intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:60

44
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với mục tiêu nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận bác bỏ trong làm văn nghị luận cho học sinh. Giúp học sinh phát huy được năng lực cá nhân, lối tư duy phản biện, khả năng sáng tạo cũng như sự tự tin bộc lộ ý kiến riêng trước những vấn đề văn học hay đời sống, xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Rèn luyện kỹ năng sử  dụng thao tác lập luận bác  bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 05/09/2014. 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): không. 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm  4.1.  Giáo viên dạy rập khuôn theo SGK:  trong giờ  dạy kiến thức lí  thuyết  Thao tác lập luận bác bỏ  giáo viên  mới chỉ  thực hiện các nội dung  SGK theo những định hướng trong SGV. Thông thường, giáo viên đưa ra các  câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh phân tích ngữ  liệu theo phần nội dung   trong SGK, sau đó nhận xét, bổ  sung rồi rút ra kết luận theo phần ghi nhớ  trong SGK. Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí  thuyết đã học vào việc giải quyết các bài tập trong SGK. Bên cạnh đó, thời gian dành cho bài “Thao tác lập luận bác bỏ” là một  tiết và một tiết cho bài “Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ”. Do đó, giáo viên  ít có điều kiện mở rộng kiến thức và việc luyện tập cũng chưa được kĩ càng,   sâu sắc.  Bên cạnh những thành công đạt được do việc đổi mới chương trình  SGK Ngữ  văn, việc giảng dạy của giáo viên cũng còn gặp nhiều l úng túng,  chất lượng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ chưa đạt như  mong muốn. Học  sinh mắc khá nhiều lỗi thông thường. Việc giảng dạy đã có lí luận nhưng  việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn viết b ài dùng thao tác lập luận bác bỏ  của học sinh còn gặp không ít khó khăn. 4.2.  Học sinh thụ  động nghe ­ chép:  trong quá trình học thao tác lập  luận bác bỏ, nhìn chung, học sinh vẫn còn thụ động. Mặc dù, giáo viên khi lên  lớp đã cố gắng đổi mới phương pháp dạy ­ học, lấy học sinh làm trung tâm,  dạy học tích cực hóa, nhằm tổ  chức hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm  lĩnh tri thức, phát huy tinh thần chủ  động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên,  học sinh chưa thực sự tiếp thu một cách chủ động, sáng tạo mà phần lớn các  1
  2. em vẫn học theo kiểu cũ: nghe, ghi, chép, nhớ  và tái hiện những gì giáo viên  nói mà chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Thực tế, mặc  dù được học thao tác lập luận bác bỏ  nhưng giờ  luyện thực hành còn khá ít.   Các đề kiểm tra cũng ít khi đề cập tới thao tác này. Đây cũng là một bất cập  khiến các em học sinh không được trau dồi kĩ năng làm văn bác bỏ. Ngoài ra, cần phải nói tới thực trạng học sinh ngại chữa lỗi trong các   bài kiểm tra của mình. Khi giáo viên hướng dẫn, các em nhận ra lỗi sai nhưng   không trực tiếp chữa những lỗi sai đó vào bài. Nó cho thấy các em chưa ý   thức đầy đủ về giờ luyện tập thực hành. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: 5.1. Trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học luôn là  vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục. Điểm mấu chốt của đổi  mới phương pháp dạy học là việc người học ­ đối tượng của hoạt động dạy,  chủ  thể  của hoạt động học ­ được cuốn hút vào các hoạt động học tập do   giáo viên tổ  chức và chỉ  đạo,  để  khám phá những điều mình chưa rõ, chứ  không phải  là  tiếp thu  một cách thụ  động  những tri thức đã được giáo viên  sắp đặt, từ  đó  nắm  chắc  kiến thức,  kĩ năng, không rập khuôn theo những  khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.  5.2. Trước cải cách giáo dục, Làm văn được tách thành một phân môn  và được soạn thành sách giáo khoa (SGK) riêng. Quan điểm tích hợp gần đây  đã dẫn tới sự ra đời của SGK Ngữ văn với ba bộ phận: Văn học ­ Làm văn ­  tiếng Việt, dựa trên sự  thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ năng nghe, nói,  đọc, viết bằng tiếng Việt cho học sinh. Làm Văn là môn thực hành tổng hợp.   Năng lực mà học sinh có được  ở  phần Văn học (đọc hiểu và tiếp nhận văn  bản), Tiếng Việt (năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt) tạo điều kiện trực tiếp   để  đạt tới mục tiêu quan trọng nhất của làm văn: tạo lập văn bản (nói và  viết). Giáo dục phổ thông coi trọng trình độ viết văn của học sinh, bởi với tư  cách là "đầu ra", kết quả  làm văn của học sinh phản ánh kết quả  học Tiếng   Việt và Văn học.  Trong nhà trường phổ  thông, văn nghị  luận được đánh giá là trọng tâm   của chương trình dạy học Ngữ văn, bởi lẽ, văn nghị luận là loại văn trong đó  người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua  cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến  của mình và hành động theo những gì mình đề  xuất. Bản thân văn nghị  luận   có liên quan trực tiếp tới quá trình các em học sinh tập vận dụng tổng hợp các  tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào quá trình làm văn, rèn luyện kĩ  2
  3. năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc phát triển tư  duy khoa học, tư duy lí luận. Những đề bài nghị luận đặt ra những vấn đề tư  tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết lí luận và   thực tiễn để giải quyết nhằm xây dựng một phương pháp, tư tưởng khoa học   để  có nhận thức và thái độ  đúng trước những vấn đề  bàn luận cũng tức là  giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng đắn,  tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. Để  học sinh làm   được các bài văn nghị luận hay, các em phải hiểu được các thao tác lập luận  có trong văn nghị luận.    5.3.  Trước đây, thao tác lập luận được gọi là kiểu bài nghị  luận.  Nhưng do việc thay đổi quan điểm giáo dục và cũng là do thực tế  viết văn   nghị luận là phải vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, chương trình Ngữ  văn trung học phổ thông (THPT) đã đưa thêm một số thao tác lập luận cơ bản   trong đó có thao tác lập luận bác bỏ. Có thể nói, trong sáu thao tác lập luận (giải thích, phân tích, bình luận,  chứng minh, so sánh, bác bỏ), bác bỏ  là thao tác học sinh ít được rèn luyện   hơn cả. Điều này xuất phát từ cái khó của bản thân thao tác. Một lí do khác là   hiện nay trong các kì thi, dạng đề  yêu cầu học sinh vận dụng thao tác lập  luận này chưa nhiều, bởi những vấn đề  đưa ra bàn luận hầu hết là những  vấn đề đúng, mang tính chân lí. Thực tế này đưa đến tình trạng học sinh chủ  quan với lối tư  duy một chiều, chưa có ý thức chuẩn bị  tinh thần phản biện   trong tranh luận, dẫn đến phiến diện trong tư duy và lập luận. 5.4. Về vấn đề thao tác lập luận bác bỏ, từ rất xa xưa con người đã có  những cách bác bỏ ý kiến sai lầm rất thú vị. Trong cuốn  Phương pháp biện   luận ­ Thuật hùng biện của Triệu Truyền Đống do Nguyễn Quốc Siêu biên  dịch. Triệu Truyền Đống đã đưa ra 280 bài viết tổng kết những cách thức,  chiến thuật và mưu mẹo giành chiến thắng trong tranh luận trong đó có nói  tới bác bỏ thông qua phần nghiên cứu về tranh luận. Cùng viết về  nghệ  thuật tranh luận, Dale Breckenridge Carnegie trong  Đắc Nhân Tâm  cũng đã đưa ra những phương pháp tranh luận  hết sức sắc  sảo. Trong 14 bí quyết để  luôn tranh luận thành công, do tạp chí  Doanh   nghiệp sưu tầm, đã đưa ra 14 bí quyết quan trọng giúp chiến thắng trong các   cuộc tranh luận, biến những cuộc tranh luận thành những trao đổi thú vị, có  tinh thần xây dựng và cùng đi tới những kết luận đúng đắn. 3
  4. Như  vậy, nghệ  thuật  bác bỏ  đã được bàn đến trong giao tiếp. Tuy  nhiên, đây là một thao tác mới trong SGK Ngữ văn dành cho bậc THPT. Qua  tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các tài liệu nghiên cứu nghiêng nhiều về  việc   tìm hiểu văn nghị luận, chẳng hạn các công trình: Phương pháp dạy học Làm văn do Phan Trọng Luận chủ biên đã đưa  ra những lí thuyết cơ bản cũng như  phương pháp dạy học văn nghị luận cho   học sinh. Nghiên cứu cách thức tổ chức một giờ giảng lí thuyết và thực hành làm  văn. Cùng tác giả trên, trong cuốn Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện   chương trình sách giáo khoa Ngữ  văn lớp 11  đã đưa ra phương pháp dạy  học chương trình SGK Ngữ  văn, trong đó có  phân môn  Làm văn. Tuy nhiên  đây   cũng   chỉ   là   những   định   hướng   việc   dạy   thao   tác   lập   luận   bác   bỏ   ở  phương diện lí thuyết cũng như thực hành, chưa có nhiều bài tập cho học sinh  rèn luyện. Cuốn Thực hành Làm văn lớp 11 do Lê A chủ  biên khẳng định vị  trí  cũng như  tính chất của làm văn (là môn thực hành tổng hợp), nêu lên những  kiến thức cơ  bản về  văn nghị  luận cũng như  các thao tác về  văn nghị  luận,   trong đó có bác bỏ. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng chưa đi vào  nghiên cứu hệ thống bài tập rèn luyện cụ thể về từng thao tác lập luận. Ở  nhóm nghiên cứu này, các nhà sư  phạm đã quan tâm tới việc dạy lí  thuyết và thực hành, coi trọng cả hai khâu cung cấp kiến thức lí thuyết và rèn  luyện kĩ năng. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều đã xác định lại vị trí của  phân  môn   Làm   văn   trong   chương   trình   Ngữ   văn   ở   THPT,   đưa   ra   những  phương hướng dạy học,  hướng  ra đề  kiểm tra và chấm bài cho học sinh;  đồng thời tích hợp các môn học khác vào dạy học làm văn. Nói tóm lại, những  công trình này đã xây dựng được một hệ thống kiến thức cơ bản về dạy học   làm văn. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những bài tập cụ thể giúp các em học sinh  rèn luyện kỹ năng viết văn. Thao tác lập luận bác bỏ  cũng được đưa vào SGK (SGK  Ngữ  văn 11   Nâng cao, tập 2 do Trần Đình Sử làm tổng chủ biện; SGK Ngữ văn 11, tập 2  do Phan Trọng Luận làm tổng chủ  biên); Sách giáo viên; Sách tham khảo  (Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11, tập 2 – Phan Trọng Luận). Song cũng vẫn  với tinh thần trên, với lượng thời gian ít ỏi, các bài trong SGK cũng  mới chỉ  dừng lại ở việc giúp học sinh nhận biết, nhận diện thao tác mà chưa có điều  kiện đi sâu vào thực hành. Việc hình thành kỹ  năng cho học sinh  ở  thao tác   4
  5. lập luận này (cũng như  một số  thao tác lập luận khác) vì thế  còn nhiều hạn   chế. Với mong muốn thay đổi thói quen tư  duy, mài sắc tư  duy để  đáp  ứng  tốt hơn yêu cầu viết văn  cũng như  phục vụ  cho giao tiếp trong cuộc sống,   chúng tôi lựa chọn sáng kiến: Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận   bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến  Thứ  nhất, nghiên cứu sáng kiến này, các tác giả  nhằm mục đích rèn  luyện kĩ năng lập luận bác bỏ trong làm văn nghị luận cho học sinh. Giúp  học   sinh phát huy được năng lực cá nhân, lối tư duy phản biện, khả năng sáng tạo   cũng như  sự tự  tin bộc lộ ý kiến riêng trước những vấn đề  văn học hay đời  sống, xã hội. Thứ  hai, nâng cao hiệu quả  giảng dạy của giáo viên cũng như  chất  lượng học tập của học sinh trong việc dạy và học văn nghị luận. Từ đó, giúp  bước đầu xóa bỏ tình trạng thờ ơ với môn văn, sợ viết văn, ngại viết văn của  một bộ  phận học sinh. Giúp cho học sinh và cả  giáo viên có thể  nối liền  khoảng cách văn chương và đời sống, biến những kiến thức sách vở  trở  nên  sinh động trong cuộc sống đời thường, khả  năng  ứng dụng vào thực tế  sinh  động và linh hoạt hơn. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến 7.1.1. Giải pháp 1 a. Tên giải pháp: Hệ thống cơ sơ lí luận và cơ sở  thực tiễn về bác  bỏ, thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. b. Nội dung: Thao tác lập luận bác bỏ  là một hoạt động tư  duy nhằm  giúp cho con người trên cơ sở nhận thức được cái đúng mà biết phê phán cái  sai, cái lệch lạc, phiến diện. Tuy nhiên đây là thao tác khá mới trong dạy học  Làm văn, song cũng vì mới nên những công trình nhiên cứu về thao tác và dạy   học thao tác này chưa nhiều. Vì vậy trong giải pháp này, nhóm tác giả  cung  cấp kiến thức về: * Cơ sở lí luận: ­ Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động tư duy. ­ Bác bỏ với tư cách là một thao tác lập luận. ­ Bác bỏ với tư cách là một thao tác bộ phận trong kĩ năng làm văn nghị  luận. 5
  6. ­ Kỹ năng và sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập. * Cơ sở thực tiễn.       c. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp         c.1. Trình bày cơ sở lí luận:  c.1.1. Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động tư duy * Khái niệm thao tác Trong cuốn  Từ  điển tiếng Việt  do Hoàng Phê (chủ  biên) thì thao tác  được định nghĩa: Thực hiện những động tác nhất định để làm một việc gì đó   trong sản xuất.. Trong tâm lí học, thao tác được xem là những hệ  thống những hành   động trong tư  duy. Thao tác chính là cốt lõi của các cách thức hành động bị  quy định và phụ thuộc chặt chẽ bởi phương tiện, điều kiện cụ thể. * Khái niệm tư duy Theo  Từ  điển bách khoa toàn thư  Việt Nam, tập 4 (NXB Từ  điển  Bách khoa, Hà Nội, 2005): Tư  duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được   tổ chức một cách đặc biệt ­ bộ não người. Tư duy phản ánh hiện thực khách   quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lí luận… Như vậy, tư duy chính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu  vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật, hiện tượng bằng những   hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí. *  Khái niệm thao tác lập luận:  Lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn  chứng một cách đầy đủ, chặt chẽ, nhất quán và đáng tin cậy nhằm dẫn dắt  người đọc, người nghe đến một kết luận hoặc chấp nhận một kết luận nào đấy  mà người nói, người viết muốn đạt tới. Lập luận trong văn nghị luận bao gồm các yếu tố  luận điểm, luận cứ,   luận chứng, cách thức, phương pháp lập luận. Trong đó, luận điểm chính là ý  kiến xác định của người viết về vấn đề  đặt ra. Luận cứ  là các tài liệu dùng   làm cơ  sở  cho việc thuyết minh cho luận điểm. Còn luận chứng là sự  phối  hợp tổ  chức các lí lẽ và dẫn chứng để thuyết minh cho luận điểm. Thực chất  đây là cách đưa luận cứ  vào quỹ  đạo logic để  tạo  sức thuyết phục của luận  điểm. Thao tác lập luận: là người viết phải sử dụng ngôn ngữ để nêu vấn đề,  trình bày lí lẽ  và qua đó đánh giá đúng ­ sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các  kiến giả, phát biểu ý kiến, thể  hiện rõ lập trường quan điểm của bản thân.  Việc trình bày lí lẽ được người viết thể  hiện thông qua các phương thức tư  duy logic như: khái niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt  6
  7. được mục đích khiến người đọc tin theo. Vậy thao tác lập luận chính là thao  tác được sử dụng để thực hiện một hành động lập luận. Nói cách khác, thao  tác lập luận là những động tác được thực hiện theo trình tự  và yêu cầu kĩ  thuật được quy định trong hoạt động lập luận. Trong cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt, do Lê A chủ  biên, các  nhà nghiên cứu cũng nhận thấy: Trước đây, nhiều người cho rằng các vấn đề  tư  duy logic gắn liền với tất cả các ngành khoa học nên sẽ  quá rộng nếu coi   tư duy là một trong những tiền đề của việc dạy học  làm văn. Nhưng gần đây  trên con đường xác định một lí thuyết thực sự khoa học cho môn Làm văn, các  nhà nghiên cứu lại thấy rằng nhiều vấn đề  của làm văn liên quan tới tư duy  logic. Các thao tác tư  duy như  suy diễn, chứng minh, bác bỏ… đã và đang  được vận dụng triệt để  trong  làm văn. Không nắm được thao tác tư  duy,  không thể  tạo  dựng những bài văn chặt chẽ, mạch lạc về  nội dung, trong  sáng về diễn đạt. Trong SGK Ngữ văn 11, tập 2 cũng viết: Nói một cách tổng   quát thì các thao tác trên (phân tích­ tổng hợp, diễn dịch­ quy nạp) một mặt là   thao tác của logic, tức là của hoạt động tư duy nhằm tìm ra chân lí, cũng tức   là tìm ra các ý kiến, mặt khác, là thao tác trình bày các ý trong một bài văn   nghị luận hoặc: Nghị luận là vận dụng tư duy và ngôn ngữ. Lập luận trong bài làm văn nghị luận là một hoạt động có mối liên hệ  trực tiếp tới các hoạt động tư  duy, tới vấn đề  logic và đó là một hoạt động   mang tính trí tuệ cao. c.1.2. Bác bỏ với tư cách là một thao tác lập luận Bác bỏ là một thao tác lập luận cơ bản của quá trình tư duy. Theo Từ điển Tiếng Việt: bác là bác đi, gạt đi, không chấp nhận (bác  bỏ ý kiến, bác bỏ luận điệu vu khống, dự án bị bác bỏ…) Khi đứng trước một vấn đề nào đó, có thể có nhiều ý kiến, quan niệm   khác nhau: có quan niệm, ý kiến đúng đắn, nhưng cũng có quan niệm, ý kiến   không chính xác hoặc không hoàn toàn chính xác, khoa học, người nói (viết)  cần có khả năng phát hiện ra những ý kiến, quan niệm mà mình cho là không   thỏa đáng để bàn bạc, tranh luận và bác bỏ, có như vậy lập luân mới có giá trị  sâu sắc và sức thuyết phục cao. c.1.3. Bác bỏ với tư cách là một thao tác bộ phận trong kĩ năng làm  văn nghị luận * Khái niệm văn nghị luận Văn nghị  luận là loại văn trong đó người nói, người viết sử  dụng lí  luận, bao gồm lí lẽ, dẫn chứng, trình bày những ý kiến của mình để  làm rõ  7
  8. một vấn đề  nào đó nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo   những ý kiến đó. Văn nghị  luận bao gồm nghị luận văn học và nghị  luận xã  hội. * Các thao tác lập luận cơ bản Trong lập luận có các thao tác cơ bản sau: ­ Lập luận giải thích ­ Lập luận chứng minh ­ Lập luận phân tích ­ Lập luận so sánh ­ Lập luận bác bỏ ­ Lập luận bình luận Đây đều là những thao tác hết sức quan trọng trong việc viết một bài  văn nghị luận. ­ Lập luận giải thích:  là thao tác lập luận sử  dụng lí lẽ, kết hợp với  dẫn chứng để giảng giải, cắt nghĩa, giúp người đọc, người nghe hiểu rõ một  hiện tượng, một vấn đề  nào đó. Thao tác giải thích thường được vận dụng   khi đề bài có những khái niệm, những nhận xét, nhận định cần làm sáng tỏ,   hoặc những cách diễn đạt bằng hình ảnh,  hình tượng cần làm rõ nghĩa. Cũng  có khi việc giải thích tập trung vào mối quan hệ  giữa các khái niệm, các vế  của ý kiến, nhận định. Giải thích cần phải sát với khái niệm. Nếu rộng quá  thì triển khai sẽ bị xa đề, nếu hẹp quá thì bài viết lại nghèo nàn, thiếu ý. ­ Lập luận phân tích:  phân tích là chia tách đối tượng, sự  vật hiện   tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để  đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung  và mối liên hệ bên trong đối tượng. Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị  ý nghĩa của sự  vật hiện   tượng, mối quan hệ  giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp  nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng  đối với tác phẩm văn học, phân tích là khám phá ba giá trị của văn học là nhận  thức, tư tưởng và thẩm mĩ (chân – thiện – mỹ). Phân tích phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để  chia tách   một cách hợp lí. Sau khi phân tích tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết phải tổng hợp   khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ sâu sắc và trình bày ngắn gọn. ­ Lập luận chứng minh: là đưa ra cứ  liệu, dẫn chứng xác đáng để  làm  sáng tỏ một lí lẽ, một ý kiến để thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng  vào vấn đề. 8
  9. Để  chứng minh, chúng ta đưa lí lẽ  trước khi chọn dẫn chứng và đưa  dẫn chứng. Cần thiết phải phân tích dẫn chứng để  lập luận chứng minh  thuyết phục hơn. Cũng có khi thuyết minh trước rồi đưa dẫn chứng sau. Việc   đưa ra các dẫn chứng, bằng chứng để chứng minh cần đảm bảo: mối quan hệ  giữa chất và lượng của dẫn chứng; tính tiêu biểu, toàn diện của dẫn chứng  dựa trên việc xử lí hài hòa các mối quan hệ. ­ Lập luận bình luận: bình luận là đề  xuất và thuyết phục người đọc  (người nghe) tán đồng với nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một hiện   tượng (vấn đề) trong đời sống hoặc trong văn học ­ Lập luận bác bỏ: là dùng lí lẽ  và dẫn chứng để  gạt bỏ  những quan  điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác, từ  đó nêu ý kiến đúng của mình  để  thuyết phục người nghe, người đọc. Người viết có thể  bác bỏ  một luận   điểm, luận cứ  hoặc cách lập luận bằng cách nêu tác hại, chỉ  ra nguyên nhân  hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác,…của luận điểm,  luận cứ, lập luận ấy. ­ Lập luận so sánh: Là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, hoặc là các mặt  trong cùng một sự vật. So sánh để  chỉ ra những nét giống nhau gọi là so sánh  tương đồng; so sánh để  chỉ  ra sự  khác biệt, đối chọi gọi là so sánh tương  phản. Tóm lại, so sánh là để  thấy sự  giống, khác nhau, từ  đó thấy rõ đặc   điểm và giá trị của mỗi sự vật, hiện tượng. * Thao tác bác bỏ trong văn nghị luận Như  đã nói trên, lập luận bác bỏ  là thao tác dùng lí lẽ  và dẫn chứng để  phê phán, gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác,…Từ  đó nêu lên ý kiến đúng của mình để thuyết phục người nghe. Có thể bác bỏ ở  các cấp độ, khía cạnh: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ lập luận. ­  Bác bỏ  luận điểm:  là chỉ  ra sự  sai lầm   của ý kiến (luận điểm). Có  nhiều cách bác bỏ luận điểm, thông thường là hai cách:  + Dùng thực tế bác bỏ tức tìm ra những điểm trái với thực tế, tác phẩm  hoặc đời sống. + Dùng phép suy luận để tìm ra cái sai của luận điểm cần phải bác bỏ. ­ Bác bỏ luận cứ: là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lí lẽ và dẫn  chứng được sử dụng. ­ Bác bỏ  lập luận: là vạch ra sự  mâu thuẫn, không nhất quán, phi logic  trong lập luận của người tạo lập văn bản, chỉ  ra sự  đổi thay, đánh tráo khái  niệm trong quá trình lập luận. 9
  10. Ba cách bác bỏ trên đây được tách ra để  thuyết minh cho dễ   hiểu, trong  thực tế chúng lại liên kết với nhau rất chặt chẽ.  Mục đích cao nhất của bác  bỏ là bảo vệ  chân lí, lẽ phải. Xa rời mục đích này, bác bỏ sẽ trở thành ngụy  biện, vô bổ và có hại. Khi bác bỏ ý kiến nào đó không phải chỉ đơn giản là tuyên bố ý kiến đó   sai lầm, mà quan trọng là phải có lập luận đầy đủ để chứng minh là nó sai thì  mới thuyết phục được người đọc, người nghe. Muốn bác bỏ  ý kiến đó sai,   trước hết phải trích dẫn ý kiến đó một cách đầy đủ, khách quan và trung   thực. Sau đó người viết phải làm sáng tỏ  hai phương diện: ý kiến đó sai  ở  chỗ nào và vì sao như thế lại là sai.  Để  tìm hiểu vì sao ý kiến đó lại sai lầm thì chúng ta phải dùng lí lẽ  và  dẫn chứng để phân tích, lí giải nguyên nhân sai lầm của ý kiến. Khi sử dụng   thao tác lập luận bác bỏ chúng ta dựa vào mức độ đúng, sai của các ý kiến mà   vận dụng thao tác này cho thích hợp và đưa ra kết quả thỏa đáng. * Mối quan hệ giữa các thao tác lập luận trong văn nghị luận Văn nghị luận chủ yếu dùng các thao tác: chứng minh, giải thích, phân  tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Mỗi thao tác đều nhằm đạt tới một mục tiêu  cụ  thể. Trong thực tế, Làm văn nghị  luận rất hiếm trường hợp chỉ  sử  dụng  một thao tác lập luận duy nhất. Bởi vậy, cần biết vận dụng kết hợp các thao  tác lập luận. Tùy thuộc vào vấn đề, vào đối tượng tiếp nhận mà người viết  có thể chọn một số thao tác nhất định. Việc lựa chọn này tùy thuộc vào mục  đích bàn luận. Để người đọc (nghe) bước đầu nhận diện được vấn đề, người  viết (nói) phải dùng thao tác giải thích; Nhưng muốn hiểu vấn đề  một cách   cặn kẽ (hiểu và tin) thì phải dùng phân tích, chứng minh. Cần đề xuất ý kiến  thì phải dùng thao tác bình luận. Ttrong một đoạn văn, một bài văn nghị luận  sẽ có một hoặc hai thao tác chính có vai trò nòng cốt tạo nên mạch lập luận   của vấn đề đưa ra để nghị luận và những thao tác phối hợp giúp cho lập luận   được chặt chẽ sinh động, có nhiều chiều. Thao tác lập luận bác bỏ  là một bộ  phận không thể  tách rời trong hệ  thống các thao tác lập luận. Bởi trong thực tế, cái đúng, cái sai không tồn tại   cách biệt nhau. Trong các ý kiến, có ý kiến đúng, có ý kiến sai, trường hợp   này đúng, trường hợp kia sai; Có ý kiến mặt này đúng nhưng mặt kia sai. Phải  tùy theo tính chất đúng, sai của các ý kiến mà vận dụng thao tác lập luận bác  bỏ cho thích hợp và nêu ra kết quả thỏa đáng. Nói quá hoặc nói chưa tới là tự  biến ý kiến của mình thành đối tượng để người khác phê phán, bác bỏ. Để ý  10
  11. kiến được chấp nhận, thuyết phục được người khác, bác bỏ  phải được thực  hiện một cách trung thực, có mức độ và đúng quy cách. c.1.4. Kỹ năng và sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập * Quan niệm về kỹ năng ­ Kỹ năng Theo Từ  điển tiếng Việt: kỹ  năng là khả  năng vận dụng những kiến   thức vào một lĩnh vực nào đó trong thực tế. Trong Tâm lí học, kỹ năng được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là vấn đề  hình thành kỹ  năng, cùng với đó là sự  song song tồn tại nhiều luồng quan   điểm. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng: Kỹ năng  được hình thành trong hoạt động. A.N.Leonchiev đã mô tả  mô hình cấu trúc  của hoạt động như  sau: Hoạt động  hành độngthao tác và tương  ứng  chúng   là   các   yếu   tố   khách   quan:   đối   tượng   (động   cơ)   mục   đích     phương tiện (điều kiện). Như  vậy, kỹ  năng được hình thành thông qua việc kết hợp giữa hành  động, sự  nhận thức về  mục tiêu hành động và giữa mức độ  thực hiện hành   động. ­ Kỹ xảo Theo Từ điển tiếng Việt: kỹ xảo là hành động tự động hóa nhờ luyện   tập. Trong Tâm lí học, kỹ  xảo cũng được nghiên cứu khá nhiều. Có người  hiểu kỹ  năng là những nấc thang đầu, còn kỹ  xảo là những nấc thang cuối.  Nhưng cũng có người hiểu là kỹ xảo là thành tố của kỹ năng, là những yếu tố  của kỹ năng đã được tự động hóa. Như  vậy về  cơ  bản, kỹ  năng mang tính chất máy móc, còn kỹ  xảo   mang tính chất tự động hóa. Ranh giới giữa kỹ năng và kỹ xảo khó có thể chỉ  ra một cách thật rạch ròi, dứt khoát trong thực tiễn dạy học Làm văn. * Quan niệm về hệ thống bài tập Theo cách hiểu chung, hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các các  yếu tố có mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau. Mỗi đối tượng trọn vẹn làm một  hệ thống. Nói đến hệ thống, cần phải nói đến hai điều kiện: tập hợp các yếu  tố và những mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau giữa các yếu tố đó.  Bài tập được hiểu theo nhiều cách. Cách hiểu Bài tập là bài ra cho học   sinh để  vận dụng những điều đã học  chủ  yếu phù hợp với các bài học lí  thuyết, là loại bài mà trong nội dung đã học, có sự phân biệt khá rạch ròi giữa  lí thuyết và vận dụng (phần lí thuyết được dạy trước, phần vận dụng được  11
  12. dạy sau bằng một hệ thống bài tập). Bài tập ở bài học lí thuyết chủ yếu giúp   học sinh nắm chắc khái niệm lí thuyết, củng cố các đơn vị kiến thức lí thuyết  vừa học. Còn bài tập trong bài thực hành chủ  yếu giúp học sinh hình thành   phát triển các kĩ năng. Nói cách khác, ở bài học thực hành, phần việc chủ yếu   là tổ chức cho học sinh rèn luyện kĩ năng bằng các bài tập thích hợp. Như vậy, hệ thống bài tập  rèn luyện kĩ năng sử dụng thao tác lập luận   bác bỏ  cho học sinh phải được xây dựng trên cơ  sở  tiếp thu, kế  thừa mang   đầy đủ  đặc trưng của một hệ  thống: đó là một chỉnh thể  gồm nhiều yếu tố  (yếu tố ở đây là loại, kiểu, dạng bài tập) có liên quan với nhau và giá trị  của  một yếu tố được xác định bởi mối quan hệ giữa nó và các yếu tố khác trong  cùng hệ thống. Giống như các trường hợp khác, hệ thống bài tập về thao tác  lập luận bác bỏ  cũng có tính cấp bậc: loại ( bậc 1), kiểu (bậc 2), dạng (bậc   3)… * Sự hình thành kỹ năng qua hệ thống bài tập Tâm lí học hiện đại đã kết luận: chỉ  trong hoạt động thì kỹ  năng mới  được hình thành và phát triển. Như vậy bài tập là một tập hợp yêu cầu hoạt  động để  đạt tới kết quả  nào đó. Nếu làm một loại bài tập cùng kiểu lặp đi  lặp lại tới mức độ  cần thiết thì sẽ  hình thành được kĩ năng tương ứng. Như  vậy, có thể  coi bài tập là phương tiện, kỹ  năng là mục đích trọng yếu, chủ  yếu cần đạt tới. Bài tập là yếu tố không thể thiếu và có vị trí, vai trò rất quan  trọng. Như  đã phân tích  ở  trên, kỹ  năng kỹ  xảo là sự  vận dụng tri thức vào  hoạt động thực tiễn để  giải quyết một nhiệm vụ  nào đó, là năng lực thực  hiện để đạt được kết quả đã đề ra. Do đó muốn có kỹ năng trước hết ta phải   có tri thức về một lĩnh vực nào đó và phải trực tiếp thực hiện các thao tác, các   hành  động và phải  luyện  tập nhiều lần  để  đạt  được kết quả  như  mong   muốn. Hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ  cho học  sinh trung học phổ thông được đề  cập tới  ở  đây là loại bài tập được sử  dụng  trong bài học lí thuyết và cả bài học thực hành. Qua các bài tập, giáo viên giúp  học sinh hình thành và phát triển kỹ năng lập luận bác bỏ trong văn nghị luận.            c.2. Cơ sở thực tiễn: Lâu nay trong chương trình sách  Làm văn ít chú ý đề  cập tới thao tác  lập luận bác bỏ. Nay được đưa vào sách giáo khoa  Ngữ văn 11, tập 2 và được  coi như một trong những thao tác chính được trang bị lí thuyết và thực hành. 12
  13. Thao tác lập luận bác bỏ  được triển khai trong chương trình sách giáo   khoa Ngữ văn lớp 11, tập 2  bao gồm các tiết học cụ thể: ­ Về lí thuyết: 01 bài:  "Thao tác lập luận bác bỏ". ­ Về thực hành: 01 bài:  "Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ". Về số lượng bài tập trong SGK bao gồm có 5 bài, trong đó: ­ Bài tập nhận diện : 2 bài ­ chiếm 40% ­ Bài tập tạo lập: 3 bài ­ chiếm 60% Để  các dạng bài tập trong sáng kiến không xa lạ  với học sinh, tác giả  tiến hành khảo sát SGK Ngữ văn trong nhà trường. Qua khảo sát, chúng tôi rút   ra được một số nhận định bước đầu như sau: Một là, các bài tập trong sách vừa mang tính chất củng cố lí thuyết vừa   mang tính chất cung cấp các kỹ  năng tạo lập đoạn văn sử  dụng thao tác lập  luận bác bỏ. Bởi vậy, hướng đề  xuất bài tập trong  sáng kiến cũng cần phù  hợp với đặc điểm này. Hai là, các loại bài tập trong SGK chưa đa dạng, số  lượng ít. Vì vậy,  chúng ta vẫn có thể  đưa thêm những bài tập mới để  giáo viên có thể  tham  khảo và đưa ra những bài tập phong phú hơn, giúp các em học sinh có thêm  nhiều ngữ liệu mới trong quá trình học thao tác lập luận này. d. Kết quả khi thực hiện giải pháp: ­  Về  phía giáo viên: hạn chế  được rất nhiều tình trạng giáo viên thuyết  giảng lí thuyết khô khan, rập khuôn, máy móc trong các giờ   Làm văn. Giáo  viên chú trọng nhiều hơn đến việc rèn luyện kỹ năng, vận dụng thao tác lập  luận cho học sinh một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn, và thành công hơn cả  là giáo viên đã giúp học sinh tiếp cận với cuộc sống thực tế một cách tinh tế;  để  học sinh là những chủ  thể  chiếm lĩnh tri thức một cách thực sự, tạo cho   học sinh những động cơ hứng thú với phân môn Làm văn. ­ Về  phía học sinh: có hiểu biết đầy đủ  về  cơ  sở  lí luận và cơ  sở  thực   tiễn của thao tác. Học sinh hào hứng với bài học, chủ động khám phá bài học,  liên hệ  và gắn bài học với thực tế  viết bài, với các môn học khác khi tranh  biện và thực tế cuộc sống. 7.1.2. Giải pháp 2:     a. Tên giải pháp: Xây dựng hệ  thống bài tập rèn kỹ  năng sử  dụng   thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT. b. Nội dung:   ­ Xác định bốn nguyên tắc chung đối với việc xây dựng hệ  thống bài  13
  14. tập: + Nguyên tắc khoa học. + Nguyên tắc hệ thống. + Nguyên tắc vừa sức. + Nguyên tắc tích hợp. ­  Hệ  thống bài tập rèn kỹ  năng sử  dụng thao tác lập luận bác bỏ  trong  văn nghị luận: + Giới thiệu khái quát bài tập. + Hệ thống bài tập. c. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp c.1. Nguyên tắc chung đối với việc xây dựng hệ thống bài tập Để đạt được mục đích và nhiệm vụ  nói trên của bài tập rèn kỹ  năng sử  dụng thao tác lập luận bác bỏ, hệ thống bài tập này phải được biên soạn, xây   dựng dựa trên các nguyên tắc nhất định. Đó là những nguyên tắc cơ bản sau:  c.1.1.  Nguyên t   ắc khoa học  Tính khoa học của việc xây dựng hệ thống bài tập trước hết đòi hỏi bài   tập phải đảm bảo tính chính xác khoa học, đồng thời còn đòi hỏi sự  thống   nhất, tránh mâu thuẫn giữa nội bộ kiến thức bài tập với các kiến thức được   trình bày. Các kiến thức trang bị cho học sinh phải là những kiến thức cơ  sở  của thao tác lập luận bác bỏ  trong văn nghị  luận. Tính khoa học còn đòi hỏi   các bài tập đưa ra phải mang tính rõ ràng, rành mạch, phù hợp với lí luận dạy   học nhằm phát huy tính chủ thể ở học sinh. Cách trình bày bài tập sao cho phù  hợp với tâm lí lứa tuổi, tâm lí tiếp nhận và quá trình nhận thức của học sinh,  phục vụ đắc lực cho bài giảng của giáo viên về thao tác lập luận bác bỏ. Bài tập trang bị cho học sinh phải là những bài tập cơ bản giúp học sinh  tìm hiểu cách thức làm bài văn nghị luận có sử dụng thao tác lập luận bác bỏ,  14
  15. đồng thời phải hình thành được ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo làm bài văn nghị  luận.  c.1.2.  Nguyên t   ắc hệ thống    Hệ  thống hiểu theo nghĩa chung, là chỉnh thể  các yếu tố  có liên quan  đến nhau, tác động và quy định lẫn nhau. Một trong những mục đích của giải pháp 2 là nghiên cứu để xây dựng,   xác lập các kiểu loại bài tập về thao tác lập luận bác bỏ, các mô hình bài tập   thích hợp với việc dạy học thao tác lập luận này ở  THPT. Ở bất cứ một hệ  thống bài tập nào, các bài tập này không thể là một tập hợp hỗn độn, mà phải  được sắp xếp, điều phối dựa trên những tiêu chí nhất định để  tạo thành một  hệ thống tối  ưu. Và hệ  thống bài tập rèn kỹ  năng sử  dụng thao tác lập luận  bác bỏ  trong văn nghị  luận cũng vậy. Bởi việc sắp xếp kiểu loại bài tập  thành một hệ  thống là sự  sắp xếp có cơ  sở  khoa học và mang tính tự  nhiên,  chứ  không hoàn toàn là sự  bày đặt, khiên cưỡng. Theo tinh thần đó, như  bất  cứ một hệ thống nào khác, hệ thống bài tập rèn kĩ năng sử dụng thao tác lập   luận bác bỏ  trong văn nghị  luận cho học sinh trung học phổ thông mà đề  tài  xây dựng, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các kiểu bài tập trong các tài liệu trước,   cũng mang đầy đủ đặc trưng của một hệ thống: đó là một chỉnh thể bao gồm   nhiều yếu tố (yếu tố ở đây là nhóm, loại bài tập) có liên quan với nhau và giá   trị  của nó được xác định bởi quan hệ  giữa nó và các yếu tố  khác trong cùng  hệ  thống. Những mối liên quan giữa các yếu tố  trong cùng một hệ  thống  không phải đơn tuyến, một chiều, theo đường thẳng mà tác động lẫn nhau  theo nhiều chiều. Nguyên tắc khoa học luôn liên hệ  mật thiết với nguyên tắc hệ  thống.  Nguyên tắc đảm bảo tính hệ  thống yêu cầu phải đưa các bài tập  một  cách  toàn diện theo một thứ  tự hợp lí và nêu được mối quan hệ  giữa chúng, đi từ  bài tập dễ đến bài tập khó. Bởi mục đích xây dựng hệ thống bài tập là nhằm  củng cố kiến thức và khái niệm, yêu cầu và cách thức làm bài văn nghị luận.  c.1.3.  Nguyên t   ắc vừa sức  Hiện nay có nhiều quan điểm về  sức của học sinh. "Sức" không phải   được chấp nhận như một chỉ số cố định, đồng loạt cho mọi đối tượng, mọi   địa bàn, mọi thời đại… "Sức" là cái luôn biến đổi và có sự vận động. Vì vậy,   đưa ra hệ thống bài tập cần chú ý tới sức của học sinh (tính vừa sức). Tính vừa sức (học sinh) được hiểu là các bài tập đưa ra phải phù hợp  với trình độ tri thức và trình độ nhận thức của học sinh. 15
  16. Nếu bài tập quá dễ  sẽ  không phát huy được tính sáng tạo của các em.  Nếu bài tập quá khó các em sẽ không đủ kiến thức để giải quyết các bài tập Học sinh  ở  mỗi lứa tuổi khác nhau có những đặc điểm tâm lí riêng  trong quá trình tiếp thu kiến thức và kĩ năng mới. Mặt khác,  ở  cùng một tập   thể  học sinh trình độ  nhận thức của các em cũng khác nhau vì vậy phải lựa  chọn các bài tập khác nhau, giáo viên phải xuất phát từ thực tế trình độ nhận  thức của các em để đưa ra các dạng bài tập phù hợp, gây được hứng thú cho  các em. Tuân theo nguyên tắc này, người giáo viên phải nắm vững đặc điểm  tâm lí của các em, nắm chắc trình độ kiến thức của học sinh để đưa ra những  bài tập, để hình thành kỹ năng mới cho các em. Để  có thể  ứng dụng vào thực tế dạy học, hệ thống bài tập không thể  không dựa vào nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của  học sinh.  c.1.4.  Nguyên t   ắc tích hợp  Tích hợp nghĩa là tổng hợp một đơn vị  học, một tiết học hay một bài   tập… nhiều mảng kiến thức liên quan tới nhau nhằm tăng cường hiệu quả  giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Tích hợp dọc là tích hợp dựa trên cơ  sở  liên kết hai hoặc nhiều môn   học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau. Đây là tích hợp  đồng tâm, tích hợp theo từng vấn đề trong từng phân môn, cụ thể đó là hướng  tích hợp theo mối liên hệ  (trực tiếp hoặc gián tiếp), giữa các vấn đề  trong  cùng một phân môn, giữa các bài học với nhau trong cùng một lớp, giữa lớp   trước và lớp sau thậm chí giữa các cấp học. Đó là mối liên hệ kiến thức theo   chiều dọc, là mối liên hệ  theo kiểu xâu chuỗi, móc xích một cách chặt chẽ.   Khi xây dựng hệ thống bài tập cần tận dụng tất cả những hiểu biết lí thuyết  về  Làm văn mà học sinh đã được học ở lớp dưới để xây dựng bài tập. Tích hợp ngang là dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên  cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau xung quanh một chủ  đề. Nói cụ  thể thì tích hợp ngang được hiểu là tích hợp liên môn, liên phân môn và là hình  thức tích hợp theo từng thời điểm. Nói cụ thể hơn đó là sự  khai thác triệt để  mối liên hệ  kiến thức giữa các phần Văn, tiếng Việt và Làm văn trong từng  đơn vị bài học, cũng có khi là giữa các đơn vị bài học với nhau. Chương trình Làm văn ở THPT được xây dựng theo quan điểm tích hợp   trong đó có thao tác lập luận bác bỏ  trong văn nghị  luận. Bởi vậy, hệ  thống   16
  17. bài tập được đưa vào đề tài phải đảm bảo tích hợp được các thao tác lập luận  khác trong văn nghị luận. Tính tích hợp là đặc trưng nổi bật của dạy học  Làm văn trong quá trình  đổi mới. Vì vậy khi xây dựng hệ thống bài tập cần chú ý tới nguyên tắc này. c.2. Hệ thống bài tập rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ   trong văn nghị luận.  c.2.1.  Gi   ới thiệu khái quát bài tập  Sáng kiến chia hệ thống bài tập thành hai nhóm: ­ Nhóm 1: Bài tập nhận diện. ­ Nhóm 2: Bài tập tạo lập. Cơ  sở  để  phân nhóm chủ  yếu dựa vào mục đích, tác dụng của bài tập  (tạm gọi là đích bài tập). Cụ  thể, đích của nhóm bài tập 1 là giúp học sinh   hiểu được thao tác lập luận bác bỏ, trước hết ta phải nhận diện được thao tác  lập luận bác bỏ cũng như cách thức lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. Đích   của nhóm bài tập 2 là trong việc luyện tập thực hành thao tác lập luận bác bỏ,  chúng ta cũng phải biết cách tạo lập một văn bản có sử dụng thao tác này. Hệ  thống bài tập này vừa giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nhận diện thao tác lập   luận bác bỏ, đồng thời rèn kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn  nghị luận . Ở mỗi nhóm, các bài tập được chia thành nhiều loại. Cụ thể, ở nhóm 1,   căn cứ vào những đặc điểm cần nhận diện của thao tác lập luận bác bỏ, các   bài tập chia thành hai loại: bài tập nhận diện yếu tố bị bác bỏ và bài tập nhận  diện cách thức bác bỏ. Ở nhóm 2, căn cứ vào các cách thức bác bỏ và các kỹ  năng cần được hình thành, bài tập được chia thành sáu loại: bài tập viết đoạn  văn bác bỏ một luận điểm, viết đoạn văn bác bỏ một luận cứ, viết đoạn văn  bác bỏ  một lập luận, viết đoạn văn theo cách thức nêu cái sai chỉ  ra nguyên  nhân, viết đoạn văn theo cách thức nêu dẫn chứng chỉ ra cái sai, viết đoạn văn  theo cách thức dùng lí lẽ bác bỏ kết hợp so sánh. Như  vậy,  ở  mỗi nhóm bài tập có một tiêu chí phân loại riêng, bởi vì  mỗi nhóm có đặc trưng riêng, mục đích riêng, tác dụng riêng.    c.2.2.  H   ệ thống bài tập  c.2.2.1 . Bài tập nhận diện Như đã trình bày ở giải pháp 1, căn cứ để xây dựng nhóm bài tập này là   dựa vào đặc điểm của thao tác lập luận bác bỏ. * Miêu tả bài tập 17
  18. Bài tập nhận diện là loại bài tập đơn giản nhất trong hệ thống bài tập  rèn luyện kỹ  năng. Bài tập nhận diện không đòi hỏi tư  duy cao và yêu cầu   của mẫu bài tập này là ngắn gọn, rõ ràng, khoa học. Bài tập giúp học sinh tái   hiện tri thức một cách dễ dàng, nhớ lâu những kiến thức mà học sinh nắm bắt  được trong quá trình học tập. Đây là loại bài tập cho sẵn ngữ  liệu và yêu cầu phân tích, xác định,  nhận diện các yếu tố bị bác bỏ, cách thức bác bỏ trong đoạn văn… nói chung   là nhận biết thao tác lập luận bác bỏ có trong ngữ liệu. Bên cạnh đó, bài tập nhận diện còn yêu cầu học sinh phải dựa vào  những đặc trưng cơ  bản của thao tác lập luận bác bỏ, có thể  bỏ  qua những  biểu hiện chi tiết, để  nhận diện, phân tích đoạn văn sử  dụng thao tác lập   luận nào, từ đó củng cố thêm khái niệm và cách thức bác bỏ của bài văn nghị  luận. ­ Cấu tạo Loại bài tập này thường có 2 phần: phần trình bày yêu cầu và phần dẫn   ngữ liệu. Yêu cầu có thể được diễn đạt bằng nhiều cách như: tìm, xác định,  cho biết, phân tích, tìm hiểu… Đồng thời có thể thêm một số yêu cầu khác. ­ Mục đích của bài tập  Bài tập nhận diện có tác dụng làm sáng tỏ, củng cố các kiến thức về lí  thuyết của thao tác lập luận bác bỏ. Giúp học sinh nắm được các yếu tố  bị  bác bỏ cũng như  cách thức bác bỏ  trong bài văn nghị  luận. Cụ  thể phải hiểu   được: + Bác bỏ là gì? + Các yếu tố bị bác bỏ? + Các cách thức bác bỏ? Từ lập luận cho sẵn nhận ra các yếu tố bị bác bỏ trong lập luận đó. Nhận ra chính xác cách thức lập luận được sử dụng trong đoạn văn đó.  Ví dụ minh họa: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi: Huyền Đức lại nói: ­ … Viên Thiệu  ở  Hà Bắc, bốn đời làm tam công, có nhiều đầy tớ  cũ;   hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Kí Châu; bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể   cho là anh hùng được chăng? Tháo lại cười nói: 18
  19. ­ Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu   mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì   lại quên mình, không thể gọi là anh hùng được.           ( Tào Tháo uống rượu luận anh hùng, SGK Ngữ văn 10, tập 2) + Đoạn văn bản trên nói về vấn đề gì?  + Luận điểm nào bị bác bỏ và bác bỏ bằng cách nào? * Cách thức hướng dẫn chung Với loại bài tập này, khi thực hành, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận   diện yếu tố bị bác bỏ cũng như  cách thức bác bỏ thông qua những kiến thức   về khái niệm, yêu cầu và cách thức của thao tác lập luận bác bỏ. ­ Bước 1: Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu chính của đề bài ­  Bước 2: Ghi lại những vấn  đề  quan trọng, vận dụng kiến thức lí  thuyết vào nhận diện các yếu tố, cách thức bác bỏ có trong đoạn văn: bác bỏ  luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ lập luận. ­  Bước 3: Kiểm tra độ  chính xác của bài tập, sửa chữa kịp thời (đối  chiếu yếu tố được nhận diện với lí thuyết đã học). Ví dụ: Vấn đề  nào bị  bác bỏ  trong đoạn văn sau? Người nói (viết) đã   bác bỏ bằng cách nào? …Lại có cả danh từ xác nhận địa danh của từng phong cảnh ấy. Thành   thử  nhiều người bình giảng khổ  thơ  của Hàn Mặc Tử  đã lầm tưởng, đây là   bức tranh tả  vẻ  đẹp thơ  mộng của Vĩ Dạ, vùng nông thôn ngoại thành xứ   Huế. Thực ra trong thơ không phải bao giờ địa danh cũng được sử  dụng để   chỉ địa danh. Chẳng hạn, trong Tây Tiến của Quang Dũng, một loạt địa danh   được tung ra, như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, … chỉ cốt   gây ấn tượng về sự hoang sơ, xa ngái. Vĩ Dạ trong bài thơ của Hàn Mặc Tử   là tín hiệu về cuộc đời trần thế ấm nóng tình người… (Theo Lã Nguyên, Đây thôn Vĩ Dạ, trong sách Giảng văn chọn lọc văn   học Việt Nam,Trần Đình Sử (tuyển chọn), NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội,  2003) Hướng dẫn: ­ Bước 1: Đọc đề  bài, xác định yêu cầu của đề  bài: yêu cầu phân tích   ngữ liệu, tìm ra yếu tố bị bác bỏ và cách thức bác bỏ. ­ Bước 2: Ghi lại những vấn đề quan trọng? + Thao tác lập luận: thao tác bác bỏ. 19
  20. + Yếu tố  bị  bác bỏ: có nhiều từ  chỉ  địa danh khiến nhiều người bình  giảng nghĩ rằng đó là bức tranh tả  thực vẻ  đẹp thôn Vĩ Dạ, vùng nông thôn   ngoại ô Huế  + Cách bác bỏ: bác bỏ luận điểm (dùng suy luận và thực tế để bác bỏ). ­ Bước 3: Đối chiếu kết quả và sửa chữa những lỗi sai (đối chiếu với  kiến thức lí thuyết như: thao tác bác bỏ là gì? Luận điểm là gì? Luận điểm đó  có sai hay không? Luận điểm có cần phải bác bỏ hay không?...) * Một số dạng bài tập nhận diện ­ Bài tập nhận diện yếu tố bị bác bỏ Đây là bài tập cho trước ngữ  liệu (đoạn văn) trong đó có chứa thao   tác lập luận bác bỏ, từ đó yêu cầu học sinh phát hiện, chỉ ra yếu tố bị gạt bỏ  (luận điểm, luận cứ, lập luận sai lệch, thiếu chính xác). Như  vậy, kiểu bài tập này có thể  đưa về  những dạng cụ  thể: nhận   diện luận điểm bị bác bỏ, nhận diện luận cứ bị bác bỏ, nhận diện lập luận bị bác   bỏ. + Loại thứ nhất: luận điểm bị bác bỏ Đây là loại bài tập yêu cầu học sinh nhận biết luận điểm bị  bác bỏ  trong lập luận. Với bài tập này, học sinh phải nắm vững kiến thức về luận điểm cũng  như thao tác lập luận bác bỏ: Thế  nào là luận điểm? Luận điểm là tư  tưởng, quan điểm của người  viết với vấn đề nghị luận trong bài văn, được thể hiện dưới hình thức những  câu văn khẳng định hay phủ định. Thế  nào là bác bỏ  một luận điểm? Bác bỏ  luận điểm là chỉ  ra ý kiến,  quan điểm sai lầm qua hai phương thức chính là dùng thực tế  và dùng suy   luận.  Dùng thực tế  bác bỏ  tức tìm ra những điểm trái với thực tế  đời sống  hoặc văn học.  Dùng phép suy luận để  tìm ra cái sai của luận điểm cần phải bác bỏ  được bộc lộ đầy đủ. Trong một lập luận thường có cấu tạo bao gồm ba yếu tố: luận điểm,   luận cứ, lập luận. Khi luận điểm (ý chính) bị bác bỏ, Người viết phải đưa ra   những lí lẽ  và dẫn chứng phù hợp nhằm thuyết phục người đọc nhận ra cái  sai trong luận điểm đó. Khi thực hiện bài tập, trước hết giáo viên phải yêu cầu học sinh xác  định ý chính của đoạn văn (luận điểm) và tìm hiểu ý chính đó nói về vấn đề  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0