Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
lượt xem 4
download
Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với mục tiêu nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận bác bỏ trong làm văn nghị luận cho học sinh. Giúp học sinh phát huy được năng lực cá nhân, lối tư duy phản biện, khả năng sáng tạo cũng như sự tự tin bộc lộ ý kiến riêng trước những vấn đề văn học hay đời sống, xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập Tự do Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 05/09/2014. 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): không. 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm 4.1. Giáo viên dạy rập khuôn theo SGK: trong giờ dạy kiến thức lí thuyết Thao tác lập luận bác bỏ giáo viên mới chỉ thực hiện các nội dung SGK theo những định hướng trong SGV. Thông thường, giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu theo phần nội dung trong SGK, sau đó nhận xét, bổ sung rồi rút ra kết luận theo phần ghi nhớ trong SGK. Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí thuyết đã học vào việc giải quyết các bài tập trong SGK. Bên cạnh đó, thời gian dành cho bài “Thao tác lập luận bác bỏ” là một tiết và một tiết cho bài “Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ”. Do đó, giáo viên ít có điều kiện mở rộng kiến thức và việc luyện tập cũng chưa được kĩ càng, sâu sắc. Bên cạnh những thành công đạt được do việc đổi mới chương trình SGK Ngữ văn, việc giảng dạy của giáo viên cũng còn gặp nhiều l úng túng, chất lượng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ chưa đạt như mong muốn. Học sinh mắc khá nhiều lỗi thông thường. Việc giảng dạy đã có lí luận nhưng việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn viết b ài dùng thao tác lập luận bác bỏ của học sinh còn gặp không ít khó khăn. 4.2. Học sinh thụ động nghe chép: trong quá trình học thao tác lập luận bác bỏ, nhìn chung, học sinh vẫn còn thụ động. Mặc dù, giáo viên khi lên lớp đã cố gắng đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, dạy học tích cực hóa, nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, học sinh chưa thực sự tiếp thu một cách chủ động, sáng tạo mà phần lớn các 1
- em vẫn học theo kiểu cũ: nghe, ghi, chép, nhớ và tái hiện những gì giáo viên nói mà chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Thực tế, mặc dù được học thao tác lập luận bác bỏ nhưng giờ luyện thực hành còn khá ít. Các đề kiểm tra cũng ít khi đề cập tới thao tác này. Đây cũng là một bất cập khiến các em học sinh không được trau dồi kĩ năng làm văn bác bỏ. Ngoài ra, cần phải nói tới thực trạng học sinh ngại chữa lỗi trong các bài kiểm tra của mình. Khi giáo viên hướng dẫn, các em nhận ra lỗi sai nhưng không trực tiếp chữa những lỗi sai đó vào bài. Nó cho thấy các em chưa ý thức đầy đủ về giờ luyện tập thực hành. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: 5.1. Trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục. Điểm mấu chốt của đổi mới phương pháp dạy học là việc người học đối tượng của hoạt động dạy, chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, để khám phá những điều mình chưa rõ, chứ không phải là tiếp thu một cách thụ động những tri thức đã được giáo viên sắp đặt, từ đó nắm chắc kiến thức, kĩ năng, không rập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. 5.2. Trước cải cách giáo dục, Làm văn được tách thành một phân môn và được soạn thành sách giáo khoa (SGK) riêng. Quan điểm tích hợp gần đây đã dẫn tới sự ra đời của SGK Ngữ văn với ba bộ phận: Văn học Làm văn tiếng Việt, dựa trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Việt cho học sinh. Làm Văn là môn thực hành tổng hợp. Năng lực mà học sinh có được ở phần Văn học (đọc hiểu và tiếp nhận văn bản), Tiếng Việt (năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt) tạo điều kiện trực tiếp để đạt tới mục tiêu quan trọng nhất của làm văn: tạo lập văn bản (nói và viết). Giáo dục phổ thông coi trọng trình độ viết văn của học sinh, bởi với tư cách là "đầu ra", kết quả làm văn của học sinh phản ánh kết quả học Tiếng Việt và Văn học. Trong nhà trường phổ thông, văn nghị luận được đánh giá là trọng tâm của chương trình dạy học Ngữ văn, bởi lẽ, văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những gì mình đề xuất. Bản thân văn nghị luận có liên quan trực tiếp tới quá trình các em học sinh tập vận dụng tổng hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào quá trình làm văn, rèn luyện kĩ 2
- năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận. Những đề bài nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải quyết nhằm xây dựng một phương pháp, tư tưởng khoa học để có nhận thức và thái độ đúng trước những vấn đề bàn luận cũng tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. Để học sinh làm được các bài văn nghị luận hay, các em phải hiểu được các thao tác lập luận có trong văn nghị luận. 5.3. Trước đây, thao tác lập luận được gọi là kiểu bài nghị luận. Nhưng do việc thay đổi quan điểm giáo dục và cũng là do thực tế viết văn nghị luận là phải vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, chương trình Ngữ văn trung học phổ thông (THPT) đã đưa thêm một số thao tác lập luận cơ bản trong đó có thao tác lập luận bác bỏ. Có thể nói, trong sáu thao tác lập luận (giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh, so sánh, bác bỏ), bác bỏ là thao tác học sinh ít được rèn luyện hơn cả. Điều này xuất phát từ cái khó của bản thân thao tác. Một lí do khác là hiện nay trong các kì thi, dạng đề yêu cầu học sinh vận dụng thao tác lập luận này chưa nhiều, bởi những vấn đề đưa ra bàn luận hầu hết là những vấn đề đúng, mang tính chân lí. Thực tế này đưa đến tình trạng học sinh chủ quan với lối tư duy một chiều, chưa có ý thức chuẩn bị tinh thần phản biện trong tranh luận, dẫn đến phiến diện trong tư duy và lập luận. 5.4. Về vấn đề thao tác lập luận bác bỏ, từ rất xa xưa con người đã có những cách bác bỏ ý kiến sai lầm rất thú vị. Trong cuốn Phương pháp biện luận Thuật hùng biện của Triệu Truyền Đống do Nguyễn Quốc Siêu biên dịch. Triệu Truyền Đống đã đưa ra 280 bài viết tổng kết những cách thức, chiến thuật và mưu mẹo giành chiến thắng trong tranh luận trong đó có nói tới bác bỏ thông qua phần nghiên cứu về tranh luận. Cùng viết về nghệ thuật tranh luận, Dale Breckenridge Carnegie trong Đắc Nhân Tâm cũng đã đưa ra những phương pháp tranh luận hết sức sắc sảo. Trong 14 bí quyết để luôn tranh luận thành công, do tạp chí Doanh nghiệp sưu tầm, đã đưa ra 14 bí quyết quan trọng giúp chiến thắng trong các cuộc tranh luận, biến những cuộc tranh luận thành những trao đổi thú vị, có tinh thần xây dựng và cùng đi tới những kết luận đúng đắn. 3
- Như vậy, nghệ thuật bác bỏ đã được bàn đến trong giao tiếp. Tuy nhiên, đây là một thao tác mới trong SGK Ngữ văn dành cho bậc THPT. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các tài liệu nghiên cứu nghiêng nhiều về việc tìm hiểu văn nghị luận, chẳng hạn các công trình: Phương pháp dạy học Làm văn do Phan Trọng Luận chủ biên đã đưa ra những lí thuyết cơ bản cũng như phương pháp dạy học văn nghị luận cho học sinh. Nghiên cứu cách thức tổ chức một giờ giảng lí thuyết và thực hành làm văn. Cùng tác giả trên, trong cuốn Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 đã đưa ra phương pháp dạy học chương trình SGK Ngữ văn, trong đó có phân môn Làm văn. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những định hướng việc dạy thao tác lập luận bác bỏ ở phương diện lí thuyết cũng như thực hành, chưa có nhiều bài tập cho học sinh rèn luyện. Cuốn Thực hành Làm văn lớp 11 do Lê A chủ biên khẳng định vị trí cũng như tính chất của làm văn (là môn thực hành tổng hợp), nêu lên những kiến thức cơ bản về văn nghị luận cũng như các thao tác về văn nghị luận, trong đó có bác bỏ. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng chưa đi vào nghiên cứu hệ thống bài tập rèn luyện cụ thể về từng thao tác lập luận. Ở nhóm nghiên cứu này, các nhà sư phạm đã quan tâm tới việc dạy lí thuyết và thực hành, coi trọng cả hai khâu cung cấp kiến thức lí thuyết và rèn luyện kĩ năng. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều đã xác định lại vị trí của phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn ở THPT, đưa ra những phương hướng dạy học, hướng ra đề kiểm tra và chấm bài cho học sinh; đồng thời tích hợp các môn học khác vào dạy học làm văn. Nói tóm lại, những công trình này đã xây dựng được một hệ thống kiến thức cơ bản về dạy học làm văn. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những bài tập cụ thể giúp các em học sinh rèn luyện kỹ năng viết văn. Thao tác lập luận bác bỏ cũng được đưa vào SGK (SGK Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 2 do Trần Đình Sử làm tổng chủ biện; SGK Ngữ văn 11, tập 2 do Phan Trọng Luận làm tổng chủ biên); Sách giáo viên; Sách tham khảo (Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11, tập 2 – Phan Trọng Luận). Song cũng vẫn với tinh thần trên, với lượng thời gian ít ỏi, các bài trong SGK cũng mới chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh nhận biết, nhận diện thao tác mà chưa có điều kiện đi sâu vào thực hành. Việc hình thành kỹ năng cho học sinh ở thao tác 4
- lập luận này (cũng như một số thao tác lập luận khác) vì thế còn nhiều hạn chế. Với mong muốn thay đổi thói quen tư duy, mài sắc tư duy để đáp ứng tốt hơn yêu cầu viết văn cũng như phục vụ cho giao tiếp trong cuộc sống, chúng tôi lựa chọn sáng kiến: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến Thứ nhất, nghiên cứu sáng kiến này, các tác giả nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng lập luận bác bỏ trong làm văn nghị luận cho học sinh. Giúp học sinh phát huy được năng lực cá nhân, lối tư duy phản biện, khả năng sáng tạo cũng như sự tự tin bộc lộ ý kiến riêng trước những vấn đề văn học hay đời sống, xã hội. Thứ hai, nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên cũng như chất lượng học tập của học sinh trong việc dạy và học văn nghị luận. Từ đó, giúp bước đầu xóa bỏ tình trạng thờ ơ với môn văn, sợ viết văn, ngại viết văn của một bộ phận học sinh. Giúp cho học sinh và cả giáo viên có thể nối liền khoảng cách văn chương và đời sống, biến những kiến thức sách vở trở nên sinh động trong cuộc sống đời thường, khả năng ứng dụng vào thực tế sinh động và linh hoạt hơn. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến 7.1.1. Giải pháp 1 a. Tên giải pháp: Hệ thống cơ sơ lí luận và cơ sở thực tiễn về bác bỏ, thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. b. Nội dung: Thao tác lập luận bác bỏ là một hoạt động tư duy nhằm giúp cho con người trên cơ sở nhận thức được cái đúng mà biết phê phán cái sai, cái lệch lạc, phiến diện. Tuy nhiên đây là thao tác khá mới trong dạy học Làm văn, song cũng vì mới nên những công trình nhiên cứu về thao tác và dạy học thao tác này chưa nhiều. Vì vậy trong giải pháp này, nhóm tác giả cung cấp kiến thức về: * Cơ sở lí luận: Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động tư duy. Bác bỏ với tư cách là một thao tác lập luận. Bác bỏ với tư cách là một thao tác bộ phận trong kĩ năng làm văn nghị luận. 5
- Kỹ năng và sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập. * Cơ sở thực tiễn. c. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp c.1. Trình bày cơ sở lí luận: c.1.1. Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động tư duy * Khái niệm thao tác Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì thao tác được định nghĩa: Thực hiện những động tác nhất định để làm một việc gì đó trong sản xuất.. Trong tâm lí học, thao tác được xem là những hệ thống những hành động trong tư duy. Thao tác chính là cốt lõi của các cách thức hành động bị quy định và phụ thuộc chặt chẽ bởi phương tiện, điều kiện cụ thể. * Khái niệm tư duy Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005): Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt bộ não người. Tư duy phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lí luận… Như vậy, tư duy chính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật, hiện tượng bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí. * Khái niệm thao tác lập luận: Lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng một cách đầy đủ, chặt chẽ, nhất quán và đáng tin cậy nhằm dẫn dắt người đọc, người nghe đến một kết luận hoặc chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói, người viết muốn đạt tới. Lập luận trong văn nghị luận bao gồm các yếu tố luận điểm, luận cứ, luận chứng, cách thức, phương pháp lập luận. Trong đó, luận điểm chính là ý kiến xác định của người viết về vấn đề đặt ra. Luận cứ là các tài liệu dùng làm cơ sở cho việc thuyết minh cho luận điểm. Còn luận chứng là sự phối hợp tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng để thuyết minh cho luận điểm. Thực chất đây là cách đưa luận cứ vào quỹ đạo logic để tạo sức thuyết phục của luận điểm. Thao tác lập luận: là người viết phải sử dụng ngôn ngữ để nêu vấn đề, trình bày lí lẽ và qua đó đánh giá đúng sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các kiến giả, phát biểu ý kiến, thể hiện rõ lập trường quan điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ được người viết thể hiện thông qua các phương thức tư duy logic như: khái niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt 6
- được mục đích khiến người đọc tin theo. Vậy thao tác lập luận chính là thao tác được sử dụng để thực hiện một hành động lập luận. Nói cách khác, thao tác lập luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động lập luận. Trong cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt, do Lê A chủ biên, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy: Trước đây, nhiều người cho rằng các vấn đề tư duy logic gắn liền với tất cả các ngành khoa học nên sẽ quá rộng nếu coi tư duy là một trong những tiền đề của việc dạy học làm văn. Nhưng gần đây trên con đường xác định một lí thuyết thực sự khoa học cho môn Làm văn, các nhà nghiên cứu lại thấy rằng nhiều vấn đề của làm văn liên quan tới tư duy logic. Các thao tác tư duy như suy diễn, chứng minh, bác bỏ… đã và đang được vận dụng triệt để trong làm văn. Không nắm được thao tác tư duy, không thể tạo dựng những bài văn chặt chẽ, mạch lạc về nội dung, trong sáng về diễn đạt. Trong SGK Ngữ văn 11, tập 2 cũng viết: Nói một cách tổng quát thì các thao tác trên (phân tích tổng hợp, diễn dịch quy nạp) một mặt là thao tác của logic, tức là của hoạt động tư duy nhằm tìm ra chân lí, cũng tức là tìm ra các ý kiến, mặt khác, là thao tác trình bày các ý trong một bài văn nghị luận hoặc: Nghị luận là vận dụng tư duy và ngôn ngữ. Lập luận trong bài làm văn nghị luận là một hoạt động có mối liên hệ trực tiếp tới các hoạt động tư duy, tới vấn đề logic và đó là một hoạt động mang tính trí tuệ cao. c.1.2. Bác bỏ với tư cách là một thao tác lập luận Bác bỏ là một thao tác lập luận cơ bản của quá trình tư duy. Theo Từ điển Tiếng Việt: bác là bác đi, gạt đi, không chấp nhận (bác bỏ ý kiến, bác bỏ luận điệu vu khống, dự án bị bác bỏ…) Khi đứng trước một vấn đề nào đó, có thể có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau: có quan niệm, ý kiến đúng đắn, nhưng cũng có quan niệm, ý kiến không chính xác hoặc không hoàn toàn chính xác, khoa học, người nói (viết) cần có khả năng phát hiện ra những ý kiến, quan niệm mà mình cho là không thỏa đáng để bàn bạc, tranh luận và bác bỏ, có như vậy lập luân mới có giá trị sâu sắc và sức thuyết phục cao. c.1.3. Bác bỏ với tư cách là một thao tác bộ phận trong kĩ năng làm văn nghị luận * Khái niệm văn nghị luận Văn nghị luận là loại văn trong đó người nói, người viết sử dụng lí luận, bao gồm lí lẽ, dẫn chứng, trình bày những ý kiến của mình để làm rõ 7
- một vấn đề nào đó nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo những ý kiến đó. Văn nghị luận bao gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội. * Các thao tác lập luận cơ bản Trong lập luận có các thao tác cơ bản sau: Lập luận giải thích Lập luận chứng minh Lập luận phân tích Lập luận so sánh Lập luận bác bỏ Lập luận bình luận Đây đều là những thao tác hết sức quan trọng trong việc viết một bài văn nghị luận. Lập luận giải thích: là thao tác lập luận sử dụng lí lẽ, kết hợp với dẫn chứng để giảng giải, cắt nghĩa, giúp người đọc, người nghe hiểu rõ một hiện tượng, một vấn đề nào đó. Thao tác giải thích thường được vận dụng khi đề bài có những khái niệm, những nhận xét, nhận định cần làm sáng tỏ, hoặc những cách diễn đạt bằng hình ảnh, hình tượng cần làm rõ nghĩa. Cũng có khi việc giải thích tập trung vào mối quan hệ giữa các khái niệm, các vế của ý kiến, nhận định. Giải thích cần phải sát với khái niệm. Nếu rộng quá thì triển khai sẽ bị xa đề, nếu hẹp quá thì bài viết lại nghèo nàn, thiếu ý. Lập luận phân tích: phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong đối tượng. Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng đối với tác phẩm văn học, phân tích là khám phá ba giá trị của văn học là nhận thức, tư tưởng và thẩm mĩ (chân – thiện – mỹ). Phân tích phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khi phân tích tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ sâu sắc và trình bày ngắn gọn. Lập luận chứng minh: là đưa ra cứ liệu, dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một ý kiến để thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng vào vấn đề. 8
- Để chứng minh, chúng ta đưa lí lẽ trước khi chọn dẫn chứng và đưa dẫn chứng. Cần thiết phải phân tích dẫn chứng để lập luận chứng minh thuyết phục hơn. Cũng có khi thuyết minh trước rồi đưa dẫn chứng sau. Việc đưa ra các dẫn chứng, bằng chứng để chứng minh cần đảm bảo: mối quan hệ giữa chất và lượng của dẫn chứng; tính tiêu biểu, toàn diện của dẫn chứng dựa trên việc xử lí hài hòa các mối quan hệ. Lập luận bình luận: bình luận là đề xuất và thuyết phục người đọc (người nghe) tán đồng với nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng (vấn đề) trong đời sống hoặc trong văn học Lập luận bác bỏ: là dùng lí lẽ và dẫn chứng để gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác, từ đó nêu ý kiến đúng của mình để thuyết phục người nghe, người đọc. Người viết có thể bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc cách lập luận bằng cách nêu tác hại, chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác,…của luận điểm, luận cứ, lập luận ấy. Lập luận so sánh: Là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, hoặc là các mặt trong cùng một sự vật. So sánh để chỉ ra những nét giống nhau gọi là so sánh tương đồng; so sánh để chỉ ra sự khác biệt, đối chọi gọi là so sánh tương phản. Tóm lại, so sánh là để thấy sự giống, khác nhau, từ đó thấy rõ đặc điểm và giá trị của mỗi sự vật, hiện tượng. * Thao tác bác bỏ trong văn nghị luận Như đã nói trên, lập luận bác bỏ là thao tác dùng lí lẽ và dẫn chứng để phê phán, gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác,…Từ đó nêu lên ý kiến đúng của mình để thuyết phục người nghe. Có thể bác bỏ ở các cấp độ, khía cạnh: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ lập luận. Bác bỏ luận điểm: là chỉ ra sự sai lầm của ý kiến (luận điểm). Có nhiều cách bác bỏ luận điểm, thông thường là hai cách: + Dùng thực tế bác bỏ tức tìm ra những điểm trái với thực tế, tác phẩm hoặc đời sống. + Dùng phép suy luận để tìm ra cái sai của luận điểm cần phải bác bỏ. Bác bỏ luận cứ: là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng. Bác bỏ lập luận: là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi logic trong lập luận của người tạo lập văn bản, chỉ ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá trình lập luận. 9
- Ba cách bác bỏ trên đây được tách ra để thuyết minh cho dễ hiểu, trong thực tế chúng lại liên kết với nhau rất chặt chẽ. Mục đích cao nhất của bác bỏ là bảo vệ chân lí, lẽ phải. Xa rời mục đích này, bác bỏ sẽ trở thành ngụy biện, vô bổ và có hại. Khi bác bỏ ý kiến nào đó không phải chỉ đơn giản là tuyên bố ý kiến đó sai lầm, mà quan trọng là phải có lập luận đầy đủ để chứng minh là nó sai thì mới thuyết phục được người đọc, người nghe. Muốn bác bỏ ý kiến đó sai, trước hết phải trích dẫn ý kiến đó một cách đầy đủ, khách quan và trung thực. Sau đó người viết phải làm sáng tỏ hai phương diện: ý kiến đó sai ở chỗ nào và vì sao như thế lại là sai. Để tìm hiểu vì sao ý kiến đó lại sai lầm thì chúng ta phải dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích, lí giải nguyên nhân sai lầm của ý kiến. Khi sử dụng thao tác lập luận bác bỏ chúng ta dựa vào mức độ đúng, sai của các ý kiến mà vận dụng thao tác này cho thích hợp và đưa ra kết quả thỏa đáng. * Mối quan hệ giữa các thao tác lập luận trong văn nghị luận Văn nghị luận chủ yếu dùng các thao tác: chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Mỗi thao tác đều nhằm đạt tới một mục tiêu cụ thể. Trong thực tế, Làm văn nghị luận rất hiếm trường hợp chỉ sử dụng một thao tác lập luận duy nhất. Bởi vậy, cần biết vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. Tùy thuộc vào vấn đề, vào đối tượng tiếp nhận mà người viết có thể chọn một số thao tác nhất định. Việc lựa chọn này tùy thuộc vào mục đích bàn luận. Để người đọc (nghe) bước đầu nhận diện được vấn đề, người viết (nói) phải dùng thao tác giải thích; Nhưng muốn hiểu vấn đề một cách cặn kẽ (hiểu và tin) thì phải dùng phân tích, chứng minh. Cần đề xuất ý kiến thì phải dùng thao tác bình luận. Ttrong một đoạn văn, một bài văn nghị luận sẽ có một hoặc hai thao tác chính có vai trò nòng cốt tạo nên mạch lập luận của vấn đề đưa ra để nghị luận và những thao tác phối hợp giúp cho lập luận được chặt chẽ sinh động, có nhiều chiều. Thao tác lập luận bác bỏ là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống các thao tác lập luận. Bởi trong thực tế, cái đúng, cái sai không tồn tại cách biệt nhau. Trong các ý kiến, có ý kiến đúng, có ý kiến sai, trường hợp này đúng, trường hợp kia sai; Có ý kiến mặt này đúng nhưng mặt kia sai. Phải tùy theo tính chất đúng, sai của các ý kiến mà vận dụng thao tác lập luận bác bỏ cho thích hợp và nêu ra kết quả thỏa đáng. Nói quá hoặc nói chưa tới là tự biến ý kiến của mình thành đối tượng để người khác phê phán, bác bỏ. Để ý 10
- kiến được chấp nhận, thuyết phục được người khác, bác bỏ phải được thực hiện một cách trung thực, có mức độ và đúng quy cách. c.1.4. Kỹ năng và sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập * Quan niệm về kỹ năng Kỹ năng Theo Từ điển tiếng Việt: kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức vào một lĩnh vực nào đó trong thực tế. Trong Tâm lí học, kỹ năng được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là vấn đề hình thành kỹ năng, cùng với đó là sự song song tồn tại nhiều luồng quan điểm. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng: Kỹ năng được hình thành trong hoạt động. A.N.Leonchiev đã mô tả mô hình cấu trúc của hoạt động như sau: Hoạt động hành độngthao tác và tương ứng chúng là các yếu tố khách quan: đối tượng (động cơ) mục đích phương tiện (điều kiện). Như vậy, kỹ năng được hình thành thông qua việc kết hợp giữa hành động, sự nhận thức về mục tiêu hành động và giữa mức độ thực hiện hành động. Kỹ xảo Theo Từ điển tiếng Việt: kỹ xảo là hành động tự động hóa nhờ luyện tập. Trong Tâm lí học, kỹ xảo cũng được nghiên cứu khá nhiều. Có người hiểu kỹ năng là những nấc thang đầu, còn kỹ xảo là những nấc thang cuối. Nhưng cũng có người hiểu là kỹ xảo là thành tố của kỹ năng, là những yếu tố của kỹ năng đã được tự động hóa. Như vậy về cơ bản, kỹ năng mang tính chất máy móc, còn kỹ xảo mang tính chất tự động hóa. Ranh giới giữa kỹ năng và kỹ xảo khó có thể chỉ ra một cách thật rạch ròi, dứt khoát trong thực tiễn dạy học Làm văn. * Quan niệm về hệ thống bài tập Theo cách hiểu chung, hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các các yếu tố có mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau. Mỗi đối tượng trọn vẹn làm một hệ thống. Nói đến hệ thống, cần phải nói đến hai điều kiện: tập hợp các yếu tố và những mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau giữa các yếu tố đó. Bài tập được hiểu theo nhiều cách. Cách hiểu Bài tập là bài ra cho học sinh để vận dụng những điều đã học chủ yếu phù hợp với các bài học lí thuyết, là loại bài mà trong nội dung đã học, có sự phân biệt khá rạch ròi giữa lí thuyết và vận dụng (phần lí thuyết được dạy trước, phần vận dụng được 11
- dạy sau bằng một hệ thống bài tập). Bài tập ở bài học lí thuyết chủ yếu giúp học sinh nắm chắc khái niệm lí thuyết, củng cố các đơn vị kiến thức lí thuyết vừa học. Còn bài tập trong bài thực hành chủ yếu giúp học sinh hình thành phát triển các kĩ năng. Nói cách khác, ở bài học thực hành, phần việc chủ yếu là tổ chức cho học sinh rèn luyện kĩ năng bằng các bài tập thích hợp. Như vậy, hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ cho học sinh phải được xây dựng trên cơ sở tiếp thu, kế thừa mang đầy đủ đặc trưng của một hệ thống: đó là một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố (yếu tố ở đây là loại, kiểu, dạng bài tập) có liên quan với nhau và giá trị của một yếu tố được xác định bởi mối quan hệ giữa nó và các yếu tố khác trong cùng hệ thống. Giống như các trường hợp khác, hệ thống bài tập về thao tác lập luận bác bỏ cũng có tính cấp bậc: loại ( bậc 1), kiểu (bậc 2), dạng (bậc 3)… * Sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập Tâm lí học hiện đại đã kết luận: chỉ trong hoạt động thì kỹ năng mới được hình thành và phát triển. Như vậy bài tập là một tập hợp yêu cầu hoạt động để đạt tới kết quả nào đó. Nếu làm một loại bài tập cùng kiểu lặp đi lặp lại tới mức độ cần thiết thì sẽ hình thành được kĩ năng tương ứng. Như vậy, có thể coi bài tập là phương tiện, kỹ năng là mục đích trọng yếu, chủ yếu cần đạt tới. Bài tập là yếu tố không thể thiếu và có vị trí, vai trò rất quan trọng. Như đã phân tích ở trên, kỹ năng kỹ xảo là sự vận dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn để giải quyết một nhiệm vụ nào đó, là năng lực thực hiện để đạt được kết quả đã đề ra. Do đó muốn có kỹ năng trước hết ta phải có tri thức về một lĩnh vực nào đó và phải trực tiếp thực hiện các thao tác, các hành động và phải luyện tập nhiều lần để đạt được kết quả như mong muốn. Hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ cho học sinh trung học phổ thông được đề cập tới ở đây là loại bài tập được sử dụng trong bài học lí thuyết và cả bài học thực hành. Qua các bài tập, giáo viên giúp học sinh hình thành và phát triển kỹ năng lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. c.2. Cơ sở thực tiễn: Lâu nay trong chương trình sách Làm văn ít chú ý đề cập tới thao tác lập luận bác bỏ. Nay được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 2 và được coi như một trong những thao tác chính được trang bị lí thuyết và thực hành. 12
- Thao tác lập luận bác bỏ được triển khai trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 2 bao gồm các tiết học cụ thể: Về lí thuyết: 01 bài: "Thao tác lập luận bác bỏ". Về thực hành: 01 bài: "Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ". Về số lượng bài tập trong SGK bao gồm có 5 bài, trong đó: Bài tập nhận diện : 2 bài chiếm 40% Bài tập tạo lập: 3 bài chiếm 60% Để các dạng bài tập trong sáng kiến không xa lạ với học sinh, tác giả tiến hành khảo sát SGK Ngữ văn trong nhà trường. Qua khảo sát, chúng tôi rút ra được một số nhận định bước đầu như sau: Một là, các bài tập trong sách vừa mang tính chất củng cố lí thuyết vừa mang tính chất cung cấp các kỹ năng tạo lập đoạn văn sử dụng thao tác lập luận bác bỏ. Bởi vậy, hướng đề xuất bài tập trong sáng kiến cũng cần phù hợp với đặc điểm này. Hai là, các loại bài tập trong SGK chưa đa dạng, số lượng ít. Vì vậy, chúng ta vẫn có thể đưa thêm những bài tập mới để giáo viên có thể tham khảo và đưa ra những bài tập phong phú hơn, giúp các em học sinh có thêm nhiều ngữ liệu mới trong quá trình học thao tác lập luận này. d. Kết quả khi thực hiện giải pháp: Về phía giáo viên: hạn chế được rất nhiều tình trạng giáo viên thuyết giảng lí thuyết khô khan, rập khuôn, máy móc trong các giờ Làm văn. Giáo viên chú trọng nhiều hơn đến việc rèn luyện kỹ năng, vận dụng thao tác lập luận cho học sinh một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn, và thành công hơn cả là giáo viên đã giúp học sinh tiếp cận với cuộc sống thực tế một cách tinh tế; để học sinh là những chủ thể chiếm lĩnh tri thức một cách thực sự, tạo cho học sinh những động cơ hứng thú với phân môn Làm văn. Về phía học sinh: có hiểu biết đầy đủ về cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của thao tác. Học sinh hào hứng với bài học, chủ động khám phá bài học, liên hệ và gắn bài học với thực tế viết bài, với các môn học khác khi tranh biện và thực tế cuộc sống. 7.1.2. Giải pháp 2: a. Tên giải pháp: Xây dựng hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. b. Nội dung: Xác định bốn nguyên tắc chung đối với việc xây dựng hệ thống bài 13
- tập: + Nguyên tắc khoa học. + Nguyên tắc hệ thống. + Nguyên tắc vừa sức. + Nguyên tắc tích hợp. Hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận: + Giới thiệu khái quát bài tập. + Hệ thống bài tập. c. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp c.1. Nguyên tắc chung đối với việc xây dựng hệ thống bài tập Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nói trên của bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ, hệ thống bài tập này phải được biên soạn, xây dựng dựa trên các nguyên tắc nhất định. Đó là những nguyên tắc cơ bản sau: c.1.1. Nguyên t ắc khoa học Tính khoa học của việc xây dựng hệ thống bài tập trước hết đòi hỏi bài tập phải đảm bảo tính chính xác khoa học, đồng thời còn đòi hỏi sự thống nhất, tránh mâu thuẫn giữa nội bộ kiến thức bài tập với các kiến thức được trình bày. Các kiến thức trang bị cho học sinh phải là những kiến thức cơ sở của thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. Tính khoa học còn đòi hỏi các bài tập đưa ra phải mang tính rõ ràng, rành mạch, phù hợp với lí luận dạy học nhằm phát huy tính chủ thể ở học sinh. Cách trình bày bài tập sao cho phù hợp với tâm lí lứa tuổi, tâm lí tiếp nhận và quá trình nhận thức của học sinh, phục vụ đắc lực cho bài giảng của giáo viên về thao tác lập luận bác bỏ. Bài tập trang bị cho học sinh phải là những bài tập cơ bản giúp học sinh tìm hiểu cách thức làm bài văn nghị luận có sử dụng thao tác lập luận bác bỏ, 14
- đồng thời phải hình thành được ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo làm bài văn nghị luận. c.1.2. Nguyên t ắc hệ thống Hệ thống hiểu theo nghĩa chung, là chỉnh thể các yếu tố có liên quan đến nhau, tác động và quy định lẫn nhau. Một trong những mục đích của giải pháp 2 là nghiên cứu để xây dựng, xác lập các kiểu loại bài tập về thao tác lập luận bác bỏ, các mô hình bài tập thích hợp với việc dạy học thao tác lập luận này ở THPT. Ở bất cứ một hệ thống bài tập nào, các bài tập này không thể là một tập hợp hỗn độn, mà phải được sắp xếp, điều phối dựa trên những tiêu chí nhất định để tạo thành một hệ thống tối ưu. Và hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cũng vậy. Bởi việc sắp xếp kiểu loại bài tập thành một hệ thống là sự sắp xếp có cơ sở khoa học và mang tính tự nhiên, chứ không hoàn toàn là sự bày đặt, khiên cưỡng. Theo tinh thần đó, như bất cứ một hệ thống nào khác, hệ thống bài tập rèn kĩ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông mà đề tài xây dựng, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các kiểu bài tập trong các tài liệu trước, cũng mang đầy đủ đặc trưng của một hệ thống: đó là một chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố (yếu tố ở đây là nhóm, loại bài tập) có liên quan với nhau và giá trị của nó được xác định bởi quan hệ giữa nó và các yếu tố khác trong cùng hệ thống. Những mối liên quan giữa các yếu tố trong cùng một hệ thống không phải đơn tuyến, một chiều, theo đường thẳng mà tác động lẫn nhau theo nhiều chiều. Nguyên tắc khoa học luôn liên hệ mật thiết với nguyên tắc hệ thống. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống yêu cầu phải đưa các bài tập một cách toàn diện theo một thứ tự hợp lí và nêu được mối quan hệ giữa chúng, đi từ bài tập dễ đến bài tập khó. Bởi mục đích xây dựng hệ thống bài tập là nhằm củng cố kiến thức và khái niệm, yêu cầu và cách thức làm bài văn nghị luận. c.1.3. Nguyên t ắc vừa sức Hiện nay có nhiều quan điểm về sức của học sinh. "Sức" không phải được chấp nhận như một chỉ số cố định, đồng loạt cho mọi đối tượng, mọi địa bàn, mọi thời đại… "Sức" là cái luôn biến đổi và có sự vận động. Vì vậy, đưa ra hệ thống bài tập cần chú ý tới sức của học sinh (tính vừa sức). Tính vừa sức (học sinh) được hiểu là các bài tập đưa ra phải phù hợp với trình độ tri thức và trình độ nhận thức của học sinh. 15
- Nếu bài tập quá dễ sẽ không phát huy được tính sáng tạo của các em. Nếu bài tập quá khó các em sẽ không đủ kiến thức để giải quyết các bài tập Học sinh ở mỗi lứa tuổi khác nhau có những đặc điểm tâm lí riêng trong quá trình tiếp thu kiến thức và kĩ năng mới. Mặt khác, ở cùng một tập thể học sinh trình độ nhận thức của các em cũng khác nhau vì vậy phải lựa chọn các bài tập khác nhau, giáo viên phải xuất phát từ thực tế trình độ nhận thức của các em để đưa ra các dạng bài tập phù hợp, gây được hứng thú cho các em. Tuân theo nguyên tắc này, người giáo viên phải nắm vững đặc điểm tâm lí của các em, nắm chắc trình độ kiến thức của học sinh để đưa ra những bài tập, để hình thành kỹ năng mới cho các em. Để có thể ứng dụng vào thực tế dạy học, hệ thống bài tập không thể không dựa vào nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của học sinh. c.1.4. Nguyên t ắc tích hợp Tích hợp nghĩa là tổng hợp một đơn vị học, một tiết học hay một bài tập… nhiều mảng kiến thức liên quan tới nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Tích hợp dọc là tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau. Đây là tích hợp đồng tâm, tích hợp theo từng vấn đề trong từng phân môn, cụ thể đó là hướng tích hợp theo mối liên hệ (trực tiếp hoặc gián tiếp), giữa các vấn đề trong cùng một phân môn, giữa các bài học với nhau trong cùng một lớp, giữa lớp trước và lớp sau thậm chí giữa các cấp học. Đó là mối liên hệ kiến thức theo chiều dọc, là mối liên hệ theo kiểu xâu chuỗi, móc xích một cách chặt chẽ. Khi xây dựng hệ thống bài tập cần tận dụng tất cả những hiểu biết lí thuyết về Làm văn mà học sinh đã được học ở lớp dưới để xây dựng bài tập. Tích hợp ngang là dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau xung quanh một chủ đề. Nói cụ thể thì tích hợp ngang được hiểu là tích hợp liên môn, liên phân môn và là hình thức tích hợp theo từng thời điểm. Nói cụ thể hơn đó là sự khai thác triệt để mối liên hệ kiến thức giữa các phần Văn, tiếng Việt và Làm văn trong từng đơn vị bài học, cũng có khi là giữa các đơn vị bài học với nhau. Chương trình Làm văn ở THPT được xây dựng theo quan điểm tích hợp trong đó có thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. Bởi vậy, hệ thống 16
- bài tập được đưa vào đề tài phải đảm bảo tích hợp được các thao tác lập luận khác trong văn nghị luận. Tính tích hợp là đặc trưng nổi bật của dạy học Làm văn trong quá trình đổi mới. Vì vậy khi xây dựng hệ thống bài tập cần chú ý tới nguyên tắc này. c.2. Hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. c.2.1. Gi ới thiệu khái quát bài tập Sáng kiến chia hệ thống bài tập thành hai nhóm: Nhóm 1: Bài tập nhận diện. Nhóm 2: Bài tập tạo lập. Cơ sở để phân nhóm chủ yếu dựa vào mục đích, tác dụng của bài tập (tạm gọi là đích bài tập). Cụ thể, đích của nhóm bài tập 1 là giúp học sinh hiểu được thao tác lập luận bác bỏ, trước hết ta phải nhận diện được thao tác lập luận bác bỏ cũng như cách thức lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. Đích của nhóm bài tập 2 là trong việc luyện tập thực hành thao tác lập luận bác bỏ, chúng ta cũng phải biết cách tạo lập một văn bản có sử dụng thao tác này. Hệ thống bài tập này vừa giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nhận diện thao tác lập luận bác bỏ, đồng thời rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận . Ở mỗi nhóm, các bài tập được chia thành nhiều loại. Cụ thể, ở nhóm 1, căn cứ vào những đặc điểm cần nhận diện của thao tác lập luận bác bỏ, các bài tập chia thành hai loại: bài tập nhận diện yếu tố bị bác bỏ và bài tập nhận diện cách thức bác bỏ. Ở nhóm 2, căn cứ vào các cách thức bác bỏ và các kỹ năng cần được hình thành, bài tập được chia thành sáu loại: bài tập viết đoạn văn bác bỏ một luận điểm, viết đoạn văn bác bỏ một luận cứ, viết đoạn văn bác bỏ một lập luận, viết đoạn văn theo cách thức nêu cái sai chỉ ra nguyên nhân, viết đoạn văn theo cách thức nêu dẫn chứng chỉ ra cái sai, viết đoạn văn theo cách thức dùng lí lẽ bác bỏ kết hợp so sánh. Như vậy, ở mỗi nhóm bài tập có một tiêu chí phân loại riêng, bởi vì mỗi nhóm có đặc trưng riêng, mục đích riêng, tác dụng riêng. c.2.2. H ệ thống bài tập c.2.2.1 . Bài tập nhận diện Như đã trình bày ở giải pháp 1, căn cứ để xây dựng nhóm bài tập này là dựa vào đặc điểm của thao tác lập luận bác bỏ. * Miêu tả bài tập 17
- Bài tập nhận diện là loại bài tập đơn giản nhất trong hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng. Bài tập nhận diện không đòi hỏi tư duy cao và yêu cầu của mẫu bài tập này là ngắn gọn, rõ ràng, khoa học. Bài tập giúp học sinh tái hiện tri thức một cách dễ dàng, nhớ lâu những kiến thức mà học sinh nắm bắt được trong quá trình học tập. Đây là loại bài tập cho sẵn ngữ liệu và yêu cầu phân tích, xác định, nhận diện các yếu tố bị bác bỏ, cách thức bác bỏ trong đoạn văn… nói chung là nhận biết thao tác lập luận bác bỏ có trong ngữ liệu. Bên cạnh đó, bài tập nhận diện còn yêu cầu học sinh phải dựa vào những đặc trưng cơ bản của thao tác lập luận bác bỏ, có thể bỏ qua những biểu hiện chi tiết, để nhận diện, phân tích đoạn văn sử dụng thao tác lập luận nào, từ đó củng cố thêm khái niệm và cách thức bác bỏ của bài văn nghị luận. Cấu tạo Loại bài tập này thường có 2 phần: phần trình bày yêu cầu và phần dẫn ngữ liệu. Yêu cầu có thể được diễn đạt bằng nhiều cách như: tìm, xác định, cho biết, phân tích, tìm hiểu… Đồng thời có thể thêm một số yêu cầu khác. Mục đích của bài tập Bài tập nhận diện có tác dụng làm sáng tỏ, củng cố các kiến thức về lí thuyết của thao tác lập luận bác bỏ. Giúp học sinh nắm được các yếu tố bị bác bỏ cũng như cách thức bác bỏ trong bài văn nghị luận. Cụ thể phải hiểu được: + Bác bỏ là gì? + Các yếu tố bị bác bỏ? + Các cách thức bác bỏ? Từ lập luận cho sẵn nhận ra các yếu tố bị bác bỏ trong lập luận đó. Nhận ra chính xác cách thức lập luận được sử dụng trong đoạn văn đó. Ví dụ minh họa: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi: Huyền Đức lại nói: … Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm tam công, có nhiều đầy tớ cũ; hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Kí Châu; bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được chăng? Tháo lại cười nói: 18
- Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì lại quên mình, không thể gọi là anh hùng được. ( Tào Tháo uống rượu luận anh hùng, SGK Ngữ văn 10, tập 2) + Đoạn văn bản trên nói về vấn đề gì? + Luận điểm nào bị bác bỏ và bác bỏ bằng cách nào? * Cách thức hướng dẫn chung Với loại bài tập này, khi thực hành, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện yếu tố bị bác bỏ cũng như cách thức bác bỏ thông qua những kiến thức về khái niệm, yêu cầu và cách thức của thao tác lập luận bác bỏ. Bước 1: Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu chính của đề bài Bước 2: Ghi lại những vấn đề quan trọng, vận dụng kiến thức lí thuyết vào nhận diện các yếu tố, cách thức bác bỏ có trong đoạn văn: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ lập luận. Bước 3: Kiểm tra độ chính xác của bài tập, sửa chữa kịp thời (đối chiếu yếu tố được nhận diện với lí thuyết đã học). Ví dụ: Vấn đề nào bị bác bỏ trong đoạn văn sau? Người nói (viết) đã bác bỏ bằng cách nào? …Lại có cả danh từ xác nhận địa danh của từng phong cảnh ấy. Thành thử nhiều người bình giảng khổ thơ của Hàn Mặc Tử đã lầm tưởng, đây là bức tranh tả vẻ đẹp thơ mộng của Vĩ Dạ, vùng nông thôn ngoại thành xứ Huế. Thực ra trong thơ không phải bao giờ địa danh cũng được sử dụng để chỉ địa danh. Chẳng hạn, trong Tây Tiến của Quang Dũng, một loạt địa danh được tung ra, như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, … chỉ cốt gây ấn tượng về sự hoang sơ, xa ngái. Vĩ Dạ trong bài thơ của Hàn Mặc Tử là tín hiệu về cuộc đời trần thế ấm nóng tình người… (Theo Lã Nguyên, Đây thôn Vĩ Dạ, trong sách Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam,Trần Đình Sử (tuyển chọn), NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2003) Hướng dẫn: Bước 1: Đọc đề bài, xác định yêu cầu của đề bài: yêu cầu phân tích ngữ liệu, tìm ra yếu tố bị bác bỏ và cách thức bác bỏ. Bước 2: Ghi lại những vấn đề quan trọng? + Thao tác lập luận: thao tác bác bỏ. 19
- + Yếu tố bị bác bỏ: có nhiều từ chỉ địa danh khiến nhiều người bình giảng nghĩ rằng đó là bức tranh tả thực vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ, vùng nông thôn ngoại ô Huế + Cách bác bỏ: bác bỏ luận điểm (dùng suy luận và thực tế để bác bỏ). Bước 3: Đối chiếu kết quả và sửa chữa những lỗi sai (đối chiếu với kiến thức lí thuyết như: thao tác bác bỏ là gì? Luận điểm là gì? Luận điểm đó có sai hay không? Luận điểm có cần phải bác bỏ hay không?...) * Một số dạng bài tập nhận diện Bài tập nhận diện yếu tố bị bác bỏ Đây là bài tập cho trước ngữ liệu (đoạn văn) trong đó có chứa thao tác lập luận bác bỏ, từ đó yêu cầu học sinh phát hiện, chỉ ra yếu tố bị gạt bỏ (luận điểm, luận cứ, lập luận sai lệch, thiếu chính xác). Như vậy, kiểu bài tập này có thể đưa về những dạng cụ thể: nhận diện luận điểm bị bác bỏ, nhận diện luận cứ bị bác bỏ, nhận diện lập luận bị bác bỏ. + Loại thứ nhất: luận điểm bị bác bỏ Đây là loại bài tập yêu cầu học sinh nhận biết luận điểm bị bác bỏ trong lập luận. Với bài tập này, học sinh phải nắm vững kiến thức về luận điểm cũng như thao tác lập luận bác bỏ: Thế nào là luận điểm? Luận điểm là tư tưởng, quan điểm của người viết với vấn đề nghị luận trong bài văn, được thể hiện dưới hình thức những câu văn khẳng định hay phủ định. Thế nào là bác bỏ một luận điểm? Bác bỏ luận điểm là chỉ ra ý kiến, quan điểm sai lầm qua hai phương thức chính là dùng thực tế và dùng suy luận. Dùng thực tế bác bỏ tức tìm ra những điểm trái với thực tế đời sống hoặc văn học. Dùng phép suy luận để tìm ra cái sai của luận điểm cần phải bác bỏ được bộc lộ đầy đủ. Trong một lập luận thường có cấu tạo bao gồm ba yếu tố: luận điểm, luận cứ, lập luận. Khi luận điểm (ý chính) bị bác bỏ, Người viết phải đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng phù hợp nhằm thuyết phục người đọc nhận ra cái sai trong luận điểm đó. Khi thực hiện bài tập, trước hết giáo viên phải yêu cầu học sinh xác định ý chính của đoạn văn (luận điểm) và tìm hiểu ý chính đó nói về vấn đề 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng Atlat và thực hành biểu đồ Địa lí lớp 12
26 p | 157 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng phát âm thông qua hoạt động lồng tiếng phim tiếng Anh cho học sinh lớp 10A4 trường THPT Yên Mô B
32 p | 19 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức thực tiễn cho học sinh qua nội dung Hàng hóa - Giáo dục công dân 11
31 p | 43 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống hiệu quả khi dạy phần đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 10
11 p | 117 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia
61 p | 16 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng giải toán bằng phương pháp lượng giác hóa
39 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: Giáo dục địa phương để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, đọc hiểu văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ cho học sinh lớp 11 THPT
81 p | 63 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập Nhị thức Newtơn
40 p | 41 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng làm văn thuyết minh qua hoạt động tìm hiểu làng nghề truyền thống và di tích lịch sử tại địa phương
12 p | 65 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán cực trị hàm số cho học sinh lớp 12 THPT
49 p | 34 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực độc lập của học sinh qua việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương nhóm Halogen lớp 10 trung học phổ thông
39 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn