Đề bài: Phân tích và nêu cảm nhận về đoạn trích Cha con nghĩa nặng<br />
Dàn ý chi tiết <br />
1/ Mở bài<br />
Giới thiệu tác giả và đoạn trích, khái quát nội dung đoạn trích: Đoạn trích “Cha con nghĩa <br />
nặng” thuộc nửa sau Chương IX trong cuốn tiểu thuyết thứ 15 của Hồ Biểu Chánh. Nhan <br />
đề của câu chuyện đã làm rõ nội dung trong tác phẩm, câu chuyện có nhiều tình huống éo <br />
le và cảm động<br />
2/ Thân bài<br />
Giới thiệu khái quát hoàn cảnh câu chuyện: Trải qua mười mấy năm phải thay họ đổi <br />
tên, vất vả làm thuê làm mướn kiếm sống nơi đất khách quê người, Trần Văn Sửu mang <br />
trong mình đầy nỗi khổ tâm, nỗi nhớ day dứt triền miên về hai đứa con thơ tội nghiệp là <br />
thằng Tí và con Quyên<br />
Cảnh ông Sửu lén trở về thăm con nhưng không được gặp: Chính vì thế mà ông Sửu đã <br />
bí mật trở về Giồng Ké với ước nguyện được thăm con, nhìn tận mặt con dù chỉ trong <br />
giây lát mà cùng không được.<br />
Cuộc hội ngộ của hai cha con trên cầu Mê Túc: Thằng Tí xúc động đến cực độ “chạy <br />
riết lại nắm tay cha nó, dòm sát trong mắt mà nhìn rồi ôm cứng” cha nó vào lòng<br />
Lối thoát cho hoàn cảnh của hai cha con: Và câu chuyện đã có một kết thúc có hậu, chan <br />
chứa nhân tình, nhân nghĩa, người cha đã được miễn truy tố, được trở về quê hương và <br />
sum họp với đàn con yêu quý<br />
3/ Kết bài: Ý nghĩa về hai nhân vật Trần Văn Sửu và thằng Tí: Trước bi kịch gia đình, <br />
tình nghĩa cha con vẫn son sắt sâu nặng, hai cha con ông Sửu là hiện thân của bao phẩm <br />
chất tốt đẹp trong con người nông dân miền Nam từ xưa tới nay<br />
Bài tham khảo<br />
Đoạn trích “Cha con nghĩa nặng” thuộc nửa sau Chương IX trong cuốn tiểu thuyết thứ 15 <br />
của Hồ Biểu Chánh. Nhan đề của câu chuyện đã làm rõ nội dung trong tác phẩm, câu <br />
chuyện có nhiều tình huống éo le và cảm động. Những tình tiết ấy cứ đan chéo nhau làm <br />
nổi bật lên những đức tính cao đẹp của cha Sửu và thằng Tí trước bi kịch gia đình.<br />
Trải qua mười mấy năm phải thay họ đổi tên, vất vả làm thuê làm mướn kiếm sống nơi <br />
đất khách quê người, Trần Văn Sửu mang trong mình đầy nỗi khổ tâm, nỗi nhớ day dứt <br />
triền miên về hai đứa con thơ tội nghiệp là thằng Tí và con Quyên. Người cha ấy luôn đau <br />
khổ, lương tâm cứ cắn dứt không thôi sau ngày nhỡ tay xô ngã chết vợ mình. Ông sợ rằng <br />
hai con còn quá nhỏ “không hiểu được việc xưa rồi nó trở oán mình”, ông sợ con phải <br />
sống trong cảnh côi cút “bơ vơ đói rách mà tội nghiệp”.<br />
Chính vì thế mà ông Sửu đã bí mật trở về Giồng Ké với ước nguyện được thăm con, nhìn <br />
tận mặt con dù chỉ trong giây lát mà cùng không được. Hình ảnh ông Sửu “chắp tay xá cha <br />
vợ rời đội nón lên và bươn bá bước ra lộ” giữa đêm trăng trông thật đáng thương. Rồi câu <br />
hỏi của thằng Tí “Ông ngoại giấu tôi làm chi? Sao đuổi cha tôi đi?”, đó là một câu hỏi <br />
đầy trách móc, đồng thời biểu lộ tình cảm của đứa con khao khát gặp lại cha thân yêu. <br />
Tình cảm ấy của người con thơ không khỏi khiến chúng ta xúc động.<br />
Ngồi trên cầu Mê Tức, người cha vô cùng ân hận, nhớ lại cảnh vợ chết, rồi cảnh hai đứa <br />
con mỗi buổi chiều anh đi ruộng về. Anh đau đớn, định nhảy xuống sông tự tử, trước khi <br />
nhảy anh cất tiếng nhản con thơ: “Cha chết nhé! Mấy con ở lại mạnh giỏi, để cha theo <br />
mẹ con cho rỗi”. Lời vĩnh biệt ấy đã thể hiện sâu sắc tình cảm cha con nghĩa nặng vô <br />
cùng. May sao khi ấy thằng Tí đã đến kịp thời, chậm vài bước nữa thôi là nó đã chẳng còn <br />
cha nữa rồi. Nó nhìn thấy người vội hỏi “Ai đó? Phải cha đó không, cha? Ông Sửu tháo <br />
đầu ra khỏi lan can cầu “rồi dậy mà ngố”. Thằng Tí xúc động đến cực độ “chạy riết lại <br />
nắm tay cha nó, dòm sát trong mắt mà nhìn rồi ôm cứng” cha nó vào lòng. Những cử chỉ <br />
và hành động, những câu hỏi và lời nói của đứa con trai tội nghiệp đã làm cho người cha <br />
bồi hồi, bàng hoàng và xúc động “nước trọng mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, <br />
không nói được một tiếng chi hết”. Con thì tưởng cha đã chết, cha lại tưởng không bao <br />
giờ được gặp lại con, thế mà giờ đây trên cầu Mê Tức quê nhà, hai cha con đã được gặp <br />
nhau.<br />
Tác giả đã sử dụng những lời ăn tiếng nói chân quê của người dân ấp dân lân để miêu tả <br />
tâm trạng hai cha con ông Sửu một cách tinh tế và xúc động. Có thể làm được điều đó là <br />
bởi chính nhà văn cũng là người sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, gắn <br />
bó và hòa quyện với hơi thở, nhịp sống của nơi đây. Trần Văn Sửu không thể về sống lại <br />
nơi quê nhà, vì làng tổng sẽ bắt ông đi tù, khi ấy cuộc sống của hai đứa con anh đều sẽ <br />
gặp nhiều khó khăn. Còn nếu lại ra đi, sống tha phương lẩn lút thì lại thương nhớ con <br />
khôn nguôi. Thằng Tí chỉ muốn theo cha “chừng nào cha chết rồi con sẽ về”, nó chỉ có <br />
một ý nguyện “Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chứ”. <br />
Nỗi băn khoăn đi hay về ấy cứ “dan díu bịn rịn cho đến sao Mai mọc” mới tìm được ra lối <br />
thoát hợp lý. Và câu chuyện đã có một kết thúc có hậu, chan chứa nhân tình, nhân nghĩa, <br />
người cha đã được miễn truy tố, được trở về quê hương và sum họp với đàn con yêu quý.<br />
Ông Sửu và thằng Tí đều là những con người chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối, họ lam lũ <br />
quanh năm suốt tháng khổ cực. Tuy mù chữ nhưng cách sống và cách ứng xử của hai cha <br />
con lại thật cao đẹp. Trước bi kịch gia đình, tình nghĩa cha con vẫn son sắt sâu nặng, hai <br />
cha con ông Sửu là hiện thân của bao phẩm chất tốt đẹp trong con người nông dân miền <br />
Nam từ xưa tới nay.<br />