intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HỒI SỨC TIM-PHỔI CAO CẤP ADVANCED LIFE SUPPORT : ĐẠI CƯƠNG - Phần 2

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

67
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những nguyên nhân của vấn đề Suy hô hấp có thể là cấp tính hay mãn tính. Suy hô hấp có thể liên tục hay từng hồi và có thể khá nghiêm trọng để gây nên ngừng thở (apnée) và do đó nhanh chóng đưa đến ngừng tim. Một ngừng hô hấp (arrêt respiratoire) thường nhất xuất hiện do một phối hợp của nhiều yếu tố. Ví dụ nơi những bệnh nhân bị suy hô hấp mãn tính, khi bị nhiễm trùng phổi, khi bị yếu cơ hay khi bị găy xương sườn có thể đưa đến sự kiệt...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HỒI SỨC TIM-PHỔI CAO CẤP ADVANCED LIFE SUPPORT : ĐẠI CƯƠNG - Phần 2

  1. HỒI SỨC TIM-PHỔI CAO CẤP ADVANCED LIFE SUPPORT : ĐẠI CƯƠNG Phần 2 II/ NHỮNG VẤN ĐỂ HÔ HẤP 1/ Những nguyên nhân của vấn đề Suy hô hấp có thể là cấp tính hay mãn tính. Suy hô hấp có thể liên tục hay từng hồi và có thể khá nghiêm trọng để gây nên ngừng thở (apnée) và do đó nhanh chóng đưa đến ngừng tim. Một ngừng hô hấp (arrêt respiratoire) thường nhất xuất hiện do một phối hợp của nhiều yếu tố. Ví dụ nơi những bệnh nhân bị suy hô hấp mãn tính, khi bị nhiễm trùng phổi, khi bị yếu cơ hay khi bị găy xương sườn có thể đưa đến sự kiệt quệ, với chức năng hô hấp bị giảm. Nếu sự hô hấp không đủ để đảm bảo một oxygénation thích đáng của máu lưu thông, ngừng tim có thể xảy ra bất cứ lúc nào. a/ Trung tâm chỉ huy hô hấp Một sự giảm áp của hệ thần kinh trung ương có thể làm giảm hay hủy bỏ trung tâm chỉ huy hô hấp (commande respiratoire). Các nguyên nhân
  2. giống với những nguyên nhân gây tắc đường khí do giảm áp hệ thần kinh trung ương. b/ Cố gắng hô hấp Các cơ hô hấp chính là cơ hoành và các có liên sườn. Các cơ liên sườn này được phân bố thần kinh nơi các xương sườn tương ứng và có thể bị bại liệt bởi một thương tổn tủy sống nằm trên mức này. Sự phân bố thần kinh của cô hoành nằm ở mức đốt sống cổ thứ ba, thứ tư và thứ năm. Một hô hấp ngẫu nhiên không thể xảy ra trong trường hợp thương tổn tuy sống cổ nằm trên mức này. Một cố gắng hô hấp không thích đáng, được gây nên bởi một sự yếu cơ hay một thương tổn thần kinh, xuất hiện trong bối cảnh của nhiều bệnh, bao gồm bệnh nhược cơ (myasthénie), hội chứng Guillain Barré, xơ cứng rải rác. Một sự kém dinh dưỡng mãn tính và một bệnh nghiêm trọng mãn tính cũng có thể góp phần vào sự yếu toàn thể. Sự hô hấp có thể bị biến đổi bởi những anomalies restrictives của thành ngực, như tật gù vẹo (cyphoscoliose) nghiêm trọng. Một sự đau đớn gây nên bởi các xương sườn hay xương ức bị gãy có thể ngăn cản những hô hấp sâu và ho. c/ Các thương tổn phổi
  3. Chức năng phổi bị biến đổi nếu có một tràn khí màng phổi hay một tràn máu màng phổi. Một tràn khí màng phổi dưới áp lực sẽ nhanh chóng dẫn đến một sự suy nghiêm trọng của các trao đổi khí, một sự giảm hồi lưu tĩnh mạch và một sự sụt giảm quan trọng của lưu lượng tim. Một bệnh lý phổi nghiêm trọng có thể ngăn cản những trao đổi khí đúng đắn. Những nguyên nhân bao gồm nhiễm trùng, hít dịch, cơn bộc phát của bệnh phế quản-phổi tắc mãn tính (BPCO), hen phế quản, nghẽn mạch phổi, các đụng dập phổi, hội chứng suy kiệt phổi cấp tính (SDRA) và phù phổi. 2/ Nhận biết vấn đề Một bệnh nhân tỉnh táo sẽ kêu vang bị khó thở và âu lo. Hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng thường sẽ phát hiện nguyên nhân gây nên triệu chứng này. Một tình trạng giảm oxy hay tăng thán huyết có thể gây nên một tình trạng dễ bị kích thích, một sự lú lẫn, một tình trạng ngủ lịm (léthargie) và một sự giảm tình trạng tri giác. Xanh tía có thể thấy rõ nhưng thường là một dấu hiệu muộn. Một tình trạng thở nhanh (polypnea) (trên 30/phút) là một chỉ dấu đơn giản và hữu ích của một vấn đề hô hấp. Oxymétrie de pouls là một phương pháp đo dễ dàng và không xâm nhập của một tình trạng oxygénation đầy đủ. Tuy nhiên đó không phải là một chỉ dấu đáng tin cậy của sự thông khí và một khí huyết động mạch sẽ cần thiết để có được những
  4. trị số của PaCO2 và của pH. Một PaCO2 gia tăng và một pH giảm thường là những dấu hiệu muộn nơi một bệnh nhân với những vấn đề hô hấp nghiêm trọng. 3/ Điều trị Phải cho oxy nơi tất cả các bệnh nhân giảm oxy mô và điều trị nguyên nhân gây nên tình trạng này. Thí dụ, phải nghi ngờ một tràn khí màng phổi dưới áp lực nơi một bệnh nhân với bệnh sử bị chấn thương ngực và xác nhận điều đó và những triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng. Nếu tràn khí màng phổi được chẩn đoán, phải giảm ép nó tức thời bằng cách đặt một canule cỡ lớn (14G) nơi khoang liên sườn thứ hai trên đường giữa đòn (ligne médio- claviculaire) (thoracocentèse à l’aiguille). Những bệnh nhân khó thở và sắp trở nên suy kiệt sẽ cần đến một hỗ trợ hô hấp. Một thông khí không xâm nhập với một mặt nạ có thể hữu ích và ngăn ngừa sự cần thiết phải nội thông khí quản và một thông khí cơ học. Đối với những bệnh nhân không thể thở một cách thích đáng, một sự an thần, một nội thông khí quản và một sự thông khí được kiểm soát là cần thiết. III/ NHỮNG VẤN ĐỀ TUẦN HOÀN 1/ Những nguyên nhân của vấn đề
  5. Những vấn đề tuần hoàn có thể được gây nên bởi một bệnh tim nguyên phát hoặc bởi những bất thường tim thứ phát những vấn đề khác. Tim có thể ngừng đột ngột hoặc gây nên một lưu lượng tim không thích đáng trong một khoảng thời gian nào đó trước khi ngừng tim. a/ Những vấn đề tim nguyên phát Nguyên nhân thông hường nhất của ngừng tim đột ngột là một loạn nhịp gây nên bởi hoặc là một thiếu máu cục bộ hoặc là một nhồi máu cơ tim. Một ngừng tim mặt khác có thể gây nên bởi một loạn nhịp do những bệnh tim khác, thí dụ một bloc tim, một điện giật hay vài loại thuốc. Những nguyên nhân của rung thất: - Một hội chứng động mạch vành cấp tính - Một bệnh tim tăng áp - Một bệnh tim do van - Các loại thuốc (chống loạn nhịp, chống trầm cảm ba vòng, digoxine) - Một bệnh tim di truyền như hội chứng QT dài - Một nhiễm toan (acidose)
  6. - Rối loạn điện giải (potassium, magnésium, calcium) - Một hạ thân nhiệt - Điện giật. Một ngừng tim đột ngột có thể xảy ra với sự hiện diện của một bệnh van tim, một suy tim, một chèn ép tim, một vỡ tim, một viêm cơ tim và một bệnh cơ tim phì đại. b/ Những vấn đề tim thứ phát Tim có thể bị ảnh hưởng bởi mọi biến đổi xảy ra ở nơi khác trong có thể. Thí dụ, một ngừng tim có thể xảy ra một cách nhanh chóng sau một ngạt thở do tắc đường hô hấp hay một ngừng thở ngắn (apnée), sau khi xuất hiện một tràn khí dưới áp lực hay sau khi mất máu nghiêm trọng. Một giảm oxy quan trọng và một thiếu máu, một hạ thân nhiệt, một giảm thể tích máu (oligémie) và một choáng nhiễm khuẩn nặng cũng có thể làm xáo trộn chức năng tim và điều này có thể dẫn đến ngừng tim. c/ Nhận biết vấn đề Những dấu hiệu và triệu chứng của các bệnh tim gồm có đau ngực, khó thở, tim nhịp nhanh, tim nhịp chậm, thở nhịp nhanh, hạ huyết áp, sụt
  7. giảm thông máu ngoại biên (thời gian làm đầy mao mạch kéo dài), một rối loạn tri giác và thiểu niệu (oligurie). Hầu hết các trường hợp chết đột ngột do tim xảy ra nơi những người vốn đã có bệnh tim, nhưng có thể đã không được chẩn đoán trước đây. Mặc dầu nguy cơ lớn hơn đối với những bệnh nhân với bệnh tim đã được biết đến, nhưng phần lớn các tử vong do chết đột ngột xảy ra nơi những người không có bệnh. Một bệnh tim không triệu chứng hay im lặng có thể bao gồm một bệnh tim do cao huyết áp (cardiopathie hypertensive), một thương tổn của van động mạch chủ, một bệnh cơ tim (cardiomyopathie), một viêm cơ tim và một bất túc động mạch vành. Vài trường hợp chết đột ngột có thể xảy đến nơi những người không có một tiền sử nào trước đó và với một trái tim có vẻ khỏe mạnh. Nạn nhân thường trẻ, hoạt động và có sức khoẻ tốt. Những yếu tố nguy cơ của bệnh tim gồm có tuổi cao, các tiền sử gia đình nặng nề, sự kiện là một người đàn ông, thuốc lá, bệnh đái đường, tăng lipit-huyết và cao huyết áp. Người ta ghi nhận một sự gia tăng số các bệnh tim di truyền, thí dụ bệnh cơ tim phì đại (cardiomyopathie hypertrophique), bệnh loạn sản sinh loạn nhịp của tâm thất phải (dysplasie arythmogène du ventricule droit) và các hội chứng di truyền của QT dài.
  8. Những biện pháp phòng ngừa có hiệu quả được tập trung vào những bệnh tim nguyên nhân gây ngừng tim. Triệu chứng lâm sàng thông thường của bất túc động mạch vành là đau ngực. d/ Điều trị Điều trị chi tiết các hội chứng động mạch vành cấp tính sẽ được đề cập ở chương 3. Một xử trí tức thời các hội chứng động mạch vành này phải có : - oxy với lưu lượng cao - các dẫn xuất nitré thí dụ như trinitrate glycéryl dưới lưỡi (thuốc viên hay thuốc xịt) - aspirine 300 mg bằng đường miệng, nghiền nát hay nhai cành nhanh càng tốt. - morphine titrée bằng đường tĩnh mạch để ngăn ngừa sự an thần và suy giảm hô hấp. Phần lớn các bệnh nhân bị đau do thiếu máu cục bộ cơ tim sẽ thoải mái hơn khi ở tư thế ngồi. Đôi khi nằm ngửa hoàn toàn có thể gây nên hay làm gia trọng cơn đau ngực. Phải dự kiến thuốc chống mửa, chủ yếu nếu như
  9. có nôn. Những bệnh nhân sống sót một đợt rung thất trước đây có nguy cơ có những đợt rung thất khác trừ phi nếu một điều trị phòng ngừa được thực hiện. Những bệnh nhân này có thể được hưởng một can thiệp động mạch vành qua da (angioplastie percutanée), một bắt cầu động mạch chủ-vành (pontage aorto-coronaire) hay một sự thiết đặt một máy khử rung implantable. Điều trị nguyên nhân hẳn ngăn ngừa một số lớn các ngừng tim thứ phát ; thí dụ, một điều trị sớm nhằm làm tối ưu sự thông máu của các cơ quan sinh tồn, làm giảm nguy cơ tử vong trong trường hợp sepsis nặng. Một hỗ trợ tim mạch bao gồm sự điều chỉnh các rối loạn điện giải hay những rối loạn cân bằng axit-bazo cũng như một điều trị nhằm có được một tần số tim đúng đắn cũng như một nhịp hay một lưu lượng có hiệu quả. Một monitorung tim mạch thích ứng, với sự thiết đặt một cathéter trong động mạch phổi và với một siêu âm tim có thể được chỉ định. Những điều chỉnh thích đáng các áp suất làm đầy tim có thể cần đến một sự làm đầy thể tích và sự sử dụng các thuốc tăng áp mạch (drogues vaso-actives). Các thuốc inotrope và các thuốc co mạch có thể được chỉ định để duy trì một lưu lượng tim và một huyết áp. Trong vài tình huống, một hỗ trợ tuần hoàn cơ học (contrepulsion aortique) hay ghép tim có thể cần thiết.
  10. E/ PHUƠNG PHÁP ABCDE I/ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN Thái độ xử trí một người trong tình trạng nguy kịch luôn luôn giống nhau. Những nguyên tắc là : 1. Sử dụng ABCDE (Airway, Breathing, Circulation, Disability và Exposure) để đánh giá và điều trị bệnh nhân. 2. Thực hiện một thăm khám lâm sàng hoàn chỉnh và tái khám đều đặn. 3. Điều trị những vấn đề đe dọa mạng sống trước khi chuyển qua phần tiếp theo của sự đánh giá. 4. Đánh giá hiệu quả của điều trị được áp dụng. 5. Nhận biết những nhu cầu của một sự giúp đỡ bổ sung. Kêu cứu sớm. 6. Sử dụng tất cả các thành viên của kíp hồi sức. Điều này cho phép thực hiện đồng thời những can thiệp khác nhau ví dụ như thăm khám, thiết đặt monitoring, thiết đặt đường tĩnh mạch.
  11. 7. Truyền đạt một cách có hiệu quả. 8. Mục đích của điều trị ban đầu là duy trì bệnh nhân sống và thu được một cải thiện lâm sàng. Điều này sẽ cho phép lợi được thời gian để điều trị sau này. 9. Cần nhớ rằng để một điều trị được hiệu quả có thể cần vài phút. II/ NHỮNG GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN 1. Bảo đảm sự an toàn của nhân viên. 2. Trước hết nhìn bao quát bệnh nhân để xem bệnh nhân có vẻ bị nguy hiểm không. 3. Nơi một bệnh nhân tỉnh táo, hãy hỏi “có mạnh khỏe không?”; nếu bệnh nhân dường như mất tri giác hay bị trụy tim mạch, phải lay bệnh nhân và hỏi “mạnh khỏe chứ?”; nếu trả lời đúng đắn, bệnh nhân có đường hô hấp thông suốt, đang thở và có một sự thông máu não thích đáng. Nếu bệnh nhân chỉ nói bằng những câu ngắn, thì bệnh nhân có thể có những vấn đề hô hấp. Việc bệnh nhân không thể trả lời là một dấu hiệu rõ ràng của một vấn đề nghiêm trọng.
  12. 4. Lấy và theo dõi sớm những tham số sinh tử. Thiết đặt một pulse oxymètre, một monitoring điện tâm đồ và một huyết áp không xâm nhập nơi tất cả các bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch, ngay khi nào có thể được. 5.Thiết đặt một đường tĩnh mạch ngay khi có thể được. Lấy máu xét nghiệm lúc thiết đặt đường tĩnh mạch. A/ AIRWAY Sự tắc các đường hô hấp là một cấp cứu. Phải kêu cứu ngay tức khắc. Một tắc đường hô hấp không được điều trị gây nên giảm oxy mô và có thể gây nên những thương tổn ở não bộ, thận và tim, ngừng tim và chết. 1. Tìm kiếm những dấu hiệu tắc đường hô hấp : - Một sự tắc các đường khí gây nên một cử động nghịch lý của các thành ngực và bụng (respiration à bascule) và sự sử dụng các cơ phụ hô hấp. Một xanh tía trung tâm (cyanose centrale) là một dấu hiệu muộn của tắc các đường khí. Lúc tắc hoàn toàn các đường khí, không có một tiếng động hô hấp nào ở miệng và mũi. Trong trường hợp tắc không hoàn toàn, sự đi vào của không khí bị giảm và thường ồn ào.
  13. - Nơi bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch, một sự suy giảm tri giác thường dẫn đến tắc đường dẫn khí. 2. Điều trị một tắc đường khí như là một cấp cứu : - Kêu cứu ngay. Một tắc đường hô hấp không được điều trị sẽ gây nên giảm oxy mô (PaCO2 thấp) với nguy cơ bị những thương tổn do giảm oxy mô (lésion hypoxique) ở não bộ, thận và tim, ngừng tim và ngay cả tử vong. - Trong tất cả các trường hợp, đòi hỏi những phương pháp đơn giản để mở các đường khí (những thủ thuật khai thông đ ường khí, hút, thiết đặt một canun khẩu hầu hay tỵ hầu). Nội thông khí quản có thể cần thiết trong trường hợp thất bại. 3. Cấp oxy nồng độ cao - Cấp oxy nồng độ cao bằng một mặt nạ với một réservoir. Đảm bảo rằng lưu lượng oxy đầy đủ (thường > 10 L/phút) để ngăn cản không cho réservoir bị xẹp. Nếu khí quản bệnh nhân được nội thông, phải cho oxy nồng độ cao bằng một mặt nạ và quả bóng. - Trong trường hợp suy hô hấp cấp tính, phải duy trì Pa02 ở những trị số bình thường nếu có thể được (khoảng 100 mmHg). Nếu không có khí
  14. huyết động mạch, phải sử dụng pulse-oxymètre để hướng dẫn oxy liệu pháp. Một độ bảo hoà bình thường là 97-100%. Nơi vài bệnh nhân, điều này không thể thực hiện được, do đó sẽ phải chấp nhận những trị số thấp hơn, ví dụ ít nhất trên 60 mmHg hay một độ bảo hòa 90% ở pulse-oxymètre. B/ BREATHING Trong khi đánh giá tức thời tình trạng hô hấp, điều sinh tử là phải chẩn đoán và điều trị ngay những tình huống đe dọa tính mạng, ví dụ cơn hen phế quản nặng, phù phổi, tràn khí màng phổi dưới áp lực, tràn máu màng phổi nặng. 1. Nhìn, nghe, cảm thấy đối với những dấu hiệu cổ điển của suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) : chảy mồ hôi, xanh tía trung tâm, sự sử dụng các cơ phụ hô hấp, thở bằng bụng (respiration abdominale). 2. Đếm tần số hô hấp.Tần số bình thường là 12 đến 20 hơi thở mỗi phút. Một tần số hô hấp tăng cao hay đang gia tăng là một dấu hiệu của suy kiệt hô hấp và có thể báo động rằng bệnh nhân có thể trở nên xấu hơn đột ngột. 3. Đánh giá độ sâu của mỗi cử động hô hấp, loại và nhịp hô hấp và đánh giá xem cử động của lồng ngực có đối xứng mọi phía hay không.
  15. 4. Hãy ghi nhận mọi biến dạng của lồng ngực (điều này có thể làm gia tăng nguy cơ trở nên xấu hơn trong khả năng thở bình thường) ; hãy tìm kiếm những dấu hiệu gia tăng áp lực tĩnh mạch cổ (pression veineuse jugulaire) (ví dụ khi bị hen phế quản thể nặng hay tràn khí màng phổi dưới áp lực ; ghi nhận sự hiện diện của các ống dẫn lưu ngực và đảm bảo rằng chúng thông suốt ; hãy nhớ rằng một sự căng bụng có thể giới hạn các hoạt động của cơ hoành và do đó làm gia trọng tình trạng suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire). 5. Phải ghi nhận nồng độ oxy được thở vào (tính bằng %) được cho nơi mỗi bệnh nhân cũng như Sp02 được đo bởi pulse-oxymètre (bình thường 97-100%). Một độ bảo hòa bình thường nơi một bệnh nhân nhận oxy không nhất thiết chỉ rõ một tình trạng thông khí thích đáng. Pulse-oxymètre phát hiện oxygénation nhưng không thể phát hiện một tăng thán huyết (hypercapnie). Nếu bệnh nhân nhận oxy, Sa02 có thể b ình thường trước một pCO2 rất cao. 6. Phải nghe những tiếng thở của bệnh nhân ở cách mặt bệnh nhân một khoảng cách nhỏ : những tiếng hô hấp thuộc loại gargouillement (tiếng òng ọc) chỉ rõ sự hiện diện của các chất tiết nơi các đường dẫn khí, thường được gây nên do bệnh nhân không có khả năng ho một cách có hiệu quả hay
  16. bệnh nhân không thể thở sâu. Một tiếng thở rít (stridor) hay một tiếng huýt (sifflement) gợi ý một sự tắc bán phần nhưng có ý nghĩa của đường khí. 7. Phải gõ lồng ngực: một sự tăng vang âm (hyperrésonnance) có thể gợi ý một tràn khí màng phổi; một âm đục thường gợi ý một vùng đông đặc phổi hay sự hiện diện của dịch phế mạc. 8. Phải thính chẩn ngực : một tiếng thổi ống (souffle tubaire) chỉ rõ một sự đông đặc phổi (condensation pulmonaire) với các đường hô hấp thông suốt ; những tiếng thở vắng hay giảm gợi ý tràn khí màng phổi hay sự hiện diện của dịch màng phổi hay một đông đặc phổi được gây nên bởi một tắc phế quản hoàn toàn. 9. Phải kiểm tra vị trí của khí quản nơi khoang trên ức (espace sus- sternal) : một sự lệch về một phía chỉ rõ một sự chuyển trung thất (shift médiastinal) (tràn khí màng phổi, xơ hóa phổi hay dịch màng phổi). 10. Phải ấn chẩn thành ngực để tìm kiếm một khí phế thủng dưới da hay những tiếng lạo xạo (gợi ý tràn khi màng phổi cho đến khi có bằng cớ ngược lại). 11. Điều trị đặc hiệu của một thương tổn hô hấp tùy thuộc chủ yếu vào nguyên nhân của nó. Tuy nhiên mỗi bệnh nhân trong tình trạng nguy
  17. kịch đều phải nhận oxy. Đối với những bệnh nhân bị suy phổi mãn tính tắc (BPCO), những nồng độ tăng cao của oxy có thể làm giảm áp sự hô hấp.Tuy nhiên những bệnh nhân này cũng chịu những thương tổn cơ quan hay một ngừng tim nếu nồng độ oxy trong máu đạt những trị số quá thấp. Đối với những bệnh nhân này, phải nhắm đến một PaO2 và một độ bảo hòa oxy thấp hơn bình thường. Một mục đích đúng đắn sẽ là một PaO2 60 mmHg hay một độ bảo hòa 90-92% khi đo bằng oxymètre. 12. Nếu chiều sâu hay tần số của các cử động hô hấp của bệnh nhân được đánh giá là không thích đáng hay không có, phải sử dụng một mặt nạ với ballon hay một thông khí bằng mặt nạ bỏ túi (ventilation au masque de poche) để cải thiện oxygénation và sự thông khí trong khi gọi giúp để có được một ý kiến chuyên khoa hơn. C/ TUẦN HOÀN Đối với tất cả các cấp cứu nội khoa và ngoại khoa, phải dự kiến giảm thể tích máu như là nguyên nhân nguyên phát của choáng, cho đến khi có bằng cớ ngược lại. Trừ phi có những dấu hiệu hiển nhiên của một nguyên nhân tim, phải thực hiện một làm đầy tĩnh mạch (remplissage intraveineux : bù dịch) đối với mỗi bệnh nhân với đầu chi lạnh và tim nhịp nhanh. Nơi những bệnh nhân ngoại khoa, phải loại bỏ nhanh chóng một xuất huyết
  18. (được thể hiện ra ngoài hay xuất huyết nội). Phải nhắc lại rằng những vấn đề hô hấp, như tràn khí màng phổi dưới áp lực, cũng có thể ảnh hưởng lên tình trạng tuần hoàn của bệnh nhân. 1/ Hãy nhìn sắc màu của các bàn tay và của các ngón tay : Chúng màu xanh, hồng, tái hay xuất mồ hôi ? 2/ Đánh giá nhiệt độ của các chi bằng cách sờ vào các bàn tay của bệnh nhân : chúng lạnh hay nóng ? 3/ Đo thời gian làm đầy mao mạch (temps de remplissage capillaire). Đè da trong 5 giây trên lòng móng ở mức tim (hay đúng ở phía trên) với một sự đè đủ để làm trắng lòng của móng tay. Phải đo thời gian cần thiết để da trở lại màu của da lân cận sau khi đã thôi đè ép. Trị số bình thường thường dưới 2 giây. Một thời gian làm đầy mao mạch kéo dài gợi ý một tình trạng thông máu ngoại biên không thích đáng. Những yếu tố khác (một môi trường lạnh, một sự chiếu sáng không đầy đủ, tuổi cao) cũng có thể kéo dài thời gian làm đầy mao mạch. 4/ Đánh giá tình trạng của các tĩnh mạch : chúng có thể hơi cương máu (turgescent) hay xẹp khi có giảm thể tích máu. 5/ Đếm tần số mạch của bệnh nhân (hay tốt hơn là tần số tim).
  19. 6/ Ấn chẩn các mạch ngoại biên và trung tâm, đánh giá sự hiện diện, tần số, chất lượng, tính chất đều đặn và đối xứng của chúng. Các mạch trung tâm khó bắt gợi ý một lưu lượng tim rất bị suy giảm trong khi một mạch nhảy (pouls bondissant) có thể gợi ý một sepsis. 7/ Đo huyết áp của bệnh nhân. Ngay cả trong tình trạng choáng, huyết áp có thể bình thường, bởi vì các cơ chế bù có thể làm gia tăng sức cản ngoại biên, đáp ứng lại một sự giảm của lưu lượng tim. Một huyết áp trương tâm thấp gợi ý một sự giãn động mạch (thí dụ choáng phản vệ hay sepsis). Một áp suất mạch (pression de pouls) hẹp (hiệu số giữa huyết áp thu tâm và trương tâm ; bình thường giữa 25-45 mmHg) gợi ý một sự co mạch động mạch (choáng do tim hay giảm thể tích) và có thể xảy ra với một loạn nhịp nhanh. 8/ Thính chẩn tim. Có một tiếng thổi hay một tiếng cọ ngoại tâm mạc hay không ? Những tiếng tim có khó nghe hay không ? Tần số tim đ ược cảm nhận có tương ứng với mạch được ấn chẩn hay không ? 9/ Tìm kiếm những dấu hiệu khác của suy tim, như một sự giảm của tình trạng tri giác và, nếu bệnh nhân được đặt ống thông tiểu, một sự thiểu niệu (thể tích nước tiểu < 0,5 ml/kg/giờ).
  20. 10/ Tìm kiếm một cách cẩn thận những dấu hiệu xuất huyết ngoại, từ vết thương hay ống dẫn lưu hay những bằng cớ xuất huyết bị che dấu (ngực, trong phúc mạc, sau phúc mạc hay tiêu hóa). Những trường hợp mất máu trong ngực, trong bụng hay khung chậu có thể quan trọng, mặc dầu các ống dẫn lưu trống rỗng. 11/ Điều trị đặc hiệu một trụy tim mạch tùy thuộc vào nguyên nhân của nó nhưng phải bao gồm một sự làm đầy thể tích (remplissage volémique), một sự kiểm soát các nơi xuất huyết và sự tái lập thông máu nơi các mô. Phải tìm kiếm những dấu hiệu gợi ý một tình huống đe dọa tức thời mạng sống, ví dụ một chèn ép tim, một xuất huyết ồ ạt hay dai dẳng, một choáng nhiễm khuẩn và phải điều trị một cách khẩn cấp. 12/ Thiết đặt ít nhất một đường tĩnh mạch cỡ lớn (14 hay 16G). Sử dụng những cathéter lớn và ngắn, bởi vì chúng cho phép lưu lượng máu chảy cao nhất. 13/ Lấy máu để làm bilan máu thường quy (huyết học, sinh hóa, đông máu, cấy máu và tính tương hợp của máu) trước khi tiêm truyền tĩnh mạch dịch.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2