Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm hướng dẫn học sinh cách thức rèn luyện dạng đề cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Cung cấp thêm cho các đồng nghiệp, đặc biệt các em học sinh cùng những người quan tâm những dạng đề thi cảm nhận một đoạn trích văn xuôi trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và các bài đọc - hiểu văn bản truyện ngắn và bài làm văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ ��� BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) Người thực hiện: Cao Thị Phương Lan Môn: Ngữ văn Mã môn: 02.51 Trường THPT Trần Phú 1
- Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) Người thực hiện: Cao Thị Phương Lan Môn: Ngữ văn Mã môn: 02.51 Trường THPT Trần Phú 22
- Vĩnh Phúc, năm 2020 MỤC LỤC TRANG I. Lời giới thiệu 4 II. Tên sáng kiến 4 III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 4 IV. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 4 V. Mô tả bản chất của sáng kiến 4 1. Về nội dung của sáng kiến 4 1.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp và giới 5 hạn đề tài. 1. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề 5 1.3. Thực trạng của vấn đề 6 1.4. Các biện pháp phát triển năng lực cảm thụ văn học nhằm nâng 7 cao hiệu quả tìm hiểu nội tâm nhân vật trong truyện ngắn 1.5. Luyện đề 8 VI. Những thông tin cần được bảo mật 27 VII. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 27 VIII. Đánh giá lợi ích thu được 28 IX. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc 32 áp dụng sáng kiến lần đầu X. Kết luận và kiến nghị 32 3
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. Lời giới thiệu 1. Lí do chọn đề tài Trước hết do những thay đổi của kì thi THPT QG: Đổi mới thi là bước quan trọng trong đổi mới giáo dục. Song những thay đổi gần đây của Bộ trong việc tổ chức thi THPT quốc gia luôn luôn có sự đổi mới trên nhiều phương diện từ hình thức thi, cách thức ra đề thi, thời gian thi,… Trong đó, sự điều chỉnh trong môn thi có liên quan đến bộ môn Ngữ văn. Đề thi môn Ngữ văn luôn có sự thay đổi trong một số năm gần đây và dạng đề cảm nhận một đoạn trích là dạng phổ biến (kì thi THPT QG năm học 2016 2017, 2018 2019). Do đặc trưng của bộ môn học với những đổi mới về phương pháp: Nếu trước đây, học văn chỉ đơn thuần là thụ động, một chiều thì những năm gần đây môn Ngữ văn hướng tới cho học sinh cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá. Ngoài các năng lực chung, chương trình môn Ngữ văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mỹ. Đặc biệt, mục tiêu và phương pháp dạy học ngữ văn phải thay đổi theo hướng mới. Văn học tập trung phát triển phẩm chất và năng lực. Năng lực ngữ văn thể hiện rõ nhất ở việc học sinh (HS) đọc, viết, nói và nghe như thế nào. Với những đổi mới đó, cách ra đề thi THPT QG cũng hướng học sinh 44
- vào những năng lực vừa nêu trên. Điều đó đòi hỏi, GV giảng dạy cần có sự định hướng, rèn luyện kĩ năng cho HS sao cho HS trong quá trình học tập và dự thi đạt kết quả cao nhất. Về phía HS, trước những đoạn trích văn xuôi, HS nếu thực sự không có năng khiếu, năng lực sẽ rất khó triển khai, thậm chí không có gì để viết do học sinh chưa có năng lực cảm thụ, chưa biết phân tích nội tâm, nhiều bài văn sa vào tóm tắt tác phẩm, kể lại về cuộc đời nhân vật. Trước thực trạng đó, bản thân tôi sau nhiều năm đứng lớp 12 đã rút ra một số kinh nghiệm về ôn thi dạng đề này và đã đạt được những thành công nhất định. Có thể nói, dự án dạy học này thực sự có ý nghĩa trong quá trình ôn thi của học sinh trước kì thi THPT QG. II. Tên sáng kiến Rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Thuộc lĩnh vực giáo dục, bộ môn Ngữ văn 12. IV. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Bắt đầu từ tháng 1 năm học 2017 2018 đến tháng 1 năm 2020. V. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Về nội dung của sáng kiến 1.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp và giới hạn đề tài 1.1.1. Mục đích nghiên cứu Hướng dẫn học sinh cách thức rèn luyện dạng đề cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Cung cấp thêm cho các đồng nghiệp, đặc biệt các em học sinh cùng những người quan tâm những dạng đề thi cảm nhận một đoạn trích văn xuôi trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và các bài đọc hiểu văn bản truyện ngắn và bài làm văn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự nói chung. 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu Tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Các dạng bài tập cảm nhận một đoạn trích văn xuôi. 1.1.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí thuyết Phương pháp khảo sát, điều tra Phương pháp đọc sáng tạo Phương pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp so sánh, đối chiếu 1.1.4. Giới hạn đề tài Từ mục tiêu nghiên cứu tôi đã lựa chọn tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Đây là tác phẩm tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 12B, 12H khóa học 2019 5
- 2020 tại trường THPT Trần Phú. 1. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề Để cảm nhận được một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi, giáo viên cần nắm được những hiểu biết cơ bản về lí luận văn học như: tác phẩm văn học là gì? Thế nào là truyện ngắn và đặc trưng của thể loại truyện ngắn, để rồi từ đó có thể cảm nhận được một đoạn trích văn xuôi. 1.2. 1. Truyện ngắn và đặc trưng của truyện ngắn a. Khái niệm truyện ngắn Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật. Đối tượng của văn học là con người con người trong học tập, lao động, chiến đấu, con người trong tình yêu và những mối quan hệ xã hội khác, con người trong không gian thời gian với thiên nhiên, vũ trụ. Nói văn học là nhân học, đúng thế. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn phải nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự đa dạng, phong phú. Đặc biệt thể loại truyện ngắn mang những đặc trưng cơ bản đó. Vậy, truyện ngắn là gì? Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về truyện ngắn. Theo từ điển Tiếng Việt: Truyện ngắn là tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện thông qua lời kể của nhà văn. Truyện có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh, tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật. b. Đặc trưng thể loại truyện ngắn Truyện ngắn là một tác phẩm văn xuôi tự sự, có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện, nhà văn thường tập trung vào những tình huống đặc biệt để làm nên một lát cắt của cuộc sống, qua đó khám phá, phát hiện, giải mã cuộc sống. Dung lượng ngắn: Không đơn thuần là chữ nghĩa ngắn mà cái chính là cách nắm bắt, thể hiện cuộc sống theo đặc trưng truyện ngắn: nhà văn nắm lấy một hiện tượng, một nét bản chất của cuộc sống, thể hiện nó một cách cô đọng, đầy tính nghệ thuật và mang ấn tượng sâu đậm. Tình huống: Vì truyện ngắn không có sức mạnh như tiểu thuyết hay truyện dài nên nhà văn phải tìm một lát cắt của cuộc sống. Lát cắt đó là tình huống truyện. Tình huống truyện hoàn cảnh xảy cụ thể xảy ra câu chuyện, được làm nên bởi một sự kiện mà ở đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và chủ đề của truyện, tư tưởng của tác giả cũng được thể hiện rõ nét nhất. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gọi tình huống là cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người. Có 3 loại tình huống: + Tình huống hành động. + Tình huống tâm trạng. + Tình huống nhận thức. 66
- Các tình huống kể trên chỉ là sự phân chia tương đối. Một truyện ngắn có thể có một hoặc nhiều tình huống. Truyện ngắn còn có đặc trưng là chất thơ. Nhân vật và đặc điểm của nhân vật trong truyện ngắn: Trong truyện ngắn thường ít nhân vật. Hình tượng nhân vật trong truyện hiện lên dần dần qua các chi tiết cụ thể trong suốt quá trình đọc tác phẩm. Nhìn chung đặc điểm tính cách của nhân vật được thể hiện qua các khía cạnh hình dáng bên ngoài, gương mặt, dáng dấp; lời nói, cách nói, cử chỉ; thế giới nội tâm; quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác; cảnh bên ngoài, môi trường sống. 1.2.3. Ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi qua Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). HS được rèn các kĩ năng: Kĩ năng tự học Kĩ năng đọc hiểu Kĩ năng khám phá Kĩ năng sáng tạo Kĩ năng so sánh Kĩ năng cảm thụ Kĩ năng đáng giá … 1.3. Thực trạng của vấn đề. Văn học là một bộ môn nghệ thuật vì vậy cần có sự cảm nhận tinh tế, tâm hồn rung cảm, biết cảm thu, so sánh,… chứ không đơn thuần là một môn học khô khan, thụ động, máy móc. Vì thế, ít nhiều một số quan niệm chưa đúng về bộ môn học. Trước thực tế đó, nhằm hạn chế những lỗ hổng trong chương trình dạy và học văn ở trường THPT, học chỉ tóm tắt lại tác phẩm, viết văn là sự tái hiện chứ không có cảm xúc, … học sinh học không hứng thú, cũng không chịu đọc hết tác phẩm hoặc có đọc thì qua loa, đại khái, chỉ nắm sơ lược về cốt truyện, chưa chú ý đến diễn biến nội tâm nhân vật, những chi tiết, hình ảnh, ngôn từ, tín hiệu nghệ thuật nhằm diễn tả nội dụng,… nên tôi đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng cho các em. Để góp phần giải quyết thực trạng trên, vấn đề đặt ra với người giáo viên dạy Văn là cần phải có những phương pháp điều chỉnh, với HS phải nắm vững kĩ năng cảm thụ một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi,… Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) là một trong những tác phẩm hay và nằm trong chương trình thi THPT QG của HS vì thế tôi tập trung rèn cho HS tốt kĩ năng cảm thụ những đoạn trích tiêu biểu có chiều sâu về giá trị nội dung và nghệ thuật. 1.4. Các biện pháp rèn kĩ năng cảm nhận một đoạn trích văn xuôi * Mục tiêu cần đạt: Nắm vững những kiến thức về tác giả: + Những yếu tố về quê hương, gia đình là cái nôi hình thành nên tâm hồn, tư 7
- tưởng của nhà văn. Bản thân tác giả với những tài năng nổi trội, trái tim giàu tình thương, những xúc cảm,… sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng của tác giả và thai nghén, hình thành trong tác phẩm. Nắm vững những kiến thức về tác phẩm: + Hoàn cảnh sáng tác + Xuất xứ + Giai đoạn văn học Đọc diễn cảm. Nắm khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật Xác định được các đoạn trích tiêu biểu, trọng tâm. Tìm hiểu nhân vật (lai lịch, biến cố, số phận, vẻ đẹp,…) * Kĩ năng viết bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi Kết cấu: 3 phần (Mở bài, thân bài với những luận điểm nào? Kết bài,..) Mở bài: + Giới thiệu tác giả/tác phẩm. + Nêu vấn đề cần nghị luận: Giới thiệu đoạn trích. Thân bài: Bước 1. Khái quát tác phẩm trước đoạn trích đó (phân tích qua khoảng 78 dòng). Nếu là đoạn đầu thì bỏ qua. (Ví dụ 1: cảm nhận đoạn văn về cảnh vượt thác trong Người lái đò Sông Đà thì phải khái quát, giới thiệu đoạn trước đó với nội dung: sông Đà hung bạo, hùng vĩ, tính cách nham hiểm, độc dữ của loài thuỷ quái). Sau đó chúng ta nêu vị trí đoạn trích cũng như nêu nội dung đoạn văn ta sắp cảm nhận (nêu khái quát nhất khoảng 3 4 dòng) (Ví dụ 2: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân thì phải khái quát về cuộc đời Mị, sau đó mới dẫn vào đêm tình mùa xuân Mị hồi sinh sức sống như thế nào?) Bước 2. Cảm nhận vào đoạn chính. Nội dung: + Phải xác định được vị trí đoạn trích trong tác phẩm mới có thể nêu được các luận điểm về nhân vật (Ví dụ: A Phủ trong cảnh phạt vạ hay A Phủ trong đêm đông bị trói,…trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn tô Hoài). + Xác lập luận điểm dựa trên nhóm câu có cùng chung nội dung. ví dụ: Trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà đoạn: “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài….đốt nương xuân”. Nhóm câu này có nội dung nói về hình dáng sông Đà cảm nhận từ góc nhìn từ trên cao; sông Đà hiện lên như hình ảnh một người đàn bà kiều diễm. Xác định được nội dung đó thì ta có thể xác lập ra luận điểm: “Nhà văn chiêm ngưỡng dòng sông ở nhiều góc độ. Từ trên cao nhìn xuống sông Đà mang vẻ đẹp trữ tình lãng mạn và gợi cảm biết bao qua phép so sánh, liên tưởng độc đáo tới người đàn bà có áng tóc trữ tình mê đắm….”. + Quá trình phân tích nội dung, ta cần bám vào các yếu tố nghệ thuật: Chú ý các câu văn, ngữ điệu, câu ngắn, câu dài (ví dụ: Đoạn A Phủ trói Mị câu văn 88
- ngắn, dồn dập, …) cách ngắt nghỉ, chi tiết, hình ảnh giàu sức gợi ( Căn buồng của Mị hay tiếng sáo gọi bạn tình, giọt nước mắt của A Phủ,…), cách dùng từ, ... nhất là kiểu câu sử dụng các động từ, tính từ. Kiểu câu phức, câu ghép, câu đặc biệt… Đoạn văn này được đặt trong chỉnh thể của tác phẩm nên khi HS cảm nhận thì phải có sự liên kết với nội dung chung và giá trị chung của tác phẩm đó. Nghĩa là HS phải mở rộng ra toàn tác phẩm (dù đoạn văn đó là chính nhất). Đánh giá đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích: tình huống truyện, trần thuật, giọng văn, tu từ…. Bước 3: Nhận xét theo yêu cầu của đề bài (Ví dụ: Nhận xét về nhân vật hay nhận xét về tư tưởng của tác giả,…) Kết bài 1.5. Luyện đề I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại. Là nhà văn có quan niệm văn học tiến bộ và độc đáo, thậm chí quyết liệt. Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ thần tượng trong lòng bạn đọc”. Là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về con người, phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Văn Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi vốn sống và vốn từ vựng giàu có. 2. Tác phẩm a.Hoàn cảnh sáng tác Cuối năm 1952, Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đợi trong chiến dịch Tây Bắc. Ông quyết định đi sâu vào khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao sau khi tìm hiểu về tình hình. Chuyến đi kéo dài 8 tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Nhà văn đã từng tâm sự: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thê bao giờ quên”. => Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm đã ám ảnh và thai nghén cho tô Hoài viết “Vợ chồng A Phủ”. b. Xuất xứ: Thuộc tập “Truyện Tây Bắc”. c. Vị trí: Là tác phẩm đặc sắc nhất của tập “Truyện Tây Bắc” và đạt giải Nhất hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 1955. d. Bố cục: Tác phẩm chia làm 2 phần: + Phần 1: Viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. + Phần 2: Mị và A Phủ trốn đến Phiềng Sa, nên duyên vợ chồng, thao A Châu làm cách mạng. 9
- => Đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm. c. Giá trị * Hiện thực: Tác phẩm phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước giải phóng (1954), qua đó, nhà văn đã tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi mà tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra Tác phẩm đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống khổ đau, bi thảm của người lao động miền núi: Tiêu biểu là cuộc đời Mị và A Phủ. Tác phẩm phản ánh hiện thực cơ bản: Đó là con đường đi từ phát đến tự giác của người lao động và sự vươn lên của họ (Dưới ánh sáng tự do và nhân phẩm) * Giá trị nhân đạo: Niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh, bị mất quyền sống (Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ). Qua số phận bất hạnh của người lao động miền núi, nhà văn lên tiếng tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã đẩy người dân vào tình cảnh khốn khổ (Sự vùng dậy của ba thế lực thần quyền, pháp quyền, cường quyền với những hủ tục lạc hậu như cúng trình ma, cho vay nặng lãi cắt cổ, cách xử kiện quái gở, vô lí,... đã biến người lao động trở thành nô lệ không công, truyền kiếp cho giai cấp thống trị). Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, trân trọng khát vọng tự do hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo miền núi. Tác phẩm là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời nhà văn đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đọa đày trong đau khổ. II. Dạng đề cảm nhận một đoạn trích văn xuôi trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài Đề 1: Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã có những suy nghĩ khác nhau. Những suy nghĩ ấy được thể hiện qua hai đoạn trích sau: Lần thứ nhất : “Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa chui trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào Mị trông ra cũng thấy trăng trắng không biết sương hay nắng. Mị nghĩ rằng cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy bao giờ đến chết thì thôi.” Lần thứ 2: “Bấy giờ Mị ngồi xuống giường trông ra cái ô của mờ mờ trăng trắng ấy. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị còn trẻ, Mị vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi… ứa ra.” Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, anh/chị nhận xét về sức sống tiềm tàng của Mị. A.Mở bài 1010
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn Tô Hoài, Giáo sư Phong Lê khẳng định: “Ông thuộc thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ 20”. Thành quả của mùa vàng đó phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”. Nêu vấn đề cần nghị luận: Nhân vật Mị là nhân vật tiêu biểu, nhân vật trung tâm của tác phẩm, trở thành biểu tượng đẹp của người phụ nữ miền núi bị áp bức, bất công nhưng vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sức sống ấy đã được thể hiện ở nhiều hoàn cảnh khác nhau với những chi tiết đặc sắc. Một trong những chi tiết đó là hình ảnh căn buồng của Mị ở nhà thống lí Pá Tra với ô của sổ trăng trắng. Tại căn buồng này, Mị đã thấy những thay đổi và chuyển biến trong nhận thức: Nếu lần đầu tiên Mị bế tắc: “Mỗi ngày…thì thôi” thì lần thứ hai đã thay đổi: “Bấy giờ…muốn đi chơi.” B.Thân bài 1. Khái quát chung Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài giới thiệu một cách ấn tượng. Mị xuất hiện ngay ở đầu tác phẩm qua giọng kể chầm chậm, đượm buồn của nhà văn. Cách miêu tả tưởng chừng như bình thường nhưng lại hiện lên đầy đủ những tín hiệu giông bão của cuộc đời Mị. Điều đó hé mở một số phận éo le, đau khổ thu hút sự chú ý của người đọc. Người đọc băn khoăn tự hỏi trong khung cảnh nhà giàu ấy tại sao lại xuất hiện con người với số phận đầy uẩn khúc thế kia? Hỏi ra mới biết đó là Mị con dâu nhà thống lí Pá Tra. Mị là cô gái trẻ trung, xinh đẹp, yêu tự do, yêu lao động, một con người lương thiện có tấm lòng hiếu thảo nhất mực. Ở Mị còn có tài thổi lá hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Vậy mà vì món nợ truyền kiếp, Mị phải trả giá bằng cả tuổi trẻ và cuộc sống của bản thân. Với danh nghĩa là vợ A Sử nhưng thực chất Mị là con dâu gạt nợ, là kẻ đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. 2. Phân tích chi tiết: a.Đoạn trích 1: * Vị trí đoạn trích: Đó là những ngày đầu về làm dâu nhà thống lí. Mị vô cùng đau khổ, Mị có ý định tự tử. Tuy nhiên, vì bổn phận làm con, làm tròn chữ hiếu, Mị đã quay về làm con dâu gạt nợ, làm kiếp sống nô lệ. Sức sống của Mị gần như bị tê liệt, không chỉ thông qua những việc làm lặp đi lặp lại mà còn thể hiện qua ý nghĩ: “Mỗi ngày Mị càng không nói …chết thì thôi”. * Phân tích nội dung: Các ý nghĩ và hành động của Mị đều lặp đi lặp lại, quẩn quanh, nhàm chán trong không gian bó hẹp. Cách so sánh:“Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa chui trong xó cửa”. Hình ảnh con rùa gợi sự chậm chạp, âm thầm, đặc tính của loài rùa luôn thu mình trong lớp mai rùa kiên cố, né tránh sự giao tiếp với thế giới bên ngoài. Vậy mà, Tô Hoài còn khắc sâu sự cách biệt giữa Mị với thế giới bên ngoài qua không gian tồn tại xó cửa một nơi tối tăm, lạnh lẽo, u ám không ai chú ý. Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà 11
- văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “không nói”, lầm lụi, chậm chạp trơ lì như “con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là “con trâu con ngựa” nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì hình ảnh “con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Sự vô cảm ấy ngày càng nguy hiểm hơn, tăng dần qua cụm từ mỗi ngày. Hình ảnh căn buồng: Để miêu tả thêm sự tù túng, bế tắccủa cuộc đời Mị, Tô Hoài đã khắc sâu ấn tượng qua hình ảnh ô cửa sổ kín mít là kín như bưng, kín không có ánh sáng mà chỉ có “một lỗ vuông chỉ bằng bàn tay” quá nhỏ bé, trông ra ngoài không biết là sương hay là nắng. Ở miền núi, sương xuất hiện vào buổi sáng và chiều, và thường thấy nắng ở buổi trưa mà Mị không biết là sương hay nắng có nghĩa là không xác định được thời gian trôi chảy, không xác định được cuộc sống ở bên ngoài. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian, cuộc sống ấy không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngày.Cụm từ “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy” diễn tả thời gian dài với cuộc sống không thay đổi, muôn đời như thế, từ lúc làm dâu nhà thống lí cuộc đời Mị vẫn diễn ra mịt mờ. Hình ảnh căn buồng thật giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam cầm tuổi xuân của Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng trong căn buồng Mị nằm đối lập với một thế giới bên ngoài lồng lộng của mây trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp nập của nhà thống Lí Pá Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có nhiều tiền nhiều thuốc phiện nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở, thậm chí không bằng con ở. Căn buồng ấy giống như một miền đời bị quên lãng. Ý nghĩ của Mị: Mị từng muốn chết mà không được, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. “Cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy và trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Đó là một ý nghĩa khiến người đọc xót xa bởi chẳng còn đâu cô Mị ngày nào biết khóc trước cuộc đời bất công. Ý nghĩ này hoàn toàn trái ngược với lúc đầu khi Mị về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Lúc ấy Mị đau khổ, phản ứng dữ dội, thậm chí muốn ăn lá ngón tự tử thì đến lúc này diễn biến tâm trạng Mị hoàn toàn khác, Mị đã chấp nhận số phận:“Mị cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy” nghĩa là chấp nhận cuộc sống cầm tù không đấu tranh không muốn thay đổi, bằng lòng với số phận nhưng nguy hiểm hơn đó không phải sự bằng lòng một chốc một lát mà vĩnh viễn cuộc đời mình đến “khi nào chết thì thôi”. => Tâm trạng của Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau, mất hết khái niệm về thời gian, về cuộc sống. Mị trở nên vô cảm, tê liệt về tinh thần. Mặc dù nhà văn không miêu tả hình dáng của Mị trong những câu văn ngắn gọn này nhưng người đọc vẫn bị ám ảnh về một cô gái “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. 1212
- => Đoạn trích đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn: Tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ tấm lòng xót xa thương cảm cho số phận người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo quen thuộc trong văn học. b.Đoạn trích 2: * Vị trí đoạn trích: Nhà văn Nguyên Khải đã từng có một niềm tin mãnh liệt :“Trên đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”câu nói thật đúng với nhân vật Mị. Mùa xuân ở Hồng Ngài, thiên nhiên năm ấy có sức làm say lòng nguời: “Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “Gió và rét rất dữ dội”. Sự xuất hiện của những chiếc váy ở nhiều làng Mèo đỏ: “Những đứa trẻ cười ầm trước sân nhà”, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha từ xa vọng lại. Tâm hồn bắt đầu hồi sinh, Mị uống rượu và có sự đổi thay trong suy nghĩ. Cũng tại căn buồng quen thuộc Mị năm, tuy nhiên ý nghĩ lần này của Mị đã thay đổi. Mị thấy niềm vui trở lại, có ý thức được về tuổi trẻ, về sức sống, giá trị của bản thân. Sức sống của Mị đã hồi sinh, vào thời khắc đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Mùa xuân ở Hồng Ngài, thiên nhiên năm ấy có sức làm say lòng nguời: “Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “Gió và rét rất dữ dội”. Sự xuất hiện của những chiếc váy ở nhiều làng Mèo đỏ:“Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ” gợi một thanh xuân tươi trẻ. Cuộc sống tràn đầy màu sắc, âm thanh : “Đám trẻ đợi Tết chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha từ xa vọng lại. * Phân tích diễn biến tâm trạng Mị Tiếng sáo có một vị trí quan trọng trong tâm hồn Mị và chắc chắn tiếng sáo đã lưu giữ những kỉ nệm đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân nên nó mới có khả năng đánh thức Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, Mị bắt đầu phản kháng:“Cứ uống từng bát”, như nuốt hờn, nuốt tủi quên đi hiện tại phũ phàng hướng về qua khứ tươi đẹp. Mị say rượu như một người mộng du hoàn toàn không ý thức được hành động của mình. Tâm trạng Mị hoàn toàn thay đổi: “Bấy giờ Mị ngồi xuống giường trông ra cái ô của mờ mờ trăng trắng ấy. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị còn trẻ, Mị vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi.” + Hành động quen thuộc: Không biết bao nhiêu lần mị đã hành động một cách vô thức như vậy nhưng trong tác phẩm đây là lần thứ hai Tô Hoài nhắc đến hành động của Mị ngồi xuống giường trông ra cái ô của mờ mờ trăng trắng. + Tuy nhiên, tâm trạng của Mị so với lần thứ nhất đã thay đổi: Mị thấy phơi phới trở lại. Từ láy phơi phới, nghệ thuật đảo ngữ đã diễn tả thật tinh tế 13
- cảm xúc trong Mị, lòng cô như đang dâng lên những đợt sóng trào của một trái tim yêu. Trong lòng đột nhiên vui sướng, có lẽ cảm xúc ấy đến với Mị thật bất ngờ bởi chẳng ai dám tin Mị đã từng không nhớ, không muốn nhớ. Rõ ràng, Mị đã có sức sống từ trước, do bị vùi dập nay mới có cơ hội hồi sinh trở lại, như những đêm Tết ngày trước. Những đêm Tết ngày trước phải chăng là những đêm Mị đã từng thấp thỏm, ngóng trông, chờ tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu, hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên tìm ngón tay đeo nhẫn của người mình thầm yêu trộm nhớ? Những đêm Tết ngày trước cũng có thể là những đêm Mị cũng như bao đôi lứa yêu đương nghe tiếng chó sủa xa xa, nhận thức được đó là khoảnh khắc rung động của tâm hồn khi trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách vào rừng chơi. Đúng là một vùng kí ức sáng lấp lánh, một thanh xuân rạo rực khát vọng yêu đương giờ đã ngoài tầm tay với của Mị. Lúc ấy, Mị có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. + Mị bất ngờ nhận ra rằng: Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Điệp từ trẻ lặp lại hai lần cùng với từ vẫn, những từ chỉ mức độ “lắm”, “còn” nhằm nhấn mạnh vào độ xuân thì của Mị. Từ trẻ có thể hiểu là Mị còn trẻ tuổi nhưng cũng có thể hiểu rằng những cảm xúc lúc này khiến cho trái tim Mị trẻ lại, tình yêu có khả năng làm trẻ lòng, trẻ hóa con tim như ta đã gặp trong thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh: Bồi hồi trong ngực trẻ. +Từ nhận thức mình trẻ lắm, vẫn còn trẻ mà lòng Mị nảy sinh khát vọng: “Mị muốn đi chơi”. Với người vùng cao Tây Bắc, đặc biệt là tuổi trẻ, Tết đến xuân về những chàng trai cô gái được hò hẹn, được thổ lộ tình yêu thầm kín của mình. Như vậy, trái tim Mị cũng đang khao khát được yêu thương, được tới những đám chơi, cuộc vui, hòa vào không khí rạo rực của mùa xuân Tây Bắc, của tình yêu và hạnh phúc. + Mị nhận thức được sự vô lí trong cuộc hôn nhân của mình:“Bao nhiêu người có vợ còn đi chơi ngày Tết huống chi Mị với A Sử chẳng có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. + Mị đã phản ứng dữ dội. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” .Thái độ của Mị dứt khoát mạnh mẽ được thể hiện qua các giả thiết, giọng điệu mạnh, cách nói phủ định “nếu có…”, “lúc này…”, “ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ”. Hai từ “chết ngay” thể hiện sự phản kháng mãnh liệt, không chần chừ, không do dự, không đắn đo. Mị muốn chết giống như lần thứ nhất Mị về quỳ lạy cha về ăn lá ngón tự tử. Đó là thái độ chối bỏ thực tại, không cam tâm làm con trâu, con ngựa chỉ quen với cuộc sống nô lệ “biết nhai cỏ”, chỉ quen với thân phận phụ thuộc “đổi tàu ngựa”. Mị muốn chét ngay để không phải nhớ lại quá khứ với những ước mơ, khát khao của mình. Mị đã từ cõi quên đã trở về cõi nhớ, chỉ có điều “không buồn nhớ” phải chăng vì Mị thấy mình khổ quá, thấy những tháng ngày dằng dặc đã qua là một giấc mơ hãi hùng bấy lâu nay? Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Giọt nước mắt một lần nữa lại sôi lên nóng bỏng trên khuôn mặt Mị tưởng như 1414
- dòng suối đã cạn khô bấy lâu nay. Nước mắt của nuối tiếc quá khứ, của đắng cay trước thực tại và hãi hùng nghĩ đến tương lai. => Tâm trạng Mị lúc này đã có sự thay đổi. Từ một con người tê liệt về ý thức phản kháng, Mị đã bắt đầu hồi sinh, từ đó chứng tỏ sức sống tiềm tàng trong Mị vô cùng mãnh liệt. 3. Nhận xét a. So sánh đoạn 1 với đoạn 2 Khắc họa tâm trạng Mị trong tình huống Mị làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra. Những suy nghĩ của Mị đều diễn ra ở căn buồng kín mít, tối tăm thiếu ánh sáng và sự sống. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm trong Mị có những suy nghĩ khác nhau. Ở đoạn trích thứ nhất cho thấy suy nghĩ của nhân vật hoàn toàn tuyệt vọng, buông xuôi sự sống, phó mặc cho sóng gió cuộc đời xô đẩy, định đoạt. Còn ở đoạn trích thứ hai, Tô Hoài đã cho ta thấy Mị từ một con người âm thầm, chai sạn về cảm xúc, không còn sức phản kháng, khi đêm tình mùa xuân đến, khát vọng sống, cảm xúc tâm hồn đã được hồi sinh. Cả hai đoạn trích đều sử dụng bút pháp hiện thực, xây dựng tình huống độc đáo. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài dường như đã hóa thân vào nhân vật, để thấy được những suy nghĩ thầm kín nhất của Mị. Hai đoạn trích cho thấy sự khác nhau về phương diện nghệ thuật. Ở đoạn 1, ô cửa sổ được miêu tả kĩ lưỡng còn suy nghĩ Mị được miêu tả trong một câu văn. Ở đoạn trích 2, tác giả dành những câu văn để miêu tả về tâm trạng của Mị. Những câu văn này sử dụng từ ngữ đặc sắc như từ láy, từ ngữ chỉ cảm xúc, điệp từ, đặc biệt câu văn ngắn dồn dập như nhịp đập trái tim nóng bỏng của Mị, sự khẩn thiết cần được sống đúng giá trị. b.Nhận xét * Nhận xét về nhân vật Mị: Mị là hiện thân cho sức sống tiềm tàng và mãnh liệt. Sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng không gì dập tắt được, giai cấp thống trị tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra, dẫu có giam cầm Mị về thể xác nhưng chỉ ở một thời điểm nào đó mà thôi. Nhìn bề ngoài, Mị tưởng như vô cảm, tê liệt tinh thần nhưng ẩn sâu trong tâm hồn Mị vẫn là một trái tim khao khát sống, khao khát tự do và hạnh phúc. Khát vọng đó luôn âm ỉ trong Mị như ngọn lửa trong bếp than không chỉ chờ cơ hội thích hợp là bùng lên mãnh liệt không có gì dập tắt được. => Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người lao động vùng cao Tây Bắc trong hoàn cảnh khốn cùng bị áp bức bóc lột dã man vẫn không nguôi khát vọng sống, khát vọng được đổi đời. * Nhận xét vê tác phẩm: Phơi bày hiện thực về sự tàn bạo của giái cấp thống trị vùng cao Tây Bắc, số phận bất hạnh của những con người nơi đây, cụ thể là nhân vật Mị. Thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân đạo của nhà văn: Qua nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo sức sống của mình: đó là lòng cảm thông đối với những số phận bất hạnh, đó chính là nhân vật Mị với thân phận con sâu cái kiến, thân phận con tằm rút ruột nhả tơ, bị đè nén làm 15
- thui chột sức sống. Tuy nhiên trong hoàn cảnh đó, nhà văn phát hiện, nâng niu và ngợi ca vẻ đẹp nhân vật đó là sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị: ý thức được giá trị của bản thân, khát khao cuộc sống lứa đôi và đặc biệt Tô Hoài đã đem đến một tiếng nói nhân đạo mới mẻ đó là sự vận động của cốt truyện từ ánh sáng ra bóng tối, từ nỗi buồn đến niềm vui cũng như Chế Lan Viên đã từng nói: “Từ thung lũng đau thương đến với cánh đồng vui”. Đồng thời Tô Hoài tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến cũng với những thế lực thần quyền, pháp quyền, gia quyền đã đẩy con người vào vòng lao khổ. Từ đó gióng lên một hồi chuông đòi quyền sống chính đáng của con người. * Lí giải: Sở dĩ đoạn trích nói riêng và tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói chung thấm đẫm tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài bởi lẽ, trước hết Tô Hoài là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa, ông đã kế thừa tinh thần nhân đạo thấm nhuần trong dòng chảy của văn học dân tộc. Tô Hoài là thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành trong Cách mạng vì thế nhà văn sớm được giác ngộ Cách mạng, thấy được tương lai của con người và tiền đồ của dân tộc như nhà thơ Chế Lan Viên đã chia sẻ: Ánh sáng đã soi đường cho tôi và phù sa đã bồi đắp tâm hồn tôi. Tác phẩm thuộc giai đoạn văn học 1945 1975 với cảm hứng lãng mạn tràn đầy nên sự vận động của cuộc đời nhân vật và cốt truyện là tất yếu. * Đánh giá: Nhà văn Tô Hoài góp thêm cho văn học dân tộc một tiếng nói nhân đạo vừa sâu sắc vừa mới mẻ. Nếu văn học hiện thực phê phán 1930 1945 nội dung nhân đạo chỉ dừng lại ở sự cảm thông, ý nghĩa tố cáo, sự bênh vực, phát hiện, nâng niu và trân trọng vẻ đẹp của con người thì văn học sau 1945 1975 còn mở ra cho nhân vật của mình một con đường sống mà tiêu biểu đó là sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. C. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần nghị luận. Đề 2: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài 2 lần miêu tả Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: “Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa chui trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào Mị trông ra cũng thấy trăng trắng không biết sương hay nắng. Mị nghĩ rằng cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy bao giờ đến chết thì thôi.” Và khi đêm tình mùa xuân đến: “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Phân tích hình ảnh Mị trong 2 lần miêu tả trên. Từ đó làm nổi bật sự thay đổi trong diễn biến tâm lí nhân vật để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. A.Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 1616
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Trích 2 đoạn văn. B. Thân bài I. Khái quát chung II. Cảm nhận 2 đoạn trích 1.Đoạn 1 (Tham khảo đề 1) 2.Đoạn trích 2: * Hoàn cảnh, vị trí của đoạn trích: Trong tác phẩm “Mùa lạc”, nhà văn Nguyễn Khải đã từng gieo vào lòng người niềm tin vô hạn:“Trên đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Điều đó thật đúng với nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ”. Mị như một mầm cây xanh tươi nơi đại ngàn hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc ấy chẳng mấy chốc Mị trở nên khô héo khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Nhưng trong Mị vẫn ẩn sâu một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức sống ấy được ví như hạt mầm nằm sâu trong lòng đất chỉ chờ giọt mưa xuân là tách vỏ, nảy mầm non tươi xanh. Giọt mưa xuân ấy chính là dịp tết ở Hồng Ngài. Mị không chỉ thay đổi trong tâm trạng: bồi hồi, nhớ về ngày trước, thấy mình còn trẻ, muốn đi chơi mà Mị còn nổi loạn trong hành động: * Cảm nhận đoạn trích: Mị phản kháng trước A Sử: “Bây giờ Mị cũng không nói” (Đã học) Mị thức tỉnh. “Mị đến góc nhà…cho sáng”: Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng để xua tan bóng tối đang bao phủ căn buồng mình, đem đến một nguồn ấm nóng. Tuy nhiên, ánh sáng đó không chỉ dừng lại ở ánh sáng vật lí mà nó còn là biểu tượng cho sự sống, Mị thắp lên ngọn đèn là thắp lên ánh sáng cho cuộc đời mình. Có thể nói hành động Mị thắp đèn là một bước chuyển quan trọng đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, nhân vật đang thắp lên ánh sáng của tin của hi vọng. Đúng như dân gian đã từng nói: “Sống có dầu đèn, chết có kèn trống”. Ánh sáng ở đây chính là biểu tượng cho sự hồi sinh, là con đường Mị đã lựa chọn. Đó là tín hiệu của sự đổi đời, sự vận động trong tư tưởng của nhân vật. Mị đã không chấp nhận cuộc sống tăm tối, tù túng, ngột ngạt, bế tắc ở cái căn buồng kín mít kia. Hình ảnh này khiến cho ta liên tưởng đến “hai hào dầu” trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, khi Tràng có vợ, anh đã quyết định táo bạo mua “hai hào dầu” thắp lên cho sáng giữa lúc ánh sáng của xóm ngụ cư đã tắt lịm từ chiều rồi. Ánh sáng ấy chính là hạnh phúc dù rất mong manh bên bờ vực thẳm của cái chết nhưng nó khẳng định hạnh phúc phải được thông báo và con người có quyền hi vọng. Vậy, hành động của Mị chứng tỏ sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt chống lại cuộc sống tù ngục nhà thống lí. Mị ý thức được giá trị của mình và khao khát về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc sống tự do: + Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo: Tiếng sáo vấn vít lấy tâm hồn Mị, trở đi trở lại, nó nhắc nhở về một thời tuổi trẻ nồng nàn say mê. Tô Hoài đã dùng nhiều từ rất đắt, để miêu tả tiếng sáo “rập rờn”. Tiếng sáo vốn trừu 17
- tượng vô hình nhưng qua ngôn ngữ tài hoa của Tô Hoài nó trở nên hữu hình có độ cao, độ trầm, có xa có gần. Tiếng sáo thực hay còn là tiếng lòng Mị đang rung lên, đang ngân lên những vĩ thanh của tình yêu, trái tim Mị như đang bay bổng theo tiếng sáo thiên thai ấy? + “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Câu văn ngắn dồn dập như diễn tả được khao khát khẩn thiết, cấp bách những ý nghĩ cứ không ngừng thôi thúc tâm trí Mị. Tô Hoài rất tinh tế khi chỉ thay đổi một vài từ ngữ nhưng đã diễn tả được sự thay đổi ngày càng mạnh mẽ trong Mị, bởi “muốn” chỉ là khát vọng có thể xảy ra hoặc không, còn “sắp” là tương lai rất gần rồi, hiện thực chỉ như trong một tầm tay với mà thôi. Mị đã vượt khỏi ba tù ngục nhà thống lí, không còn sợ pháp quyền, gia quyền và thần quyền nữa khi Tô Hoài thêm một từ cũng, có nghĩa là Mị đòi mình ngang hàng với người khác. + “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động quấn tóc, lấy váy hoa để khẳng định Mị ý thức được mình còn trẻ, còn đẹp, cần phải làm duyên để hưởng hạnh phúc. Đó là thiên tính nữ đã trở về thay thế cho một công cụ lao động đang tồn tại ở nhà thống lí Pá Tra. Chiếc váy hoa đã trở thành một hình ảnh đặc sắc mang nét đẹp phong tục tập quán của vùng cao Tây Bắc, bởi nó là vật bất li thân của người con gái vùng cao Tây Bắc mỗi khi Tết đến xuân về. Chẳng thế mà đôi mắt tinh tế của nhà văn Tô Hoài đã có những câu văn thật đắt, thật sang khi miêu tả về chi tiết ấy: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã được đem ra phơi trên những mỏm đã xòe như những con bướm sặc sỡ”. Cái váy hoa cùng với hành động “quấn lại tóc” là tín hiệu cho thấy Mị đã ý thức được cái đẹp và có khát vọng được tự do. Mị muốn sống lại với quá khứ đẹp đẽ thuở nào. “Mị thổi sáo giỏi, mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. => Tâm trạng và hành động đó đã cho thấy sự hồi sinh, sự thức tỉnh mạnh mẽ của Mị. Từ một con người âm thầm, câm lặng, chai sạn cảm xúc trong tâm hồn, không còn sức phản kháng giờ đay khát vọng sống ấy đã trỗi dậy. Tâm hồn Mị đã được hồi sinh trong đêm tình mùa xuân. III. Nhận xét Hai đoạn trích thể hiện diễn biến tâm trạng Mị ở nhà thống lí Pá Tra, tuy nhiên có sự khác nhau ở mỗi đoạn trích. Đoạn trích thứ nhất là sự bằng lòng, chấp nhận số phận cho thấy Mị bị thui chột về ý thức phản kháng, trở thành một công cụ lao động, ngày càng chết dần chết mòn. Còn ở đoạn trích thứ hai, Tô Hoài đã diễn tả sự vận động trong tâm lí của nhân vật, ở Mị đã tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, không chỉ thể hiện qua suy nghĩ mà còn thể hiện ở hành động dứt khoát, kiên quyết. Cả hai đoạn trích đều xây dựng tình huống độc đáo để làm nổi bật tính cách nhận vật Mị và chủ đề của tác phẩm. Cả hai đoạn trích đều lấy bối cảnh không gian ở nhà thống lí, tuy nhiên ở đoạn trích thứ hai thời gian được nhắc đến cụ thể hơn đó là đêm tình mùa 1818
- xuân. Ở đoạn trích thứ nhất, nhà văn sử dụng bút pháp hiện thực, hình ảnh biểu tượng là căn buồng thì ở đoạn trích thứ hai sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, biện pháp tu từ ẩn dụ (ánh sáng cuộc sống tự do, sức sống), đảo ngữ: “rập rờn tiếng sáo”. Nhịp điệu câu văn cũng có sự khác nhau để diễn tả kiếp sống lầm than đoạn trích thứ nhất đã sử dụng câu văn dài còn đoạn thứ hai, câu văn ngắn diễn tả không khí dồn dập, náo nức, khao khát đi chơi của Mị. Nhận xét về Mị (Tham khảo đề 1, nhận xét khác ở chỗ suy nghĩ đã biến thành hành động). Nhận xét về tác phẩm và tác giả Tô Hoài (Tham khảo đề 1) Lí giải (Tham khảo đề 1). C. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần nghị luận. Đề 3:Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, hình ảnh chiếc lá ngón ba lần xuất hiện trong tác phẩm. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài rất nhiều lần nhắc đến hình ảnh “nắm lá ngón”. Anh/chị hãy phân tích vẻ đẹp của Mị qua 3 chi tiết sau: “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất. Nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng.” và rồi“Lần lần…tự tử nữa” , lần cuối cùng: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa.” A.Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Nêu vấn đề cần nghị luận: Mị là nhân vật trung tâm của sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Tuy nhiên, sức sống ấy được diễn tả với tâm lí vô cùng phức tạp. Đặc biệt, khi Mị tìm đến lá ngón trong ba lần như sau: “Sau mấy tháng làm dâu…hái trong rừng”, “Lần lần…tự tử nữa” và trong đêm tình mùa xuân “Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không muốn nhớ nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. B.Thân bài I. Khái quát chung về tác phẩm để dẫn vào vấn đề cần phân tích Xuất xứ Hoàn cảnh sáng tác Vị trí II.Cảm nhận 1. Đối tượng 1 * Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: Chi tiết “lá ngón” xuất hiện lần thứ nhất ở tác phẩm là sau khi Mị bị A Sử bắt về làm vợ trở thành con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra. Từ đây, Mị đã mất đi một tình yêu đẹp, một cuộc sống tự do, lương thiện, hạnh phúc. Từ một thiếu nữ Tây Bắc tràn trề cơ hội được hưởng tình yêu và một cuộc sống tốt đẹp, Mị đã trở nên đau khổ và tìm đến lá ngón để kết liễu đời mình. * Phân tích chi tiết: 19
- Những ngày ở nhà thống lí Pá Tra “Có mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc”.Thời gian đêm tối là lúc con người được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả, lẽ ra được hưởng cuộc sống êm đềm, tuy nhiên Mị đã khóc “mấy tháng ròng”. Đêm tối đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật trong văn học bởi lúc đó con người đối diện với lòng mình và nhận ra cuộc sống bi kịch của bản thân. Nỗi lòng đó, ta đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình, nình lại thương mình xót xa Khi xưa phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường” Đó là giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ, tức tưởi, tủi phận. Thời gian đau khổ kéo dài “có đến hàng mấy tháng” và dường như nỗi đau khôn cùng khiến Mị phải tìm đến lá ngón. “Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe, trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở”. Hai tròng mắt đỏ hoe gợi biết bao đau đớn, dường như sau mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc đã dâng lên đến đỉnh điểm, quá sức chịu đựng của Mị. Mị đã phải quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở giống như một hành động xin lỗi, cũng có thể đó là lời tạ từ bởi Mị quyết định tìm đến “lá ngón”. Cha Mị biết con có ý định tự tử: “Mày về lạy … con ơi!”. Trước tình thế đó, “Mị chỉ biết … áo”. * Ý nghĩa của hành động: Phản ánh một hiện thực: Hành động tìm đến lá ngón của Mị thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ, Mị đã không chấp nhận kiếp sống vô nghĩa ở nhà thống lí Pá Tra: Cuộc sống không tình yêu, không có ý nghĩa,… Tuy nhiên, Mị muốn ăn lá ngón để tự kết liễu đời mình nhưng không đủ khả năng thoát khỏi xiềng gông vô hình của nhà thống lí đó là món nợ truyền kiếp. Mị chết rời, mỗi năm cha mị vẫn phải trả lãi một nương ngô. Chi tiết ấy đã phản ánh một hiện thực tàn nhẫn về số phận của người lao động vùng cao Tây Bắc: “Trở đi mắc núi, trở về mắc sông”. Họ đúng là thân phận con sâu cái kiến trước sự đọa đày của giai cấp thống trị. Thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn: + Hành động của Mị thể hiện sự phản kháng của một con người có ý thức, khao khát tự do và hạnh phúc cháy bỏng của tuổi trẻ đang diễn ra trong con người Mị. + Tuy nhiên, nghe theo lời cha Mị chỉ bưng mặt khóc.“Mị ném nắm lá ngón … nhà thống lí”. Nếu bỏ về quỳ lạy, khóc với cha thể hiện niềm ham sống mãnh liệt thì chi tiết ném nắm lá ngón xuống đất không phải Mị không còn ham sống một cuộc sống tự do và hạnh phúc nữa và Mị không đành chết vì Mị không chiến thắng được ràng buộc về bổn phận làm con, chi tiết đó ánh lên một con người có lòng hiếu thảo vô bờ. 2. Đối tượng 2 2020
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng Atlat và thực hành biểu đồ Địa lí lớp 12
26 p | 159 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 47 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng phát âm thông qua hoạt động lồng tiếng phim tiếng Anh cho học sinh lớp 10A4 trường THPT Yên Mô B
32 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 19 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống hiệu quả khi dạy phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
11 p | 121 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức thực tiễn cho học sinh qua nội dung Hàng hóa - Giáo dục công dân 11
31 p | 43 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia
61 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng giải toán bằng phương pháp lượng giác hóa
39 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
60 p | 43 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: Giáo dục địa phương để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, đọc hiểu văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ cho học sinh lớp 11 THPT
81 p | 64 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập Nhị thức Newtơn
40 p | 43 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm văn thuyết minh qua hoạt động tìm hiểu làng nghề truyền thống và di tích lịch sử tại địa phương
12 p | 67 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 35 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực độc lập của học sinh qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương nhóm Halogen lớp 10 trung học phổ thông
39 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn