intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:39

40
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm hướng dẫn học sinh cách thức rèn luyện dạng đề cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Cung cấp thêm cho các đồng nghiệp, đặc biệt các em học sinh cùng những người quan tâm những dạng đề thi cảm nhận một đoạn trích văn xuôi trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và các bài đọc - hiểu văn bản truyện ngắn và bài làm văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

  1.                                 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ ­­­���­­­ BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN                          Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích        văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)                                                Người thực hiện: Cao Thị Phương Lan                        Môn: Ngữ văn ­ Mã môn: 02.51                       Trường THPT Trần Phú                                 1
  2.                                                                                             Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN                          Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích        văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)                                      Người thực hiện: Cao Thị Phương Lan                        Môn: Ngữ văn ­ Mã môn: 02.51                       Trường THPT Trần Phú 22
  3.                                           Vĩnh Phúc, năm 2020   MỤC LỤC TRANG I. Lời giới thiệu 4 II. Tên sáng kiến 4 III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 4 IV. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 4 V. Mô tả bản chất của sáng kiến 4 1. Về nội dung của sáng kiến 4 1.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp và giới  5 hạn đề tài. 1. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề 5 1.3. Thực trạng của vấn đề 6 1.4. Các biện pháp phát triển năng lực cảm thụ văn học nhằm nâng  7 cao hiệu quả tìm hiểu nội tâm nhân vật trong truyện ngắn 1.5. Luyện đề 8 VI. Những thông tin cần được bảo mật 27 VII. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 27 VIII. Đánh giá lợi ích thu được 28 IX. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc  32 áp dụng sáng kiến lần đầu X. Kết luận và kiến nghị 32 3
  4.                                          BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. Lời giới thiệu  1. Lí do chọn đề tài ­Trước hết do những thay đổi của kì thi THPT QG:  Đổi mới thi là bước  quan trọng trong đổi mới giáo dục. Song những thay đổi gần đây của Bộ  trong việc tổ  chức thi THPT quốc gia luôn luôn có sự  đổi mới trên nhiều  phương diện từ hình thức thi, cách thức ra đề thi, thời gian thi,… Trong đó, sự  điều chỉnh trong môn thi có liên quan đến bộ môn Ngữ văn. Đề  thi môn Ngữ  văn luôn có sự thay đổi trong một số năm gần đây và dạng đề cảm nhận một  đoạn trích là dạng phổ  biến (kì thi THPT QG năm học 2016 ­ 2017, 2018 ­   2019). ­ Do đặc trưng của bộ  môn học với những đổi mới về  phương pháp:   Nếu trước đây, học văn chỉ đơn thuần là thụ động, một chiều thì những năm  gần đây môn Ngữ  văn hướng tới cho học sinh cơ  hội khám phá bản thân và  thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, sẻ  chia, có cá tính  và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử  nhân văn; bồi  dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, ý thức về  cội   nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá. Ngoài các năng lực chung, chương trình môn Ngữ văn tập trung giúp  học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mỹ. Đặc biệt, mục tiêu và phương pháp dạy học ngữ văn phải thay đổi theo  hướng mới. Văn học tập trung phát triển phẩm chất và năng lực. Năng lực  ngữ văn thể hiện rõ nhất ở việc học sinh (HS) đọc, viết, nói và nghe như thế  nào.  Với những đổi mới đó, cách ra đề  thi THPT QG cũng hướng học sinh   44
  5. vào những năng lực vừa nêu trên. Điều đó đòi hỏi, GV giảng dạy cần có sự  định hướng, rèn luyện kĩ năng cho HS sao cho HS trong quá trình học tập và  dự thi đạt kết quả cao nhất. Về phía HS, trước những đoạn trích văn xuôi, HS  nếu thực sự  không có năng khiếu, năng lực sẽ  rất khó triển khai, thậm chí  không có gì để viết do học sinh chưa có năng lực cảm thụ, chưa biết phân tích  nội tâm, nhiều bài văn sa vào tóm tắt tác phẩm, kể lại về cuộc đời nhân vật. Trước thực trạng đó, bản thân tôi sau nhiều năm đứng lớp 12 đã rút ra   một số kinh nghiệm về ôn thi dạng đề này và đã đạt được những thành công   nhất định. Có thể nói, dự án dạy học này thực sự có ý nghĩa trong quá trình ôn  thi của học sinh trước kì thi THPT QG. II. Tên sáng kiến Rèn  luyện kĩ năng cảm  nhận một  đoạn trích văn xuôi qua truyện  ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)  III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến  Thuộc lĩnh vực giáo dục, bộ môn Ngữ văn 12. IV. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử       Bắt đầu từ tháng 1 năm học 2017 ­ 2018 đến tháng 1 năm 2020.  V. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Về nội dung của sáng kiến  1.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp và giới hạn  đề tài 1.1.1. Mục đích nghiên cứu       ­ Hướng dẫn học sinh cách thức rèn luyện dạng đề cảm nhận một đoạn  trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).          ­ Cung cấp thêm cho các đồng nghiệp, đặc biệt các em học sinh cùng  những người quan tâm những dạng đề thi cảm nhận một đoạn trích văn xuôi   trong tác phẩm  Vợ  chồng A Phủ  (Tô Hoài) và các bài đọc ­ hiểu văn bản  truyện ngắn và bài làm văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự nói chung. 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu ­ Tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). ­ Các dạng bài tập cảm nhận một đoạn trích văn xuôi.  1.1.3. Phương pháp nghiên cứu           ­ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết           ­ Phương pháp khảo sát, điều tra           ­ Phương pháp đọc sáng tạo           ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp           ­ Phương pháp so sánh, đối chiếu  1.1.4. Giới hạn đề tài ­ Từ mục tiêu nghiên cứu tôi đã lựa chọn tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ”  của Tô Hoài. Đây là tác phẩm tiêu biểu và có vị  trí quan trọng trong chương  trình Ngữ văn 12.  ­ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 12B, 12H khóa học 2019 ­   5
  6. 2020 tại trường THPT Trần Phú. 1. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề Để  cảm nhận được một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi, giáo viên  cần nắm được những hiểu biết cơ bản về lí luận văn học như: tác phẩm văn  học là gì? Thế nào là truyện ngắn và đặc trưng của thể loại truyện ngắn, để  rồi từ đó có thể cảm nhận được một đoạn trích văn xuôi. 1.2. 1. Truyện ngắn và đặc trưng của truyện ngắn a. Khái niệm truyện ngắn Cũng như  hội họa, ca nhạc,  điêu khắc…  văn học  là  một môn nghệ  thuật. Đối tượng của  văn học  là con người ­ con người trong học tập, lao   động, chiến đấu, con người trong tình yêu và những mối quan hệ xã hội khác,  con người trong không gian thời gian với thiên nhiên, vũ trụ. Nói  văn học là  nhân học, đúng thế. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn  phải nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát  vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự  đa dạng, phong phú. Đặc biệt thể loại truyện ngắn mang những đặc trưng cơ  bản đó. Vậy, truyện ngắn là gì? Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về truyện   ngắn. Theo từ  điển Tiếng Việt:  Truyện ngắn là tác phẩm văn học miêu tả   tính cách nhân vật và diễn biến của sự  kiện thông qua lời kể  của nhà văn.   Truyện có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh, tính cách, một   mẩu trong cuộc đời của nhân vật.  b. Đặc trưng thể loại truyện ngắn      Truyện ngắn là một tác phẩm văn xuôi tự sự, có khuôn khổ ngắn, ít nhân  vật, ít sự  kiện, nhà văn thường tập trung vào những tình huống đặc biệt để  làm nên một lát cắt của cuộc sống, qua đó khám phá, phát hiện, giải mã cuộc   sống. ­ Dung lượng ngắn: Không đơn thuần là chữ nghĩa ngắn mà cái chính là cách  nắm bắt, thể  hiện cuộc sống theo đặc trưng truyện ngắn: nhà văn nắm lấy  một hiện tượng, một nét bản chất của cuộc sống, thể  hiện nó một cách cô  đọng, đầy tính nghệ thuật và mang ấn tượng sâu đậm.  ­ Tình huống: Vì truyện ngắn không có sức mạnh như tiểu thuyết hay truyện  dài nên nhà văn phải tìm một lát cắt của cuộc sống. Lát cắt đó là tình huống  truyện.  Tình huống truyện hoàn cảnh xảy cụ  thể  xảy ra câu chuyện, được  làm nên bởi một sự kiện mà ở đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và chủ đề  của truyện, tư  tưởng của tác giả  cũng được thể  hiện rõ nét nhất. Nhà văn  Nguyễn Minh Châu đã gọi tình huống là cái khoảnh khắc chứa đựng cả  đời   người. ­ Có 3 loại tình huống:  + Tình huống hành động. + Tình huống tâm trạng. + Tình huống nhận thức. 66
  7. Các tình huống kể trên chỉ là sự phân chia tương đối. Một truyện ngắn có thể  có một hoặc nhiều tình huống. ­ Truyện ngắn còn có đặc trưng là chất thơ. ­ Nhân vật và đặc điểm của nhân vật trong truyện ngắn: Trong truyện ngắn   thường ít nhân vật. Hình tượng nhân vật trong truyện hiện lên dần dần qua  các chi tiết cụ  thể  trong suốt quá trình đọc tác phẩm. Nhìn chung đặc điểm  tính cách của nhân vật được thể hiện qua các khía cạnh hình dáng bên ngoài,   gương mặt, dáng dấp; lời nói, cách nói, cử chỉ; thế giới nội tâm; quan hệ của   nhân vật với các nhân vật khác; cảnh bên ngoài, môi trường sống.  1.2.3. Ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn   xuôi qua Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).  HS được rèn các kĩ năng: ­ Kĩ năng tự học ­ Kĩ năng đọc hiểu ­ Kĩ năng khám phá ­ Kĩ năng sáng tạo ­ Kĩ năng so sánh ­ Kĩ năng cảm thụ ­ Kĩ năng đáng giá   … 1.3. Thực trạng của vấn đề. Văn học là một bộ môn nghệ thuật vì vậy cần có sự cảm nhận tinh tế,  tâm hồn rung cảm, biết cảm thu, so sánh,… chứ không đơn thuần là một môn   học khô khan, thụ  động, máy móc. Vì thế, ít nhiều một số  quan niệm chưa   đúng về bộ môn học. Trước thực tế đó, nhằm hạn chế những lỗ hổng trong   chương trình dạy và học văn  ở  trường THPT, học chỉ tóm tắt lại tác phẩm,   viết văn là sự  tái hiện chứ  không có cảm xúc, … học sinh học không hứng   thú, cũng không chịu đọc hết tác phẩm hoặc có đọc thì qua loa, đại khái, chỉ  nắm sơ  lược về  cốt truyện, chưa chú ý đến diễn biến nội tâm nhân vật,  những chi tiết, hình  ảnh, ngôn từ, tín hiệu nghệ  thuật nhằm diễn tả  nội   dụng,… nên tôi đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng cho các em.         Để  góp phần giải quyết thực trạng trên, vấn đề  đặt ra với người giáo  viên dạy Văn là cần phải có những phương pháp điều chỉnh, với HS phải   nắm vững kĩ năng cảm thụ  một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi,… Vợ  chồng   A   Phủ  (Tô   Hoài)   là   một   trong   những   tác   phẩm   hay   và   nằm   trong   chương trình thi THPT QG của HS vì thế tôi tập trung rèn cho HS tốt kĩ năng   cảm thụ những đoạn trích tiêu biểu có chiều sâu về giá trị  nội dung và nghệ  thuật. 1.4. Các biện pháp rèn kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi * Mục tiêu cần đạt: ­ Nắm vững những kiến thức về tác giả: + Những yếu tố về quê hương, gia đình là cái nôi hình thành nên tâm hồn, tư  7
  8. tưởng của nhà văn. Bản thân tác giả với những tài năng nổi trội, trái tim giàu  tình thương, những xúc cảm,… sẽ   ảnh hưởng đến tư  tưởng của tác giả  và  thai nghén, hình thành trong tác phẩm. ­ Nắm vững những kiến thức về tác phẩm: + Hoàn cảnh sáng tác + Xuất xứ + Giai đoạn văn học ­ Đọc diễn cảm. ­ Nắm khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật ­ Xác định được các đoạn trích tiêu biểu, trọng tâm. ­ Tìm hiểu nhân vật (lai lịch, biến cố, số phận, vẻ đẹp,…) * Kĩ năng viết bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi ­ Kết cấu: 3 phần (Mở bài, thân bài với những luận điểm nào? Kết bài,..) ­ Mở bài:  + Giới thiệu tác giả/tác phẩm. + Nêu vấn đề cần nghị luận: Giới thiệu đoạn trích. ­ Thân bài: Bước 1. Khái quát tác phẩm trước đoạn trích đó (phân tích qua khoảng 7­8  dòng). Nếu là đoạn đầu thì bỏ qua.  (Ví dụ 1: cảm nhận đoạn văn về cảnh vượt thác trong Người lái đò Sông Đà  thì phải khái quát, giới thiệu đoạn trước đó với nội dung: sông Đà hung bạo,  hùng vĩ, tính cách nham hiểm, độc dữ của loài thuỷ quái). Sau đó chúng ta nêu  vị  trí đoạn trích cũng như  nêu nội dung đoạn văn ta sắp cảm nhận (nêu khái  quát nhất ­ khoảng 3 ­ 4 dòng) (Ví dụ 2: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân thì phải khái quát  về cuộc đời Mị, sau đó mới dẫn vào đêm tình mùa xuân Mị hồi sinh sức sống   như thế nào?) Bước 2. Cảm nhận vào đoạn chính. ­ Nội dung: + Phải xác định được vị trí đoạn trích trong tác phẩm mới có thể nêu được các  luận điểm về  nhân vật (Ví dụ: A Phủ  trong cảnh phạt vạ  hay A Phủ trong   đêm đông bị trói,…trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn tô Hoài). + Xác lập luận điểm dựa trên nhóm câu có cùng chung nội dung. ví dụ: Trong  tác  phẩm   Người   lái   đò  Sông  Đà  đoạn: “Sông  Đà tuôn  dài, tuôn  dài….đốt  nương xuân”. Nhóm câu này có nội dung nói về hình dáng sông Đà cảm nhận  từ góc nhìn từ trên cao; sông Đà hiện lên như hình ảnh một người đàn bà kiều   diễm. Xác định được nội dung đó thì ta có thể xác lập ra luận điểm: “Nhà văn  chiêm ngưỡng dòng sông  ở  nhiều góc độ. Từ  trên cao nhìn xuống ­ sông Đà  mang vẻ  đẹp trữ  tình lãng mạn và gợi cảm biết bao qua phép so sánh, liên  tưởng độc đáo tới người đàn bà có áng tóc trữ tình mê đắm….”. + Quá trình phân tích nội dung, ta cần bám vào các yếu tố nghệ thuật: Chú ý  các câu văn, ngữ điệu, câu ngắn, câu dài (ví dụ: Đoạn A Phủ trói Mị  câu văn  88
  9. ngắn, dồn dập, …) cách ngắt nghỉ, chi tiết, hình ảnh giàu sức gợi ( Căn buồng   của Mị  hay tiếng sáo gọi bạn tình, giọt nước mắt của A Phủ,…), cách dùng  từ, ... nhất là kiểu câu sử dụng các động từ, tính từ. Kiểu câu phức, câu ghép,  câu đặc biệt… Đoạn văn này được đặt trong chỉnh thể  của tác phẩm nên khi HS cảm nhận   thì phải có sự  liên kết với nội dung chung và giá trị  chung của tác phẩm đó.  Nghĩa là HS phải mở rộng ra toàn tác phẩm (dù đoạn văn đó là chính nhất). ­ Đánh giá đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích: tình huống truyện, trần thuật,  giọng văn, tu từ…. Bước 3: Nhận xét theo yêu cầu của đề  bài (Ví dụ: Nhận xét về  nhân vật  hay nhận xét về tư tưởng của tác giả,…) ­ Kết bài 1.5. Luyện đề I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả ­ Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện  đại. ­ Là nhà văn có quan niệm văn học tiến bộ  và độc đáo, thậm chí quyết liệt.  Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để  nói ra sự  thật. Đã là sự   thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ  thần tượng trong lòng bạn   đọc”. ­ Là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về con người, phong tục tập  quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. ­ Văn Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi vốn sống và vốn từ vựng giàu có. 2. Tác phẩm a.Hoàn cảnh sáng tác ­ Cuối năm 1952, Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đợi trong chiến dịch   Tây Bắc. Ông quyết định đi sâu vào khu du kích của đồng bào các dân tộc  thiểu số trên vùng núi cao sau khi tìm hiểu về tình hình. Chuyến đi kéo dài 8  tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Nhà   văn đã từng tâm sự:  “Cái kết quả  lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8   tháng  ấy là đất nước và con người miền Tây đã để  thương, để  nhớ  cho tôi   nhiều quá, tôi không thê bao giờ quên”. => Hình  ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm đã ám  ảnh và thai nghén cho   tô Hoài viết “Vợ chồng A Phủ”. b. Xuất xứ: Thuộc tập “Truyện Tây Bắc”. c. Vị  trí: Là tác phẩm đặc sắc nhất của tập  “Truyện Tây Bắc”  và đạt giải  Nhất hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 ­ 1955. d. Bố cục: Tác phẩm chia làm 2 phần: + Phần 1: Viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. + Phần 2: Mị và A Phủ trốn đến Phiềng Sa, nên duyên vợ chồng, thao A Châu   làm cách mạng. 9
  10. => Đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm. c. Giá trị * Hiện thực: ­ Tác phẩm phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước giải phóng  (1954), qua đó, nhà văn đã tố  cáo sự  tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi   mà tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra ­ Tác phẩm đã tái hiện bức tranh chân thực về  cuộc sống khổ  đau, bi thảm   của người lao động miền núi: Tiêu biểu là cuộc đời Mị và A Phủ.  ­ Tác phẩm phản ánh hiện thực cơ  bản: Đó là con đường đi từ  phát đến tự  giác của người lao động và sự vươn lên của họ (Dưới ánh sáng tự do và nhân  phẩm) * Giá trị nhân đạo: ­ Niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những số  phận bất hạnh, bị  mất quyền sống (Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ). ­ Qua số  phận bất hạnh của người lao động miền núi, nhà văn lên tiếng tố  cáo gay gắt thế  lực phong kiến miền núi tàn bạo đã đẩy người dân vào tình  cảnh khốn khổ (Sự vùng dậy của ba thế lực thần quyền, pháp quyền, cường  quyền với những hủ tục lạc hậu như cúng trình ma, cho vay nặng lãi cắt cổ,  cách xử  kiện quái gở, vô lí,... đã biến người lao động trở  thành nô lệ  không   công, truyền kiếp cho giai cấp thống trị). ­ Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, trân trọng   khát vọng tự  do hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo   miền núi.  ­ Tác phẩm là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt  là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời nhà  văn đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của   con người dù bị đọa đày trong đau khổ. II. Dạng đề cảm nhận một đoạn trích văn xuôi trong “Vợ chồng A Phủ”   của Tô Hoài  Đề 1: Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã có những suy nghĩ khác nhau.   Những suy nghĩ ấy được thể hiện qua hai đoạn trích sau: Lần thứ nhất : “Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa chui trong xó   cửa.  Ở  cái buồng Mị  nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ  vuông bằng   bàn tay. Lúc nào Mị  trông ra cũng thấy trăng trắng không biết sương hay   nắng. Mị nghĩ rằng cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy bao giờ đến chết thì thôi.” Lần thứ 2: “Bấy giờ Mị ngồi xuống giường trông ra cái ô của mờ  mờ  trăng   trắng ấy. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng   như  những đêm Tết ngày trước. Mị  còn trẻ, Mị  vẫn trẻ  lắm, Mị  muốn đi   chơi… ứa ra.” Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong hai lần miêu tả trên. Từ đó,  anh/chị  nhận xét về sức sống tiềm tàng của Mị. A.Mở bài 1010
  11. ­ Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn  Tô Hoài, Giáo sư  Phong Lê khẳng định:  “Ông thuộc thế  hệ  vàng của văn   chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế  kỉ  20”.   Thành quả của mùa vàng đó phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”. ­ Nêu vấn đề cần nghị luận: Nhân vật Mị là nhân vật tiêu biểu, nhân vật trung   tâm của tác phẩm, trở thành biểu tượng đẹp của người phụ nữ miền núi bị áp   bức, bất công nhưng vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sức sống  ấy đã   được thể hiện ở nhiều hoàn cảnh khác nhau với những chi tiết đặc sắc. Một  trong những chi tiết đó là hình  ảnh căn buồng của Mị   ở  nhà thống lí Pá Tra  với ô của sổ  trăng trắng. Tại căn buồng này, Mị  đã thấy những thay đổi và  chuyển biến trong nhận thức: Nếu lần đầu tiên Mị  bế  tắc:   “Mỗi ngày…thì   thôi” thì lần thứ hai đã thay đổi: “Bấy giờ…muốn đi chơi.” B.Thân bài 1. Khái quát chung Nhân vật Mị  được nhà văn Tô Hoài giới thiệu một cách ấn tượng. Mị  xuất hiện ngay  ở  đầu tác phẩm qua giọng kể  chầm chậm, đượm buồn của  nhà văn. Cách miêu tả tưởng chừng như bình thường nhưng lại hiện lên đầy   đủ những tín hiệu giông bão của cuộc đời Mị. Điều đó hé mở một số phận éo  le, đau khổ thu hút sự chú ý của người đọc. Người đọc băn khoăn tự hỏi trong  khung cảnh nhà giàu ấy tại sao lại xuất hiện con người với số phận đầy uẩn  khúc thế kia? Hỏi ra mới biết đó là Mị ­ con dâu nhà thống lí Pá Tra. Mị là cô   gái trẻ trung, xinh đẹp, yêu tự do, yêu lao động, một con người lương thiện có   tấm lòng hiếu thảo nhất mực. Ở Mị còn có tài thổi lá hay như thổi sáo có biết   bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Vậy mà vì món nợ truyền  kiếp, Mị  phải trả  giá bằng cả  tuổi trẻ  và cuộc sống của bản thân. Với danh   nghĩa là vợ A Sử nhưng thực chất Mị là con dâu gạt nợ, là kẻ đi ở trừ nợ cho   nhà thống lí. 2. Phân tích chi tiết: a.Đoạn trích 1: * Vị trí đoạn trích: Đó là những ngày đầu về làm dâu nhà thống lí. Mị vô cùng  đau khổ, Mị  có ý định tự  tử. Tuy nhiên, vì bổn phận làm con, làm tròn chữ  hiếu, Mị đã quay về làm con dâu gạt nợ, làm kiếp sống nô lệ. Sức sống của  Mị  gần như bị  tê liệt, không chỉ  thông qua những việc làm lặp đi lặp lại mà  còn thể hiện qua ý nghĩ: “Mỗi ngày Mị càng không nói …chết thì thôi”. * Phân tích nội dung:  ­ Các ý nghĩ và hành động của Mị đều lặp đi lặp lại, quẩn quanh, nhàm chán   trong không gian bó hẹp. ­ Cách so sánh:“Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa chui trong xó   cửa”.  Hình  ảnh con rùa gợi sự  chậm chạp, âm thầm, đặc tính của loài rùa  luôn thu mình trong lớp mai rùa kiên cố, né tránh sự giao tiếp với thế giới bên   ngoài. Vậy mà, Tô Hoài còn khắc sâu sự  cách biệt giữa Mị  với thế  giới bên  ngoài qua không gian tồn tại xó cửa ­ một nơi tối tăm, lạnh lẽo, u ám không ai  chú ý. Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà  11
  12. văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi  “không nói”, lầm lụi,  chậm chạp trơ lì như “con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc  tưởng mình là “con trâu con ngựa” ­ nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ  cực vì lao động vất vả thì hình ảnh “con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về  thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Sự vô cảm ấy ngày càng nguy hiểm hơn, tăng  dần qua cụm từ mỗi ngày. ­ Hình  ảnh căn buồng: Để  miêu tả  thêm sự  tù túng, bế  tắccủa cuộc đời Mị,  Tô Hoài đã khắc sâu ấn tượng qua hình ảnh ô cửa sổ   kín mít là kín như bưng,  kín không có ánh sáng mà chỉ có “một lỗ vuông chỉ bằng bàn tay” quá nhỏ bé,  trông ra ngoài không biết là sương hay là nắng. Ở miền núi, sương xuất hiện  vào buổi sáng và chiều, và thường thấy nắng ở buổi trưa mà Mị  không biết là   sương hay nắng có nghĩa là không xác định được thời gian trôi chảy, không  xác định được cuộc sống ở bên ngoài. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời  gian, cuộc sống  ấy không có sắc màu, âm thanh, không có cả  ngắn dài thời  gian, không chia biệt đêm ngày.Cụm từ “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy” diễn  tả thời gian dài với cuộc sống không thay đổi, muôn đời như  thế, từ  lúc làm  dâu nhà thống lí cuộc đời Mị  vẫn diễn ra mịt mờ.  Hình  ảnh căn buồng thật  giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ  ngục thất đang  giam cầm tuổi xuân của Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với   cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng trong  căn buồng Mị  nằm đối lập với một thế  giới bên ngoài lồng lộng của mây  trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp nập  của nhà thống Lí Pá Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu   có nhiều tiền nhiều thuốc phiện nhất vùng mà đó là chỗ   ở  của con  ở, thậm  chí không bằng con ở. Căn buồng ấy giống như một miền đời bị quên lãng.  ­ Ý nghĩ của Mị: Mị  từng muốn chết mà không được, vì cô vẫn còn đó món   nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì  Mị  lại buông trôi, kéo dài mãi sự  tồn tại vật vờ.  “Cứ  chỉ  ngồi trong cái lỗ  vuông  ấy và trông ra đến bao giờ  chết thì thôi”. Đó là một ý nghĩa khiến  người đọc xót xa bởi chẳng còn đâu cô Mị ngày nào biết khóc trước cuộc đời  bất công. Ý nghĩ này hoàn toàn trái ngược với lúc đầu khi Mị về làm dâu nhà  thống lí Pá Tra. Lúc  ấy Mị  đau khổ, phản  ứng dữ  dội, thậm chí muốn ăn lá  ngón tự tử thì đến lúc này diễn biến tâm trạng Mị hoàn toàn khác, Mị đã chấp   nhận số  phận:“Mị  cứ  chỉ  ngồi trong cái lỗ  vuông  ấy”  nghĩa là chấp nhận  cuộc sống cầm tù không đấu tranh không muốn thay đổi, bằng lòng với số  phận nhưng nguy hiểm hơn đó không phải sự bằng lòng một chốc một lát mà   vĩnh viễn cuộc đời mình đến “khi nào chết thì thôi”. => Tâm trạng của Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau, mất hết khái niệm về  thời gian, về cuộc sống. Mị trở nên vô cảm, tê liệt về  tinh thần. Mặc dù nhà  văn không miêu tả hình dáng của Mị trong những câu văn ngắn gọn này nhưng  người đọc vẫn bị  ám  ảnh về  một cô gái  “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn   rười rượi, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. 1212
  13. => Đoạn trích đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn: Tố cáo sâu  sắc chế  độ  cai trị  miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống,   quyền khao khát hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ  tấm lòng xót   xa thương cảm cho số  phận người phụ  nữ  vùng núi cao Tây Bắc khi Cách  mạng chưa về. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo quen thuộc trong văn học. b.Đoạn trích 2: * Vị trí đoạn trích: Nhà  văn Nguyên  Khải   đã  từng có   một  niềm tin  mãnh liệt :“Trên   đời  này   không có con đường cùng, chỉ  có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có   sức mạnh để  vượt qua những ranh giới  ấy”câu nói thật đúng với nhân vật  Mị. ­ Mùa xuân ở Hồng Ngài, thiên nhiên năm ấy có sức làm say lòng nguời: “Gió  thổi vào cỏ  gianh vàng  ửng”,  “Gió và rét rất dữ  dội”.  Sự  xuất hiện của  những chiếc váy  ở  nhiều làng Mèo đỏ: “Những đứa trẻ  cười  ầm trước sân   nhà”, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha từ xa vọng lại. Tâm hồn bắt  đầu hồi sinh, Mị uống rượu và có sự đổi thay trong suy nghĩ. ­ Cũng tại căn buồng quen thuộc Mị năm, tuy nhiên ý nghĩ lần này của Mị đã  thay đổi. Mị  thấy niềm vui trở lại, có ý thức được về  tuổi trẻ, về sức sống,   giá trị của bản thân. Sức sống của Mị đã hồi sinh, vào thời khắc đêm tình mùa  xuân ở Hồng Ngài. ­ Mùa xuân ở Hồng Ngài, thiên nhiên năm ấy có sức làm say lòng nguời: “Gió  thổi vào cỏ  gianh vàng  ửng”, “Gió và rét rất dữ  dội”.   Sự  xuất hiện của  những chiếc váy ở nhiều làng Mèo đỏ:“Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc   váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như  con bướm sặc sỡ”  gợi một  thanh xuân tươi trẻ. Cuộc sống tràn đầy màu sắc, âm thanh : “Đám trẻ  đợi   Tết chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn  tình thiết tha từ xa vọng lại. * Phân tích diễn biến tâm trạng Mị ­ Tiếng sáo có một vị trí quan trọng trong tâm hồn Mị và chắc chắn tiếng sáo  đã lưu giữ những kỉ nệm đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân nên nó mới có khả  năng đánh thức Mị  từ  cõi quên trở  về  cõi nhớ. Ngồi  nhẩm thầm bài hát của   người đang thổi, Mị bắt đầu phản kháng:“Cứ uống từng bát”, như nuốt hờn,  nuốt tủi quên đi hiện tại phũ phàng hướng về qua khứ tươi đẹp. ­ Mị  say rượu như  một người mộng du hoàn toàn không ý thức được hành   động của mình. Tâm trạng Mị  hoàn toàn thay đổi: “Bấy giờ  Mị  ngồi xuống   giường trông ra cái ô của mờ  mờ  trăng trắng  ấy. Đã từ  nãy, Mị  thấy phơi   phới trở  lại trong lòng đột nhiên vui sướng như  những đêm Tết ngày trước.   Mị còn trẻ, Mị vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi.” + Hành động quen thuộc: Không biết bao nhiêu lần mị đã hành động một cách   vô thức như  vậy nhưng trong tác phẩm đây là lần thứ  hai Tô Hoài nhắc đến   hành động của Mị ngồi xuống giường trông ra cái ô của mờ mờ trăng trắng. + Tuy nhiên, tâm trạng của Mị so với lần thứ nhất đã thay đổi: Mị thấy phơi   phới trở  lại. Từ  láy phơi phới,  nghệ  thuật đảo ngữ đã diễn tả  thật tinh tế  13
  14. cảm xúc trong Mị, lòng cô như đang dâng lên những đợt sóng trào của một trái  tim yêu. Trong lòng đột nhiên vui sướng, có lẽ  cảm xúc  ấy đến với Mị  thật   bất ngờ  bởi chẳng ai dám tin Mị  đã từng  không nhớ, không muốn nhớ.    Rõ  ràng, Mị đã có sức sống từ trước, do bị vùi dập nay mới có cơ hội hồi sinh  trở  lại, như những đêm Tết ngày trước. Những đêm Tết ngày trước phải chăng là  những đêm Mị đã từng thấp thỏm, ngóng trông, chờ tiếng gõ vách hò hẹn của   người yêu, hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên tìm ngón tay đeo nhẫn của người mình  thầm yêu trộm nhớ? Những đêm Tết ngày trước cũng có thể là những đêm Mị  cũng như bao đôi lứa yêu đương nghe tiếng chó sủa xa xa, nhận thức được đó  là khoảnh khắc rung động của tâm hồn khi trai làng đến bên vách làm hiệu,   rủ  người yêu dỡ  vách vào rừng chơi. Đúng là một vùng kí  ức sáng lấp lánh,  một thanh xuân rạo rực khát vọng yêu đương giờ  đã ngoài tầm tay với của   Mị. Lúc ấy, Mị có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. + Mị  bất ngờ  nhận ra rằng:  Mị trẻ  lắm. Mị  vẫn còn trẻ. Điệp từ  trẻ  lặp lại  hai lần cùng với từ    vẫn,  những từ  chỉ  mức độ  “lắm”, “còn”  nhằm nhấn  mạnh vào độ  xuân thì của Mị. Từ  trẻ  có thể  hiểu là Mị  còn trẻ  tuổi nhưng  cũng có thể  hiểu rằng những cảm xúc lúc này khiến cho trái tim Mị  trẻ  lại,  tình yêu có khả năng làm trẻ lòng, trẻ hóa con tim như ta đã gặp trong thơ của  nữ sĩ Xuân Quỳnh: Bồi hồi trong ngực trẻ. +Từ  nhận thức mình  trẻ  lắm, vẫn còn trẻ  mà lòng Mị  nảy sinh khát vọng:  “Mị  muốn đi chơi”.  Với người vùng cao Tây Bắc, đặc biệt là tuổi trẻ, Tết  đến xuân về những chàng trai cô gái được hò hẹn, được thổ lộ tình yêu thầm   kín của mình. Như  vậy, trái tim Mị  cũng đang khao khát được yêu thương,  được tới những đám chơi, cuộc vui, hòa vào không khí rạo rực của mùa xuân  Tây Bắc, của tình yêu và hạnh phúc. + Mị  nhận thức  được sự  vô lí trong cuộc hôn nhân của mình:“Bao nhiêu  người có vợ  còn đi chơi ngày Tết huống chi Mị  với A Sử chẳng có lòng với   nhau mà vẫn phải ở với nhau”.  + Mị  đã phản  ứng dữ  dội. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị  sẽ  ăn   cho chết ngay chứ  không buồn nhớ  lại nữa. Nhớ  lại chỉ  thấy nước mắt  ứa   ra” .Thái độ  của Mị  dứt khoát mạnh mẽ  được thể  hiện qua các giả  thiết,  giọng điệu mạnh, cách nói phủ  định “nếu có…”, “lúc này…”, “ăn cho chết   ngay chứ không buồn nhớ”. Hai từ “chết ngay” thể hiện sự phản kháng mãnh  liệt, không chần chừ, không do dự, không đắn đo. Mị  muốn chết giống như  lần thứ  nhất Mị  về  quỳ  lạy cha về  ăn lá ngón tự  tử. Đó là thái độ  chối bỏ  thực tại, không cam tâm làm con trâu, con ngựa chỉ quen với cuộc sống nô lệ  “biết nhai cỏ”, chỉ  quen với thân phận phụ thuộc “đổi tàu ngựa”. Mị  muốn   chét ngay để  không phải nhớ  lại quá khứ  với những  ước mơ, khát khao của  mình. Mị đã từ cõi quên đã trở về cõi nhớ, chỉ có điều  “không buồn nhớ” phải  chăng vì Mị  thấy mình khổ  quá, thấy những tháng ngày dằng dặc đã qua là   một giấc mơ  hãi hùng bấy lâu nay? Nhớ  lại chỉ  thấy nước mắt  ứa ra.  Giọt  nước mắt một lần nữa lại sôi lên nóng bỏng trên khuôn mặt Mị  tưởng như  1414
  15. dòng suối đã cạn khô bấy lâu nay. Nước mắt của nuối tiếc quá khứ, của đắng  cay trước thực tại và hãi hùng nghĩ đến tương lai.  => Tâm trạng Mị  lúc này đã có sự  thay đổi. Từ  một con người tê liệt về  ý  thức phản kháng, Mị đã bắt đầu hồi sinh, từ đó chứng tỏ sức sống tiềm tàng   trong Mị vô cùng mãnh liệt. 3. Nhận xét a. So sánh đoạn 1 với đoạn 2 ­ Khắc họa tâm trạng Mị trong tình huống Mị làm con dâu gạt nợ ở nhà thống  lí Pá Tra. Những suy nghĩ của Mị  đều diễn ra  ở  căn buồng kín mít, tối tăm   thiếu ánh sáng và sự sống. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm trong Mị có những suy  nghĩ khác nhau.  Ở  đoạn trích thứ  nhất cho thấy suy nghĩ của nhân vật hoàn   toàn tuyệt vọng, buông xuôi sự sống, phó mặc cho sóng gió cuộc đời xô đẩy,  định đoạt. Còn  ở  đoạn trích thứ  hai, Tô Hoài đã cho ta thấy Mị  từ  một con   người âm thầm, chai sạn về  cảm xúc, không còn sức phản kháng, khi đêm  tình mùa xuân đến, khát vọng sống, cảm xúc tâm hồn đã được hồi sinh. Cả  hai đoạn trích đều sử dụng bút pháp hiện thực, xây dựng tình huống độc đáo.  Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài dường như đã hóa thân vào nhân  vật, để thấy được những suy nghĩ thầm kín nhất của Mị. Hai đoạn trích cho   thấy sự  khác nhau về  phương diện nghệ  thuật.  Ở  đoạn 1, ô cửa sổ  được  miêu tả  kĩ lưỡng còn suy nghĩ Mị  được miêu tả  trong một câu văn.  Ở  đoạn  trích 2, tác giả  dành những câu văn để  miêu tả  về  tâm trạng của Mị. Những  câu văn này sử dụng từ ngữ đặc sắc như từ láy, từ ngữ chỉ cảm xúc, điệp từ,   đặc biệt câu văn ngắn dồn dập như  nhịp đập trái tim nóng bỏng của Mị, sự  khẩn thiết cần được sống đúng giá trị. b.Nhận xét  * Nhận xét về nhân vật Mị: ­ Mị là hiện thân cho sức sống tiềm tàng và mãnh liệt. Sức sống ấy luôn âm ỉ  trong lòng không gì dập tắt được, giai cấp thống trị tiêu biểu là cha con thống   lí Pá Tra, dẫu có giam cầm Mị về thể xác nhưng chỉ ở một thời điểm nào đó   mà thôi. Nhìn bề ngoài, Mị tưởng như vô cảm, tê liệt tinh thần nhưng ẩn sâu   trong tâm hồn Mị vẫn là một trái tim khao khát sống, khao khát tự do và hạnh   phúc. Khát vọng đó luôn âm ỉ trong Mị như ngọn lửa trong bếp than không chỉ  chờ cơ hội thích hợp là bùng lên mãnh liệt không có gì dập tắt được.  => Đó là vẻ  đẹp tiêu biểu của người lao động vùng cao Tây Bắc trong hoàn  cảnh khốn cùng bị  áp bức bóc lột dã man vẫn không nguôi khát vọng sống,   khát vọng được đổi đời. * Nhận xét vê tác phẩm: ­  Phơi bày hiện thực về sự tàn bạo của giái cấp thống trị vùng cao Tây Bắc,   số phận bất hạnh của những con người nơi đây, cụ thể là nhân vật Mị. ­ Thể hiện chiều sâu tư  tưởng nhân đạo của nhà văn:  Qua nhân vật Mị, nhà  văn Tô Hoài đã thể  hiện được tư  tưởng nhân đạo sức sống của mình: đó là  lòng cảm thông đối với những số phận bất hạnh, đó chính là nhân vật Mị với   thân phận con sâu cái kiến, thân phận con tằm rút ruột nhả tơ, bị đè nén làm   15
  16. thui chột sức sống. Tuy nhiên trong hoàn cảnh đó, nhà văn phát hiện, nâng niu   và ngợi ca vẻ đẹp nhân vật đó là sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị: ý thức  được giá trị của bản thân, khát khao cuộc sống lứa đôi và đặc biệt Tô Hoài đã  đem đến một tiếng nói nhân đạo mới mẻ đó là sự vận động của cốt truyện từ  ánh sáng ra bóng tối, từ  nỗi buồn đến niềm vui cũng như  Chế  Lan Viên đã   từng nói: “Từ thung lũng đau thương đến với cánh đồng vui”. Đồng thời Tô  Hoài tố  cáo xã hội thực dân nửa phong kiến cũng với những thế  lực thần   quyền, pháp quyền, gia quyền đã đẩy con người vào vòng lao khổ. Từ  đó   gióng lên một hồi chuông đòi quyền sống chính đáng của con người. * Lí giải: Sở  dĩ đoạn trích nói riêng và tác phẩm Vợ  chồng A Phủ nói chung  thấm đẫm tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài bởi lẽ, trước hết Tô Hoài  là nhà văn nhân đạo chủ  nghĩa,  ông đã kế  thừa tinh thần nhân đạo thấm  nhuần trong dòng chảy của văn học dân tộc. Tô Hoài là thuộc thế  hệ những   nhà văn trưởng thành trong Cách mạng  vì thế  nhà văn sớm được giác ngộ  Cách mạng, thấy được tương lai của con người và tiền đồ  của dân tộc như  nhà thơ Chế Lan Viên đã chia sẻ: Ánh sáng đã soi đường cho tôi và phù sa đã   bồi đắp tâm hồn tôi. Tác phẩm thuộc giai đoạn văn học 1945 ­ 1975 với cảm   hứng lãng mạn tràn đầy nên sự vận động của cuộc đời nhân vật và cốt truyện   là tất yếu. * Đánh giá: Nhà văn Tô Hoài góp thêm cho văn học dân tộc một tiếng nói  nhân đạo vừa sâu sắc vừa mới mẻ. Nếu văn học hiện thực phê phán 1930 ­   1945 nội dung nhân đạo chỉ dừng lại ở sự cảm thông, ý nghĩa tố cáo, sự  bênh   vực, phát hiện, nâng niu và trân trọng vẻ  đẹp của con người thì văn học sau  1945 ­ 1975 còn mở  ra cho nhân vật của mình một con đường sống mà tiêu   biểu đó là sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. C. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần nghị luận. ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Đề 2: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài 2 lần miêu tả Mị  khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:  “Mỗi ngày Mị  càng không nói lùi lũi như  con rùa chui trong xó cửa.  Ở  cái   buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc   nào Mị  trông ra cũng thấy trăng trắng không biết sương hay nắng. Mị  nghĩ   rằng cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy bao giờ đến chết thì thôi.” Và khi đêm tình mùa xuân đến: “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà   lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang   rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị   với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Phân tích hình  ảnh Mị  trong 2 lần miêu tả  trên. Từ  đó làm nổi bật sự  thay đổi trong diễn biến tâm lí nhân vật để thấy được sức sống tiềm tàng của  nhân vật Mị. A.Mở bài ­ Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 1616
  17. ­ Nêu vấn đề cần nghị luận: Trích 2 đoạn văn. B. Thân bài I. Khái quát chung II. Cảm nhận 2 đoạn trích 1.Đoạn 1 (Tham khảo đề 1) 2.Đoạn trích 2: *   Hoàn   cảnh,   vị   trí   của   đoạn   trích:   Trong   tác   phẩm   “Mùa   lạc”,  nhà   văn  Nguyễn Khải đã từng gieo vào lòng người niềm tin vô hạn:“Trên đời này   không có con đường cùng, chỉ  có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có   sức mạnh để vượt qua những ranh giới  ấy”. Điều đó thật đúng với nhân vật  Mị  trong “Vợ  chồng A Phủ”. Mị  như  một mầm cây xanh tươi nơi đại ngàn  hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc ấy chẳng mấy chốc Mị trở nên khô héo khi bị  bắt về  làm con dâu gạt nợ  nhà thống lí Pá Tra. Nhưng trong Mị  vẫn  ẩn sâu  một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức sống  ấy được ví như  hạt mầm nằm  sâu trong lòng đất chỉ chờ giọt mưa xuân là tách vỏ, nảy mầm non tươi xanh.  Giọt mưa xuân ấy chính là dịp tết ở  Hồng Ngài. Mị  không chỉ thay đổi trong  tâm trạng: bồi hồi, nhớ  về ngày trước, thấy mình còn trẻ, muốn đi chơi mà  Mị còn nổi loạn trong hành động: * Cảm nhận đoạn trích: ­ Mị phản kháng trước A Sử: “Bây giờ Mị cũng không nói” (Đã học) ­ Mị thức tỉnh. “Mị đến góc nhà…cho sáng”: Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng  để  xua tan bóng tối đang bao phủ  căn buồng mình, đem đến một nguồn  ấm   nóng. Tuy nhiên, ánh sáng đó không chỉ dừng lại ở ánh sáng vật lí mà nó còn là   biểu tượng cho sự sống, Mị thắp lên ngọn đèn là thắp lên ánh sáng cho cuộc  đời mình. Có thể nói hành động Mị thắp đèn là một bước chuyển quan trọng  đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, nhân vật đang thắp lên ánh sáng của  tin của hi vọng. Đúng như  dân gian đã từng nói: “Sống có dầu đèn, chết có   kèn trống”. Ánh sáng ở đây chính là biểu tượng cho sự hồi sinh, là con đường  Mị  đã lựa chọn. Đó là tín hiệu của sự  đổi đời, sự  vận động trong tư  tưởng   của nhân vật. Mị  đã không chấp nhận cuộc sống tăm tối, tù túng, ngột ngạt,   bế tắc ở cái căn buồng kín mít kia. Hình ảnh này khiến cho ta liên tưởng đến  “hai hào dầu” trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, khi Tràng có vợ, anh  đã quyết định táo bạo mua “hai hào dầu” thắp lên cho sáng giữa lúc ánh sáng  của xóm ngụ  cư  đã tắt lịm từ  chiều rồi. Ánh sáng  ấy chính là hạnh phúc dù  rất mong manh bên bờ vực thẳm của cái chết nhưng nó khẳng định hạnh phúc  phải được thông báo và con người có quyền hi vọng. Vậy, hành động của Mị  chứng tỏ  sự  phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt chống lại cuộc sống tù ngục   nhà thống lí. ­ Mị ý thức được giá trị của mình và khao khát về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc   sống tự do: + Trong đầu Mị  đang rập rờn tiếng sáo: Tiếng sáo vấn vít lấy tâm hồn Mị,  trở đi trở lại, nó nhắc nhở về một thời tuổi trẻ nồng nàn say mê. Tô Hoài đã   dùng nhiều từ  rất đắt, để  miêu tả  tiếng sáo “rập rờn”. Tiếng sáo vốn trừu  17
  18. tượng vô hình nhưng qua ngôn ngữ tài hoa của Tô Hoài nó trở nên hữu hình có  độ  cao, độ  trầm, có xa có gần. Tiếng sáo thực hay còn là tiếng lòng Mị  đang  rung lên, đang ngân lên những vĩ thanh của tình yêu, trái tim Mị như đang bay   bổng theo tiếng sáo thiên thai ấy? + “Mị  muốn đi chơi. Mị  cũng sắp đi chơi”. Câu văn ngắn dồn dập như  diễn   tả  được khao khát khẩn thiết, cấp bách những ý nghĩ cứ  không ngừng thôi  thúc tâm trí Mị. Tô Hoài rất tinh tế khi chỉ thay đổi một vài từ  ngữ  nhưng đã   diễn tả  được sự  thay đổi ngày càng mạnh mẽ  trong Mị, bởi  “muốn”  chỉ  là  khát vọng có thể xảy ra hoặc không, còn “sắp” là tương lai rất gần rồi, hiện  thực chỉ như trong một tầm tay với mà thôi. Mị  đã vượt khỏi ba tù ngục nhà   thống lí, không còn sợ pháp quyền, gia quyền và thần quyền nữa khi Tô Hoài  thêm một từ cũng, có nghĩa là Mị đòi mình ngang hàng với người khác.  + “Mị  quấn lại tóc, Mị  với tay lấy cái váy hoa vắt  ở  phía trong vách”. Hành  động quấn tóc, lấy váy hoa để  khẳng định Mị ý thức được mình còn trẻ, còn   đẹp, cần phải làm duyên để  hưởng hạnh phúc. Đó là thiên tính nữ  đã trở  về  thay thế cho một công cụ lao động đang tồn tại ở  nhà thống lí Pá Tra. Chiếc  váy hoa đã trở thành một hình ảnh đặc sắc mang nét đẹp phong tục tập quán  của vùng cao Tây Bắc, bởi nó là vật bất li thân của người con gái vùng cao   Tây Bắc mỗi khi Tết đến xuân về. Chẳng thế mà đôi mắt tinh tế của nhà văn   Tô Hoài đã có những câu văn thật đắt, thật sang khi miêu tả  về  chi tiết  ấy:  “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã được đem ra phơi trên   những mỏm đã xòe như những con bướm sặc sỡ”.  Cái váy hoa cùng với hành  động “quấn lại tóc” là tín hiệu cho thấy Mị đã ý thức được cái đẹp và có khát   vọng được tự  do. Mị muốn sống lại với quá khứ  đẹp đẽ  thuở  nào. “Mị thổi   sáo giỏi, mùa xuân này Mị  uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị  uốn chiếc lá   trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ngày đêm   thổi sáo đi theo Mị”. => Tâm trạng và hành động đó đã cho thấy sự hồi sinh, sự thức tỉnh mạnh mẽ  của Mị. Từ  một con người âm thầm, câm lặng, chai sạn cảm xúc trong tâm   hồn, không còn sức phản kháng giờ  đay khát vọng sống ấy đã trỗi dậy. Tâm   hồn Mị đã được hồi sinh trong đêm tình mùa xuân. III. Nhận xét ­ Hai đoạn trích thể  hiện diễn biến tâm trạng Mị   ở  nhà thống lí Pá Tra, tuy  nhiên có sự khác nhau ở mỗi đoạn trích. Đoạn trích thứ nhất là sự  bằng lòng,  chấp nhận số phận cho thấy Mị bị thui chột về ý thức phản kháng, trở  thành  một công cụ  lao động, ngày càng chết dần chết mòn. Còn  ở  đoạn trích thứ  hai, Tô Hoài đã diễn tả sự vận động trong tâm lí của nhân vật, ở Mị đã tiềm   tàng một sức sống mãnh liệt, không chỉ thể hiện qua suy nghĩ mà còn thể hiện   ở  hành  động dứt  khoát, kiên quyết. Cả  hai  đoạn trích  đều xây dựng tình  huống độc đáo để làm nổi bật tính cách nhận vật Mị và chủ đề của tác phẩm.   Cả  hai đoạn trích đều lấy bối cảnh không gian  ở  nhà thống lí, tuy nhiên  ở  đoạn trích thứ  hai thời gian được nhắc đến cụ  thể  hơn đó là đêm tình mùa   1818
  19. xuân.  Ở  đoạn trích thứ  nhất, nhà văn sử  dụng bút pháp hiện thực, hình  ảnh   biểu tượng là căn buồng thì ở đoạn trích thứ  hai sử  dụng bút pháp hiện thực   kết hợp với lãng mạn, biện pháp tu từ ẩn dụ (ánh sáng ­ cuộc sống tự do, sức   sống), đảo ngữ: “rập rờn tiếng sáo”. Nhịp điệu câu văn cũng có sự khác nhau  để diễn tả kiếp sống lầm than đoạn trích thứ nhất đã sử dụng câu văn dài còn   đoạn thứ hai, câu văn ngắn diễn tả không khí dồn dập, náo nức, khao khát đi  chơi của Mị. ­ Nhận xét về  Mị  (Tham khảo đề  1, nhận xét khác  ở  chỗ  suy nghĩ đã biến   thành hành động). ­ Nhận xét về tác phẩm và tác giả Tô Hoài (Tham khảo đề 1) ­ Lí giải (Tham khảo đề 1). C. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần nghị luận. Đề  3:Trong truyện ngắn “Vợ  chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, hình  ảnh chiếc lá ngón ba lần xuất hiện trong tác phẩm. Trong truyện ngắn “Vợ  chồng A Phủ, Tô Hoài rất nhiều lần nhắc đến hình  ảnh “nắm lá ngón”. Anh/chị hãy phân tích vẻ đẹp của Mị qua 3 chi tiết sau:  “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất. Nắm lá ngón Mị đã   tìm hái trong rừng.” và rồi“Lần lần…tự  tử  nữa” ,  lần cuối cùng: “ Nếu có   nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị  sẽ  ăn cho chết ngay chứ  không buồn nhớ   lại nữa.” A.Mở bài ­ Giới thiệu tác giả, tác phẩm. ­ Nêu vấn đề cần nghị luận: Mị là nhân vật trung tâm của sức sống tiềm tàng   mãnh liệt. Tuy nhiên, sức sống ấy được diễn tả với tâm lí vô cùng phức tạp.   Đặc biệt, khi Mị  tìm đến lá ngón trong ba lần như  sau:  “Sau mấy tháng làm   dâu…hái trong rừng”, “Lần lần…tự  tử  nữa”   và trong đêm tình mùa xuân  “Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không muốn nhớ   nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. B.Thân bài I. Khái quát chung về tác phẩm để dẫn vào vấn đề cần phân tích ­ Xuất xứ ­ Hoàn cảnh sáng tác ­ Vị trí II.Cảm nhận 1. Đối tượng 1 * Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: Chi tiết  “lá ngón” xuất hiện lần thứ  nhất ở  tác phẩm là sau khi Mị bị A Sử bắt về làm vợ trở thành con dâu gạt nợ ở nhà  thống lí Pá Tra. Từ đây, Mị đã mất đi một tình yêu đẹp, một cuộc sống tự do,  lương thiện, hạnh phúc. Từ  một thiếu nữ  Tây Bắc tràn trề  cơ  hội  được  hưởng tình yêu và một cuộc sống tốt đẹp, Mị đã trở nên đau khổ và tìm đến lá   ngón để kết liễu đời mình.  * Phân tích chi tiết: 19
  20. ­ Những ngày  ở  nhà thống lí Pá Tra “Có mấy tháng ròng, đêm nào Mị  cũng   khóc”.Thời gian đêm tối là lúc con người được nghỉ  ngơi sau một ngày làm  việc vất vả, lẽ  ra được hưởng cuộc sống êm đềm, tuy nhiên Mị  đã khóc  “mấy tháng ròng”.  Đêm tối đã trở  thành một tín hiệu nghệ  thuật trong văn  học bởi lúc đó con người đối diện với lòng mình và nhận ra cuộc sống bi kịch   của bản thân. Nỗi lòng đó, ta đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn  Du:       “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình, nình lại thương mình xót xa        Khi xưa phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”  Đó là giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ, tức tưởi, tủi phận. Thời gian đau khổ  kéo dài “có đến hàng mấy tháng” và dường như nỗi đau khôn cùng khiến Mị  phải tìm đến lá ngón. “Một hôm, Mị  trốn về  nhà, hai tròng mắt còn đỏ  hoe,   trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở”.  ­ Hai tròng mắt đỏ hoe gợi biết bao đau đớn, dường như sau mấy tháng ròng,   đêm nào Mị cũng khóc đã dâng lên đến đỉnh điểm, quá sức chịu đựng của Mị.  ­ Mị  đã phải quỳ  lạy, úp mặt xuống đất, nức nở    giống như  một hành động  xin lỗi, cũng có thể đó là lời tạ từ bởi Mị quyết định tìm đến “lá ngón”.  ­ Cha Mị biết con có ý định tự tử: “Mày về lạy … con ơi!”. Trước tình thế đó,  “Mị chỉ biết … áo”.  * Ý nghĩa của hành động: ­ Phản ánh một hiện thực: Hành động tìm đến lá ngón của Mị  thể  hiện tinh  thần phản kháng mạnh mẽ, Mị đã không chấp nhận kiếp sống vô nghĩa ở nhà  thống lí Pá Tra: Cuộc sống không tình yêu, không có ý nghĩa,… Tuy nhiên, Mị  muốn ăn lá ngón để tự kết liễu đời mình nhưng không đủ khả năng thoát khỏi   xiềng gông vô hình của nhà thống lí đó là món nợ  truyền kiếp. Mị  chết rời,   mỗi năm cha mị vẫn phải trả lãi một nương ngô. Chi tiết ấy đã phản ánh một  hiện thực tàn nhẫn về số phận của người lao động vùng cao Tây Bắc:  “Trở   đi mắc núi, trở về mắc sông”. Họ đúng là thân phận con sâu cái kiến trước sự  đọa đày của giai cấp thống trị. ­ Thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn:  + Hành động của Mị  thể  hiện sự  phản kháng của một con người có ý thức,   khao khát tự  do và hạnh phúc cháy bỏng của tuổi trẻ  đang diễn ra trong con   người Mị. + Tuy nhiên, nghe theo lời cha Mị chỉ bưng mặt khóc.“Mị ném nắm lá ngón …   nhà thống lí”.  Nếu bỏ  về  quỳ  lạy, khóc  với cha thể  hiện niềm ham sống  mãnh liệt thì chi tiết ném nắm lá ngón xuống đất không phải Mị  không còn  ham sống một cuộc sống tự do và hạnh phúc nữa và Mị  không đành chết vì  Mị  không chiến thắng được ràng buộc về  bổn phận làm con, chi tiết đó ánh  lên một con người có lòng hiếu thảo vô bờ. 2. Đối tượng 2 2020
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2