. Nhưng thực tế cho thấy rằng các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi ích cho mình, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ dựa vào lượng vàng được tích trữ ở quốc gia đó mà còn dựa trên nhiều nhân tố kinh tế xã hội khác như là văn hoá xã hội, đời sống nhân dân ... 1.1.2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith : Khác với trường phái trọng thương, Adam Smith cho rằng : “sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”. Khả năng của một quốc gia có thể sản xuất một mặt hàng với hiệu quả cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác được gọi là lợi thế tuyệt đối của quốc gia đó. Nói cách khác, với nguồn lực có quy mô như nhau (hoặc nhỏ hơn), một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó có thể làm ra lượng sản phẩm nhiều hơn so với các quốc gia khác. Ông lập luận rằng một nước không nhất thiết phải sản xuất tất cả các mặt hàng tiêu dùng trong nước, mà ngược lại mỗi nước có thể tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và sau đó buôn bán với các nước khác để đổi lấy những mặt hàng mà mình không có lợi thế tuyệt đối. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để
  8. xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước này không sản xuất hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu. Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả sản xuất của mình, các sản phẩm cũng có chất lượng tốt hơn bởi vì người lao động sẽ lành nghề hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ không mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác. Ngoài ra, do làm một công việc lâu dài nên người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp làm việc tốt hơn. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: thương mại sẽ giúp các bên cùng giầu có lên nghĩa là cùng thu được lợi ích. Do cả hai nước đều có lợi từ việc trao đổi nên thương mại quốc tế là trò chơi có tổng lợi ích lớn hơn 0. Lý thuyết này cũng phê phán quan điểm cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải sử dụng các chính sách hạn chế thương mại để gia tăng của cải cho quốc gia. Ngược lại, các quốc gia cần mở cửa và trao đổi thương mại để người dân của mình có thể mua được nhiều hàng hoá hơn và với giá rẻ hơn. Mặc dầu cho thấy thương mại là có lợi cho các bên tham gia, nhưng lý thuyết lợi thế tuyệt đối không trả lời được câu hỏi : điều gì xảy ra nếu một nước không có được lợi thế tuyệt đối về bất kì mặt hàng nào ? Liệu thương mại có mang lại lợi ích hay không, hay thậm chí th ương mại có thể diễn ra được hay không ? Trên thực tế, thương mại quốc tế có thể diễn ra mà không nhất thiết đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có lợi thế tuyệt đối so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Để trả
  9. lời những câu hỏi này cần xem xét một khái niệm rộng hơn, cụ thể là khái niệm về lợi thế so sánh như sau : 1.1.2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo : Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho quốc gia mình. Nói cách khác trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước. Để thấy được vai trò của lý thuyết lợi thế so sánh trong việc giải thích thương mại quốc tế, ta có thể xem xét ví dụ sau : Giả sử rằng quốc gia A có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai mặt hàng gạo và chè so với quốc gia B. Bảng dưới đây cho thấy số lượng lao động mà mỗi nước sử dụng để sản xuất gạo và chè. Quốc gia A chỉ cần 1 lao động để sản xuất 1 tấn gạo, cần 2 lao động để sản xuất 1 tấn chè. Quốc gia B cần 6 lao động để sản xuất 1 tấn gạo và 3 lao động để sản xuất 1 tấn chè. Hiệu quả sản xuất gạo và chè của mỗi quốc gia có thể được biểu thị lại như sau : Quốc gia A : 1 lao động = 1 tấn gạo hoặc 1/2 tấn chè.
  10. Quốc gia B : 1 lao động = 1/6 tấn gạo hoặc 1/3 tấn chè. Như vậy với mỗi lao động được sử dụng thì quốc gia A đều sản xuất được nhiều gạo và chè hơn quốc gia B, hay nói cách khác quốc gia A có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng. Mặc dầu không thể sản xuất gạo hoặc chè với hiệu quả cao hơn so với quốc gia A, nhưng quốc gia B có thể sản xuất chè một cách hiệu quả hơn so với sản xuất gạo. Lại giả sử rằng hai nước A và B quyết định trao đổi với nhau theo tỷ lệ 1 tấn gạo = 1 tấn chè. Quốc gia B có thể sử dụng 1 lao động để sản xuất 1/6 tấn gạo. Thế nhưng giải pháp tốt hơn là sử dụng lao động đó để sản xuất 1/3 tấn chè và sau đó trao đổi với quốc gia A lấy 1/3 tấn gạo. Khi đó, nhờ chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi, quốc gia B có được lượng gạo nhiều gấp đôi so với trường hợp tự sản xuất lấy gạo. Quốc gia A cũng thu được lợi ích từ thương mại dẫu cho nước này có lợi thế tuyệt đối kép. Quốc gia A có thể bỏ ra 1 lao động để sản xuất 1/2 tấn chè. Tuy nhiên, tốt hơn là nước này nên sử dụng lao động đó để sản xuất 1 tấn gạo và trao đổi với quốc gia B lấy 1 tấn chè. Khi đó quốc gia A cũng có được lượng chè nhiều hơn hai lần so với trường hợp tự mình sản xuất lấy chè. Như vậy qua ví dụ trên ta thấy được lợi ích của việc trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Sự chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu về những hàng hoá mà mình ít có lợi thế hơn sẽ giúp cho việc sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất các nguồn lực của mỗi nước. Khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt
  11. hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng tất cả các mặt hàng của toàn thế giới sẽ tăng lên, và tất cả các quốc gia sẽ trở nên sung túc hơn. Nhà nước do đó không nên can thiệp sâu vào hoạt động ngoại thương và không nên áp dụng các biện pháp ép buộc cứng nhắc cho hoạt động này. Các quốc gia chỉ nên tìm cách đề ra các biện pháp hợp lý để sử dụng tối ưu nhất các nguồn lực của mình sao cho khi đem trao đổi thì được lợi nhất, đó chính là nội dung cơ bản của lý thuyết lợi thế so sánh. Cho đến nay, hoạt động chuyên môn hoá các mặt hàng mà mình có lợi thế đã được các quốc gia trên thế giới áp dụng một cách triệt để và đã thu được những kết quả tốt. Kết quả là thương mại quốc tế hiện nay đã phát triển rất nhanh và đã đạt được những thành tựu to lớn, đó là sự hình thành các khu mậu dịch tự do về thương mại để khuyến khích trao đổi thương mại, các liên minh về thương mại của khu vực và thế giới. 1.1.3. Các hình thức xuất khẩu. 1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp : Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất khác, sau đó xuất khẩu những sản phẩm đó cho các khách hàng nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các đơn vị kinh doanh thường cao hơn các hình thức khác. Với hình thức này doanh nghiệp đứng ở thế chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi lợi nhuận doanh nghiệp được hưởng hết. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của
  12. mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, tiếp cận thị trường và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Tuy vậy hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn khá lớn để sản xuất, thu mua hoặc có thể gặp rất nhiều khó khăn, rủi ro như : không xuất được hàng hoá, không thu mua được hàng hoá, bị thanh toán chậm, thay đổi tỷ giá hối đoái, lạm phát... Chính vì vậy mà để có thể thực hiện nghiệp vụ này thành công thì doanh nghiệp cần phải có nghiệp vụ ngoại thương cao và có kinh nghiệm xuất khẩu tốt. Khi doanh nghiệp đã có đủ khả năng và kinh nghiệm để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh này thành công thì nguồn lợi mà doanh nghiệp thu về là rất lớn. 1.1.3.2. Xuất khẩu tại chỗ : Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá không nhất thiết phải ra khỏi biên giới quốc gia để đến tay khách hàng. Là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá vẫn trong lãnh thổ quốc gia nhưng vẫn được bán cho các khách hàng nước ngoài. Hình thức này có nhiều ưu điểm và đang phổ biến rộng rãi ở mọi quốc gia. Trước hết là do đặc điểm của nghiệp vụ này là hàng hoá không ra khỏi biên giới quốc gia nên doanh nghiệp xuất khẩu tránh được nhiều rủi ro vì được thực hiện bán hàng hoá ngay trong môi trường quen thuộc nhất. Ngoài ra doanh nghiệp còn giảm được những chi phí về vận chuyển, về nghiên cứu thị trường mới, về thuê đại lý phân phối...và bỏ qua được những hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, bảo hiểm, thủ tục hải quan...
  13. Tuy nhiên hình thức xuất khẩu này thường không chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp vì lợi nhuận thu được là nhỏ. Phần lớn doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường về không gian và tìm kiếm thêm nhiều thị trường mới, bạn hàng mới... Đối với doanh nghiệp có chi nhánh ở nước ngoài, thực hiện kinh doanh ngay tại thị trường đó thì hình thức này lại là phổ biến và hiệu quả. Đó là nhờ vào lợi thế về vị trí, ở ngay thị trường tiêu thụ sẽ giảm thiểu được những chi phí vận chuyển và những thủ tục rườm rà. Nhưng bước đầu để thực hiện được thì doanh nghiệp cũng phải có vốn lớn và có những kinh nghiệm trong việc kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường nước sở tại. 1.1.3.3. Tạm nhập tái xuất : Đây là hoạt động xuất khẩu những hàng hoá mà đã được nhập khẩu trước đó nhưng không qua một công đoạn gia công, chế biến nào. Hoạt động này nhằm thu lợi nhuận thông qua chênh lệch giá cả giữa nhập khẩu (mua) và xuất khẩu (bán). Hình thức này có ưu điểm là ít rủi ro hơn các hình thức khác, dễ thực hiện thành công hơn. Doanh nghiệp không cần phải bỏ ra lượng vốn lớn mà vẫn có thể thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này thường không lâu dài và có quy mô nhỏ hẹp vì nó chỉ thực hiện được ở những thị trường thiếu hàng hóa hoặc không thể sản xuất được hàng hoá đó, thông thường hình thức này diễn ra đối với hàng hoá là nguyên vật liệu.
  14. Doanh nghiệp có thể kết hợp hình thức kinh doanh này với các hình thức khác để tăng thêm lợi nhuận. 1.1.3.4. Xuất khẩu gia công : * Xuất khẩu gia công uỷ thác : Theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp khác gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Các bước tiến hành của hình thức này như sau : + Ký kết hợp đồng gia công với bên nhận gia công. + Ký kết hợp đồng gia công với bên đặt gia công và nhập nguyên liệu từ bên đặt ra công về. + Giao nguyên vật liệu đó cho bên nhận gia công (theo hợp đồng đã thoả thuận). + Nhập lại thành phẩm từ bên gia công và xuất lại cho bên dặt gia công hàng hoá đó. + Thanh toán chi phí gia công cho đơn vị gia công (do bên đặt gia công trả) và được hưởng phí ủy thác gia công. Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh những vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn. Song hình thức này lại đòi hỏi rất nhiều thủ tục xuất và nhập do phải xuất và nhập
  15. nhiều lần. Do đó để thực hiện tốt hình thức này các doanh nghiệp cần phải có những cán bộ kinh doanh kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Hình thức xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài cũng tương tự như hình thức này, chỉ khác là đơn vị sản xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm theo đúng yêu cầu của đơn đặt hàng. * Gia công quốc tế : Đây là hình thức trong đó bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, sau đó xuất khẩu để giao lại thành phẩm và nhận thù lao gọi là phí gia công. Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đây là hình thức được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ tận dụng được nguồn nhân công với giá rẻ, cũng nh ư tận dụng được nguồn nguyên vật liệu sẵn có của bên nước nhận gia công. Như vậy hình thức này đã góp phần tạo ra sự kết hợp và chuyên môn hoá giữa các quốc gia trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhờ đó thương mại ngày càng phát triển với trình độ cao hơn. 1.1.3.5. Xuất khẩu uỷ thác : Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò là trung gian xuất khẩu, làm thaycho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phẩn trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận.
  16. Các bước tiến hành của hình thức này : + Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị sản xuất trong nước. + Ký hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng. + Nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị trong nước. Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt không cần vốn để mua hàng. Phương thức thanh toán được đảm bảo, có ít thủ tục và thường là có sự tin cậy lẫn nhau. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay thì hình thức này ít được các doanh nghiệp lựa chọn, bởi vì hình thức này tạo ra sự phụ thuộc của doanh nghiệp xuất khẩu với các trung gian nhận uỷ thác xuất khẩu do tình trạng thiếu thông tin và làm hạn chế khả năng của doanh nghiệp. Hầu hết các doánh nghiệp sẽ lựa chọn hình thức xuất khẩu trực tiếp, nhưng trong một số hoàn cảnh cụ thể thì doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức xuất khẩu uỷ thác để đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu của mình khi vào một thị trường mới. 1.1.3.6. Buôn bán đối lưu : Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương với giá trị lô hàng đã xuất. Mục đích xuất khẩu không phải là thu lợi nhuận mà nhằm thu về một lượng hàng tương đương với giá trị của lô hàng đã xuất. Ngoài ra còn là nhằm tránh các rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối.
  17. Có rất nhiều loại hình buôn bán đối lưu như sau : + Hình thức hàng đổi hàng là việc hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng hiện đại như ngày nay thì người ta có sử dụng tiền để thanh toán một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới 3 - 4 bên tham gia. Ưu điểm cảu hình thức này là các bên không cần phải thông qua các giai đoạn trung gian bán hàng- nhận tiền- mua hàng mà có thể đổi hàng lấy hàng mà mình cần thiết luôn. Tuy nhiên, hình thức này thường chỉ áp dụng khi các bên tham gia trao đổi đã có sự tin tưởng lẫn nhau hoặc đã tạo được uy tín cho nhau về sản phẩm đem trao đổi, chính vì vậy mà hình thức này còn có nhiều hạn chế. + Hình thức bù trừ là hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao và hàng nhận, đến cuối kỳ hạn hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Đây là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối lưu. Hợp đồng bù trừ thường được ký kết cho thời gian dài ( có khi tới 10 hoặc 20 năm). + Hình thức buôn bán có thanh toán bình hành ( clearing) là việc hai chủ thể của quan hệ buôn bán thoả thuận chỉ định ngân hàng thanh toán. Ngân hàng này mở tài khoản, gọi là tài khoản clearing để ghi chép tổng giá trị hàng giao nhận của mỗi bên. Sau một thời hạn quy định, ngân hàng mới quyết toán tài khoản clearing
  18. và bên bị nợ (tức nhận nhiều mà giao ít) sẽ phải trả khoản nợ bội chi mà mình đã gây ra. + Hình thức mua đối lưu là hình thức một bên sẽ ký kết hợp đồng có thanh toán và cam kết, sau đó một khoảng thời gian nhất định sẽ bán cho bên kia một lượng hàng hoá khác và cũng được nhận tiền thanh toán. Giá trị của hai hợp đồng này không nhất thiết phải bằng nhau, việc trao đổi hàng hoá trong khuôn khổ mua đối lưu được thực hiện trong một thời gian không dài (thường từ 1 đến 5 năm). + Hình thức chuyển nợ (switch) l à bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba để bên thứ ba này trả tiền. Hình thức này đảm bảo cho các công ty, nếu nhận hàng không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình thì có thể bán hàng đó đi. + Hình thức giao dịch bồi hoàn (offset) là việc đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ trong đầu tư hoặc bán sản phẩm). Giao dịch bồi hoàn hiện nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng buôn bán đối lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những ký thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. + Trong việc chuyển giao công nghệ, người ta thường tiến hành nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy-backs) trong đó một bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác, đồng htời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra. 1.1.3.7. Xuất khẩu theo nghị định thư :
  19. Hình thức này thường áp dụng cho xuất khẩu hàng hoá, thường là những hàng trả nợ, được kí theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm là khả năng thanh toán được đảm bảo (do Nhà nước trả cho các đơn vị sản xuất), giá cả tương đối cao nhưng hình thức này ngày nay ít được áp dụng. 1.1.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. * Đối với nền kinh tế quốc dân : Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia. Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển đều chỉ ra rằng, để tăng trưởng và phát triển kinh tế, mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và khoa học công nghệ. Song không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ những điều kiện đó. Hiện nay, các nước đang phát triển đang thiếu vốn và kỹ thuật công nghệ nhưng lao động và nguồn tài nguyên lại rất dồi dào. Các nước phát triển thì lại dồi dào về vốn và khoa học công nghệ nhưng lại thiếu lao động và tài nguyên thiên nhiên. Để giải quyết tình trạng này, họ buộc phải nhập từ bên ngoài những yếu tố sản xuất trong nước chưa sản xuất hoặc gặp khó khăn trong sản xuất, có nghĩa là cần phải có một nguồn ngoại tệ chính là khoản ngoại tệ thu về từ xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động chính tạo ra tiền đề cho nhập khẩu, tạo điều kiện cho quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện qua một số khía cạnh sau :
  20. + Xuất khẩu đảm bảo cho khả năng phát triển kinh tế : ở những nước đang phát triển, một trong những vật cản chính của quá trình tăng trưởng kinh tế là sự thiếu vốn. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là chủ yếu nhưng mọi cơ hội tiếp nhận đầu tư vay nợ nước ngoài chỉ tăng lên khi chủ đầu tư hay người cho vay nợ nhận thấy khả năng xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn chính đảm bảo khả năng trả nợ. + Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tế cho thấy rằng xuất khẩu góp phần làm dịch chuyển nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển. Chẳng hạn như là khi ngành điện tử viễn thông phát triển, các ngành liên quan như linh kiện điện tử, sản phẩm truyền dẫn... cũng phát triển theo. Xuất khẩu mở rộng thị trường sản phẩm, tạo lợi thế nhờ quy mô. Xuất khẩu là phương tiện tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất mới. Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của các quốc gia bởi khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Có những sản phẩm mà việc sản xuất từng bộ phận được thực hiện ở những nước khác nhau, vì vậy để có những sản phẩm hoàn chỉnh thì hoạt động xuất khẩu là cần thiết. Mặt khác, thông qua xuất khẩu một nước có thể tập trung vào sản xuất mặt hàng mình có lợi thế để trao đổi lấy thứ mình cần một cách có hiệu quả hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2