TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------------------------
NGUYỄN THỊ TUYẾN
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2014
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------------------------
NGUYỄN THỊ TUYẾN
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo - Tiến Sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn đặc biệt là các thầy, cô trong tổ Văn học Việt Nam -
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong 4 năm
học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm,
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế
của người viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy, cô và các bạn sinh viên để
khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Tuyến
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của tôi cùng với
sự giúp đỡ của các thầy, cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị
Tuyết Minh.
Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận Hiện thực
đời sống và thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của
Dương Hướng không có sự trùng lặp với các khóa luận khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5, năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Tuyến
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6
Chƣơng 1. TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ............................................ 7
1.1. Quan niệm về tiểu thuyết ........................................................................... 7
1.2. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại ........... 8
1.3. Tác giả Dương Hướng và tiểu thuyết Bến không chồng .......................... 11
1.3.1. Tác giả Dương Hướng .................................................................... 11
1.3.2. Tác phẩm Bến không chồng ............................................................ 13
Chƣơng 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN
PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG
CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG ................................................................ 16
2.1. Hiện thực đời sống ................................................................................... 16
2.1.1. Đời sống nông thôn thời hậu chiến ................................................. 16
2.1.2. Đời sống nông thôn với nhiều hủ tục nặng nề ................................ 20
2.2. Thân phận con người ................................................................................ 27
2.2.1. Thân phận người lính thời hậu chiến .............................................. 27
2.2.2. Thân phận người phụ nữ ................................................................. 35
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG
TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG .......... 49
3.1. Sử dụng những biểu tượng có giá trị nghệ thuật cao ............................... 49
3.1.1 Biểu tượng “bến” ............................................................................. 49
3.1.2. Biểu tượng “ngôi từ đường họ Nguyễn” ........................................ 52
3.1.3. Biểu tượng “vạt cỏ bằng” ............................................................... 52
3.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa ................................................................ 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, nhưng đề tài về chiến tranh vẫn được
các nhà văn thời hậu chiến dành cho nhiều ưu ái. Các nhà văn đã dồn bút lực
của mình để dựng lại cho hậu thế bối cảnh của hiện thực đời sống, xã hội Việt
Nam trong những năm tháng trong và sau chiến tranh cũng như những nỗi
thống khổ của con người thời chiến. Số lượng tác phẩm viết về chiến tranh
ngày càng tăng từ sau năm 1986. Cuộc đời và con người được soi chiếu dưới
những góc nhìn đa dạng, với những cảm hứng mới mẻ.
Dương Hướng là một trong những nhà văn thời hậu chiến có tác phẩm
viết về chiến tranh. Ông thuộc thế hệ nhà văn cùng thời với Ma Văn Kháng,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn… Nhưng phải đến
khi ngoài 40 tuổi, danh tiếng của ông mới được bạn đọc biết đến qua tập
truyện ngắn đầu tay “Gót son” (1989). Dường như, ông đến với văn chương
khá chậm nhưng “chậm mà chắc”. Ông sáng tác không nhiều. Tuy nhiên,
bằng tài năng văn chương của mình, Dương Hướng đã có vị trí vững vàng
trong đội ngũ các nhà văn tên tuổi giai đoạn đầu đổi mới. Nhắc đến nhà văn
Dương Hướng độc giả nghĩ ngay tới tác phẩm Bến không chồng. Tiểu thuyết
này đã đem lại cho nhà văn người Thái Bình giải A của Hội Nhà văn Việt
Nam năm 1991. Bến không chồng tái hiện lại khung cảnh làng Đông – vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Nơi đó có sông Đình, có cầu Đá Bạc, có những người lính
bước ra từ chiến tranh với bao mất mát, hi sinh và có cả những người phụ nữ
mòn mỏi, cô đơn, chịu nhiều nỗi bất hạnh, gian truân. Những hình ảnh đó,
con người đó ám ảnh não cân và tâm khảm của bạn đọc bao thế hệ. Đó chính
là lí do, là động lực khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: “Hiện thực đời sống và
thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng”.
1
Hi vọng khóa luận này sẽ đem lại cho bạn đọc yêu văn thời hậu chiến
nói chung và tác phẩm Bến không chồng của Dương Hướng nói riêng cảm
nhận sâu sắc về những nỗi thống khổ của con người trong đêm trước Đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề
Bến không chồng của nhà văn Dương Hướng được in năm 1991 do nhà
xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Ngay sau đó, tác phẩm đã đoạt giải A – giải
thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, Bến không chồng là cái
tên được nhắc tới khá nhiều trong giới nghiên cứu, phê bình văn học.
Nhà văn Nguyên Ngọc nhấn mạnh: “Đến Bến không chồng của Dương
Hướng thì tiếng kêu thét của cá nhân bị vùi dập càng mạnh mẽ, thống thiết
hơn” và “Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con
người” [18, 13 - 14]. Lời nhận xét của tác giả đầy xúc động, chân thành đã
phần nào nói lên sự đồng tình, ủng hộ của độc giả với Bến không chồng ngay
từ ngày đầu ra mắt.
Tiếp sau đó, Nguyễn Văn Long cũng có bài phê bình về tác phẩm Bến
không chồng. Theo tác giả thì nông thôn trong Bến không chồng không chỉ
được khai thác sâu ở phương diện các phong trào cách mạng, các vấn đề của
đời sống chính trị xã hội mà tập trung vào việc làm rõ ý thức và tập quán từ họ
tộc tới số phận con người. Nguyễn Văn Long đã nhìn ra một “bản sắc” riêng
biệt, chứa ẩn trong Bến không chồng. Theo thời gian, người đọc thấy rằng, sức
hấp dẫn của Bến không chồng chính là sự chân thực và cách nhìn cảm thông,
nhân đạo với số phận con người nhất là người phụ nữ của Dương Hướng.
Năm 2009, trên Tạp chí sông Hương số 248, giáo sư Phong Lê cho rằng:
“Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn mới
về bức tranh đất nước thời chiến và hậu chiến… với gánh nặng không phải chỉ
là chiến tranh, về phía khách quan, mà còn là những lầm lạc của con người
trong bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai do lịch
2
sử để lại không đủ tầm và sức để vượt qua… Bến không chồng lại có được một
vẻ đẹp khác trong khuôn hình cổ điển, mộc mạc và chân phương trong cốt
truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà
giản dị, tự nhiên…” [10, 75 – 80]. Phong Lê cũng lí giải căn nguyên đổ vỡ, khổ
đau của những thân phận người trong tác phẩm là “do lịch sử để lại”, một lịch
sử quá nghiệt ngã với con người làng Đông, bởi tất cả những mất mát, hi sinh,
dữ dằn và khốc liệt của chiến tranh đã chà xát tâm hồn họ, đẩy họ tới tận cùng
của bi kịch, đau thương. Điều đáng chú ý, tác giả đã nhìn nhận, tìm hiểu và
đánh giá về Bến không chồng đặt trong hành trình văn nghiệp của Dương
Hướng, để thấy sự tiếp nối, kế thừa những đặc điểm của tác phẩm này ở những
tác phẩm sau đó của nhà văn.
Cùng thời điểm này, năm 2009, trên website của nhà văn Dương
Hướng duownghuongqn.vnwebblogs.com, tác giả Nguyễn Duy Liễm trong bài
viết: “Dương Hướng người ghi mốc son cho văn học thời kì đổi mới” có bàn
luận: “Viết về Bến không chồng Dương Hướng đã nghiễm nhiên rẽ ngoặt. Tác
phẩm của anh là một nhát gạch chéo vào cái lối mòn rỗng tuếch mà nhàm
nhẵn ấy (…). Đọc Bến không chồng, vẫn làm ta lặng đi suy ngẫm về sự “xé
rào” táo tợn của anh [11]. Tạ Duy Liễm đã coi Bến không chồng là một
trong dấu mốc đánh dấu sự thay đổi của nền văn học, từ nền văn học chỉ biết
“thuyết trình và minh họa” sang một nền văn học với những đào sâu và tìm
tòi, những trải nghiệm và đúc rút sâu xa về số phận của cá nhân mỗi con
người. Trên thực tế, Bến không chồng không phải là tác phẩm mở đầu cho
phong trào đổi mới trong văn học, nhưng nó cũng được coi là một trong
những sáng tác ưu tú góp phần thúc đẩy công cuộc cải cách văn học cuối thập
kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước.
Mặc dù thời gian ra đời cho đến nay chưa phải là quá dài đới với “số
phận” của một tác phẩm văn học, nhưng Bến không chồng đã gây được sự chú
3
ý của đông đảo dư luận bạn đọc cũng như giới thẩm bình. Nhìn chung, đa phần
các nhìn nhận, đánh giá về tác phẩm này đều hướng tới tính tích cực mà nó thể
hiện. Công sức và tâm huyết của Dương Hướng cũng được các nhà nghiên cứu,
phê bình ghi nhận.
Không chỉ là điểm chú ý trên lĩnh vực phê bình văn học, ở lĩnh vực điện
ảnh, tiểu thuyết Bến không chồng còn được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển
thể khá nhuần nhuyễn trong bộ phim cùng tên. Bộ phim thực sự lôi cuốn người
xem bởi toàn cảnh bức tranh làng Đông được tái hiện một cách sinh động.
Cùng với việc nổi danh ở lĩnh vực điện ảnh, tác phẩm còn được dịch ra tiếng Ý,
Pháp, cho tới nay đã được xuất bản 11 lần. Điều đó càng khẳng định chỗ đứng
của Bến không chồng trong lòng độc giả trong và ngoài nước.
Những ý kiến, những công trình nghiên cứu của những người đi trước như
những chiếc chìa khóa dẫn dắt, định hướng và gợi mở quan trọng cho chúng
tôi. Từ đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Hiện thực đời sống và thân phận
con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là tiểu thuyết Bến không chồng và trong một chừng mực nhất định có
thể có sự so sánh đối chiếu với những tác phẩm khác để làm rõ đối tượng
nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ nội dung cụ thể của đề tài và “tính vừa sức” của một khóa
luận tốt nghiệp Đại học, chúng tôi không tìm hiểu toàn bộ những vấn đề trong
tiểu thuyết Bến không chồng mà chỉ tập trung vào những bình diện cơ bản
sau:
- Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng trong đời sống văn
xuôi Việt Nam đương đại. Nghĩa là xem xét mối quan hệ, những điều kiện chi
4
phối, ảnh hưởng, vị trí, ý nghĩa của tiểu thuyết này trong đời sống văn xuôi
Việt Nam đương đại.
- Bức tranh về hiện thực đời sống và thân phận con người trong tiểu
thuyết Bến không chồng.
Chúng tôi xem xét, phân tích và chỉ ra bức tranh xã hội mà Dương
Hướng miêu tả trong tác phẩm và xem xét những yếu tố đó chi phối như thế
nào đến thân phận con người đặc biệt là những người lính trở về sau chiến
tranh và những người phụ nữ nơi hậu phương.
- Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống và thân
phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu của
văn học đổi mới nhất là từ những năm đầu 90 và những đóng góp của nhà văn
cho tiểu thuyết Việt Nam thời kì này.
- Nhận thức về hiện trạng xã hội nông thôn Việt Nam trước đổi mới
mà làng Đông trong tác phẩm là một điển hình. Qua đó đồng cảm, xót thương
cho những số phận đầy bi kịch, mất mát đau thương của con người sau chiến
tranh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tập trung nghiên cứu về hiện thực đời sống và thân phận con
người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng. Qua đó, khẳng
5
định được tài năng nghệ thuật và vị trí của Dương Hướng trong nền văn học
đương đại Việt Nam.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của khóa luận được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Bến không chồng trong đời sống văn xuôi Việt
Nam đương đại
Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và thân phận con người trong
tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống
và thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng
của Dương Hướng
6
Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Quan niệm về tiểu thuyết
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự
cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở giới hạn không gian, thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh sản phẩm của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đặc điểm xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng” [5, 277].
Cuốn 150 thuật ngữ văn học khẳng định “Tiểu thuyết là tác phẩm tự
sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình
hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được triển khai trong
không gian, thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của
nhân cách (…). Tiểu thuyết trình bày được đời sống cá nhân và đời sống xã
hội như những tố chất có tính độc lập tương đối, không làm cạn kiệt được
nhau, không ngốn nuốt được nhau, đây là đặc điểm quyết định nội dung của
thể loại tiểu thuyết” [1, 327].
Có thể thấy, cả hai quan niệm trên đều nhấn mạnh tới khả năng phản
ánh những biến cố của đời sống riêng tư, đời sống nội tâm của con người
cũng như khái quát lịch sử của nhiều cuộc sống, những bức tranh phong tục
đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp của thể loại
tiểu thuyết. Phan Cự Đệ khái quát: “Tiểu thuyết không phải chỉ miêu tả cuộc
sống riêng tư, không phải chỉ là anh hùng ca của cuộc sống cá nhân, tiểu
thuyết còn là bức tranh bích họa khổng lồ bao quát cả một thời đại”.
Xét về bản chất thể loại của tiểu thuyết, Bakhtin nhấn mạnh “tiểu
thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định
7
hình”. Nghĩa là: Tiểu thuyết không thể có những quy phạm cố định như các
thể loại đã hoàn tất. Với ý nghĩa là một nghệ thuật khám phá thực tại, trong
quá trình vận động, diện mạo của tiểu thuyết không ngừng biến đổi để phù
hợp với sự phát triển đa dạng, nhiều chiều của cuộc sống và thị hiếu tiếp nhận
của người đọc ở mọi thời đại. Luôn luôn mới đó là yếu tố làm nên điều kì
diệu của tiểu thuyết. Thêm vào đó, tiểu thuyết có khả năng tổng hợp nhiều
nhất và đồng hóa các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác vào
mình. Điều này tạo ra viễn cảnh: “mở rộng bến bờ của tiểu thuyết”, thúc đẩy
nhanh quá trình tìm tòi, thử nghiệm để không ngừng cách tân tiểu thuyết, đem
lại cho tiểu thuyết những diện mạo mới, hiện đại hơn.
Từ những quan niệm về tiểu thuyết nêu trên, có thể thấy: Tiểu thuyết là
một thể loại văn học có khả năng miêu tả sâu sắc cuộc sống của con người, có
sức khám phá những nguồn mạch biện chứng của tâm hồn, động chạm tới
những góc khuất sâu tối nhất của mỗi cá nhân cũng như có khả năng bao quát
một mảng hiện thực rộng lớn, tạo nên một bức tranh toàn cảnh của một giai
đoạn, một thời kì lịch sử. Tiểu thuyết là mạch nguồn trong mát của biển cả
văn chương. Tuy vậy nó không cố định mà luôn có những sự sáng tạo, tìm tòi,
cách tân đổi dòng liên tục để làm mới mình sao cho phù hợp với thời đại và
thị hiếu của độc giả.
1.2. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại
Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực chân thực nhất. Mỗi nhà
văn là những tên mật thám của tâm hồn sẵn sàng băng qua các đường biên để
tìm cái mới. Điều đó dẫn tới một chân lí “Thời đại nào thì văn học đó”. Quả
vậy, sau năm 1986 đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Đổi mới đất nước ta, đổi mới có
ý nghĩa sống còn”. Đời sống sau hòa bình với những khó khăn, bề bộn đòi hỏi
các nhà văn phải sáng tác được những tác phẩm giá trị, phản ánh được hơi thở
8
của thời đại. Với tinh thần “cởi trói”, “dân chủ” mà Đảng ta khuyến khích,
các nhà văn không còn bị gò bó theo những quy phạm, những khuôn khổ của
giai đoạn trước mà được thỏa sức sáng tạo, trải nghiệm. Họ luôn trăn trở, chủ
động tìm cho mình một hướng đi mới thích hợp với sự vận động của xã hội –
thời đại và xu hướng vận động của bản thân văn học.
Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ VI, các nhà văn thực sự đã tìm
ra được con đường đi cho sáng tác của mình. Điều đó góp phần làm cho văn
học có sự chuyển mình sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Đời sống văn học đổi mới một cách toàn diện: Nhà văn có sự thay đổi sâu sắc
về quan niệm nghệ thuật, hiện thực về con người. Điều này khiến cho tác
phẩm của họ có sự thay đổi về chủ đề, cảm hứng sáng tác và các thủ pháp
nghệ thuật góp phần thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của người đọc. Cùng với sự
thay đổi toàn diện của văn chương thì tiểu thuyết cũng nỗ lực đổi mới để đáp
ứng yêu cầu của thời đại.
Trước yêu cầu đổi mới, nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân
trong cách nhìn, lối viết và đã cho ra đời những “đứa con tinh thần” thành
công, có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Điều
đáng nói là thành phần sáng tác văn học lúc này có sự thay đổi mạnh mẽ, bên
cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến
đã xuất hiện thế hệ những nhà văn hậu chiến, nhà văn thời kì đổi mới và thậm
chí bao gồm cả những cây bút hải ngoại. Tất cả, đã tạo nên những động lực
mới giúp tiểu thuyết Việt Nam vững bước đi lên sánh ngang tầm thế giới.
Đời sống văn học ngày càng dân chủ, cho phép các nghệ sĩ thỏa sức
bộc lộ sự sáng tạo, đổi mới tư duy mà đặc biệt là về mặt tư duy thể loại. Nếu
như tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trước 1975 thường “cựa quậy” trong cái
khung của thể loại truyền thống là kể lại một câu chuyện sao cho giống với
thực chất, các nhà văn thường khám phá nội dung hiện thực thông qua số
9
phận nhân vật, qua mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh thì nay tiểu
thuyết sau 1975 đã xuất hiện những sinh thể đầy sức sống, dám chối từ lối
mòn xưa để vươn tới sự thể hiện mới mẻ. Sau năm 1986, không khí đổi mới
tiểu thuyết thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống văn học, tiểu thuyết
có điều kiện cân bằng lại trạng thái tâm lý con người. Dòng tiểu thuyết hướng
nội tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong con người đã
xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận “văn học chăm chú quan tâm hơn
đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp, đa
dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức tạp và đa
dạng với toàn xã hội và với chính mình” không loại bỏ xu hướng “hướng
ngoại” và quan tâm hơn đến xu hướng “hướng nội”, tiểu thuyết giai đoạn này
đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, đối thoại với đời sống, đối thoại
với cuộc đời để nắm bắt được “cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và
ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn con người để lắng
nghe tất cả những âm vang của tiếng lòng bí ẩn trong con người: có tiếng yêu
thương, có lời giận hờn, có cả những quanh co, những tính toán ngấm
ngầm…
Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề về đời sống xã hội mà văn học
quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối đến như thế ở
trong tiểu thuyết. Các nhà văn đã khai thác đến tầng vỉa của hiện thực đời sống
qua số phận con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người. Vì
vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi nhân gian” và cái
rộng lớn và cái mênh mông, sâu thẳm của cõi lòng nhỏ bé, qua số phận của
những con người. Ngòi bút của các nhà văn đã lột ra mọi sự thật của đời sống
dù cho điều đó làm cho họ cay đắng đến đâu chăng nữa. Đồng thời, thấm vào
từng dòng chữ lại là một tình yêu thương, một niềm tin và sự đòi hỏi rất cao đối
10
với con người, một con mắt thấu suốt làm những cái bình thường hàng ngày
hiện lên trong một ánh sáng mới lạ khiến ta không thể nào quên.
1.3. Tác giả Dƣơng Hƣớng và tiểu thuyết Bến không chồng
1.3.1. Tác giả Dương Hướng
Dương Hướng tên khai sinh là Dương Văn Hướng, sinh ngày 08 tháng
07 năm 1949 tại làng An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái
Bình. Năm ông 16 tuổi cũng là lúc đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh
ra miền Bắc. Đứng trước thảm cảnh nhân dân Thái Thụy quê ông phải chìm
trong vòng nô lệ, áp bức, lầm than của gót giày xâm lược, Dương Hướng đã
xung phong đi công nhân quốc phòng. Hai năm sau đó (1967) người con Thái
Bình ấy được cử đi học tại trường kĩ thuật tàu thủy. Năm 1969, Dương Hướng
ra trường và được điều về công tác tại công ty vận tải đường sông 204 – 208.
Năm 1971, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam chống lại đế quốc
Mỹ đang vào giai đoạn cuối đầy khốc liệt, người con của quê lúa đầy nhiệt
tình cách mạng và lòng dũng cảm lại xung phong đi bộ đội.
Ông vào chiến đấu tại chiến trường khu IV, đơn vị E573 thuộc quân khu
V. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất thì năm 1976,
Dương Hướng được phân công về công tác tại Cục hải quan Quảng Ninh và
ông ở đó công tác đến nay. Con người đã từng lăn lộn những năm tháng chiến
đấu ở chiến trường cùng với tâm hồn chan chứa yêu thương đã tôi luyện
Dương Hướng trở thành một cây bút văn chương tiêu biểu thời hậu chiến.
Dương Hướng bắt đầu bước vào sự nghiệp văn chương khá muộn khi
ông đã ngoài 40 tuổi. Tác phẩm đầu tay của Dương Hướng là tập truyện ngắn
Gót son (1989). Tác phẩm ra đời nhưng chưa gây được sự chú ý của người
đọc. Tuy nhiên, điều này không làm ông “nhụt chí”, không ngăn cản được
niềm đam mê sáng tác văn học ở Dương Hướng. Bằng chứng là liền ngay sau
đó, năm 1990 Dương Hướng cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Bến không chồng.
11
Tác phẩm đã dấy lên ở bạn đọc yêu văn những rung cảm, phá toang ở họ sự
thật về chiến tranh nghiệt ngã. Dư luận xôn xao và cái tên Dương Hướng
nhanh chóng gây được thiện cảm và vị trí trong lòng độc giả Việt Nam. Tiểu
thuyết Bến không chồng đã đánh dấu bước thành công đầu tiên của nhà văn.
Đồng thời, nó cũng ghi danh nhà văn trên đỉnh cao của văn học Việt Nam thời
kì đầu đổi mới. Không bằng lòng với những gì mình có, Dương Hướng tiếp
tục thể hiện tài năng văn chương của mình với việc cho ra đời cuốn tiểu
thuyết Trần gian đời người vào năm sau đó. Tuy nhiên, do cái bóng của Bến
không chồng quá lớn nên tác phẩm này không được nhiều bạn đọc chú ý.
Công việc ở cơ quan trở nên bận rộn hơn, nên mãi đến năm 1995 nhà văn
người Thái Bình ấy mới có điều kiện xuất bản tập truyện ngắn Người đàn bà
trên bãi tắm. Ba năm sau cuốn tiểu thuyết Bóng đêm mặt trời được khai sinh
nhưng cũng giống như những tác phẩm trước, nó cũng bị chìm đi dưới cái
bóng của Bến không chồng… Thời gian sau đó Dương Hướng dường như “im
hơi lặng tiếng” trên văn đàn. Bạn đọc ngỡ như sẽ không còn thấy bóng dáng
những tác phẩm – đứa con tinh thần của ông xuất hiện nữa. Nhưng không, sau
chín năm lặng lẽ “ấp ủ”, “thai nghén” ông cho ra mắt tiểu thuyết Dưới chín
tầng trời. Cuốn tiểu thuyết này làm bạn đọc ngỡ ngàng bởi sự bứt phá tài
năng văn chương ở Dương Hướng. Không giống như hai cuốn tiểu thuyết
trước, Dưới chín tầng trời đã rẽ sang một lối khác và được đông đảo bạn đọc
đón nhận. Cuốn tiểu thuyết Dưới chín tầng trời xuất bản năm 2007, đã chứng
tỏ độ chín của một cây bút tài năng.
Ngoài ra Dương Hướng còn sáng tác ba truyện vừa Đàn chim két bay
ngang trời, Quãng đường còn lại và Người mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên
bạn đọc chỉ thực sự biết đến ông trên lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết mà
thôi.
Có thể nói từ thành công đầu tiên với tác phẩm Bến không chồng nhà
văn Dương Hướng đã sáng tạo văn chương một cách bền bỉ, không mệt mỏi.
12
Tất cả những nỗ lực đó của ông đều đã được đền đáp xứng đáng bằng sự
ngưỡng mộ ở bạn đọc và những vinh quang của các giải thưởng văn học.
Dương Hướng đã được nhận những giải thưởng văn học như:
- Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí đất Quảng với truyện ngắn
Quãng đời còn lại (năm 1987).
- Tặng thưởng tuyện ngắn hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội với tác
phẩm Người mắc bệnh tâm thần (năm 1989).
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Bến không chồng
(năm 1991).
- Giải thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội với truyện ngắn Đêm trăng.
- Giải A Văn nghệ Hạ Long với tập truyện Người đàn bà trên bãi tắm
(năm 1996).
- Tặng thưởng tuyện ngắn hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội với tác
phẩm Bến khách (năm 2007).
- Giải thưởng Văn học Hạ Long với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời
(năm 2012).
1.3.2. Tác phẩm Bến không chồng
Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Mảnh
đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của
Dương Hướng luôn là những tuyệt tác, những bông hoa nghệ thuật rực rỡ
giữa vườn hoa văn học nghệ thuật sau 1975 đa sắc. Những tiểu thuyết này đã
trở thành hiện tượng văn học nổi bật của văn xuôi Việt Nam thời kì Đổi mới.
Bến không chồng ở thời điểm mở đầu những năm 90 đã đem lại cho
bạn đọc một cái nhìn mới về chiến tranh đất nước trong thời chiến và hậu
chiến. Cuộc chiến tranh trong Bến không chồng kéo dài hơn 40 năm với
những gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh mà còn là những lầm lạc,
những tăm tối của con người trong đêm trước Đổi mới. Với phương châm
13
sáng tác: “Tôi luôn cố đặt vấn đề một cách thẳng thắn, trực diện, không né
tránh hiện thực cho dù hiện thực nghiệt ngã nhất, quan trọng là tấm lòng
người cầm bút gửi vào đâu?” đã giúp tiểu thuyết Bến không chồng của
Dương Hướng trụ vững trong trái tim của độc giả.
Tiểu thuyết Bến không chồng mở đầu bằng hình ảnh Nguyễn Vạn
khoác ba lô về làng sau những năm tháng chiến đấu ở chiến trường Điện
Biên. Làng Đông – quê hương của Nguyễn Vạn là một vùng đất có những câu
chuyện kì lạ, bí ẩn và hoang đường như chuyện: “mắt tiên”, “gò ông Đổng”,
“con ma mặt đỏ chuyên đi hiếp đàn bà góa chồng…”. Ở làng lại có một bến
sông với “vẻ quyến rũ kì lạ” mà các cụ gọi đó là Bến không chồng. Bây giờ,
người ta lại gọi đó là bến Tình. Cũng chính vì sự “quyến rũ kì lạ” của bến
Tình mà biết bao chuyện đau lòng đã xảy ra. Bi thảm nhất là câu chuyện của
hai dòng họ Nguyễn và họ Vũ. Chuyện là cô con gái rượu của cụ tổ dòng họ
Nguyễn bị chàng trai dòng họ Vũ hãm hiếp trên bến Tình. Cụ tổ đã khắc một
lời thề độc đối với họ Vũ. Éo le thay những thế hệ sau như: Nguyễn Vạn,
Nghĩa, Hiệp của dòng họ Nguyễn lại đem lòng yêu thương những người phụ
nữ bên dòng họ Vũ. Đau đớn và bi kịch nhất vẫn là tình yêu giữa Nghĩa và
Hạnh. Họ không giống như chú Vạn và chị Nhân yêu thương nhau nhưng
không đủ can đảm để vượt qua định kiến, dư luận xã hội. Vì vậy cho đến cuối
đời họ vẫn đi bên cạnh nhau như hai cái bóng. Còn Hiệp (trai họ Vũ) đem
lòng yêu thương Dâu nhưng cũng đành lỡ dở vì chiến tranh. Vượt lên trên tất
cả: lời nguyền của cụ tổ, ngăn cản của gia đình, dư luận, Nghĩa và Hạnh đã tổ
chức đám cưới với nhau. Vợ chồng chưa sống với nhau được bao lâu, Nghĩa
lên đường đi bộ đội. Ở nhà, ông Khiên vì thương nhớ con, lo sợ dư luận mà
chết đột tử. Nghĩa nhận được tin bố chết liền trở về. Sáng hôm sau, Hạnh lại
tiễn Nghĩa lên đường. Chiến tranh ngày càng ác liệt, thanh niên trai tráng
trong làng đi bộ đội hết. Làng Đông bây giờ chỉ còn lại những người già tật
14
nguyền, những người mẹ, những người vợ, người con gái đang tuổi xuân sắc
xuân thì… Ngày ngày, người làng Đông vẫn ngóng chờ tin tức của người thân
nơi chiến trường. Hai đứa con trai của chị Nhân đều đã hi sinh. Mười năm sau,
Nghĩa trở về với quân hàm thiếu tá, hai vợ chồng hi vọng có một đứa con trai
để nối dõi tông đường nhưng vô vọng. Trước áp lực của gia đình nhà chồng
cùng dư luận xã hội “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”, Hạnh đã quyết
định li hôn. Nghĩa với mẹ lên tỉnh. Anh lấy Thủy (em gái của một người bạn).
Từ đó, Hạnh như người điên, lúc cười, lúc khóc. Trong ngày gặp gỡ các thương
binh và gia đình liệt sĩ,Vạn đã quá chén và ra về. Bất ngờ Vạn nghe có tiếng
hét và cánh cửa mở toang “bóng người đàn bà lao tới giường và ôm ghì lấy
Vạn”. Bóng tối, hơi men, cùng thân thể người đàn bà, Vạn đã buông thả cho
thân xác tự do gây tội lỗi. Sau đêm đó, Hạnh bỏ đi. Vạn luôn sống trong đau
khổ, dằn vặt. Nghĩa biết được anh không có khả năng làm bố nên đã li dị Thủy
và trở về làng Đông. Sau bao ngày biệt tích, Hạnh trở về dắt theo đứa con của
Vạn. Vạn hối hận, ăn năn bởi đau khổ đã gây ra cho Hạnh nên đã tự vẫn ở bến
Tình. Đám tang Nguyễn Vạn không hề có tiếng khóc. Mọi người lặng lẽ tiễn
đưa linh hồn Nguyễn Vạn ra cánh mả Rốt. Hạnh dắt con gái đi bên Nghĩa. Giữa
tiếng kèn réo rắt bên tai, chị vẫn nghe rõ lời chú Vạn cứ vẳng lên: “Đừng
thương hại tao… Hãy về với thằng Nghĩa”.
Xen vào giữa truyện là biết bao éo le, đau khổ của những người phụ nữ
như: Cúc, Thắm, Dâu, Thủy… Và nỗi buồn chiến tranh luôn ám ảnh Thành.
Tất cả, đã tạo ra bức tranh nông thôn miền Bắc đầu những năm 90 đầy tăm
tối, ê chề bởi chiến tranh cùng với những sự hủ lậu chưa thể nào thay đổi
được trong một xã hội nông nghiệp manh mún, lạc hậu và tâm lí làng, xã lưu
cữu từ ngàn đời.
15
Chƣơng 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN
CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG
CỦA DƢƠNG HƢỚNG
2.1. Hiện thực đời sống
2.1.1. Đời sống nông thôn thời hậu chiến
Trong tác phẩm Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng đã đặt câu
chuyện của mình trong bối cảnh làng Đông – một làng quê được đặc tả với
những đường nét văn hóa điển hình của Bắc Bộ. Không gian bao trùm trong
tác phẩm là không gian của làng Đông với ngôi đình làng Đông, cây quéo,
cầu đá bạc, sông Đình. Cảnh quê hồn hậu ấy đã chắp cánh thành những câu
hát ru con trẻ: “À ơi… chẳng to cũng gọi đình Đông - có cầu Đá Bạc bắc qua
sông Đình - chàng ơi có nhớ đến mình - nhớ cầu Đá Bạc, nhớ đình làng
Đông” [8, 10]. Hay câu ca: “Sông làng Đông vừa trong vừa mát – Đồng làng
Đông ngan ngát hương thơm” [8, 10]. Người đọc ngỡ như Dương Hướng đặt
nhân vật của mình trong bối cảnh thôn dã, nên thơ ấy thì cuộc sống con người
cũng phẳng lặng, êm ả như thế. Nhưng không, làng quê ấy lại đang bị bao
phủ, kìm thúc trong những năm tháng miền Bắc hối hả vừa lo xây dựng xã hội
chủ nghĩa vừa lo chi viện cho miền Nam. Ngòi bút sâu sắc của nhà văn đã bóc
tách thành công hiện thực miền Bắc sau kháng chiến chống Pháp đầy khốc
liệt nhưng vẻ vang của dân tộc. Sau chiến tranh, đất nước như mang một hình
bóng mới, khoác lên một tấm áo mới. Người nông dân được làm chủ cuộc đời
mình. Cách mạng đã đổi đời cho họ, cho họ quyền công dân. Chính quyền
mới thông qua công cuộc cải cách ruộng đất đã cho phép người nông dân
được đấu tố lại địa chủ để đòi lại ruộng đất và quyền bình đẳng. Cuộc đấu tố
16
gay gắt ấy đã trừng trị triệt để địa chủ - giai cấp thống trị người nông dân thấp
cổ bé họng từ ngàn đời xưa. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tố tràn lan ấy chúng ta
mắc phải không ít những sai lầm đáng tiếc như: quy kết nhầm những người
giàu có là địa chủ. Làng Đông cũng hòa trong không khí ấy, người dân lao
động hăm hở đấu tố, tịch thu tài sản của địa chủ Hào. “Mọi thứ bị tịch thu
được đem chồng chất từng đống ngổn ngang ra sân không thiếu thứ gì, từ
cày, cuốc, xẻng, gạo, thóc, nồi niêu, bát đĩa, mâm đồng” [8, 35 - 36]. Những
người dân làng Đông sung sướng khi nhận tài sản: “Bà Nhị được chia một cối
xay lúa, chú Đang được chia cả vại khoai khô, chị Vòng được chia những bốn
vại muối dưa. Có hai vại còn đầy ắp dưa cải nén vàng rộm” [8, 35]. Cuộc đấu
tố ấy diễn ra trong không khí khẩn trương hăng hái của dân làng: “Tùng –
tùng – tùng tiếng trống dậy lên khắp các nẻo đường làng. Từ cụ già lọm khọm
chống gậy, đến các chị con thơ tay bồng, tay bế dắt díu nhau cơm đùm, cơm
nắm đổ dồn về sân đình làng Đông. Thanh thiếu niên giương cờ, biểu ngữ
khẩu hiệu đi trong dòng người luôn miệng hô vang:
- Đả đảo địa chủ Hào gian ác đầu sỏ
- Đả đảo – đả đảo – đả đảo” [8, 49].
Đối lập với không khí sung sướng, mãn nguyện ấy của dân làng là sự
im lặng, cúi đầu của địa chủ Hào: “Địa chủ Hào đứng dưới hố, tóc trắng phơ,
mặt già khọm cúi gằm xuống đất” [8, 50]. Ở tác phẩm Dưới chín tầng trời,
Dương Hướng cũng xây dựng một cảnh đấu tố tương tự, người dân hăm hở
đấu tố địa chủ Hoàng Kì Bắc: “Ngoài đường già trẻ, gái trai rùng rùng
chiêng trống, giương khẩu hiệu, biểu ngữ, hô vang… khí thế cách mạng dâng
tràn. Của cải nhà ông bà bố mẹ Nam bị thu sạch sành sanh. Hoàng Kì Bắc bị
quy những năm tội lớn. Tội thứ nhất: đi xe ngựa học đòi tư sản, tội thứ hai:
nhiều ruộng đất nhất làng Đoài, tội thứ ba: bóc lột tầng lớp bần cố nông, tội
thứ tư: nghi vấn cấu kết với bọn Việt gian phản động phá hoại cách mạng, tội
17
thứ năm là nhà to nhất làng Đoài”… [9, 86]. Trên trường bắn, Hoàng Kì Bắc
bị dân quân bịt mắt trói giật hai cách tay đứng trước rừng người sục sôi căm
thù. Những lời lẽ trong bản tố trạng Hoàng Kì Bắc, ta thấy chỉ có tội thứ ba:
“bóc lột tầng lớp bần cố nông” là đáng trách còn lại những tội trạng khác của
y đều không đáng tội và chưa rõ ràng. Tuy vậy đặt trong bối cảnh lịch sử ấy y
thật đáng tội chết.
Cuộc đấu tố địa chủ và xử bắn những người bị nghi là Việt gian (chú
Xèng, Xình) đã làm cho vùng quê vốn yên bình bỗng sôi động hẳn lên. Có
những mảnh đời đói khát, tả tơi đã được cách mạng cải cách ruộng đất đổi đời
nhưng cũng có những người lại trở thành nạn nhân luôn quằn quại, rên xiết,
đau đớn bởi căn bệnh ấu trĩ, cực đoan, duy ý chí của một bộ phận người. Đó
là mụ Hơn đã phải chịu bao đau khổ, cay đắng, tủi hờn. Trong lời đối thoại
với Vạn, mụ thống thiết: “Con lạy ông ! Con cắn rơm cắn cỏ lạy ông bà nông
dân. Ông đi lâu ngày nên không biết rõ con. Con về làm dâu nhà này nhưng
con không ác với ai, không bóc lột ai. Con còn lén giúp đỡ nhiều người nghèo
khổ ở thôn này” [8, 55]. Đó là thằng cu Tốn con trai mụ Hơn bị hai thằng
choai choai choai con nhà Đan, nhà Hồng lấy quả xoan làm đạn, giương súng
cao su thi nhau bắn thẳng vào đầu thằng Tốn. Sợ hãi cuống cuồng, thằng cu
Tốn khóc thét lên. Mụ Hơn không có tội, thằng cu Tốn chỉ là một đứa trẻ
trong trắng thơ ngây làm gì có tội? Nhưng họ phải âm thầm, chui lủi sống
trong góc bếp nhà địa chủ Hào mà không dám biện minh nửa lời vì sợ: “ông
bà nông dân lại bảo con chống đối lại giai cấp nghèo khổ” [8, 55].
Chú Vạn - người hăng hái nhất trong cuộc đấu tranh chống lại địa chủ,
cường hào ác bá và Việt gian bán nước cũng không tránh khỏi cảm giác bất
nhẫn “Vạn lau súng. Trong đời Vạn đã không biết bao lần lau súng. Nước
thép khẩu súng Vạn giữ vẫn đen bóng, Vạn có cảm giác là lạ, cái khó là mũi
súng của Vạn lần này lại nhằm vào đầu hai thằng con trai ông Xung. Mới
18
hôm nào Vạn còn ngồi cùng mâm ở từ đường họ, cùng véo một đĩa xôi gấc đỏ
au” [8, 53]. Còn địa chủ Hào lại là đích bắn của thằng Thước – con nuôi lão.
Tại sao con người ta lại có thể mông muội đến thế? Họ hăm hở đấu tố, kết tội
địa chủ và sẵn sàng giết cả người thân của mình để thể hiện sự trung thành và
trong sạch. Chính những lầm lẫn, ấu trĩ ấy đã che mắt họ, họ không nhận ra kẻ
thù nguy hiểm, gián tiếp đẩy họ vào đau thương, mất mát, chà đạp, bóc lột họ
không phải là địa chủ, Việt gian mà chính là thực dân Pháp. Dương Hướng
không ngần ngại nhìn thẳng vào sự thật, phơi bày hiện thực đời sống của nông
thôn Việt Nam nói chung và làng Đông nói riêng thời hậu chiến đầy đau
thương và tăm tối.
Bến không chồng không chỉ xây dựng hiện thực đời sống của nông
thôn thời hậu chiến mà còn tập trung khắc họa nên những mảnh đời đau khổ,
bất hạnh sau lũy tre làng. Chiến tranh đã lùi vào quá vãng, những tưởng con
người sẽ được sống yên bình trên mảnh đất, quê hương của họ. Nhưng dường
như hiện thực đời sống đầy “sóng ngầm và gió xoáy” không buông tha cho
những mảnh đời bé nhỏ ấy. Nguyễn Vạn bị thương nặng trong kháng chiến.
Bước ra khỏi cuộc chiến đấu trường kì và gian khổ, Nguyễn Vạn hiện lên đầy
kiêu hùng và lẫm liệt: “Đố ai còn dám coi thường Nguyễn Vạn: Hãy nhìn
những tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực Vạn” [8, 5]. Con người
ấy xông xáo, nhiệt tình với tất cả những công việc của làng, xã lại không thể
có được một phút giây sống thảnh thơi, hạnh phúc cho riêng mình. Chị Nhân
– người phụ nữ sẵn sàng để chồng, con xông pha nơi trận mạc để rồi chị lặng
lẽ, cạn khô nước mắt đau khổ cùng cực khi cả chồng và hai đứa con song sinh
là Hà và Hiệp đều hi sinh. Đó là ông bà Khiên nhân đức, hiền từ thì cuối cùng
ông Khiên cũng chết vì thương nhớ con, vì danh dự. Bà Khiên mang theo ước
nguyện có đứa cháu nội vào miền đất lạnh. Ông Xung, bị điên vì đau khổ, tiếc
thương hai đứa con trai. Hạnh đau khổ, bế tắc vì không làm tròn bổn phận làm
19
dâu, không gây dựng được hạnh phúc cho gia tộc, cho tổ tiên nhà chồng.
Nghĩa luôn day dứt giữa dòng tộc và tình yêu. Có thể thấy, những nhân vật
trong Bến không chồng đều không có hạnh phúc, họ cô đơn, lạc lõng, đáng
thương, tội nghiệp. Những số phận đau thương ấy đã phản ánh đầy đủ bức
tranh về đời sống nông thôn thời hậu chiến đầy thê lương, nghiệt ngã.
2.1.2. Đời sống nông thôn với nhiều hủ tục nặng nề
Trong tiểu thuyết Bến không chồng nhà văn Dương Hướng tái hiện lại
đầy đủ bộ mặt của nông thôn miền Bắc thời hậu chiến với đủ những gam màu
sáng, tối. Đặc biệt, nhà văn người Thái Bình ấy còn khắc họa thành công
những hủ tục, tập tục lạc hậu của con người trong đêm trước Đổi mới.
2.1.2.1. Một nông thôn mang nặng tư tưởng trọng nam, khinh nữ
Ở làng Đông, quan niệm trọng nam, khinh nữ được thể hiện ngay trong
việc phân chia khu vực tắm trên bến Tình đã rõ ràng từ bao đời: “Đoạn cuối
nước dành cho trẻ và trâu, đoạn giữa là dành cho đàn bà con gái, đoạn trên
đầu nước ưu tiên cho cánh đàn ông. Đàn ông phải tắm ở đầu nước thì không
sợ đàn bà bẩn mình” [8, 13]. Đàn bà, con gái luôn bị lép vế họ không có tiếng
nói, không có quyền bình đẳng với “cánh đàn ông”. Ta làm sao quên được
trong cuộc nói chuyện giữa các cụ trong dòng họ Nguyễn khi ông Khiên vừa
qua đời. Những người tham gia góp ý kiến đều là nam giới, là các cụ ông.
Dâu thẳng thắn, dũng cảm đứng lên phát biểu quan điểm của mình. Hành
động ấy khiến cho Hạnh kinh hãi, van xin “Dâu! Tao van mày đừng có động
vào các cụ” [8, 116], chú Xeng thì dọa dẫm “Mày hãy bỏ thói ngông cuồng
đi” [8, 117]. Họ trọng nam nên trong họ mạc người đảm nhiệm cương vị
trưởng tộc luôn là nam giới. Quan niệm này đã chi phối, ảnh hưởng tới cuộc
sống, số phận của biết bao con người trong ngôi làng bé nhỏ ấy. Vì nó mà
Nghĩa luôn day dứt giữa tình yêu và dòng tộc, Hạnh phải chịu bao cay đắng
và oan ức còn Thủy thì đau khổ khi không có con trai để nối dõi tông đường
cho dòng họ Nguyễn.
20
2.1.2.2.Một nông thôn với mối thâm thù gia tộc
Mối thù gia tộc, dòng họ được thể hiện cụ thể qua lời nguyền của cụ tổ
họ Nguyễn với dòng họ Vũ. Bắt đầu từ câu chuyện đau lòng trên bến Tình,
“Đúng vào cái ngày họ Nguyễn ăn mừng lễ khánh thành ngôi từ đường to nhất
làng Đông, cô con gái rượu duy nhất của cụ tổ họ Nguyễn tối hôm ấy bỗng
nhiên lại hỡn mỡ mò ra bến Tình tắm. Cô gái đâu có biết trên đầu bến cũng có
chàng trai họ Vũ đang tắm, sự gợi cảm của dòng nước bến Tình và cái thân thể
tuyệt vời của cô gái đã làm chàng trai nổi loạn. Anh ta lặn một hơi dài chưa
từng có đến ôm ghì lấy tấm thân mềm mại, mát lạnh của cô gái. Cô gái ngất
xỉu trong vòng tay chàng trai. Thân thể đầy dục vọng của chàng trai, cô gái lại
ngỡ là ba ba, thuồng luồng hay con ma mặt đỏ ở gốc ruối mò tới hiếp mình.
Sáng hôm sau người ta thấy xác của cô gái trần truồng nổi dềnh ở chân cầu
Đá Bạc” [8, 14]. Cái chết của cô gái rượu chắc chắn đã khiến cụ tổ họ
Nguyễn đau lòng và dòng họ Nguyễn căm phẫn chàng trai họ Vũ. Để trả thù
cho con gái của dòng tộc thì “Ngày hôm ấy ở làng Đông đã diễn ra một cuộc
đổ máu chưa từng có giữa hai dòng họ Nguyễn và họ Vũ” [8, 14]. Không chỉ
dừng lại ở đó, cụ tổ họ Nguyễn đã truyền cho con cháu họ Nguyễn lời nguyền
độc đối với họ Vũ “Nước sông Đình ngàn năm không cạn – cầu Đá Bạc vạn
kiếp trơ trơ – bến Tình còn đẹp còn mơ – mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi”
[8, 14]. Từ bao đời nay, lời nguyền độc ấy đã thấm vào não cân và huyết quản
của con cháu họ Nguyễn. Chính thì thế mà “Bao nhiêu năm nay thanh niên
làng Đông cứ phải đi mò sang làng khác lấy vợ. Gái làng Đông ta từ xưa đến
nay nết na mà cứ phải khăn gói đi làm dâu thiên hạ” [8, 85]. Họ không thể
lấy nhau cũng bởi vì có mối thù truyền kiếp của dòng tộc.
Nguyễn Vạn, người lính Điện Biên, người lính cụ Hồ kiên trung ấy
không bao giờ khuất phục trước làn tên, mũi đạn của kẻ thù nơi sa trường
nhưng lại gục ngã, bị khuất phục bởi lời nguyền độc của dòng họ. Chính lời
21
nguyền đó đã cướp đi ở Vạn tình yêu thiêng liêng nhất – tình yêu với chị
Nhân. Họ tộc quy tội Vạn khi Vạn yêu thương chị Nhân: “Họ bảo họ Nguyễn
đến ngày mạt vận. Đã thấy nhục chưa? Mạt vận từ ngày thằng Vạn tí tớn với
mẹ con Hạnh nên từ đường họ mới bốc cháy đùng đùng, thằng Xeng, thằng
Xình mới bị chết oan, ông nhà ta mới bị điên khùng thế” [8, 131]. Nhưng họ
không biết rằng “dòng họ Nguyễn mạt vận” chính là do những mâu thuẫn nội
tại bên trong kìm thúc. Từ khi cụ Nghiên, ông Khiên mất đi, cả họ như rắn
mất đầu. Họ tranh nhau ngôi từ đường, tranh nhau chức trưởng nam, mạt sát,
đay nghiến nhau bằng những lời lẽ thô tục. Cuối cùng, mọi người đều vỡ lẽ,
ngôi từ đường cháy không phải là do tình cảm của chú Vạn mà là do ông
Xung: “Còn tao, tao có tội, tuy chẳng ai biết tao có tội nhưng tao biết rõ là
tao có tội. Mày biết tội gì không? Tội đốt từ đường! Chính tao đã đốt từ
đường họ - Ông Xung bỗng tu lên khóc” [8, 204]. Chính ông Xung là người
đốt từ đường nhưng chú Xeng lại một mực gán ghép cho Nguyễn Vạn đã xúc
phạm đến lời nguyền của cụ tổ. Lời nguyền cay độc từ ngàn đời luôn ám ảnh,
khắc ghi trong tâm can mỗi người trong dòng họ Nguyễn. Nó đã xé nát tình
yêu lúc xế chiều mà chú Vạn và chị Nhân dành cho nhau. Lúc nào Vạn cũng
nơm nớp một nỗi lo: “Vạn lo mỗi điều lỡ có ai trong họ lại hỏi về quan hệ
của mình với gia đình chị Nhân. Chuyện này thì Vạn cũng không hiểu chính
lòng mình. Vạn thương lũ trẻ, thương con Hạnh hay thương chính mẹ của
chúng?” [8, 30 - 31]. Cuối cùng, trong thẳm sâu người lính Điện Biên ấy đã
lựa chọn dòng tộc mình và không dám bước vào cánh cửa của hạnh phúc với
chị Nhân.
Lời nguyền của cụ tổ không chừa bất cứ ai là con cháu trong dòng họ
Nguyễn. Ông bà Khiên (bố mẹ Nghĩa) bàng hoàng, kinh hãi bởi tình yêu “tày
trời” mà đôi trẻ Nghĩa và Hạnh dành cho nhau. “Bà Khiên mở mắt thao láo
nhìn con trai rồi nhìn Hạnh. Ông Khiên đang kéo dở hơi thuốc lào bỗng ho
22
sặc sụa” [8, 75]. Họ phản đối kịch liệt tình yêu tội lỗi ấy. Với ông Khiên,
Nghĩa lấy Hạnh về làm vợ chẳng khác nào “rước voi về dày mả tổ” [8, 76].
Nhưng vượt lên trên tất cả, đôi trẻ vẫn đến với nhau và quyết định làm đám
cưới “như thể trêu tức hai họ” [8, 77]. Đám cưới ấy diễn ra ở “nhà kho hợp
tác xã” [8, 77]. Vì họ dám chống lại, bước qua lời nguyền của cụ tổ nên cả họ
không ai tới dự, những bậc cha mẹ, cô, dì, chú bác cũng chẳng ai dám đến.
Kết thúc đám cưới, cả hai vợ chồng không dám về nhà. Họ dẫn nhau ra bến
Tình bởi: “cũng chẳng còn nơi nào ngoài cái bến nước. Cả thế giới, không
cặp vợ chồng nào lại có đêm tân hôn như Hạnh và Nghĩa” [8, 78]. Kết cục
của cuộc “vượt rào”, bước qua lời nguyền là những tháng ngày Nghĩa và
Hạnh phải vụng trộm, lén lút gặp nhau như “một đôi tình nhân” ở bến Tình.
Tình yêu của họ dành cho nhau sâu đậm biết bao nhiêu nhưng cũng chỉ có
những người ngoài tộc, những ông sao, và màn đêm se lạnh làm chứng mà
thôi. Điều này, khiến bạn đọc cảm thông cho nỗi bất hạnh, đau khổ của hai vợ
chồng. Qua đây, Dương Hướng đã dự báo kết cục của tình yêu ấy rồi cũng sẽ
phải trải qua bao sóng gió, gian truân.
Bản chất người nông dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn hiền lành,
thuần phát nhưng khi họ đã mang một mối hận nào đó thì nghĩa là họ sẽ nô lệ
cho nó suốt đời, hơn thế nữa họ còn truyền lại cho con cháu, giam cầm con
cháu trong xiềng xích vô hình đó. Ở đây cũng vậy, lời nguyền của cụ tổ họ
Nguyễn từ ngàn xưa luôn ám ảnh con cháu, hướng con cháu theo lời nguyền
độc đó. Họ luận tội chú Vạn có tình cảm với bà Nhân, nguyền rủa, đay nghiến
tình yêu của Hạnh và Nghĩa bằng những lời cay độc: “Đấy rồi bà con xem, cụ
tổ sẽ trừng trị nó. Nó rước kẻ thù về làm vợ. Nó làm điều ác, gia đình nó sẽ
tuyệt tự. Con Hạnh sẽ chẳng bao giờ có con” [8, 237 - 238]. Con người luôn
tự làm khổ nhau, làm tổn thương nhau chỉ bởi những mâu thuẫn của thế hệ
trước. Ta làm sao quên được những lời lấy khẩu cung của lão Kình trong Trần
23
gian đời người của Dương Hướng. Lão ta ngày ngày tra tấn đứa cháu sau bữa
cơm chiều, cốt để người cháu khắc ghi vào tâm não mối thù sinh tử: “
- Bức ! – lão Kình cất giọng rõ oai.
- Dạ !
- Ai là người đẻ ra bố mày ?
- Bẩm ông ạ, ông là người đẻ ra bố con
- Ai là người đẻ ra mày ?
- Dạ bẩm ông bố mẹ con ạ
- Bố mày là người thế nào ?
- Bẩm ông bố con là người vô cùng tốt bụng ạ
- Thế bố mày đâu rồi ?
- Bẩm bố con chết rồi ạ
- Tại sao bố mày lại chết
- Bẩm ông bố con bị treo cổ chết ạ
- Đứa nào treo cổ bố mày ?
- Bẩm ông tay Lưỡng, tay Học, tay Bấc
- Tay Lưỡng là tay nào ?
- Bẩm ông là bố con Nga
- Con Nga là ai ?
- Bẩm ông là vợ con
- Ai trị tội nó
- Bẩm ông, con ạ” [7, 154]
Những câu hỏi lặp đi lặp lại ấy như những nhát dao khắc vào trí não
của Bức. Nó cướp đi sự bình yên, hạnh phúc trong gia đình lão Kình. Nó làm
Bức đau đớn đến tột cùng.
2.1.2.3. Một nông thôn với những định kiến nặng nề
Dư luận và định kiến xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc và quyết định đến
tính cách, số phận của các nhân vật trong Bến không chồng.
24
Đầu tiên, đó là nhân vật Nguyễn Vạn, một người luôn trung thành với
Tổ quốc, một người lính cụ Hồ, luôn sẵn sàng xả thân để bảo vệ Tổ quốc.
Những tưởng, bước ra khỏi cuộc kháng chiến trở về với cuộc đời, Vạn sẽ
được hưởng hạnh phúc. Nhưng không! Vạn đau khổ, tự tay bóp chết tình yêu
của mình với chị Nhân: “Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn tay con Hạnh –
chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu. Nếu mà chú không vững vàng giữ mình thì
bây giờ cũng đã mất mát hết cả” [8, 69]. Vì sao Vạn lại có suy nghĩ như vậy?
Bởi Vạn biết búa rìu dư luận sẽ không buông tha cho tình yêu của họ. Làm
sao một người lính Điện Biên – người vẻ vang nhất làng Đông, người lính hào
hùng của một thời lửa cháy lại có thể lấy người vợ của đồng đội mình – vợ
liệt sĩ? Cả hai con người luống tuổi này nếu đến với nhau thì dư luận làng
Đông sẽ như thế nào? Đấy là còn chưa kể cả hai người đứng ở hai bờ vực
khác nhau của hai dòng họ Nguyễn – Vũ truyền đời thù oán.
Tình yêu của hai người không đủ sức mạnh để đương đầu với bão tố
nơi miệng đời. Chính vì thế, cho dù cả hai người có những giây phút không
làm chủ được bản thân, lí trí bị con tim đánh bại thì họ lại vội vàng tỉnh giấc,
không dám liều lĩnh bước qua dư luận: “Toàn thân chị run rẩy ôm xiết lấy
chú Vạn (…) Chị thấy hai bàn tay chú Vạn lướt nhẹ lên khắp cơ thể chị. Đã
tưởng cái cơ thể chị nguội lạnh lâu nay, giờ bỗng cháy bùng lên rạo rực. Chị
thở hổn hển giãy giụa khỏi vòng tay chú Vạn. Bất chợt cả hai người đều vùng
dậy hoảng hốt nhảy ra khỏi giường” [8, 151].
Mụ Hơn là vợ của Công – con trai của địa chủ Hào đã bao lần chọc
ghẹo, ve vãn Nguyễn Vạn. Khi thì mụ nói gần nói xa: “Nhà Lang mấy năm
nay cứ sòn sòn năm một. Chiều đến cứ nhìn ông ấy bắt tụi trẻ trần truồng
đứng xếp hàng ở cầu ao lấy gầu té nước tắm cho tụi trẻ mà thèm” [8, 189].
Lúc thì mụ lu loa: “Ôi bác Vạn ơi, bác trông kìa! con gà nhà bác nó “hủy
hoại” con gà nhà em” [8, 188]. Nhưng dù thế nào thì mụ Hơn cũng là người
thuộc giai cấp tư sản còn Nguyễn Vạn là chiến sĩ vững vàng trong hàng ngũ
25
của tầng lớp vô sản cần lao. Làm sao Vạn lại có thể dung hòa cùng bọn tư sản
mà cả đời Vạn thù oán? Mặc dù cố gắng cưỡng lại, kìm chế những ham muốn
của mình nhưng có lúc Vạn không thể kìm nén được bản năng: “Rõ dơ! thích
hử - Mụ Hơn nói nhỏ và chộp lấy tay Vạn đặt nhanh lên ngực mụ… Mụ Hơn
thở hổn hển. Nguyễn Vạn cũng thấy bủn rủn cả chân tay. Cũng tại cái xu
chiêng mềm mềm trên ngực mụ nó như có ma lực hút kiện lí trí Vạn. Bàn tay
Vạn run rẩy đang gây tội lỗi mà Vạn không biết. Khi hai cánh tay của mụ
Hơn choàng lên cổ Vạn và cái mùi xà phòng tư bản cùng với mùi hôi nách
của mụ xộc lên mũi, Vạn mới bừng tỉnh” [8, 264 - 265]. Nhưng rồi những
phút giây yếu lòng đó cũng chỉ là thoáng qua. Dư luận, định kiến xã hội cũng
như bản thân Vạn sẽ không cho phép Vạn buông thả, chung chạ với người vợ
của một tên địa chủ.
Vạn lơ lửng giữa chị Nhân và mụ Hơn nhưng cuối cùng lí tưởng, phẩm
chất trung kiên của người lính cụ Hồ thời chiến lại kéo Vạn về với bến bờ của
cô đơn, chiếc bóng. Vạn khép lòng mình lại, tự đóng cũi sắt tình cảm của
mình để đến cuối đời Vạn lại ngẩn ngơ tiếc nuối: “Đến bây giờ Vạn mới thấy
tiếc mình không lấy vợ sớm” [8, 87].
Dư luận và định kiến xã hội luôn là điều mà người làng Đông sợ nhất.
Dư luận xã hội tốt có thể khiến cho con người mở mày mở mặt, phát triển đi
lên, dư luận theo chiều hướng xấu có thể kìm tỏa, giết chết một con người.
Ông Khiên – vị trưởng tộc dòng họ Nguyễn luôn phải sống trong dằn vặt
suốt thời gian con trai ông đi lính. Thâm tâm ông luôn day dứt, vò xé bởi
suy nghĩ: “Thầy thấy nhục nhã về việc con phải lẻn đi, làm mọi người đã coi
thầy là kẻ hèn nhát, ích kỉ, lạc hậu” [8, 112]. Sự day dứt ấy đã lôi tuột ông
xuống hố sâu của tuyệt vọng. Cuối cùng ông Khiên chết vì lòng tự trọng vì
lo sợ dư luận xã hội.
Dư luận, định kiến xã hội cũng như một lưỡi dao oan nghiệt phạt ngang
hạnh phúc của Nghĩa và Hạnh. Đôi trẻ dũng cảm bước qua lời nguyền, mối
26
thù truyền kiếp của dòng họ để đến với nhau. Hành động táo bạo này lập tức
bị dư luận, định kiến xã hội đuổi theo, truy bức. Nghĩa bị thương trong chiến
tranh khiến anh mất đi khả năng làm bố. Vì lạc hậu, kém hiểu biết, dân làng
và gia tộc Nghĩa buông lời rèm pha Hạnh. Họ rỉ tai nhau: “Bà thiếu tá phu
nhân họ Nguyễn bị điếc”. Những lời lẽ cay độc ấy đã quật ngã người phụ nữ
đáng thương như Hạnh khiến cô phải li hôn với Nghĩa và sống trong đau khổ,
tủi nhục.
Thông qua tiểu thuyết Bến không chồng, Dương Hướng đã vẽ ra trước
mắt chúng ta thảm cảnh của đời sống nông thôn miền Bắc thời hậu chiến biết
bao tăm tối, lầm lạc. Những quan niệm sai lầm, chủ quan duy ý chí, những hủ
tục lạc hậu đã dồn đẩy, cướp đi hạnh phúc, sự bình yên trong mỗi con người.
Bản chất của người nông dân từ bao đời nay luôn hiền lành, cần mẫn, sống
tình nghĩa. Nhưng khi bị đặt trong những cơn dâu bể của thời đại thì họ dễ trở
nên mù quáng, tàn nhẫn, tự tay cướp đi cuộc sống của chính mình và hủy hoại
cuộc đời của những người xung quanh.
2.2. Thân phận con ngƣời
2.2.1. Thân phận người lính thời hậu chiến
2.2.1.1. Người lính mất mát, hi sinh
Lịch sử đất nước Việt Nam là lịch sử của những năm tháng đầy đau
thương nhưng quật cường anh dũng của bao thế hệ đứng lên chống lại giặc
ngoại xâm. Đất nước có biến, mọi người, mọi nhà sục sôi lòng căm thù giặc.
Nhân dân ta không kể già, trẻ, trai, gái, đàn ông, đàn bà, thứ bậc xã hội họ
hăng hái xung phong đi vào cuộc chiến sinh tử đầy hiểm nguy với kẻ thù để
giữ gìn màu cờ sắc áo cho quê hương, đất nước. Chiến tranh kết thúc, họ lại
trở về quê cha, đất tổ nhưng những tổn thương, dấu tích, nỗi buồn chiến tranh
luôn ám ảnh, cầm tù những người lính khiến họ đau khổ, bế tắc.
Vạn ra khỏi cuộc chiến đấu với dọc ngang những vết thương “dấu tích
oanh liệt trên chiến trường là vết thương trên bờ vai và một ống chân bị gãy,
27
làm bước đi của Vạn cứ tập tễnh” [8, 6]. Ra đi là một trai làng Đông khỏe
mạnh, gan góc, giờ trở về Vạn đã đứng tuổi. Để có được thành quả là “những
tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực” [8, 5] thì cả tuổi thanh xuân,
thời trai trẻ Vạn lặng lẽ gửi lại nơi chiến trường đầy lửa cháy.
Bên cạnh nhân vật Vạn, Dương Hướng còn khắc họa thêm nỗi đau của
nhân vật Nghĩa. Nghĩa là thế hệ trẻ cùng thời với Hà, Hiệp – hai người anh
sinh đôi của Hạnh. Họ đều đã chiến đấu anh dũng và vĩnh viễn nằm lại nơi
chiến trường. Nghĩa may mắn hơn họ. Anh lại được trở về quê hương, thần
chết đã bỏ qua anh. Có thể xem đó là cơ may của tạo hóa đối với Nghĩa.
Nhưng xét đến cùng Nghĩa cũng là một người lính thời hậu chiến chịu nhiều
mất mát hi sinh. Vì sao vậy? Nghĩa đường đường là một vị trưởng nam dòng
họ Nguyễn vừa mới cưới vợ chưa được bao lâu, khi chiến tranh xảy ra, Nghĩa
quyết định dứt khoát sẽ đi bộ đội. “Hạnh ơi ! Anh muốn nói với em một
chuyện hệ trọng – bất chợt Nghĩa kéo Hạnh vào lòng. Hạnh, em có đồng ý để
anh đi… Anh sẽ đi bộ đội” [8, 91]. Đây là một quyết định khó khăn, để làm
được điều đó chắc chắn Nghĩa đã phải giằng co, đấu tranh tư tưởng rất nhiều.
Biết bố không muốn Nghĩa đi vào nơi bom đạn nên anh đã giấu bố lẻn đi. Vào
nơi chiến địa bằng tất cả sự anh dũng, quật cường Nghĩa đã lên được hàm
thiếu tá mang lại danh tiếng cho bản thân, dòng tộc. Nhưng để có được cái
danh “ngài thiếu tá” có xe “cam nhông”, Nghĩa đã phải đánh đổi không ít.
Vết thương ở vùng sườn đã lành sẹo mãi mãi là minh chứng kết tội chiến
tranh. Không chỉ dừng lại ở đó, sự khốc liệt của chiến tranh đã cướp đi ở
Nghĩa khả năng làm bố. Nghĩa thất vọng đau đớn vì cảm giác tội lỗi, vì đã vô
tình gây đau khổ cho cả hai người phụ nữ mà anh yêu thương, gắn bó: “Mắt
Nghĩa dại đi, anh nằm thượt ra giường (…) Nghĩa rùng mình như có mũi kim
đâm nhói vào tim. Anh cảm nhận thấy mình có tội với Hạnh, có tội với Thủy”
[8, 300].
28
Thành cũng là một người lính mang trong mình bao mất mát, đau
thương. Qua lời kể của Cúc, Thành là người có “giọng nói ấm đến là dễ
thương” [8, 161]. Thế nhưng chàng trai ấy giờ đây hình hài không còn nguyên
vẹn nữa. Chiến tranh nhận của làng Đông một chàng trai lành lặn, dễ thương
đầy nhiệt tình với cách mạng và trả về cho đời một con người với gương mặt
sần sùi, loang lổ những vết bỏng. Người đời cảm thông, thấu hiểu cho anh,
nhưng Cúc – người yêu của anh lại vô cùng sợ hãi khi nhìn vào gương mặt của
anh: “Khi nhìn lên mặt anh, em thấy anh ấy hoàn toàn xa lạ, xa lạ tới mức
đáng sợ. Gương mặt anh ấy ám ảnh em cả trong những giấc mơ” [8, 160]. Cúc
kinh hãi, xa lánh và trả lại tiền trầu cau cho Thành. Người con gái ấy cũng có
nỗi khổ riêng, cô không thể có tình cảm, không thể yêu và sống với một người
có gương mặt dị thường đó được. Chiến tranh không giết chết Thành nhưng
nó lại bóp chết tình yêu của anh, khoét sâu vào tâm hồn anh những nỗi đau
không bao giờ nguôi, không bao giờ liền sẹo.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng những hậu quả, di chứng của nó vẫn tồn
tại. Nó gặm nhấm làm đau đớn bao người khiến cho họ sống mà chẳng thể
nào được bình yên.
2.2.1.2. Người lính cô đơn, bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc
Vạn trở về sau bão tố của chiến tranh, cả cuộc đời Vạn đã sống, chiến
đấu vì quê hương, đất nước. Có lẽ, con người ấy khi quay trở về với cuộc sống
thời bình sẽ được người đời trọng dụng, biết ơn. Nhưng không, người thân của
anh dửng dưng, họ bao bọc lấy Vạn chỉ vì sợ dư luận xã hội mà thôi “Tôi cũng
thế - Nguyễn Khiên nói – chã lẽ để anh ra ở đình Đông, e làng xóm chê cười cả
dòng họ nhà mình. Dù sao anh ấy cũng là người vẻ vang nhất làng Đông (…)
Anh kém tính bỏ mẹ ! Ai chẳng biết thằng Vạn có công, công lao của nó đối với
dân với nước thì để dân với nước lo nhà cho nó” [8, 26 - 27]. Nguyễn Vạn tình
nguyện hi sinh cả tuổi xuân, cống hiến cuộc đời cho Tổ quốc, vậy mà giờ đây
29
Vạn lại bị chính những người thân trong dòng tộc đẩy ra ngoài lề của sự sống,
của lòng bao dung. Vạn cô đơn, lẻ loi ở giữa dòng tộc, giữa quê cha đất tổ.
Không chỉ họ mạc dửng dưng mà người dân làng Đông dần dần cũng không
còn nhớ đến Vạn. Với họ, dường như Vạn chưa từng tồn tại ở nơi này “Vạn
cảm thấy nơi đây hoàn toàn hoang dã không một ai trên đời này còn biết đến
Nguyễn Vạn. Người làng Đông hầu như đã quên Nguyễn Vạn” [8, 287]. Nỗi cô
đơn của Vạn gợi ta nhớ đến nỗi khắc khoải, bàng hoàng của nhân vật Kiên
trong Nỗi buồn chiến tranh khi hòa bình lập lại: “Hòa bình ập tới phũ phàng,
choáng váng đất trời và siêu đảo lòng người, gây bàng hoàng, gây đau đớn
nhiều hơn là mừng vui…và anh đột nhiên thấy tràn ngập trong cảm giác cô
đơn trơ trọi, trơ trọi hơn bao giờ hết, trơ trọi từ đây”. Sự vô tâm của con
người thời bình như những làn roi quất thẳng vào nỗi đau, sự mất mát, hi sinh
của người lính khiến cho những khoảng trống cô đơn trong tâm hồn ngày
càng lớn, nó nhấn chìm họ trong cô đơn, lạc lõng.
Không chỉ chịu đựng nỗi cô đơn giữa dòng tộc và làng quê mà Vạn
còn phải gồng mình đón lấy những bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc. Cả
cuộc đời trai trẻ Vạn đã dùng để tranh đấu cho lẽ phải, cho tự do, độc lập
của xứ sở. Với Nguyễn Vạn tình cảm cá nhân, riêng tư là một thứ gì đó rất
xa xỉ. Cả đời Vạn đã có một mối tình nào đâu mà biết nỗi buồn và niềm vui
lạc thú của tình yêu? Vạn hi sinh hạnh phúc riêng tư để phục vụ quê hương,
đất nước là một việc làm rất đáng ca ngợi, tôn vinh. Tuy nhiên, điều bất
thường ở đây là khói lửa chiến tranh đã lùi xa, nhưng tại sao Nguyễn Vạn vẫn
không chịu trải lòng ra để đón nhận những tình cảm thiêng liêng mà thượng
đế ban tặng cho con người? Phải chăng, khói lửa chiến tranh đã thui chột đi ở
Vạn ngọn lửa tình trong tâm hồn? Không, khát vọng tình yêu vẫn bền bỉ, âm ỉ
cháy trong tim Vạn. Vạn yêu nhưng phải cố kìm nén tất cả, Vạn ép mình sống
trong lặng lẽ, cô đơn, lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu
30
những nỗi niềm khao khát riêng tư, không dám mở lòng để sống với tình yêu.
Vì sao người lính Điện Biên ấy phải chối bỏ tất cả những điều tốt đẹp ấy để
nhận lấy những bi kịch, đau thương trong tình yêu và hạnh phúc?
Trước hết là với chị Nhân – vợ của đồng đội, Vạn đã nảy sinh những
tình cảm riêng tư đầy thánh thiện. Anh đã thừa nhận tình cảm của mình với
chị Nhân: “Hạnh ơi cháu không hiểu đâu – Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn
tay Hạnh – chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu” [8, 69]. Tình yêu ấy vĩnh viễn
bị chôn chặt dưới đáy mồ lạnh lẽo. Vạn sợ hãi dư luận, lúc đó “sẽ mất mát hết
cả”. Cuối cùng, Vạn vẫn là “người vẻ vang nhất làng Đông” và chị Nhân vẫn
muôn đời là một bà mẹ liệt sĩ kiên trung. Nhưng tình yêu của cả hai người đã
bị dồn đẩy đến bến bờ của bi kịch.
Với mụ Hơn cũng vậy, Vạn cũng đã từng “bủn rủn cả chân tay” vì mụ.
Giá như trong tâm tưởng của Vạn và người dân làng Đông thủa ấy không có
sự phân biệt giai cấp thì biết đâu Vạn đã có thể đến với mụ Hơn để sống vui
vẻ, hạnh phúc nốt những năm tháng cuối đời?
Đỉnh điểm bi kịch của Vạn có lẽ là lần chung đụng với Hạnh, “Nguyễn
Vạn bàng hoàng cả người không rõ mình mơ hay tỉnh. Men rượu vẫn nung
nóng trái tim và tâm trí Vạn quay cuồng. Da thịt đàn bà nần nẫn trong vòng
tay và hơi thở đầy dục vọng phả vào mặt Vạn. Sự ham muốn của Vạn lần này
còn mãnh liệt hơn lần va chạm vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân
xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà.
Lần đầu tiên trong đời Vạn thấy sung sướng và quên hẳn mình” [8, 291].
Phần bản năng đã chiến thắng phần thánh nhân của Vạn. Con người ta không
thể mãi ép xác. Phút giây bản năng trỗi dậy ấy chính là thời khắc Vạn được
làm một con người đúng nghĩa. Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi trong đêm đầy
giông bão ấy không làm cho cuộc đời Vạn tươi sáng hơn. Trái lại, Vạn suy
sụp tinh thần và mặc cảm bởi tội lỗi mà mình gây ra: “Vạn tự xỉ vả mình và
31
thấy ngực nhói đau muốn cầm thanh củi chọc thẳng vào bụng. Nhục! Nhục
nhã quá! Tồi tệ hơn cả lão Xung và mụ Hơn. Thế mà bao nhiêu năm nay,
trong suốt cả cuộc đời, Vạn cứ đinh ninh, tin tưởng vào phẩm giá của mình.
Thế là hết! Vạn tưởng tượng rõ thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đọa, hủy hoại cả
cuộc đời tiết hạnh của Hạnh” [8, 292 - 293]. Vạn từng động viên Nghĩa khi
anh lên đường nhập ngũ: “Đi nhé! Hãy noi gương trai làng Đông, chiến đấu
giỏi. Mày cứ nhìn chú mày đây mà sống” [8, 98]. Vậy mà giờ đây Vạn lại hủy
hoại cuộc đời của chính đứa cháu mà mình yêu quý. Con người ấy như rơi
vào hố sâu của đau đớn, bi kịch. Vạn sống nhưng sự sống với Vạn bây giờ
còn đáng sợ hơn cái chết, Vạn bị cầm tù bởi chính tội lỗi mà mình gây ra. Có
lẽ bi kịch, đau khổ đối với con người bất hạnh đó chỉ đến thế. Nhưng không,
dường như định mệnh trớ trêu không buông tha cho Vạn. Hạnh sau một thời
gian xa quê trở về dắt theo đứa con của Vạn. Cái ngày Hạnh dắt con về làng
Đông cũng là điềm báo cho sự kết thúc của một cuộc đời anh hùng nhưng đầy
bi kịch, xót đau của Vạn: “Hạnh sững người chân tay bủn rủn khi nhìn thấy
cái xác chết được Nghĩa kéo từ đáy sông lên chính là chú Vạn” [8, 308].
Giá như trong Vạn những kỉ cương, kỉ luật thép trong quân ngũ tạm
nhường chỗ cho tình yêu, hạnh phúc cá nhân trong thời bình thì đâu đến nỗi
Vạn phải gánh chịu bi kịch thảm khốc như vậy? Đau đớn thay cho con người
ấy lúc tình người, tình cảm cá nhân riêng tư trỗi dậy thì cũng là lúc cái chết cận
kề. Vạn không thể yêu, không được yêu, định kiến xã hội, tòa án lương tâm sẽ
ngấm ngầm dõi theo đẩy Vạn đến bi kịch.
Không chỉ Vạn mà Nghĩa trong tác phẩm Bến không chồng cũng là
người lính chịu nhiều bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc. Sau bao năm chiến
đấu nơi chiến địa hiểm nguy trở về thăm gia đình, gặp lại mẹ, gặp lại người
vợ vò võ ngóng trông, nhưng Nghĩa lại không thể sinh hoạt vợ chồng. Có nỗi
đau buồn, uất nghẹn nào hơn nữa: “Hạnh ơi – Nghĩa nói. Anh không muốn em
32
buồn. Anh không thể … Bác sĩ dặn anh còn phải kiêng chừng hơn một năm
nữa, vết thương của anh chưa lành hẳn” [8, 208]. Nỗi buồn chiến tranh ấy đã
lan truyền từ Nghĩa và giờ đây nó xuyên vào tim Hạnh làm cả hai như chết
lặng. Nỗi đau không dừng lại ở đó, chiến tranh đã để lại di chứng trên cơ thể
anh mà anh nào có biết? Sau nhiều lần sinh hoạt vợ chồng, thậm chí Hạnh còn
“lên đơn vị của Nghĩa hàng tháng trời” mà người vợ ấy vẫn không thể mang
thai. Nỗi khao khát có con ngày càng cháy bỏng, sức ép của gia đình, dòng tộc
lại càng khiến Nghĩa khổ tâm, day dứt. Họ cho rằng Hạnh không thể có con
“Bà – thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc” [8, 280] và khuyên anh nên bỏ
Hạnh. Nghĩa khó xử, đau khổ biết bao khi tình yêu, hạnh phúc của mình bị dồn
vào bi kịch. Anh không muốn mất đi Hạnh, người vợ của mình, anh níu kéo
Hạnh bằng mọi giá: “Hạnh ơi, hãy nghĩ lại đi, bây giờ anh được chuyển về tỉnh
đội rồi. Gần nhau mọi chuyện sẽ êm đẹp” [8, 283]. Nhưng còn êm đẹp làm sao
được nữa khi người vợ đáng thương của anh đã phải chịu bao nhiêu đau khổ,
cay đắng từ những người xung quanh? Cuối cùng, Nghĩa buộc phải li hôn với
Hạnh. Nghĩa lên tỉnh ở với Thủy. Có lẽ, đây là giải thoát tốt nhất cho bi kịch
của người lính chống Mỹ ấy. Thủy sẽ sinh cho Nghĩa những đứa con bụ bẫm,
trắng trẻo. Bao nhiêu hi vọng mẹ con Nghĩa dồn cả vào nơi Thủy. Thế nhưng,
đợi mãi Thủy cũng chẳng thấy có tin vui. Là một bác sĩ, Thủy biết rõ tình
trạng của Nghĩa. Vì yêu anh, Thủy không nỡ để Nghĩa phải đau khổ, mẹ
Nghĩa phải héo mòn vì ngóng mong đứa cháu nội. Cô đã thử đủ mọi cách,
đưa anh đến bệnh viện khám, rồi có cả suy nghĩ sẽ quan hệ với một người đàn
ông lạ. Cuối cùng, Thủy cũng đành bất lực. Cô đành thú thực với Nghĩa:
“chuyện em dẫn anh đi khám bệnh viện hồi nọ…chúng mình sẽ xin một đứa
con nuôi” [8, 300]. Chiến tranh thật phũ phàng. Nghĩa nhận ra mình đã vô
tình gây ra đau khổ cho cả hai người phụ nữ đã yêu anh tha thiết. Nghĩa đau,
nỗi đau của kẻ chẳng bao giờ được làm cha. Con người khốn khổ ấy đã bị cơn
lũ của chiến tranh cướp đi những gì quý giá nhất.
33
Không dừng lại ở việc miêu tả những nỗi đau của Vạn, của Nghĩa mà
Dương Hướng còn miêu tả bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc của Thành.
Anh rời chiến trường với những chứng tích của chiến tranh in hằn ngay trên
khuôn mặt. Vì điều đó mà anh bị Cúc từ hôn. Nỗi đau, bất hạnh của Thành
khiến ta liên tưởng tới nỗi xót xa, ngậm ngùi của ông Sáu trong Chiếc lược
ngà của Nguyễn Quang Sáng. Ông trở về sau chiến tranh với “vết thẹo” dài
trên mặt khiến bé Thu – con gái ông sợ hãi, không nhận cha. Hay nhân vật
Tuấn trong Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy. Tuấn trở về sau
những năm tháng kháng chiến chống Mỹ oanh liệt với nhiều vết bỏng bởi
bom Napan trên ngực. Trớ trêu thay vết thương ấy chính là vật cản vô hình
chen vào giữa tình yêu của Tuấn và Hảo. Vết thương nhỏ trên da thịt ấy lại
khoét sâu vào tâm hồn anh, khiến hạnh phúc của anh thấm đẫm xót xa, đau
đớn. Vì vết thương quái ác đó, Tuấn luôn mang trong mình mặc cảm khi nhớ
lại ánh mắt hoảng sợ của người yêu. Thành cũng vậy vết thương trên mặt ấy
đã kéo gục Thành xuống đầm lầy của đau khổ. Nó buộc anh phải sống trong
âm thầm, lặng lẽ. Cúc hủy hôn, anh cũng âm thầm chấp nhận. Vết thương trên
mặt đã gây cho Thành bao mặc cảm, tủi hổ. Những vết thương của Tuấn,
Thành rồi sẽ lành theo thời gian, năm tháng nhưng nỗi đau tinh thần, vết
thương lòng của họ sẽ muôn đời còn rỉ máu.
Trong thế giới của Bến không chồng không chỉ có Nguyễn Vạn, Nghĩa,
Thành là những người lính chịu những mất mát, hi sinh, cô đơn, bi kịch trong
tình yêu và hạnh phúc mà còn có những thế hệ vĩnh viễn gửi lại một phần
xương thịt của mình trên chiến trường để cho Tổ quốc được nảy mầm bình
yên. Chiến tranh đã đi qua, nhưng những nỗi đau mà nó để lại trong thời bình
vẫn còn mãi. Những nhân vật người lính trong Bến không chồng của Dương
Hướng là những nhân chứng sống kết tội chiến tranh. Từ Nguyễn Vạn, Nghĩa
cho đến Thành… mỗi người mang một bi kịch, một nỗi đau riêng. Ngòi bút
34
sắc sảo của Dương Hướng đã phác họa rất thành công những bi kịch đó.
Thông qua những nhân vật ấy, Dương Hướng đã gióng một hồi chuông cảnh
tỉnh mọi con người hãy biết quan tâm, chia sẻ với nỗi đau của những người
lính thời hậu chiến. Bởi họ sẵn sàng đánh đổi tất cả sự sống, tuổi xuân để đem
lại hòa bình độc lập cho đất nước, quê hương Việt Nam. Những hi sinh, mất
mát của họ không gì sánh nổi, vì thế cần lắm một sự tri ân để sưởi ấm những
tâm hồn cô độc, lẻ loi giữa chiến trường “không tiếng súng” ngày hôm nay.
2.2.2. Thân phận người phụ nữ
2.2.2.1. Những nạn nhân của chiến tranh
Ngay từ những trang đầu của tác phẩm, người đọc không khỏi xúc
động, xót xa trước nỗi bất hạnh của chị Nhân, khi nghe chú Vạn – người lính
Điện Biên vừa trở về sau chiến tranh báo tin chồng chị đã anh dũng hi sinh.
Cái tin sét đánh đó, khiến chị Nhân chết lặng. Chị “vật vã khóc” câu nói của
chị Nhân khi vừa nhìn thấy đứa con gái bé bỏng trên tay chú Vạn: “Con ơi,
bố chết rồi” [8, 20] cứ ám ảnh trong lòng bạn đọc. Xa chồng bao năm, chị
một mình nuôi dạy ba đứa con khôn lớn. Nay cái tin chồng chị đã hi sinh nơi
chiến trận như quật ngã người đàn bà bất hạnh ấy, khiến cho: “Chị Nhân thấy
mình như đang ở một thế giới khác, cảnh vật quanh chị đều nhuốm màu chết
chóc” [8, 20]. Nhưng rồi dù đau đớn đến đâu, chị vẫn phải sống, phải nuôi ba
đứa con còn nhỏ dại của mình. Chị sống bằng một niềm tin sắt đá cứ vững
vàng mà sống. Hòa bình chị tin tưởng, hi vọng vào một tương lai mới.
Hòa bình vừa lập lại không được bao lâu thì chiến tranh lại ập đến. Nó
xộc đến từng nhà, từng đường làng, ngõ xóm, nó lôi tất cả những người lính
vào cuộc đụng độ sinh tử, nó cướp đi hạnh phúc chính đáng, cuộc sống yên
bình của hàng triệu người phụ nữ trong đó có chị Nhân. Nếu cuộc kháng chiến
chống Pháp cướp đi người chồng của chị thì cuộc kháng chiến chống Mỹ dữ
dội này lại lấy đi hai đứa con chị dứt ruột đẻ ra. Chị òa khóc trong nghẹn ngào
35
xót xa: “Nghĩa ơi, thằng Hà thằng Hiệp chết hết rồi” [8, 202]. Hòa bình mỗi
người mang một tâm trạng riêng nhưng ai cũng thấy cả làng Đông chỉ có mỗi
chị Nhân là đau xót nhất. Lần thứ hai đón nhận tin Hà mất “Hạnh ngỡ ngàng vì
thấy mẹ đón nhận cái tin khủng khiếp đáng sợ này một cách điềm tĩnh đến mức
lạnh lùng. Mặt mẹ chỉ hơi tái đi khi nghe chú Vạn giải thích. Mắt chị Nhân ráo
hoảnh không có lấy giọt nước mắt nghẹn ngào” [8, 146]. Mất mát quá lớn
khiến chị không thể khóc, nước mắt không trào ra ngoài mà lặn sâu trong tim
thật xót xa, u uất biết bao. Hạnh có ngờ đâu mẹ đã “âm thầm khóc cạn nước
mắt suốt đêm qua” [8, 146]. Bằng linh cảm của người đàn bà đã từng đón nhận
cái tin chồng hi sinh trong kháng chiến chống Pháp, chị nhận ra con chị chắc
chắn đã hi sinh: “Là người mẹ đẻ ra nó, tôi đã linh cảm thấy điều này từ lâu, từ
mấy đám truy điệu trước ở làng này” [8, 146].
Gạt nước mắt, chị hi vọng đứa con thứ ba nơi chiến trường sẽ sống sót
để trở về. Nhưng cái bóng của sự nghiệt ngã trong chiến tranh không buông
tha chị. Hiệp đã hi sinh, quái ác hơn là tin Hiệp hi sinh lại đúng vào lúc cả
nước, cả làng Đông hạnh phúc đón hòa bình trở lại: “chị Nhân thấy mình
hẫng đi như người rơi tõm xuống chiếc hố sâu thẳm. Đêm chị nằm mơ thấy
cả ba bố con nó dẫn nhau về oán trách. Chị nhìn vào mắt chồng, mắt hai
đứa con cứ cháy rực lên” [8, 227]. Rồi trong cơn mê sảng đó, chị thấy từng
người thân kết tội mình.
“Chồng chị nói: Mình là kẻ giết người, là mụ đàn bà ác độc? Tôi đã đi
rồi sao mình không để các con được sống?”
Thằng Hà nói: “Bố và con đã đi rồi, sao mẹ không để cho em con được
sống”.
Thằng Hiệp nói: “Sao mẹ lại vui mừng khi con đi vào chỗ chết?” [8, 228]
Hỡi ơi, nào có ai kết tội chị đâu? Những lời lẽ trách cứ của chồng, con
chị kia chỉ là những lời luận tội từ lương tâm chị. Nó vò xé, làm người phụ nữ
36
khốn khổ ấy tiều tụy, xót xa. Chị khiếp sợ hét lên: “Không! Tôi không phải là
kẻ ác. Tôi không muốn thế, không phải tại tôi. Tất cả là do thằng Pháp, thằng
Mỹ. Tôi không phải là kẻ giết người. Tôi lạy mình hãy tha cho tôi. Mẹ lạy các
con hãy tha thứ cho mẹ” [8, 228]. Lời chị thống thiết, đáng thương biết bao.
Giặc Pháp, Mỹ đã vĩnh viễn cướp đi sự bình yên trong tâm hồn người vợ,
người mẹ liệt sĩ ấy.
Nỗi đau ấy, chị nén chặt trong lòng. Người ra đi chẳng trở về nữa. Chị
dồn tình yêu, hi vọng cuối cùng vào Hạnh – đứa con gái út. Nhưng cuộc hôn
nhân của Hạnh và Nghĩa cũng lại đổ vỡ, đi vào ngõ cụt. Hạnh buộc phải li
hôn với Nghĩa sau bao nhiên đau khổ, oan khuất. Người nhà Nghĩa kết tội
Hạnh “sẽ chẳng bao giờ có con” [8, 243]. Bất hạnh đó đâu phải ở nơi Hạnh?
Mà do Nghĩa bị chiến tranh cướp đi quyền làm bố. Thấy con gái khăn gói trở
về nhà, chị Nhân “cuống cuồng ngỡ trời sập” [8, 273]. Giá như không có
chiến tranh thì tình vợ chồng của Nghĩa và Hạnh đâu phải bị sứt mẻ như thế?
Và chị Nhân cũng không phải rơi vào tột cùng bất hạnh như vậy? Chồng và
hai con trai đều đã nằm lại nơi chiến địa mù sương, còn hạnh phúc của đứa
con gái cũng chỉ như gió thoảng, mây bay. Cả cuộc đời chị là những chuỗi dài
của bi kịch. Tất cả những bi kịch đó đều do chiến tranh gây ra. Người phụ nữ
ấy đã đi qua hai cuộc chiến tranh và đi qua cả những bất hạnh ở thời bình. Chị
sẽ chẳng còn hi vọng vào ngày mai được nữa. Người phụ nữ đáng thương và
tội nghiệp ấy phải sống “gần như câm lặng” cho đến hết những tháng ngày
còn lại.
Cộng hưởng vào nỗi đau, bất hạnh của phụ nữ trong chiến tranh đó là
hình ảnh của bà Khiên. Cũng tiễn chồng ra trận trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, nhưng bà may mắn hơn chị Nhân và nhiều người phụ nữ khác bởi
chồng bà còn sống sót trở về. Nhưng trong mấy người bị giặc Pháp bắt rồi
được trở về thì riêng ông Khiên – chồng bà bị tra tấn, đánh đập nhiều nhất.
37
Chiến tranh đã cướp mất sức khỏe của ông: “Về nhà ông có làm được việc gì
nặng đâu, nhúng chân xuống bùn là về ho sù sụ” [8, 135]. Một tay bà phải lo
toan, gánh vác việc đồng, việc nhà, việc của dòng tộc. Tiếp bước cha, con trai
bà cũng hăng hái lên đường nhập ngũ. Thương con bao nhiêu thì khi chia tay
lòng người mẹ ấy càng đau khổ bấy nhiêu. Làm gì có người phụ nữ nào lại
muốn con mình dấn thân vào chỗ chết, vào nơi mưa bom bão đạn? Nhưng con
trai bà ra đi để cứu trăm nhà khỏi cảnh tan tác, lầm than. Bà đau đớn đến gần
như ngất xỉu khi Nghĩa thì thầm vào tai bà: “Con đi”. Người mẹ đáng thương
ấy không thể cầm nổi lòng mình trước cảnh chia tay ấy: “Bà lạnh cả người
nhìn theo bóng thằng Nghĩa chạy vụt ra ngõ. Bà vội đứng dậy chạy vào bếp
đứng lặng cho nước mắt chảy xuống đôi gò má khô gầy của bà. Bà cố kìm lòng
để không bật khóc thành tiếng” [8, 97]. Bà Khiên đã trao đứa con duy nhất của
mình vào tay Tổ quốc. Con trai đi, ông Khiên biết chuyện và luôn tự trách
mình, trách bà, trách Nghĩa đã giấu ông. Vì danh dự, uy tín luôn giằng xé, đấu
tranh trong lòng con người đau khổ ấy khiến ông chết đột tử. Cái chết của ông
làm cho bà đau khổ quằn quại: “bà bỗng kêu lên mấy tiếng thất thanh rồi ngất
xỉu” (…) “bà Khiên không gượng dậy nổi phải vào giường nằm” [8, 117].
Tháng ngày xa con bà như chiếc bóng, tâm trạng luôn phấp phỏng
ngóng tin con nơi chiến trường. Bà mang tâm trạng đó vào cả trong những
giấc mơ: “Đêm hôm qua tao nghe rõ tiếng bố thằng Nghĩa về báo mộng
thằng Nghĩa bị cụt mất một tay… Đúng ngày 17 là nó về. Thôi, nó cụt tay là
may…” [8, 157]. Bà tuy sống ở làng Đông nhưng tâm trí lại luôn song hành
trên mỗi bước đường hành quân đầy vất vả, nhọc nhằn của Nghĩa. Mong
muốn con trai được bình yên trở về, bà đi lễ chùa cùng với mấy bà trong làng.
Con người ta vẫn vậy, khi bị đẩy vào hoàn cảnh lo âu, sợ hãi thì người ta hay
tìm đến với tâm linh để tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Ngày lại ngày
không có tin Nghĩa bà héo hắt hẳn đi, bà ốm liệt giường và chỉ khi được tin
38
con thì bà liền khỏe ra trông thấy. Nghĩa về và niềm vui, hạnh phúc lại gõ cửa
nơi tâm hồn già nua vì thương nhớ con. Bao năm nay bà mới lại biết đến nụ
cười. Chiến tranh đã lấy đi của bà những niềm vui, hạnh phúc. Nó cầm tù,
biến bà trở thành nạn nhân trong suốt những tháng ngày đằng đẵng xa con.
Thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, Nghĩa lại ra đi theo tiếng gọi của
Tổ quốc. Hạnh phúc thật ngắn ngủi so với những tháng ngày đau buồn mà bà
phải xa con. Song với bà Khiên, hạnh phúc chỉ là một chấm nhỏ giữa muôn
trùng đau khổ. Chiến tranh đã cướp đi quyền làm bà của người phụ nữ ấy. Trở
về sau chiến tranh, nhưng không nguyên vẹn, Nghĩa không thể có con khiến
cho niềm đau thiêu đốt, cháy rụi hi vọng và sự bình yên trong gia đình vốn
đơn độc, nhỏ bé của bà. Để lại cho người phụ nữ bất hạnh ấy là những niềm
đau vô bờ bến. Đó là sự tan vỡ trong hạnh phúc của những đứa con, bởi mặc
cảm không làm tròn bổn phận làm dâu trong dòng tộc, bởi khao khát tiếng trẻ
thơ của đứa cháu nội cứ đau đáu, da diết trong bà. Đáng thương thay, tội
nghiệp thay cuộc đời bất hạnh của biết bao người mẹ, người vợ, người phụ nữ
Việt Nam khi buộc phải trở thành những nạn nhân của chiến tranh, bị chiến
tranh vùi dập tất cả những gì là tốt đẹp nhất.
Xen vào giữa truyện, Dương Hướng có kể cho chúng ta câu chuyện của
một bà lão bảy mươi tuổi bên bến phà Triều ở Hưng Yên. Đó là một người
phụ nữ phải chịu bao nhiêu mất mát, đau khổ. Chồng bà chết, con trai lớn
cũng nằm lại nơi chiến trường lạnh lẽo. Ghi tiếp những trang sử hào hùng của
cha ông, đứa con trai út của bà cũng xông pha trận mạc. Bà mẹ già ngày ngày
ngóng tin con nhưng ngày qua ngày vẫn bặt vô âm tín. Lòng người mẹ ấy run
sợ, bà sẽ ra sao nếu như lại một lần nữa nhận tin dữ nơi chiến trường như chị
Nhân? Có lẽ, bà không đủ nghị lực để vượt qua. Dù vẫn biết, đã có chiến tranh
là phải có hi sinh nhưng với người mẹ già đã 70 tuổi cứ ngày càng “lập cập”
hơn bởi bước đi của thời gian và chờ đợi con trai mình trở về gợi cho chúng ta
39
biết bao thương cảm, xót xa. Không thể chịu đựng đau khổ thêm nữa, người mẹ
già ấy hi vọng, mơ ước: “Ước gì thằng út nhà này nó cũng bị thương như anh
để được về” [8, 175]. Dù có bị tật nguyền hay ra sao chăng nữa thì bà lão bảy
mươi tuổi ấy cũng chỉ mong muốn con trai mình được sống sót mà trở về. Câu
nói của mẹ đã lật trắng sự thật về sự khốc liệt của chiến tranh.
Đọc Bến không chồng ta không thể quên nhân vật Cúc – người con gái
phải chịu “cơn chấn động về tinh thần” quá lớn. Cúc yêu Thành, thương
Thành. Nhưng người lính chống Mỹ ấy khi chiến đấu trở về, gương mặt anh
không còn lành lặn nữa. Những vết sẹo chằng chịt trên mặt của anh đã đẩy
cuộc đời Cúc vào tột cùng đau khổ, bi kịch, Cúc cũng chỉ là một nạn nhân của
chiến tranh. Khi ngày ngày đối diện với Thành, cô nhận ra cô không thể yêu
Thành được nữa: “Nghe giọng nói thì đúng là anh ấy nhưng khi nhìn lên mặt
anh, em lại thấy anh ấy hoàn toàn xa lạ, xa lạ tới mức đáng sợ” [8, 160]. Cúc
thấy “bàng hoàng”, thấy “mọi sự đều tan biến đổ vỡ hết”. Mới có ba ngày
Cúc nhận trầu cau đã trả lại: “Cúc nhào vào ôm choàng lấy Hạnh khóc nức
nở” [8, 160], rồi nấc lên trong nghẹn ngào, day dứt “em đúng là kẻ ác độc,
em có tội với anh ấy, có tội với mọi người” [8, 161]. Yêu Thành, thương
Thành nhưng Cúc không thể làm vợ Thành vì không thể chấp nhận khuôn mặt
dị dạng, đáng sợ của Thành. Gương mặt của Thành còn ám ảnh Cúc trong
những lúc mơ. Cúc đau đớn nhận ra sự thật nghiệt ngã, phũ phàng: “Em
không thể yêu anh ấy, em không thể yêu anh ấy. Ôi giá mà đôi mắt của e mù
lòa đi không nhìn thấy mà chỉ nghe anh ấy nói” [8, 161]. Chiến tranh với
những di họa của nó đã để lại ở cả Thành và Cúc những “vết dập xóa trên
thân thể và trong tâm hồn”. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những nỗi đau mà nó
để lại vẫn tồn tại mãi mãi trong thời bình. Nó đeo bám hiện hữu dai dẳng
trong cuộc đời họ không cho họ được hưởng những gì bình dị nhất: Quyền
yêu, được yêu và gắn bó với nhau trong hạnh phúc vợ chồng. Thành suốt đời
40
phải mang bộ mặt dị dạng không vợ con còn Cúc cũng đành gạt nước mắt làm
vợ lẽ ông Ba Chương.
Đất nước có chiến tranh, những người chồng, người con lên đường
chiến đấu và có không ít người đã hi sinh, để lại trong lòng người phụ nữ
những vết thương lòng, những nỗi đau âm ỉ không bao giờ tắt. Có biết bao
phụ nữ phải xa chồng những tháng ngày đằng đẵng và những người góa bụa
chịu đựng nỗi đau về sự mất mát, hi sinh của người mình thương yêu nhất. Đó
là nhân vật Hạnh, người phụ nữ chịu bao nhiêu thiệt thòi bởi chiến tranh.
Hạnh lấy chồng chưa được bao lâu thì hai vợ chồng phải tạm xa nhau. Nghĩa
đi bộ đội, Hạnh cô độc, lẻ loi, lo âu, phấp phỏng, mòn mỏi chờ chồng: “Đã
tám năm nay Hạnh nhận ra mình sống bằng những kỉ niệm với Nghĩa nhiều
hơn là chờ đợi ở tương lai. Những hi vọng ngày một mong manh, dù mong
manh vẫn hơn là tắt hẳn. Hạnh lội xuống bến rửa chân, lòng ngẩn ngơ nhìn
mặt trăng loang loáng dưới nước. Hạnh thấy mình lạc vào thế giới mông lung
sâu thẳm của những câu chuyện huyền thoại xa xưa…” [8, 185]. Hạnh thật sự
đã trở thành “bến đợi”, thành hòn Vọng phu ngay khi đang sống. Nỗi trông
đợi mòn mỏi của Hạnh được nhà văn miêu tả với một cái nhìn đầy cảm
thương, trân trọng: “Mãi đến khi Nghĩa đi, Hạnh mới kì công tự làm lấy chiếc
gối đôi thêu bông hoa hồng và đôi chim, con bay con đậu. Hạnh tự nhận mình
là con chim đậu chờ đợi con chim bay đi trở về. Chiếc gối đôi hạnh phúc mà
chưa một lần hai vợ chồng được gối chung. Chiếc gối đôi hạnh phúc đã thấm
bao mồ hôi và nước mắt của Hạnh, Hạnh đã giặt không biết bao nhiêu lần
sờn cũ đi mà anh vẫn chưa về. Chiếc gối khâu bằng vải pơ pô lin trắng dài tới
tám mươi phân, mỗi lần đem ra sông Đình giặt, Hạnh phải giấu giếm không
muốn để ai nhìn thấy sợ người ta quở, khi phơi Hạnh cũng phải mang ra tận
ngoài vườn chuối để phơi cho đỡ chướng” [8, 159].
41
Bao năm trôi qua, bù lại nỗi đau quá lớn trước sự ra đi của cả hai người
anh trai ruột thịt, Nghĩa trở về với Hạnh sau bao nhiêu tháng ngày chờ đợi
mỏn mòi ngóng trông. Hạnh vẫn cứ ngỡ đó là mơ, niềm vui, niềm hạnh phúc
tột đỉnh trước sự thật quá bất ngờ. Đêm hôm trước Nghĩa về Hạnh gần như
thức trắng, “Hạnh đứng bên cửa sổ lấy gương soi… Hạnh thấy mình già đi
bao nhiêu. Mười năm rồi còn gì” [8, 200]. Chiến tranh, thời gian và biết bao
lo toan bộn bề mà Hạnh gồng mình lên để gánh vác… Tất cả đã cướp mất tuổi
xuân, sự tươi trẻ ở Hạnh. Sự thật đó làm ta xót xa. Sau bao xa cách được ở
bên chồng, Hạnh thấy lòng mình rạo rực biết bao. Rồi đây “mọi biến động đã
qua, sự bình yên đã trở lại. Sau bao nhiêu năm chờ đợi, khát khao Hạnh
muốn được mãi thế này” [8, 207]. Tưởng như sóng yên, bể lặng, Hạnh sẽ
được sống những ngày hạnh phúc bên chồng. Nhưng không, cay đắng hơn, bẽ
bàng hơn, một lần nữa bóng đen phủ xuống cuộc đời Hạnh khi cướp mất khả
năng đàn ông của chồng Hạnh. Nghĩa trở về sau chiến tranh nhưng không
nguyên vẹn, anh mang trong mình di họa của chiến tranh. Nỗi đau đó của
Nghĩa cứ thấm thía dần vào Hạnh đẩy Hạnh vào bi kịch đầy chua xót.
Trong chiến tranh không chỉ có Hạnh phải chịu nỗi đau không làm tròn
bổn phận làm dâu, không gây dựng được hạnh phúc cho gia tộc mà Thủy
cũng lâm vào hoàn cảnh đáng thương không kém. Thủy - người vợ tục huyền
của Nghĩa không khỏi ái ngại mỗi khi nhìn lên gương mặt buồn rầu, khắc khổ
của mẹ Nghĩa. Với Nghĩa, Thủy luôn tìm mọi cách để tránh cho anh không
rơi vào thảm kịch. Hình ảnh Nghĩa ngồi thừ người ngắm bức tranh đứa trẻ
trong căn phòng hạnh phúc của hai người khiến Thủy không thể cầm lòng
được. Sự háo hức của Nghĩa và tâm trạng thấp thỏm chờ đợi của mẹ chồng
càng làm cho Thủy khổ tâm hơn. Lòng Thủy trào lên một nỗi xót thương vô
tận. Thủy thương chồng, yêu chồng nhưng cay đắng thay bản thân cô cũng bị
cơn bão tố của chiến tranh vây hãm. Cô cũng khao khát được làm mẹ. Nhưng
42
sự thật đầy oan nghiệt đã bóp nát mơ ước ấy. Sức tàn phá của chiến tranh còn
luôn âm ỉ, gây đau khổ và cướp đi hạnh phúc của biết bao người phụ nữ như
Hạnh, như Thủy?
Dâu – một cô gái làng Đông với cá tính mạnh mẽ, trẻ trung, năng động,
thẳng thắn và đáo để vô cùng. Cô đã từng vật ngã những gã đàn ông muốn
cưỡng hiếp, bắt nạt cô và Hạnh giữa cánh đồng vắng, từng giơ tay tát thẳng
vào mặt gã trai phố huyện trong đám cưới của Thắm và thẳng thắn góp ý với
các cụ để Hạnh được về sống với bà Khiên khi chồng bà mất. Dâu là chỗ dựa
tinh thần vững chắc nhất của Hạnh khi Nghĩa đi bộ đội. Người con gái họ
Nguyễn ấy yêu thương anh trai của Hạnh là Hiệp – một chàng trai họ Vũ. Dâu
sẵn sang chờ đợi Hiệp dẫu năm năm mười năm hay lâu hơn nữa. Nhưng cuối
cùng, đáp lại sự chờ đợi mòn mỏi ấy của Dâu là câu trả lời nghiệt ngã từ chiến
tranh: Hiệp đã hi sinh nơi chiến trường. Hiệp không trở về khiến cho Dâu hụt
hẫng, chới với trong niềm xót xa: “Giá như hồi ấy tao với anh Hiệp mày cứ
liều…thì bây giờ nó phải lớn tướng” [8, 206]. Từ ngày Hiệp mất, Dâu sang ở
với mẹ Hạnh, ngày ngày lo toan, chăm sóc bà. Cuối cùng, khi chiến tranh đi
qua thì cũng là lúc Dâu lem lém của ngày xưa không còn nữa. Dâu lấy chốn
cửa Phật làm vui. Dâu mạnh mẽ, táo bạo nhưng cũng phải chịu nỗi đau, cô
đơn, buồn tủi sống lặng lẽ đến cuối đời như một cái bóng lẻ loi, đơn chiếc.
Thắm là cô gái đẹp nhất làng Đông. Sắc đẹp trời phú đó không giúp cô
có được một tấm chồng xứng đôi, vừa lứa. Cô lấy Huy một thanh niên chân
thọt, làm nghề chụp ảnh trên phố huyện. Nhưng hắn lại là một gã đa tình, hắn
cặp kè với nhân tình ngay trong phòng chụp ảnh. Thắm tan nát, đau khổ. Rồi
trong một lần đi phụ giúp bà con bên Hưng Yên bị lũ lụt tàn phá, Thắm quen
anh chàng pháo thủ và sau đó có với anh ta một đứa con. Chiến tranh thật tàn
nhẫn, hai người không nhận được tin nhau. Có lẽ, anh chàng pháo thủ kia
không biết mình đã có con với Thắm nên đã lấy vợ. Còn Thắm cứ một mình
43
vò võ ngóng tin, tự tay chôn vùi tuổi thanh xuân của mình trong ngôi làng
Đông ngột ngạt, tù túng ấy. Chị Nhài – người phụ nữ đã âm thầm chờ đợi
người chồng đi chiến tranh những mười năm trời. Cô Thao, con gái út của
ông Xung đã mang trả trầu cau cho Hân – người chồng sắp cưới ngay khi Hân
đảo ngũ trở về. Từ ngày đó “Thao sống lặng lẽ chờ đợi ông trời xe duyên cho
cô người đàn ông nào đáng mặt. Nhưng khổ nỗi, thời buổi chiến tranh thì đàn
ông lại hiếm hoi nên cô chẳng gặp được chàng trai nào vừa ý” [8, 230].
Tất cả đều bởi chiến tranh! Móng vuốt của nó len lỏi và cào xé biết bao
mảnh đời phụ nữ khiến họ phải sống trong chờ đợi, héo mòn theo năm tháng.
Chiến tranh lôi tuột những người phụ nữ vào vòng xoáy của nó, biến họ trở
thành những nạn nhân. Những người phụ nữ tuy không phải gánh chịu mưa
bom bão đạn trên trận chiến chống quân thù nhưng chiến tranh vẫn hằn lên
trong cuộc đời của họ bao bi kịch cay đắng, tủi hờn. Hình ảnh những người
phụ nữ ở làng Đông mòn mỏi chờ chồng, chờ con, chờ người yêu phấp phỏm
lo âu khiến ta hình dung ra những dáng hình của phụ nữ nơi dãy núi Đợi trong
tác phẩm Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu: “Khắp bốn phía trời những hòn
vọng phu đứng nhan nhản. Thật là đủ hình, đủ dáng, đủ tư thế của một thế
giới đàn bà đã sống và trải bao thời can qua, chiến trinh dường như đã hội tụ
về đây, mỗi người một ngọn núi đứng chơi vơi trên các chóp núi cao ngất,
người ôm con bên nách, người bế con trước ngực, người còng con sau lưng,
hai tay buông thõng xuống quay mặt đủ các hướng, các ngả có súng nổ, có
lửa cháy”.
2.2.2.2. Những nạn nhân của định kiến xã hội
Không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, thân phận những người phụ nữ
làng Đông còn bị giam hãm trong “cái lồng sắt” của những định kiến xã hội.
Chính những định kiến xã hội hủ lậu đã cướp đi hạnh phúc của những người
phụ nữ. Đọc tiểu thuyết Bến không chồng, bạn đọc làm sao có thể quên được
44
hình ảnh của chị Nhân – một con người với bao nhiêu bất hạnh, tai ương?
Chồng và con đều hi sinh nơi sa trường. Nhưng số phận nghiệt ngã vẫn không
buông tha cho người đàn bà đáng thương ấy. Chị vẫn còn quá trẻ, trong chị
vẫn còn bao khát khao được yêu thương và chia sẻ. Nỗi đau mất chồng, mất
con cũng dần nguôi ngoai. Trái tim người phụ nữ ấy lại xao động trước
Nguyễn Vạn – người lính Điện Biên kiên trung và gan góc. Họ yêu thương
nhau, đồng cảm với những nỗi bất hạnh, cô đơn của nhau. Nhưng hạnh phúc
với hai người cứ ngấp nghé rồi lại tuột mất. Nếu không phải vì định kiến xã
hội và mặc cảm mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ Nguyễn – họ Vũ hẳn
chị Nhân đã có một mái ấm với chú Vạn. Hai con người vừa cháy lòng mong
muốn được sống bên nhau, lại vừa phải kiềm tỏa, canh chừng nhau để kìm
nén cảm xúc. Day dứt vì lời con trẻ tránh móc: “Chú Vạn không lấy vợ được
là tại mẹ” khiến chị Nhân vừa thương chú Vạn lại vừa giận chính mình. Có
những lúc tình yêu dành cho Nguyễn Vạn bùng lên, thiêu đốt chị, buộc chị
phải hành động: “Chị ngồi xuống giường, run rẩy nắm chặt lấy bàn tay chú
Vạn (…). Toàn thân chị run rẩy ôm xiết lấy chú Vạn” [8, 151]. Nhưng tập tục
phong kiến, hủ tục, định kiến xã hội ở làng quê đã kéo chị lại với hiện thực
tàn nhẫn bởi chị là vợ liệt sĩ nên phải luôn làm gương cho kẻ khác. Chị Nhân
yêu Nguyễn Vạn tha thiết nhưng đành câm lặng, chôn kín mối tình vào tận
đáy lòng. Và tới cuối cuộc đời mình, chị Nhân vẫn lặng lẽ một mình, vẫn là
cái “bến không chồng”.
Song hành cùng nỗi đau của chị Nhân là bi kịch của Hạnh – con gái
chị. Không giống như mẹ, Hạnh và Nghĩa đã dũng cảm bước qua lời nguyền
của cụ tổ để cùng nhau xây dựng gia đình. Đám cưới của họ được tổ chức tại
“nhà kho của hợp tác xã” [8, 77]. Khi Nghĩa đi bộ đội, Hạnh mòn mỏi sống
trong khắc khoải, lo lắng. Nhưng người phụ nữ khốn khổ ấy nào có được yên
thân với sự hận thù ở những người trong dòng tộc nhà Nguyễn. Hạnh phải
45
sống trong áp lực, những lời đay nghiến, xỏ xiên: “Chừng nào con Hạnh còn
ở trên đất từ đường thì tai họa còn xảy ra”. Nỗi ám ảnh, sợ hãi còn theo Hạnh
cả vào trong những giấc mơ: “Cút đi, mày là loài yêu tinh quyến rũ thằng
Nghĩa. Mày làm cho gia đình bà Khiên tuyệt tự, làm cho cả họ Nguyễn suy
sụp. Mày là đứa đã phá từ đường. Mày...” [8, 239]. Hạnh không chịu đựng
nỗi sợ tra tấn về tinh thần ở ngục tù nơi nhà chồng, họ tộc của Nghĩa. Cùng
với những dòng nhật kí của Thủy mà Hạnh vô tình đọc được, Hạnh biết được
mối quan hệ giữa Nghĩa và Thủy – cô y tá trên tỉnh. Tất cả, đã buộc Hạnh đi
đến quyết định li hôn với Nghĩa dù vẫn còn yêu anh tha thiết. Chia tay Nghĩa
khiến Hạnh đau đớn: “Xưa nay chúng ta cứ lầm, ngỡ là chỉ cần hai người yêu
nhau là được. Lỗi lầm này chúng ta phải trả quá đắt. Anh đi xa nên không
biết ở nhà tôi phải chịu đựng bao điều oan nghiệt. Lời nguyền của cả họ nhà
anh vẫn còn đó. Nó ngấm vào máu thịt ngàn đời cũng không bao giờ sạch.
Thôi cũng không nên nói tới những điều ấy nữa. Mọi chuyện tới giờ coi như
đã chấm dứt” [8, 282 - 283]. Những lời lẽ thống thiết đó của Hạnh là những
dẫn chứng đanh thép nhất luận tội tư tưởng bảo thủ lầm lạc trong gia đình,
dòng họ nhà chồng và những định kiến của xã hội một thời.
Không chỉ có mẹ con Hạnh là những người phụ nữ trở thành nạn nhân
của định kiến xã hội mà những người phụ nữ như Cúc, chị Nhài, mụ Hơn
cũng không tránh khỏi vòng quay nghiệt ngã ấy.
Cúc là một cô gái trẻ, cô yêu Thành nhưng từ khi Thành trở về sau
chiến tranh với gương mặt bị bỏng nặng thì cô sợ hãi. Đó có lẽ là tâm lí chung
của những cô gái mới lớn đầy hi vọng vào cuộc sống. Cô không thể sống với
Thành nên đã từ hôn, trả lại trầu cau cho Thành. Hành động đó của Cúc cũng
không tránh khỏi những định kiến của miệng lưỡi thế gian. Cúc vì quá sợ hãi
gương mặt bị bỏng nặng của Thành nên đã trả lại trầu cau. Trước hành động
của cô gái trẻ ấy, cả làng đều ghét cô, giận cô, quay lưng với cô. Bà Nhị - cô
46
ruột Cúc còn chỉ trích “Cháu dại lắm, chê thằng Thành thì cháu sẽ ế đến già
không lấy được chồng đâu. Đàn ông ở làng này sẽ không ai dám hỏi mày làm
vợ và cũng đừng có hi vọng có thanh niên làng khác vác mặt đến làng này với
mày” [8, 173]. Từ đây, tính nết Cúc thay đổi hẳn. Cúc ý thức được việc mình
làm, ý thức được từ đây số phận cô cũng chẳng có cơ hội lấy được người tử
tế. Cô tự ti, mặc cảm, tự thu mình vào ốc đảo của sự cô đơn: “Hạnh thấy
thương hại Cúc, suốt ngày nó lặng lẽ như cái bóng, bất kể đi đâu, làm gì ở
chỗ đông người Cúc không dám nói to, cười đùa như trước” [8, 173]. Rồi có
lúc vô tình chạm mặt Thành, nghe Thành tếu táo, hóm hỉnh kể chuyện chiến
trường, nghe mọi người khen Thành “tốt lắm” Cúc lại chạnh lòng sụt sùi
khóc và thốt lên đau đớn “em khổ lắm chị ơi” [8, 179].
Chị Nhài cũng vô tình trở thành tâm điểm bàn tán của người đời: “Chị
Nhài mười năm nay chung thủy chờ chồng bỗng nhiên hôm nọ lại nổi máu lên
tí tởn với thằng Dục, mẹ chồng bắt quả tang, chuyến này chồng nó mà về thì
nó giết” [8, 196]. Chị Nhài trong truyện không đáng trách, chị âu cũng chỉ là
người phụ nữ đáng thương, chị đã kiên nhẫn chờ chồng mười năm, quãng thời
gian mười năm đối với một người phụ nữ còn trẻ thật khủng khiếp biết bao.
Cũng bởi chị còn trẻ nên khao khát được yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong chị.
Việc chị Nhài đi bước nữa là một điều dễ hiểu và cần được cảm thông.
Không chỉ những người phụ nữ nghèo khổ của giai cấp cần lao trở
thành nạn nhân của định kiến xã hội mà ngay cả mụ Hơn con dâu của địa chủ
Hào cũng không tránh khỏi số kiếp đau thương ấy. Mụ Hơn từ một người phụ
nữ xinh đẹp “mắt đen lay láy thắt đáy lưng ong, da đỏ hồng hồng” [8, 53],
được làm vợ ông con trai địa chủ giàu có, được sống sung sướng nhàn hạ
bỗng chốc cơn bão tố của thời đại nổi lên. Cuộc đấu tố khốc liệt đã khiến mụ
mất đi tất cả. Bố chồng chị bị xử bắn, chồng mụ thì cắn lưỡi chết. Tài sản bị
tịch thu hết. Chị chỉ còn lại đứa con trai là thằng Tốn và hai gian bếp ọp ẹp
47
làm nơi ăn, ở. Hai mẹ con mụ Hơn bị cả làng khinh rẻ, cuộc sống của hai mẹ
con cũng chẳng được yên thân. Thằng cu Tốn bị bọn trẻ trong làng đánh đập,
nguyền rủa. Người đau khổ nhất vẫn là mụ Hơn, thương con, xót con mà
không dám phàn nàn nửa lời. Mụ sợ dư luận xã hội sẽ không buông tha cho
họ. Mụ bị mọi người trong làng ruồng rẫy, hắt hủi, xa lánh. Ngay cả việc thắp
hương cúng người chồng đã khuất của mình, mụ cũng phải vụng trộm, lén lút.
Cuộc sống của mụ thật khốn khổ. Mụ tồn tại như cái gai trong mắt dân làng.
Họ căm ghét, sung sướng, hả hê trước nỗi đau, bất hạnh của người đàn bà ấy.
Người đọc không khỏi bàng hoàng, lặng đi đau xót trước những lời van xin
của mụ Hơn với Vạn: “Mụ nhào đến quỳ xuống, hai tay chới với nắm lấy tay
Vạn, mắt rực lên. Bây giờ đời con chỉ còn mỗi thằng con trai, thằng cu Tốn
ấy. Chồng con đã chết rồi, dù nó là con cháu địa chủ nhưng con hứa với ông
bà nông dân cố gắng nuôi dạy nó thành người nghèo khổ. Vâng! Con cố nuôi
dạy nó thành người nghèo khổ hu…hu…con chắp tay lạy ông trăm ngàn lần
đừng ghét bỏ nó, đừng để các con của ông bà nông dân đánh đập nó…Con
đau khổ mà không dám nói cùng ai. Con liều đến cửa nhà ông, ông ở gần bảo
hộ giúp con” [8, 55]. Lời mụ thống thiết, ám ảnh mỗi chúng ta. Mụ Hơn tuy
là người thuộc giai cấp quý tộc nhưng mụ “không ở ác với ai”. Người phụ nữ
ấy đáng thương hơn là đáng trách. Vậy mà định kiến xã hội, định kiến giai
cấp đã cô lập, bỏ rơi mụ bơ vơ giữa dòng đời.
Sự dữ dằn của chiến tranh cùng những di họa của nó và sự ấu trĩ, lầm
lạc của con người trong quá khứ đã trở thành căn nguyên gây ra những nỗi
đau, thua thiệt, mất mát của biết bao phụ nữ. Họ thực sự là những “bến đợi”,
“bến không chồng”, những hòn vọng phu hóa đá đúng như tên truyện. Tất cả
những người phụ nữ trong thế giới của Bến không chồng một ai được hạnh
phúc, được trọn vẹn, được sống đúng là mình. Ở họ những ước mơ giản đơn
như được làm vợ, làm mẹ cũng khó khăn, xa vời biết chừng nào.
48
Chƣơng 3
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG
CỦA DƢƠNG HƢỚNG
3.1. Sử dụng những biểu tƣợng có giá trị nghệ thuật cao
Khái niệm biểu tượng chỉ thực sự xuất hiện khi tri thức nhân loại đạt
đến một trình độ nhất định. Thuật ngữ “biểu tượng” vốn xuất phát từ thuật
ngữ “symbol” trong tiếng Anh. Còn tiếng Pháp là “symbole”. Hai thuật ngữ
đó dịch sang tiếng Việt thành “biểu tượng” hoặc “biểu trưng”. Cách dịch
thành “biểu tượng” được chấp nhận rộng rãi hơn.
Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm biểu tượng là một loại kí hiệu mà mối
quan hệ giữa mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc
trong tưởng tượng của con người đó là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái
được biểu trưng) mang tính có lý do, tất yếu.
Trong tiểu thuyết Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng đã sử dụng
hàng loạt những biểu tượng văn học giàu ý nghĩa để biểu hiện hiện thực đời
sống và thân phận con người một cách sâu sắc, có tính giá trị cao.
3.1.1. Biểu tượng “bến”
Hình tượng “bến” trong Bến không chồng được tác giả tập trung miêu
tả như một biểu tượng xuyên suốt, có sức ám ảnh lớn đối với nhân vật cũng
như người đọc. “Bến” đã đi vào tâm thức người Việt như một điểm hẹn, một
bến đỗ bình yên. Không gian bình dị của “bến” vẫn gắn với những sinh hoạt
thường nhật của vùng nông thôn Việt Nam, gắn với lối suy nghĩ mộc mạc,
chân chất của người bình dân. “Bến” là nơi quy tụ của dân làng: Già, trẻ, gái,
49
trai. Nó gắn với những kí ức tuổi thơ của biết bao người, là nơi bao người con
xa quê vẫn luôn mong ngóng và tha thiết nhớ về quê hương. Trong tiểu thuyết
Bến không chồng, có hơn 90 lần xuất hiện tín hiệu thẩm mĩ “bến” dưới các
tên gọi khác nhau với nhiều ý nghĩa biểu tượng .
“Bến” là sự dung hợp của sự sống. Trong tác phẩm Bến không chồng,
“bến” không chỉ là không gian sinh hoạt của người lao động, nhân chứng cho
những biến cố trong làng mà nó còn trở thành điểm tựa tinh thần, là không
gian tâm tưởng của mỗi con người. “Bến” như người bạn tình của Hạnh
những lúc cô chờ đợi Nghĩa: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một tiếc nuối
thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ân ái với Nghĩa bỗng trỗi dậy.
Đầu óc Hạnh căng ra rung lên ngây ngất đi tìm lạc thú trong hoang tưởng –
Hạnh lao ra dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng” [8, 186]. “Bến” như
là người bạn an ủi, vỗ về Dâu và cuốn đi cảm giác có lỗi của Cúc khi cô trả lại
trầu cau cho Thành. Ngoài ra, “bến” còn là điểm hẹn của trai gái làng Đông,
là nhân chứng cho những cuộc tình lãng mạn của người làng Đông. Chuyện
tình Dâu – Hiệp, Hồng – Hà, Cúc – Thành, và ngay cả đêm tân hôn của Nghĩa
và Hạnh cũng gắn với bến Tình… Cái “bến” đó tồn tại giữa ngôi làng Đông,
nó gắn với bao câu chuyện huyền thoại mà những thế hệ người già kể lại cho
con trẻ đời sau: “Các cụ bảo: Đất làng Đông nằm trên mình con rồng. Con
rồng đó chính là dòng sông Đình bắt nguồn từ cống Linh chảy qua làng Đông
uốn lượn như một con rồng. Nước sông như dòng sữa mẹ làm tươi tốt đất và
người làng Đông” [8, 10].
“Bến” là biểu tượng cho sự chờ đợi mòn mỏi của bao thế hệ phụ nữ
làng Đông. Biểu tượng “bến” từ lâu đã thấm vào những lời ca dao mượt mà
tha thiết:
“Thuyền đi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
50
Trong tác phẩm này cũng vậy. “Bến” gắn với sự chờ đợi của những
người phụ nữ làng Đông. Chị Nhàn, Hạnh, Dâu, Thắm, Cúc…lần lượt tiễn
chồng, người yêu vào chiến trường để rồi họ lặng lẽ gạt nước mắt sống với
những tháng ngày dài đằng đẵng trong chờ đợi, héo mòn. Thời gian cứ lạnh
lùng trôi qua cuốn phăng tuổi xuân của những người phụ nữ làng Đông ấy.
Chị Nhân một đời chờ chồng, chờ con trong mỏi mòn, vô vọng. Hạnh cưới
Nghĩa chưa được bao lâu cũng đành phải xa chồng, sống âm thầm lặng lẽ chờ
đợi người ra đi không hẹn ngày trở về… Dường như sự chờ đợi đã trở thành
một điệp khúc giữa bản nhạc trầm buồn dài đằng đẵng mà những người phụ
nữ phải nhận lấy. Dòng sông kia vẫn đều đặn chảy trôi, chỉ có “bến”, có
những người phụ nữ vẫn muôn đời kiên nhẫn, đợi chờ.
“Bến” còn là sự thanh tẩy những nỗi niềm oan ức, đau thương và mất
mát của con người. Dương Hướng đã mở đầu tiểu thuyết của mình bằng câu
chuyện cô con gái rượu duy nhất của cụ tổ họ Nguyễn bị chàng trai họ Vũ làm
nhục trên “bến Tình”. Người con gái trong trắng đáng, thương ấy đã lấy cái
chết để thanh tẩy, minh chứng cho sự trinh tiết của mình. Hạnh cũng vậy, cô
phải xa chồng, phải sống trong nhung nhớ đã là một thiệt thòi. Vậy mà, cô
còn bị dòng tộc nhà chồng mỉa mai, đay nghiến: “Con Hạnh sẽ chẳng bao giờ
có con, chuyện này nó đã rõ như ban ngày” [8, 243]. Những nỗi đau khổ ấy
đã kéo Hạnh xuống dòng nước mát lạnh nơi “bến Tình” và kì diệu thay, dòng
nước ấy đã cuốn đi tất cả những oan ức mà Hạnh phải chịu đựng lâu nay. Với
Nguyễn Vạn cũng vậy, sau một đêm cùng Hạnh thỏa mãn khát khao, Vạn
luôn sống trong dằn vặt, đau khổ, xót xa. Sau bao tháng ngày biệt tích, Hạnh
trở về dắt theo đứa con gái của Vạn, cảm giác tội lỗi, đau khổ càng nhân lên
gấp bội trong Vạn. Con người khốn khổ ấy đã tìm đến dòng sông và nơi đây
lại một lần nữa trở thành cái “bến” thanh tẩy cảm giác tội lỗi, uất nghẹn của
người lính đã già nua vì ân hận, xót xa.
51
3.1.2. Biểu tượng “ngôi từ đường họ Nguyễn”
Hình ảnh “ngôi từ đường họ Nguyễn” mọc lên khang trang giữa làng
Đông luôn là niềm tự hào của con cháu trong dòng tộc bao đời “Ba gian từ
đường có hai hàng cột cái và hai hàng cột con, cả thảy là mười sáu cột.
Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen bóng lên. Các chân cột đặt đá tảng
xanh, nổi vân trắng, nền từ đường lát đá đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian
hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật với vôi, cát rắn như đá. Trên bệ
thờ là những con rồng đắp bằng vữa, sơn son, thếp vàng rực rỡ. Cỗ ngai đặt
ở giữa bệ thờ, có bát hương to lúc nào cũng tỏa khói thơm ngát” [8, 23 - 24].
Qua “ngôi từ đường họ Nguyễn” và những ngày giỗ tổ hàng năm được các vị
trưởng nam, con cháu trong họ tổ chức linh đình, chúng ta thấy được đời sống
tâm linh, quan hệ họ hàng ở nông thôn được giữ gìn, bảo tồn, nối tiếp qua các
thế hệ. Đây là một nép đẹp văn hóa đáng trân trọng, tuy nhiên, hình ảnh ngôi
từ đường họ Nguyễn được Dương Hướng sử dụng ở đây với một dụng ý nghệ
thuật khác. Nó là hiện thân cho biết bao nhiêu thiên kiến cổ hủ, lạc hậu của
một bộ phận người trong dòng tộc đã gây ra bao đau xót, bi kịch cho con cháu
đời sau. Nó khiến cho Nguyễn Vạn và chị Nhân không thể đến được với nhau,
Nghĩa và Hạnh luôn phải sống trong day dứt, khổ đau.... Vấn đề tâm linh đè
nặng lên suy nghĩ, tâm hồn mỗi con người. Điều đó, khiến cho làng Đông nhỏ
bé ấy không hề bình yên, cuộc sống con người luôn bị khuấy đảo, bất an.
3.1.3. Biểu tượng “vạt cỏ bằng”
Hình ảnh này được lặp đi lặp lại đến năm lần trong truyện đặc biệt gắn
với tình yêu của Hạnh và Nghĩa. Đó là nơi ghi dấu thời khắc lần đầu tiên
Nghĩa và Hạnh vượt qua mọi rào cản để thành vợ chồng. Hai con người bất
hạnh ấy chẳng còn nơi nào để trở về trong đêm tân hôn của mình, họ đã tìm
đến bến Tình. “Vạt cỏ bằng” nơi bến sông ấy đón họ vào lòng, nâng niu, che
chở cho tình yêu của họ. Thông qua biểu tượng “vạt cỏ bằng”, Dương Hướng
52
đã lên án sâu sắc sự khắc nghiệt của tập tục, (ở đây là mốt thù truyền kiếp của
hai dòng họ Nguyễn Vũ) đã làm cho con đường đi đến hạnh phúc của nhiều
mối tình trở nên trắc trở, đớn đau.
Như vậy thông qua những biểu tượng nghệ thuật chủ yếu trên, Dương
Hướng đã cho chúng ta thấy hiện thực xã hội nông thôn miền Bắc nói chung
và làng Đông nói riêng trong những năm tháng trước đổi mới đầy tăm tối, bế
tắc, hủ lậu. Con người gào thét, quẫy đạp trong “thung lũng đau thương” mà
chính họ tạo ra. Thông qua những biểu tượng này, người đọc có được cái nhìn
hiện thực, toàn diện về lịch sử và đất nước trong những năm tháng trong và
sau chiến tranh. Tác phẩm “Không có cái sắc sảo, róng riết của mảnh đất lắm
người nhiều ma, không có cái chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh của nỗi buồn
chiến tranh” nhưng với tài năng kết hợp: “Cốt truyện mộc mạc và chân
phương trong cách dẫn dắt và ngôn từ - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa,
mà giản dị, tự nhiên”, đã khẳng định được giá trị của nó trong lòng độc giả.
3.2. Giọng điệu cảm thƣơng, xót xa
Từ điển thuật ngữ văn học giải thích: “Giọng điệu là thái độ, lập
trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể
hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm” [5, 134 - 135].
Cảm thương, xót xa là cảm xúc xót thương của con người đối với đồng
loại hoặc đối với chính mình khi gặp những bất hạnh trong cuộc sống
Như vậy giọng điệu cảm, thương xót xa chính là thái độ của tác giả đối
với những số phận bất hạnh, khổ đau. Giọng điệu ấy ẩn chứa trong những câu
văn thấm đẫm xúc cảm về cõi nhân sinh, mang giá trị thẩm mĩ sâu sắc.
Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng nói về số phận bi kịch
của những con người chịu sự tác động sâu sắc của lịch sử, chiến tranh. Chiến
53
tranh đã gây ra bao nhiêu tang tóc, biệt li, khiến vợ xa chồng, mẹ xa con…
Biết bao người mẹ, người vợ phải chịu cảnh không chồng. Còn bao cái Bến
không chồng trên khắp đất nước ta chưa đi vào trang sách? Cảm thương cho
số phận của những con người bé nhỏ, Dương Hướng đã xây dựng số phận
những người phụ nữ như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc… dở dang, đau khổ. Số
phận của những người lính như Vạn, Nghĩa, Thành… đầy oan trái. Ngòi bút
thấm đẫm niềm cảm thương của nhà văn làm cho cuộc đời của những người
phụ nữ như chị Nhân, Hạnh, Thắm, Dâu… trở nên ám ảnh lạ lùng. Không
người phụ nữ nào được sống an nhàn, sung sướng.
Đối với nhân vật Hạnh, Dương Hướng đã có cái nhìn một cái nhìn đầy
cảm thương, thông cảm: “Đã tám năm nay Hạnh nhận ra mình sống bằng
những kỉ niệm với Nghĩa nhiều hơn là chờ đợi ở tương lai. Những hi vọng
ngày một mong manh, dù mong manh vẫn hơn là tắt hẳn (...) Hạnh lội xuống
bến nước rửa chân, lòng ngẩn ngơ nhìn mặt trăng loang loáng dưới nước.
Hạnh thấy mình lạc vào thế giới mông lung sâu thẳm của những câu chuyện
huyền thoại xa xưa” [8, 185 - 186]. Dường như, nhà văn có thể thấu hiểu
được tất cả nỗi khổ đau của con người và miêu tả hết sức chân thực và xúc
động sự chờ đợi mòn mỏi, khắc khoải của cô và cũng là sự day dứt của những
người phụ nữ Việt Nam thời ấy. Dương Hướng đã nhìn vào nỗi éo le của
Hạnh với cái nhìn hiện thực đầy nhân bản: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một
nỗi nuối tiếc thoáng qua. Một thời xuân sắc và những giây phút ân ái với
Nghĩa bỗng trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra và rung lên ngây ngất trong
hoang tưởng. Hạnh lao vào dòng nước mát lanh sóng sánh bóng trăng. Cơ
thể lâu nay khô héo bỗng rạo rực ngập tràn hưng phấn (…) Hạnh lao lên bến
chạy dọc bờ sông. Hạnh chạy mãi, chạy mãi” [8, 186]. Nỗi khao khát đầy bản
năng của người phụ nữ trẻ xa chồng được nhà văn diễn tả thật tinh tế và đầy
cảm thông, vừa nói lên cái khốc liệt của chiến tranh chia cắt hạnh phúc, lại
54
nói được những gì nhân bản nhất về con người. Sống trong những năm tháng
chiến tranh con người ta mới dễ cảm thông cho niềm khao khát đầy nhân bản
này. Hạnh phúc quá ít ỏi, quá mong manh, Hạnh sống trong kí ức nhiều hơn
là sống với hi vọng. Nỗi khát khao cháy bỏng ấy lại càng trở thành nỗi ám
ảnh, dằn vặt khi niềm hạnh phúc riêng tư trong cô luôn phải giấu kín. Kí ức về
những ngày bên Nghĩa, được làm vợ, được sống trọn vẹn trong tình yêu luôn
bùng cháy trong Hạnh. Cuộc đời Hạnh là cuộc đời dằng dặc những buồn
thương. Hạnh đã chịu bao khó khăn, thử thách để đến với Nghĩa, dám chống
lại lời nguyền để yêu thương Nghĩa, Hạnh hi sinh cả tuổi xuân chờ chồng,
nuôi mẹ. Hạnh đã gan góc vượt qua được định kiến của dòng họ nhưng lại
không thể bước qua dông tố của chiến tranh. Chiến tranh ập tới, nó cướp đi
khả năng đàn ông của chồng chị. Hạnh sống trong đau đớn nhưng không thôi
khao khát được làm mẹ. Cuối cùng, Hạnh đã được bù đắp. Chị có thai với chú
Vạn – người bạn đồng ngũ với bố, người đã yêu nhưng không dám đi đến hôn
nhân với mẹ Hạnh. Niềm vui muộn màng buộc chị phải xa xứ để bảo vệ danh
dự cho người đàn ông ấy. Cái hạnh phúc bình dị ngỡ như người phụ nữ nào
cũng có quyền hưởng, nhưng với Hạnh, đó cả là một hành trình nhọc nhằn,
cay đắng và vật lộn. Còn biết bao người phụ nữ xứng đáng có hạnh phúc
nhưng rồi đành để tuột mất trong âm thầm tiếc nuối?
Người đọc cũng không khỏi xót xa, thương cảm khi đọc những trang
văn Hương Hướng miêu tả nỗi bất hạnh của Dâu. Dâu vì chờ đợi người yêu
mà không lấy chồng. Nhưng sau bao năm chờ đợi đến ngày toàn thắng,
người yêu lại hi sinh, bản thân thì sống trong cô đơn và tìm sự thanh thản
nơi cửa Phật.
Có lẽ, người phụ nữ chịu nhiều hi sinh mất mát nhất làng Đông là bà
Nhân – người phụ nữ cả một đời phải sống trong bi kịch, khổ đau “Trong
đời bà đã có ba cái tang – tang chồng, tang hai thằng con trai – Cả ba lần
55
bà chỉ được đứng trước ba cái quan tài giả” [8, 310]. Tất cả, họ đều là
những người phụ nữ bất hạnh họp chung nhau lại ở Bến không chồng.
Giọng điệu này còn nhiều lần trở lại khi nói về những bi kịch của
những con người làng Đông. Người trần thuật ở ngôi thứ ba đã thể hiện
những nỗi cảm thương, khắc khoải cho những thân phận của con người: “cả
làng Đông bây giờ bói cũng chả còn đứa nào cho ra hồn. Đứa nào không đui
què, sứt môi, tai điếc thì mười bẩy đã đòi khai thêm tuổi để đi khám nghĩa vụ.
Cánh con trai làng Đông hiện đang ở nhà đếm trên đầu ngón tay. Thứ nhất
anh Nhan ở nhà ho hen cò cừ đi khám nghĩa vụ quân sự năm lần bảy lượt đều
không đạt, ở nhà làm thư kí đội sản xuất. Thứ hai là Tẹo, chột mắt được giao
chân coi đồng…Tất cả các cô gái làng Đông đều đòi lấy Ngốc” [8, 139]. Có
khi là suy nghĩ của Nghĩa: “Chú Vạn hồi này hầu như không bước chân ra
khỏi mảnh vườn ươm. Hôm ra thăm chú, Nghĩa sững sờ nhìn lên gương mặt
gầy xạm đi, tóc bạc trắng như một ông lão. Còn Thành suốt đời phải mang
một bộ mặt dị dạng không vợ con. Cúc ngày xưa đùng đùng đem trả trầu cau
Thành, đã tưởng lấy được đám khá hơn, ai ngờ vơ bèo gạt tép làm lẽ ông Ba
Chương. Dâu ngày xưa lem lém vậy, giờ lại lấy cửa Phật làm vui. Đến như
cái Thắm rực rỡ nhất nhì làng Đông bây giờ vẫn vò võ nuôi con một mình.
Còn mẹ Hạnh thì gần như câm lặng…” [8, 301].
Những ước mơ rất chính đáng và cũng rất bình dị của những phận
người đã bị đập nát bởi sự tác động dữ dội của chiến tranh. Dương Hướng đã
sử dụng những từ chỉ trạng thái “sững sờ”, “ai ngờ”, “giờ lại”, những từ
cảm thán “đến như”, “suốt đời phải”… để thể hiện âm hưởng xót xa, thương
cảm cho những thân phận chịu bao cay đắng của cuộc đời. Âm hưởng này
cũng thấy ngay khi nhà văn nói về sự thật của những cô gái, chàng trai làng
Đông thời chiến: “Ở lứa tuổi tưng tưng mười chín, đôi lăm chưa chồng vận
áo trắng, áo màu vào người nó cứ phừng phừng muốn nhảy nhót một tí cho
56
nó tươi đời. Như thời xưa thì tha hồ mà hờn anh nọ, dỗi anh kia, giờ thì con
gái cứ đầy ra đấy chả có ma nào” [8, 141].
Tất cả đều do chiến tranh. Hóa ra, móng vuốt của chiến tranh len lỏi
vào mọi ngóc ngách của cuộc đời này. Từng là một người lính, Dương Hướng
hiểu hơn bao giờ hết những cay đắng nhọc nhằn, những mất mát của chiến
tranh. Chiến tranh không chỉ mang những nỗi đau về thể xác với những tật
nguyền suốt đời người lính phải chấp nhận chung sống mà còn những di
chứng nặng nề trong tâm hồn đeo đẳng họ mới đáng sợ. Những người lính
như Vạn, Nghĩa, Thành… mang trong mình những nỗi đau riêng không gọi
thành tên. Người thì chưa bao giờ được biết đến hạnh phúc riêng tư, đến chết
vẫn cô đơn như chú Vạn. Người thì bước ra chiến tranh với những méo mó, dị
tật về thể xác như Thành. Người thì tay trắng với sự đổ vỡ hạnh phúc như
Nghĩa… Những số phận này là câu hỏi nghiêm túc về trách nhiệm của cả xã
hội và “Dương Hướng là người có tình khi nói về nỗi đau của con người”
(Nguyên Ngọc). Để khắc họa những con người nhỏ bé, đáng thương ấy, giọng
điệu cảm thương xót xa trở thành một phương tiện được nhà văn sử dụng vô
cùng đắc địa.
57
KẾT LUẬN
1. Mặc dù không thuộc lớp nhà văn mở đường, đặt nền móng cho thể
loại tiểu thuyết đương đại ở Việt Nam đâm chồi, nảy nở như: Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu... nhưng Dương Hướng
vẫn xứng đáng là một trong những tác giả tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết
đương đại ở Việt Nam. Bằng những nỗ lực và cống hiến hết mình cho nghệ
thuật, Dương Hướng đã để lại cho đời những tác phẩm văn học có giá trị, giàu
ý nghĩa nhân văn. Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng là một đóa
hoa ngát hương giữa vườn hoa văn học nghệ thuật đa sắc.
2. Trước khi đặt bút viết nên tác phẩm văn học, Dương Hướng luôn tâm
niệm một lẽ: “Hiện thực cuộc sống đầy sôi động ở mọi mặt. Nhưng điều quan
trọng của nhà văn là phải trăn trở để viết thế nào chứ không phải viết cái gì.
Quan trọng hơn vẫn là tác phẩm của anh nói được điều gì?”. Phương châm
sáng tác tích cực đó đã dẫn dắt Dương Hướng đến với “Tiếng nói của nhân
dân, nỗi lòng của người cần lao”. Tác phẩm Bến không chồng là sự tri ân,
tấm lòng của nhà văn người Thái Bình ấy đối với quê hương. Ông dám nhìn
thẳng vào sự thật để khắc họa nên những mất mát, hi sinh, nỗi cô đơn, bi kịch
trong tình yêu, hạnh phúc của người lính và những nỗi thống khổ bởi chiến
tranh, định kiến xã hội chà đạp người phụ nữ. Người đọc vì thế càng cảm
thông, thấu hiểu, chia sẻ với con người đặc biệt là những người lính thời hậu
chiến.
3. Dương Hướng không thực sự có những cách tân táo bạo về mặt nghệ
thuật. Nhưng Bến không chồng vẫn thực sự hấp dẫn bạn đọc bởi sự gần gũi,
giản dị của một ngòi bút suốt đời trăn trở, nỗ lực mang lại cho đời những tác
phẩm nghệ thuật giàu ý nghĩa. Thông qua những biểu tượng nghệ thuật và
giọng điệu cảm thương đầy nhân đạo, Dương Hướng đã vẽ ra bức tranh nông
58
thôn miền Bắc trong những năm tháng trước đổi mới đầy cay đắng, ê chề, xót
xa. Ở đó có những con người luôn quằn quại, đớn đau, bị chắp vá bởi chiến
tranh, định kiến xã hội. Những mảnh đời bất hạnh đó sẽ còn ám ảnh bạn đọc
nhiều thế hệ.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
2. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
3. Nguyễn Minh Châu (1999), Cỏ lau, Nxb Văn học Hà Nội.
4. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Dương Hướng (1989), Gót son, Nxb Hải Phòng.
7. Dương Hướng (1991), Trần gian đời người, Nxb Hải Phòng.
8. Dương Hướng (2000), Bến không chồng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
9. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
10. Phong Lê (2009),“Dương Hướng – từ Bến không chồng đến Dưới chín
tầng trời”, Tạp chí Sông Hương (số 248), trang 75 – 80.
11. Nguyễn Duy Liễm (2009), Dương Hướng – Người ghi mốc son cho văn
học thời kì đổi mới, duonghuongqn.vnwebblos.com.
12. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thờ kì mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
13. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học.
15. Nguyễn Đăng Mạnh (1985),“Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát
triển”, báo Nhân dân (26/10).
16. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ.
18. Nguyên Ngọc (1991),“Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy
luật phát triển”, Tạp chí Văn học, trang 9 – 13.
19. Trần Đình Sử (chủ biên), (2007), Giáo trình lí luận văn học (3 tập), Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
20. Trần Thị Phương Thảo (2008), Tiểu thuyết Dương Hướng (từ Bến không
chồng đến Dưới chín tầng trời), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Thái
Nguyên.