intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hướng dẫn phân tích những đoạn trích chính của "Truyện Kiều"

Chia sẻ: Phương Thanh đỗ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

167
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hướng dẫn phân tích những đoạn trích chính của "Truyện Kiều" giới thiệu tới người đọc hướng dẫn chi tiết các nội dung chính của một số đoạn trích tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du trong chương trình văn học THPT. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hướng dẫn phân tích những đoạn trích chính của "Truyện Kiều"

  1. 1 trao duyen Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta phải đứng trước những sự lựa chọn khắc nghiệt :Chữ Tình và chữ Hiếu. Tuy nhiên công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả ,bởi vậy nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy, người ta vẫn quyết định chọn chữ Hiếu để trả ơn bố mẹ. Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ Hiếu lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn bù đắp cho tình yêu dang dở của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích “trao duyên” thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân ….. Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ : Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất : cậy và chịu. Cậy không chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân. “Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào nói được : Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh  tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu trao cho em chỉ là sự nối tiếp, chỉ là chắp mối tơ thừa mà thôi. Mặc em ở đây có thể hiểu là Kiều phó thác cho em, gắn trách nhiệm ở em phải cứu vãn tình yêu đó. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa. Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”. Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục : Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai
  2. chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót : Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc ? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy. Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em : Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung. Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được ? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất. Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai : Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi :Hồn còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình :Dạ đài cách mặt  khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan.
  3. (8 câu cuối):Kiều trở về với thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng Hướng đến tương lai đã không cho Kiều một sự giải thoát, quay về thực tại Kiều càng đau đớn bội phần. Tiếng nói thành tiếng than khóc, nói với em mà như nói với chính mình, rời quên hẳn xung quanh chỉ còn hướng đến người yêu đang vắng mặt: « Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vài ái ân ! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi ! Phận sao phận bạc như vôi ! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây » “Bây giờ” của Kiều là “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, là“phận bạc như vôi”, là“nước chảy hoa trôi”. Hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” và một loạt những thành ngữ, từ ngữ dân gian cho thấy sự ý thức sâu sắc về bi kịch hiện tại của Thuý Kiều. Thực tại đó hoàn toàn đối lập với quá khứ hạnh phúc, đẹp đẽ không sao kể xiết mà nàng đã có “muôn vàn ái ân”. Quá khứ giờ đây đã trở thành niềm khát khao mãnh liệt của Kiều. Bi kịch vì vậy càng sâu sắc. – Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” thể hiện sự day dứt, giày vò, biểu hiện tình yêu cao đẹp Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời cũng cho thấy một nhân cách vị tha trong sáng. – Khi bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm, Kiều thốt lên tiếng kêu xé lòng: “Ôi Kim lang! hỡi Kim lang / Thôi thôi tiếp đã phụ chàng từ đây.”+ Thán từ “ôi, hỡi” như một tiếng nấc đau thương.+ Lời gọi được lặp lại một cách trang trọng “Kim lang” như một lời kêu cứu tuyệt vọng. + Nhịp thơ 3/3 ở câu trên như một tiếng nấc nghẹn ngào, trong khi đó, điệp từ “thôi” vừa thể hiện sự dằn vặt, vừa xác nhận sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài như một tiếng than vọng mãi không lời đáp, tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Đoạn trích kết lại bằng tiếng kêu xé lòng trong tột cùng đau đớn của Thúy Kiều khi nàng ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của mình. Kiều thương mình thì ít, thương cho chàng Kim thì nhiều. Nàng đã nhận hết mọi trách nhiệm của sự tan vỡ tình duyên về mình. Có thể nói, trong đau khổ tột cùng Kiều vẫn sáng lên vẻ đẹp của một nhân cách cao thượng: ân cần, chu đáo với Kim Trọng mà vẫn tự trách, nàng quên đi bất hạnh của mình để cảm thông cho người khác. Đây là giây phút độc thoại thật nhất, nhân bản nhất. Tổng kết: – Trao duyênlà âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Thuý Kiều. Đoạn trích khắc hoạ những phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều: son sắt, thuỷ chung, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha, quên mình vì hạnh phúc của người khác. Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã tỏ ra thấu hiểu, cảm thông với những khổ đau và khát vọng tình yêu của nàng Kiều – một con người vừa cao cả về mặt đạo đức, vừa nhân bản về mặt con người. – Tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật (vừa sâu sắc, vừa phức tạp, vừa tinh tế), sử dụng ngôn từ chọn lọc, hàm súc đã được khẳng định qua đoạn trích.
  4. 2 nỗi thương mình ruyện Kiều là một kiệt tác văn học mà Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam. Đoạn trích “Nỗi thương mình” kể về nỗi đau đớn tủi nhục trong quãng đời của Kiều khi bị Sở Khanh lừa gạt, Tú Bà đầy vào chốn lầu xanh. Cảnh Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà thật đau đớn, cùng cực: “Biết bao bướm lả ong lơi; Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm Dập dìu lá gió cành chim Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”. Các ẩn dụ: “Bướm lả ong lơi”, “cuộc say”, “trận cười”, các thi liệu, điển tích: “lá gió cành chim”, Tống Ngọc, Trường Khanh đã được sử dụng để diễn tả hiện thực chốn lầu xanh. “Biết bao” là không đếm được, “suốt đêm” là sự triền miên vô tận. Kiều bị ném vào bùn nhơ, bị chà đạp không thương tiếc. Kiều thương cho số phận mình phải đem tài sắc làm thú vui cho những khách làng chơi: Phân tích “Nỗi thương mình” – văn lớp 10 “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Từ một cô gái khuê các, Kiều bị xã hội nhơ bẩn, vì tiền đẩy vào cảnh cùng cực. Nhớ lại những năm tháng êm đềm bên cha mẹ càng làm Kiều thêm tủi nhục: “Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”. Sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ kết hợp thủ pháp phân hợp từ ngữ: “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”, nhà thơ đã cực tả nỗi tụi nhục của một người con gái bị đẩy vào
  5. vũng bùn hôi tanh nhơ nhớp. Nhưng Kiều vẫn ý thức được nhân phẩm của mình: “Mặc người mưa Sở mây Tần Những mình nào biết có xuân là gì? Trong chốn lầu xanh, cuộc sống của nàng Kiều không hề thiếu thốn điều gì. Cảnh thì có: Đòi phen gió tựa hoa kề, Nửa rèn tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”. cầm kì thi họa – những thứ Kiều thích và đam mê thì đầy đủ: “Đòi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”. nhưng Kiều hoàn toàn dửng dưng, thờ ơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Phong cảnh mang màu tâm cảnh. Cảnh mang tình người. Nàng cảm thấy đau khổ, tê tái vì thấy nhục nhã ê chề khiến cho mọi cảnh vật đều nhuốm màu đau thương như nàng đang chịu đựng. Bất kẻ lúc nào, dấu đắng cay hay sung túc, nàng vẫn luôn ý thức được nhân phẩm của bản thân. Giữa chốn lầu xanh, Kiều vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Nàng không thể tìm lấy cho riêng mình một người tri âm, tri kỉ để tâm sự. Trong mọi cuộc vui, nàng chỉ có thể “vui gượng”: “Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó mặn mà với ai?” Dẫu sống trong cảnh lầu xanh nhơ bẩn, Kiều vẫn giữ cho mình những phẩm chất cao quý của người con gái: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bơi thê, người đọc càng thấy thương cảm và trân trọng nàng. 4 chi khi anh hung Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến “Truyện Kiều” – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Truy ện Kiều xu ất s ắc không ch ỉ vì ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn vì ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Nguy ễn Du ph ản ánh một hiện thực xã hội phong kiến đương thời – cái xã hội hủ nát đã vùi d ập chính ông – hay vùi dập số phận nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Điều ấy khi ến Truy ện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Và khi đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong c ốt truyện, Nguyễn Du đã làm sáng cái ý chí và hoài bão l ớn lao c ủa nh ững b ậc anh hùng th ời bấy giờ. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng. Đoạn trích Chí khí anh hùng thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường m ười lăm năm. Kiều bị lừa và rơi vào lầu xanh lần thứ hai, cuộc đời nàng hầu như bế t ắc hoàn toàn thì đột nhiên Từ Hải xuất hiện đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người rất tâm đầu ý hợp, sống hạnh phúc. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cu ộc s ống êm đềm bên c ạnh nàng kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm “Hương l ửa đang n ồng” đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích này cho thấy chí khí của Từ Hải.
  6. Đoạn trích được viết theo thể thơ lục bát và đạt đến trình độ mẫu mực, vận dụng thành công các điển cố, điển tích trong văn học Trung Hoa, xây dựng nhân vật s ống động, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt, giàu giá trị biểu cảm. Thân bài: 4 câu thơ đầu - Khát vọng, tư thế của Từ Hải: Từ đầu, Từ Hải đã được miêu tả là một anh hùng hảo hán, “đầu đội trời, chân đạp đất”, nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ Hải thực sự là một người đa tình. Tuy là đa tình, nh ưng chàng vẫn không hề quên mình là một tráng sĩ. Trong thời phong ki ến, thân nam nhi ph ải có chí khí, phải vùng vẫy giữa đất trời cao rộng. Chính vì vậy, dù cho cu ộc s ống v ới nàng Ki ều đang êm đềm hạnh phúc, thì chàng vẫn nghĩ đến chí hướng của bản thân, thoắt đã lại “rộng lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời bi ển mênh mang, và l ập t ức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong để tiếp t ục sự nghi ệp l ớn lao đang còn dang dở: “Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.” Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con ng ười c ủa s ự nghiệp anh hùng, là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ “thoắt” th ể hiện quy ết định nhanh chóng, dứt khoát cùa chàng. “Động lòng bốn phương” là th ấy trong lòng náo n ức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng ch ẳng th ể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quy ết định l ại càng nhanh. M ột thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là b ởi khát v ọng t ự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. 12 câu tiếp theo - Cuộc chia li của Từ Hải và Thúy Kiều: Sau khi nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của người Anh hùng - Từ Hải - là l ời đối thoại của vợ chồng Kiều. Đầu tiên, khi Từ Hải ra đi, Kiều biết rằng chàng sẽ lâm vào tình cảnh b ốn b ể không nhà. Kiều muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm s ự v ới Từ H ải: “Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”. Đạo Nho quy định người phụ nữ có “tam tòng”: Ở nhà theo cha, lấy ch ồng theo ch ồng, chồng chết theo con. Chữ “tòng” trong trong câu này không ch ỉ có nghĩa “xu ất giá tòng phu” mà còn nói lên được bổn phận làm vợ, muốn theo Từ Hải để trọn đạo vợ chồng. Ch ữ “tòng” có ngụ ý Kiều muốn chia sẻ những khó khăn thử thách, đồng lòng tiếp sức, mu ốn cùng được gánh vác với Từ Hải – chồng mình. Nàng “một lòng xin đi” theo chàng, th ể hi ện s ự b ịn rịn, níu kéo, không muốn xa chồng. Thế nhưng, chàng đã đáp lại rằng: “Từ rằng: “Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?” Từ Hải đã có ý trách khéo Kiều, lời trách đầy thương yêu trìu mến: Hai ta đã hiểu h ết lòng dạ nhau sâu sắc, thế nhưng dường như nàng vẫn chưa thấu hi ểu tâm can c ủa ta, sao l ại phải giữ mãi nếp suy nghĩ của người “nữ nhi” bình thường!? Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua s ự bịn r ịn c ủa một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn l ập công, có được s ự
  7. nghiệp vẻ vang rồi mới đón Kiều về nhà trong danh dự: “Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.” Từ Hải có lý tưởng công danh lớn lao. Những khát vọng của chàng đều phi th ường. Ph ải có được “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường”. Khi ra đi chỉ có ng ựa và một thanh kiếm, nhưng Từ Hải tin rằng mình sẽ có nhiều “tinh binh”, s ẽ tr ở v ề trong hào quang chiến thắng, đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng h ết lòng yêu m ến và trân trọng. Chàng muốn có công danh, có được sự nghiệp vẻ vang rồi m ới tính chuy ện r ước Kiều về nhà chồng trong danh dự. Chàng nghĩ rằng, có làm được nh ư v ậy thì m ới x ứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, sự trông cậy của người vợ tương lai. Từ “mặt phi thường” cho thấy sự tự tin, kiêu hãnh của Từ Hải. Đây không ch ỉ là l ời riêng c ủa Từ Hải mà còn là cái nhìn đầy trân trọng và tự hào của Nguyễn Du. “Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì!” Hiện thực trong đời con nhà lính là “bốn bể không nhà”, T ừ đã giải thích cho Kiều hi ểu. Nàng đi theo ta chỉ làm ta thêm vướng bận. Gian nan vừa mới b ắt đầu, m ọi th ứ ch ưa đâu vào đâu. Từ Hải khuyên Kiều nên hãy chịu khó chờ đợi: “Chầy chăng là một năm sau vội gì!” Chàng khẳng định với Kiều bằng một thái độ quyết tâm, tự tin về sự nghi ệp trong t ương lai. Chàng có niềm tin sắt đá rằng chỉ cần trong khoảng một năm, chàng sẽ nhanh chóng l ập được công lớn và trở về thật vẻ vang. Qua đó, ta thấy Từ Hải có lí tưởng cao cả, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của mình. 2 câu cuối - Hình ảnh Từ Hải dứt áo ra đi: Từ Hải đã “dứt áo ra đi” với một thái độ vô cùng cương quyết. Khẳng định phong thái r ất mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong giây phút li bi ệt. Không hề dùng d ằng, vương vấn, không bi lụy hay quyến luyến như những cuộc chia tay khác: “Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương c ổ điển, th ường t ượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi th ường, mu ốn làm nên s ự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng c ủa Từ H ải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn d ặm trên cao. Không gian xung quanh – rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mênh mang đến cùng tr ời cuối b ể – như khắc họa thêm vào bóng lưng quyết liệt, dứt khoát của chàng. Chàng nh ư hòa vào v ới trời đất, chàng như trở nên khổng lồ – vì ý chí và hoài bão – vươn đến t ận vũ tr ụ xa xôi. Kết bài: Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải. Từ Hải là một vị anh hùng đầy phóng khoáng, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm, có lý t ưởng công danh l ớn; có s ự r ạch
  8. ròi giữa sự nghiệp và tình cảm cá nhân. Từ Hải là hình ảnh thể hi ện m ạnh m ẽ ước m ơ công lý trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Là hiện thân cho gi ấc m ơ t ự do, công lý c ủa Nguy ễn Du. Nguyễn Du đã miêu tả hành động và cử chỉ của Từ Hải mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát bằng các từ ngữ: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, d ậy đất, phi th ường, v ội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa…, các điển cố, điển tích và cả xây dựng th ời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…cùng biện pháp miêu tả có khuynh hướng lý tưởng hóa để nâng cao tầm vóc của Từ Hải, biến Từ H ải thành m ột hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ và sinh động. 4 mã giam sinh mua kiều 1.Vịtríđoạntrích: ­   Nằm   ở   đầu   phần   thứ   hai   (“Gia   biến   và   lưu   lạc”). ­ Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của   cải bị  cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị  lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra,   đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này  mới xong”.Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ  với Kim Trọng để  bán mình   chuộc   cha   và   em   ra   khỏi   chốn   lao   tù. ­ Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu  cho cung đàn bạc mênh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. 2.   Bố   cục   đoạn   trích:   2   phần: ­ Phần 1: 10 câu đầu: ( Từ đầu đến …”giục nàng kíp ra” ): Sự xuất hiện của Mã Giám Sinh. ­ Phần 2: Đoạn còn lại: Cảnh mua bán người. II – Đọc – hiểu đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều 1.   Chân   dung   Mã   Giám   Sinh: Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư  luận cả  một vùng rộng lớn vì không ai   không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ  người   mai   mối   dẫn   đến   nhà   để   cưới   nàng   làm   vợ   lẽ. Một điều dễ  nhận thấy trong bút pháp tả  người của Nguyễn Du là khi tả  những nhân vật  chính diện ( như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ; còn  tả những nhân vật phản diện ( như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút  pháp tả thực. Qua công thức này,người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái  độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó. a.   Trong   lễ   vấn   danh: ­   Về   lai   lịch   và   cách   ăn   nói: Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu,   chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ  biết hắn là người từ  phương xa tới(“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả  lời cộc lốc, không có   chủ ngữ, không thèm thưa gửi: “Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh” – Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm   Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ  cung cấp được một thông tin nhỏ  là hắn mang họ  Mã.  Còn tất cả  đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh” là tên gọi chung của các sinh viên  trường Quốc tử  giám chứ  không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai   biết   hắn   ở   chỗ   nào,   gia   thế   ra   sao?
  9. ­> Cách nói năng của Mã đã bộc lộ  một phần về  con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là  nho   nhã,   thanh   lịch   của   một   chàng   “giám   sinh”,hạng   người   có   học. ­   Về   ngoại   hình,   hành   động: + Nguyễn Du chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã: Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai   lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần   trưng diện, cũng thiếu tự  nhiên, “Hai chữ“bảnh bao” thường dùng để  khen áo quần trẻ  em   chứ ít dùng cho người lớn”(Trần Đình Sử). Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ  ngoài nhân vật,   tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã.   Quý thầy cô giáo và các em học sinh có thể tham khảo đầy đủ tài liệu này và xem thêm các   tài liệu khác trong bộ sưu tập Soạn bài Mã Giám Sinh mua Kiều trích trong Truyện Kiều  của Nguyễn Du. Hoặc download về làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác dạy và   học ngày càng hiệu quả.  5 kiều ở lầu ngưng bích Đoạn trích: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH - Truyện Kiều * Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng ch ơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn. * Kết cấu đoạn trích : 3 phần + Sáu câu đầu : hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều. + Tám câu tiếp : nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng. + Tám câu cuối : tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn c ảnh vật. * Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích : - Giá trị nội dung "Kiều ở lầu Ngưng Bích": miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. - Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong "Truyện Kiều". PHÂN TÍCH: 1/ Hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều thể hiện qua 6 câu thơ đầu: - Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân). - Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”.
  10. Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc b ầu bạn, không cả bóng người. - Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó di ễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều. - Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được. 2/ Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm (8 câu tt): * Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, nhưng thật ra lại là rất hợp lý. Kiều bán mình cứu cha và em là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng cắn rứt khôn nguôi. * Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách th ể hi ện cũng khác nhau: + Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can. + Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. => Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn c ảnh của nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thuỷ chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
  11. 3/ Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Nghệ thuật tử cảnh ngụ tình: - Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều – Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc hoạ tâm trọng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. - Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn. - Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngáng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có c ả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng. Cảnh 1: Buồn trông cửa bể chiều hôm, .........Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu. Cảnh 2: Buồn trông ngọn nước mới ra, ...................Hoa trôi man mác biết là về đâu? Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn b ởi nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị dập vùi ra sao. Cảnh 3: Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu, ........................Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ "rầu rầu", "xanh xanh" - sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn đâu cái "xanh tận chân trời" như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Cảnh 4: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh ...........................Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
  12. Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn "gió cuốn mặt duềnh" làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh "ầm ầm tiếng sóng" ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". - Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tờt cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". =>Tóm lại: Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2