TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾN

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2014

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾN

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

HÀ NỘI - 2014

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo - Tiến Sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh

đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.

Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo

trong khoa Ngữ văn đặc biệt là các thầy, cô trong tổ Văn học Việt Nam -

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong 4 năm

học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm,

động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế

của người viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất

mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy, cô và các bạn sinh viên để

khóa luận được hoàn thiện hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2014

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Tuyến

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của tôi cùng với

sự giúp đỡ của các thầy, cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà

Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị

Tuyết Minh.

Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên

quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận Hiện thực

đời sống và thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của

Dương Hướng không có sự trùng lặp với các khóa luận khác.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5, năm 2014

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Tuyến

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5

7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6

Chƣơng 1. TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG TRONG ĐỜI

SỐNG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ............................................ 7

1.1. Quan niệm về tiểu thuyết ........................................................................... 7

1.2. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại ........... 8

1.3. Tác giả Dương Hướng và tiểu thuyết Bến không chồng .......................... 11

1.3.1. Tác giả Dương Hướng .................................................................... 11

1.3.2. Tác phẩm Bến không chồng ............................................................ 13

Chƣơng 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN

PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG

CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG ................................................................ 16

2.1. Hiện thực đời sống ................................................................................... 16

2.1.1. Đời sống nông thôn thời hậu chiến ................................................. 16

2.1.2. Đời sống nông thôn với nhiều hủ tục nặng nề ................................ 20

2.2. Thân phận con người ................................................................................ 27

2.2.1. Thân phận người lính thời hậu chiến .............................................. 27

2.2.2. Thân phận người phụ nữ ................................................................. 35

Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG

TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG .......... 49

3.1. Sử dụng những biểu tượng có giá trị nghệ thuật cao ............................... 49

3.1.1 Biểu tượng “bến” ............................................................................. 49

3.1.2. Biểu tượng “ngôi từ đường họ Nguyễn” ........................................ 52

3.1.3. Biểu tượng “vạt cỏ bằng” ............................................................... 52

3.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa ................................................................ 53

KẾT LUẬN .................................................................................................... 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, nhưng đề tài về chiến tranh vẫn được

các nhà văn thời hậu chiến dành cho nhiều ưu ái. Các nhà văn đã dồn bút lực

của mình để dựng lại cho hậu thế bối cảnh của hiện thực đời sống, xã hội Việt

Nam trong những năm tháng trong và sau chiến tranh cũng như những nỗi

thống khổ của con người thời chiến. Số lượng tác phẩm viết về chiến tranh

ngày càng tăng từ sau năm 1986. Cuộc đời và con người được soi chiếu dưới

những góc nhìn đa dạng, với những cảm hứng mới mẻ.

Dương Hướng là một trong những nhà văn thời hậu chiến có tác phẩm

viết về chiến tranh. Ông thuộc thế hệ nhà văn cùng thời với Ma Văn Kháng,

Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn… Nhưng phải đến

khi ngoài 40 tuổi, danh tiếng của ông mới được bạn đọc biết đến qua tập

truyện ngắn đầu tay “Gót son” (1989). Dường như, ông đến với văn chương

khá chậm nhưng “chậm mà chắc”. Ông sáng tác không nhiều. Tuy nhiên,

bằng tài năng văn chương của mình, Dương Hướng đã có vị trí vững vàng

trong đội ngũ các nhà văn tên tuổi giai đoạn đầu đổi mới. Nhắc đến nhà văn

Dương Hướng độc giả nghĩ ngay tới tác phẩm Bến không chồng. Tiểu thuyết

này đã đem lại cho nhà văn người Thái Bình giải A của Hội Nhà văn Việt

Nam năm 1991. Bến không chồng tái hiện lại khung cảnh làng Đông – vùng

đồng bằng Bắc Bộ. Nơi đó có sông Đình, có cầu Đá Bạc, có những người lính

bước ra từ chiến tranh với bao mất mát, hi sinh và có cả những người phụ nữ

mòn mỏi, cô đơn, chịu nhiều nỗi bất hạnh, gian truân. Những hình ảnh đó,

con người đó ám ảnh não cân và tâm khảm của bạn đọc bao thế hệ. Đó chính

là lí do, là động lực khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: “Hiện thực đời sống và

thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng”.

1

Hi vọng khóa luận này sẽ đem lại cho bạn đọc yêu văn thời hậu chiến

nói chung và tác phẩm Bến không chồng của Dương Hướng nói riêng cảm

nhận sâu sắc về những nỗi thống khổ của con người trong đêm trước Đổi mới.

2. Lịch sử vấn đề

Bến không chồng của nhà văn Dương Hướng được in năm 1991 do nhà

xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Ngay sau đó, tác phẩm đã đoạt giải A – giải

thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, Bến không chồng là cái

tên được nhắc tới khá nhiều trong giới nghiên cứu, phê bình văn học.

Nhà văn Nguyên Ngọc nhấn mạnh: “Đến Bến không chồng của Dương

Hướng thì tiếng kêu thét của cá nhân bị vùi dập càng mạnh mẽ, thống thiết

hơn” và “Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con

người” [18, 13 - 14]. Lời nhận xét của tác giả đầy xúc động, chân thành đã

phần nào nói lên sự đồng tình, ủng hộ của độc giả với Bến không chồng ngay

từ ngày đầu ra mắt.

Tiếp sau đó, Nguyễn Văn Long cũng có bài phê bình về tác phẩm Bến

không chồng. Theo tác giả thì nông thôn trong Bến không chồng không chỉ

được khai thác sâu ở phương diện các phong trào cách mạng, các vấn đề của

đời sống chính trị xã hội mà tập trung vào việc làm rõ ý thức và tập quán từ họ

tộc tới số phận con người. Nguyễn Văn Long đã nhìn ra một “bản sắc” riêng

biệt, chứa ẩn trong Bến không chồng. Theo thời gian, người đọc thấy rằng, sức

hấp dẫn của Bến không chồng chính là sự chân thực và cách nhìn cảm thông,

nhân đạo với số phận con người nhất là người phụ nữ của Dương Hướng.

Năm 2009, trên Tạp chí sông Hương số 248, giáo sư Phong Lê cho rằng:

“Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn mới

về bức tranh đất nước thời chiến và hậu chiến… với gánh nặng không phải chỉ

là chiến tranh, về phía khách quan, mà còn là những lầm lạc của con người

trong bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai do lịch

2

sử để lại không đủ tầm và sức để vượt qua… Bến không chồng lại có được một

vẻ đẹp khác trong khuôn hình cổ điển, mộc mạc và chân phương trong cốt

truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà

giản dị, tự nhiên…” [10, 75 – 80]. Phong Lê cũng lí giải căn nguyên đổ vỡ, khổ

đau của những thân phận người trong tác phẩm là “do lịch sử để lại”, một lịch

sử quá nghiệt ngã với con người làng Đông, bởi tất cả những mất mát, hi sinh,

dữ dằn và khốc liệt của chiến tranh đã chà xát tâm hồn họ, đẩy họ tới tận cùng

của bi kịch, đau thương. Điều đáng chú ý, tác giả đã nhìn nhận, tìm hiểu và

đánh giá về Bến không chồng đặt trong hành trình văn nghiệp của Dương

Hướng, để thấy sự tiếp nối, kế thừa những đặc điểm của tác phẩm này ở những

tác phẩm sau đó của nhà văn.

Cùng thời điểm này, năm 2009, trên website của nhà văn Dương

Hướng duownghuongqn.vnwebblogs.com, tác giả Nguyễn Duy Liễm trong bài

viết: “Dương Hướng người ghi mốc son cho văn học thời kì đổi mới” có bàn

luận: “Viết về Bến không chồng Dương Hướng đã nghiễm nhiên rẽ ngoặt. Tác

phẩm của anh là một nhát gạch chéo vào cái lối mòn rỗng tuếch mà nhàm

nhẵn ấy (…). Đọc Bến không chồng, vẫn làm ta lặng đi suy ngẫm về sự “xé

rào” táo tợn của anh [11]. Tạ Duy Liễm đã coi Bến không chồng là một

trong dấu mốc đánh dấu sự thay đổi của nền văn học, từ nền văn học chỉ biết

“thuyết trình và minh họa” sang một nền văn học với những đào sâu và tìm

tòi, những trải nghiệm và đúc rút sâu xa về số phận của cá nhân mỗi con

người. Trên thực tế, Bến không chồng không phải là tác phẩm mở đầu cho

phong trào đổi mới trong văn học, nhưng nó cũng được coi là một trong

những sáng tác ưu tú góp phần thúc đẩy công cuộc cải cách văn học cuối thập

kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước.

Mặc dù thời gian ra đời cho đến nay chưa phải là quá dài đới với “số

phận” của một tác phẩm văn học, nhưng Bến không chồng đã gây được sự chú

3

ý của đông đảo dư luận bạn đọc cũng như giới thẩm bình. Nhìn chung, đa phần

các nhìn nhận, đánh giá về tác phẩm này đều hướng tới tính tích cực mà nó thể

hiện. Công sức và tâm huyết của Dương Hướng cũng được các nhà nghiên cứu,

phê bình ghi nhận.

Không chỉ là điểm chú ý trên lĩnh vực phê bình văn học, ở lĩnh vực điện

ảnh, tiểu thuyết Bến không chồng còn được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển

thể khá nhuần nhuyễn trong bộ phim cùng tên. Bộ phim thực sự lôi cuốn người

xem bởi toàn cảnh bức tranh làng Đông được tái hiện một cách sinh động.

Cùng với việc nổi danh ở lĩnh vực điện ảnh, tác phẩm còn được dịch ra tiếng Ý,

Pháp, cho tới nay đã được xuất bản 11 lần. Điều đó càng khẳng định chỗ đứng

của Bến không chồng trong lòng độc giả trong và ngoài nước.

Những ý kiến, những công trình nghiên cứu của những người đi trước như

những chiếc chìa khóa dẫn dắt, định hướng và gợi mở quan trọng cho chúng

tôi. Từ đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Hiện thực đời sống và thân phận

con người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng”.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Là tiểu thuyết Bến không chồng và trong một chừng mực nhất định có

thể có sự so sánh đối chiếu với những tác phẩm khác để làm rõ đối tượng

nghiên cứu.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Xuất phát từ nội dung cụ thể của đề tài và “tính vừa sức” của một khóa

luận tốt nghiệp Đại học, chúng tôi không tìm hiểu toàn bộ những vấn đề trong

tiểu thuyết Bến không chồng mà chỉ tập trung vào những bình diện cơ bản

sau:

- Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng trong đời sống văn

xuôi Việt Nam đương đại. Nghĩa là xem xét mối quan hệ, những điều kiện chi

4

phối, ảnh hưởng, vị trí, ý nghĩa của tiểu thuyết này trong đời sống văn xuôi

Việt Nam đương đại.

- Bức tranh về hiện thực đời sống và thân phận con người trong tiểu

thuyết Bến không chồng.

Chúng tôi xem xét, phân tích và chỉ ra bức tranh xã hội mà Dương

Hướng miêu tả trong tác phẩm và xem xét những yếu tố đó chi phối như thế

nào đến thân phận con người đặc biệt là những người lính trở về sau chiến

tranh và những người phụ nữ nơi hậu phương.

- Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống và thân

phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu của

văn học đổi mới nhất là từ những năm đầu 90 và những đóng góp của nhà văn

cho tiểu thuyết Việt Nam thời kì này.

- Nhận thức về hiện trạng xã hội nông thôn Việt Nam trước đổi mới

mà làng Đông trong tác phẩm là một điển hình. Qua đó đồng cảm, xót thương

cho những số phận đầy bi kịch, mất mát đau thương của con người sau chiến

tranh.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện khóa luận chúng tôi đã sử dụng những phương pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp khảo sát, thống kê

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

6. Đóng góp của khóa luận

Khóa luận tập trung nghiên cứu về hiện thực đời sống và thân phận con

người trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng. Qua đó, khẳng

5

định được tài năng nghệ thuật và vị trí của Dương Hướng trong nền văn học

đương đại Việt Nam.

7. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của khóa luận được triển khai thành ba chương:

Chương 1: Tiểu thuyết Bến không chồng trong đời sống văn xuôi Việt

Nam đương đại

Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và thân phận con người trong

tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng

Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện hiện thực đời sống

và thân phận con người trong tiểu thuyết Bến không chồng

của Dương Hướng

6

Chƣơng 1

TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG TRONG

ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Quan niệm về tiểu thuyết

Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự

cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở giới hạn không gian, thời

gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh sản phẩm của nhiều cuộc đời, những bức

tranh phong tục, đặc điểm xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái

hiện nhiều tính cách đa dạng” [5, 277].

Cuốn 150 thuật ngữ văn học khẳng định “Tiểu thuyết là tác phẩm tự

sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình

hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được triển khai trong

không gian, thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của

nhân cách (…). Tiểu thuyết trình bày được đời sống cá nhân và đời sống xã

hội như những tố chất có tính độc lập tương đối, không làm cạn kiệt được

nhau, không ngốn nuốt được nhau, đây là đặc điểm quyết định nội dung của

thể loại tiểu thuyết” [1, 327].

Có thể thấy, cả hai quan niệm trên đều nhấn mạnh tới khả năng phản

ánh những biến cố của đời sống riêng tư, đời sống nội tâm của con người

cũng như khái quát lịch sử của nhiều cuộc sống, những bức tranh phong tục

đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp của thể loại

tiểu thuyết. Phan Cự Đệ khái quát: “Tiểu thuyết không phải chỉ miêu tả cuộc

sống riêng tư, không phải chỉ là anh hùng ca của cuộc sống cá nhân, tiểu

thuyết còn là bức tranh bích họa khổng lồ bao quát cả một thời đại”.

Xét về bản chất thể loại của tiểu thuyết, Bakhtin nhấn mạnh “tiểu

thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định

7

hình”. Nghĩa là: Tiểu thuyết không thể có những quy phạm cố định như các

thể loại đã hoàn tất. Với ý nghĩa là một nghệ thuật khám phá thực tại, trong

quá trình vận động, diện mạo của tiểu thuyết không ngừng biến đổi để phù

hợp với sự phát triển đa dạng, nhiều chiều của cuộc sống và thị hiếu tiếp nhận

của người đọc ở mọi thời đại. Luôn luôn mới đó là yếu tố làm nên điều kì

diệu của tiểu thuyết. Thêm vào đó, tiểu thuyết có khả năng tổng hợp nhiều

nhất và đồng hóa các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác vào

mình. Điều này tạo ra viễn cảnh: “mở rộng bến bờ của tiểu thuyết”, thúc đẩy

nhanh quá trình tìm tòi, thử nghiệm để không ngừng cách tân tiểu thuyết, đem

lại cho tiểu thuyết những diện mạo mới, hiện đại hơn.

Từ những quan niệm về tiểu thuyết nêu trên, có thể thấy: Tiểu thuyết là

một thể loại văn học có khả năng miêu tả sâu sắc cuộc sống của con người, có

sức khám phá những nguồn mạch biện chứng của tâm hồn, động chạm tới

những góc khuất sâu tối nhất của mỗi cá nhân cũng như có khả năng bao quát

một mảng hiện thực rộng lớn, tạo nên một bức tranh toàn cảnh của một giai

đoạn, một thời kì lịch sử. Tiểu thuyết là mạch nguồn trong mát của biển cả

văn chương. Tuy vậy nó không cố định mà luôn có những sự sáng tạo, tìm tòi,

cách tân đổi dòng liên tục để làm mới mình sao cho phù hợp với thời đại và

thị hiếu của độc giả.

1.2. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại

Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực chân thực nhất. Mỗi nhà

văn là những tên mật thám của tâm hồn sẵn sàng băng qua các đường biên để

tìm cái mới. Điều đó dẫn tới một chân lí “Thời đại nào thì văn học đó”. Quả

vậy, sau năm 1986 đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Đổi mới đất nước ta, đổi mới có

ý nghĩa sống còn”. Đời sống sau hòa bình với những khó khăn, bề bộn đòi hỏi

các nhà văn phải sáng tác được những tác phẩm giá trị, phản ánh được hơi thở

8

của thời đại. Với tinh thần “cởi trói”, “dân chủ” mà Đảng ta khuyến khích,

các nhà văn không còn bị gò bó theo những quy phạm, những khuôn khổ của

giai đoạn trước mà được thỏa sức sáng tạo, trải nghiệm. Họ luôn trăn trở, chủ

động tìm cho mình một hướng đi mới thích hợp với sự vận động của xã hội –

thời đại và xu hướng vận động của bản thân văn học.

Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ VI, các nhà văn thực sự đã tìm

ra được con đường đi cho sáng tác của mình. Điều đó góp phần làm cho văn

học có sự chuyển mình sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.

Đời sống văn học đổi mới một cách toàn diện: Nhà văn có sự thay đổi sâu sắc

về quan niệm nghệ thuật, hiện thực về con người. Điều này khiến cho tác

phẩm của họ có sự thay đổi về chủ đề, cảm hứng sáng tác và các thủ pháp

nghệ thuật góp phần thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của người đọc. Cùng với sự

thay đổi toàn diện của văn chương thì tiểu thuyết cũng nỗ lực đổi mới để đáp

ứng yêu cầu của thời đại.

Trước yêu cầu đổi mới, nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân

trong cách nhìn, lối viết và đã cho ra đời những “đứa con tinh thần” thành

công, có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Điều

đáng nói là thành phần sáng tác văn học lúc này có sự thay đổi mạnh mẽ, bên

cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến

đã xuất hiện thế hệ những nhà văn hậu chiến, nhà văn thời kì đổi mới và thậm

chí bao gồm cả những cây bút hải ngoại. Tất cả, đã tạo nên những động lực

mới giúp tiểu thuyết Việt Nam vững bước đi lên sánh ngang tầm thế giới.

Đời sống văn học ngày càng dân chủ, cho phép các nghệ sĩ thỏa sức

bộc lộ sự sáng tạo, đổi mới tư duy mà đặc biệt là về mặt tư duy thể loại. Nếu

như tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trước 1975 thường “cựa quậy” trong cái

khung của thể loại truyền thống là kể lại một câu chuyện sao cho giống với

thực chất, các nhà văn thường khám phá nội dung hiện thực thông qua số

9

phận nhân vật, qua mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh thì nay tiểu

thuyết sau 1975 đã xuất hiện những sinh thể đầy sức sống, dám chối từ lối

mòn xưa để vươn tới sự thể hiện mới mẻ. Sau năm 1986, không khí đổi mới

tiểu thuyết thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống văn học, tiểu thuyết

có điều kiện cân bằng lại trạng thái tâm lý con người. Dòng tiểu thuyết hướng

nội tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong con người đã

xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận “văn học chăm chú quan tâm hơn

đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp, đa

dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức tạp và đa

dạng với toàn xã hội và với chính mình” không loại bỏ xu hướng “hướng

ngoại” và quan tâm hơn đến xu hướng “hướng nội”, tiểu thuyết giai đoạn này

đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, đối thoại với đời sống, đối thoại

với cuộc đời để nắm bắt được “cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và

ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn con người để lắng

nghe tất cả những âm vang của tiếng lòng bí ẩn trong con người: có tiếng yêu

thương, có lời giận hờn, có cả những quanh co, những tính toán ngấm

ngầm…

Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề về đời sống xã hội mà văn học

quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối đến như thế ở

trong tiểu thuyết. Các nhà văn đã khai thác đến tầng vỉa của hiện thực đời sống

qua số phận con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người. Vì

vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi nhân gian” và cái

rộng lớn và cái mênh mông, sâu thẳm của cõi lòng nhỏ bé, qua số phận của

những con người. Ngòi bút của các nhà văn đã lột ra mọi sự thật của đời sống

dù cho điều đó làm cho họ cay đắng đến đâu chăng nữa. Đồng thời, thấm vào

từng dòng chữ lại là một tình yêu thương, một niềm tin và sự đòi hỏi rất cao đối

10

với con người, một con mắt thấu suốt làm những cái bình thường hàng ngày

hiện lên trong một ánh sáng mới lạ khiến ta không thể nào quên.

1.3. Tác giả Dƣơng Hƣớng và tiểu thuyết Bến không chồng

1.3.1. Tác giả Dương Hướng

Dương Hướng tên khai sinh là Dương Văn Hướng, sinh ngày 08 tháng

07 năm 1949 tại làng An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái

Bình. Năm ông 16 tuổi cũng là lúc đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh

ra miền Bắc. Đứng trước thảm cảnh nhân dân Thái Thụy quê ông phải chìm

trong vòng nô lệ, áp bức, lầm than của gót giày xâm lược, Dương Hướng đã

xung phong đi công nhân quốc phòng. Hai năm sau đó (1967) người con Thái

Bình ấy được cử đi học tại trường kĩ thuật tàu thủy. Năm 1969, Dương Hướng

ra trường và được điều về công tác tại công ty vận tải đường sông 204 – 208.

Năm 1971, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam chống lại đế quốc

Mỹ đang vào giai đoạn cuối đầy khốc liệt, người con của quê lúa đầy nhiệt

tình cách mạng và lòng dũng cảm lại xung phong đi bộ đội.

Ông vào chiến đấu tại chiến trường khu IV, đơn vị E573 thuộc quân khu

V. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất thì năm 1976,

Dương Hướng được phân công về công tác tại Cục hải quan Quảng Ninh và

ông ở đó công tác đến nay. Con người đã từng lăn lộn những năm tháng chiến

đấu ở chiến trường cùng với tâm hồn chan chứa yêu thương đã tôi luyện

Dương Hướng trở thành một cây bút văn chương tiêu biểu thời hậu chiến.

Dương Hướng bắt đầu bước vào sự nghiệp văn chương khá muộn khi

ông đã ngoài 40 tuổi. Tác phẩm đầu tay của Dương Hướng là tập truyện ngắn

Gót son (1989). Tác phẩm ra đời nhưng chưa gây được sự chú ý của người

đọc. Tuy nhiên, điều này không làm ông “nhụt chí”, không ngăn cản được

niềm đam mê sáng tác văn học ở Dương Hướng. Bằng chứng là liền ngay sau

đó, năm 1990 Dương Hướng cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Bến không chồng.

11

Tác phẩm đã dấy lên ở bạn đọc yêu văn những rung cảm, phá toang ở họ sự

thật về chiến tranh nghiệt ngã. Dư luận xôn xao và cái tên Dương Hướng

nhanh chóng gây được thiện cảm và vị trí trong lòng độc giả Việt Nam. Tiểu

thuyết Bến không chồng đã đánh dấu bước thành công đầu tiên của nhà văn.

Đồng thời, nó cũng ghi danh nhà văn trên đỉnh cao của văn học Việt Nam thời

kì đầu đổi mới. Không bằng lòng với những gì mình có, Dương Hướng tiếp

tục thể hiện tài năng văn chương của mình với việc cho ra đời cuốn tiểu

thuyết Trần gian đời người vào năm sau đó. Tuy nhiên, do cái bóng của Bến

không chồng quá lớn nên tác phẩm này không được nhiều bạn đọc chú ý.

Công việc ở cơ quan trở nên bận rộn hơn, nên mãi đến năm 1995 nhà văn

người Thái Bình ấy mới có điều kiện xuất bản tập truyện ngắn Người đàn bà

trên bãi tắm. Ba năm sau cuốn tiểu thuyết Bóng đêm mặt trời được khai sinh

nhưng cũng giống như những tác phẩm trước, nó cũng bị chìm đi dưới cái

bóng của Bến không chồng… Thời gian sau đó Dương Hướng dường như “im

hơi lặng tiếng” trên văn đàn. Bạn đọc ngỡ như sẽ không còn thấy bóng dáng

những tác phẩm – đứa con tinh thần của ông xuất hiện nữa. Nhưng không, sau

chín năm lặng lẽ “ấp ủ”, “thai nghén” ông cho ra mắt tiểu thuyết Dưới chín

tầng trời. Cuốn tiểu thuyết này làm bạn đọc ngỡ ngàng bởi sự bứt phá tài

năng văn chương ở Dương Hướng. Không giống như hai cuốn tiểu thuyết

trước, Dưới chín tầng trời đã rẽ sang một lối khác và được đông đảo bạn đọc

đón nhận. Cuốn tiểu thuyết Dưới chín tầng trời xuất bản năm 2007, đã chứng

tỏ độ chín của một cây bút tài năng.

Ngoài ra Dương Hướng còn sáng tác ba truyện vừa Đàn chim két bay

ngang trời, Quãng đường còn lại và Người mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên

bạn đọc chỉ thực sự biết đến ông trên lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết mà

thôi.

Có thể nói từ thành công đầu tiên với tác phẩm Bến không chồng nhà

văn Dương Hướng đã sáng tạo văn chương một cách bền bỉ, không mệt mỏi.

12

Tất cả những nỗ lực đó của ông đều đã được đền đáp xứng đáng bằng sự

ngưỡng mộ ở bạn đọc và những vinh quang của các giải thưởng văn học.

Dương Hướng đã được nhận những giải thưởng văn học như:

- Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí đất Quảng với truyện ngắn

Quãng đời còn lại (năm 1987).

- Tặng thưởng tuyện ngắn hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội với tác

phẩm Người mắc bệnh tâm thần (năm 1989).

- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Bến không chồng

(năm 1991).

- Giải thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội với truyện ngắn Đêm trăng.

- Giải A Văn nghệ Hạ Long với tập truyện Người đàn bà trên bãi tắm

(năm 1996).

- Tặng thưởng tuyện ngắn hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội với tác

phẩm Bến khách (năm 2007).

- Giải thưởng Văn học Hạ Long với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời

(năm 2012).

1.3.2. Tác phẩm Bến không chồng

Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Mảnh

đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của

Dương Hướng luôn là những tuyệt tác, những bông hoa nghệ thuật rực rỡ

giữa vườn hoa văn học nghệ thuật sau 1975 đa sắc. Những tiểu thuyết này đã

trở thành hiện tượng văn học nổi bật của văn xuôi Việt Nam thời kì Đổi mới.

Bến không chồng ở thời điểm mở đầu những năm 90 đã đem lại cho

bạn đọc một cái nhìn mới về chiến tranh đất nước trong thời chiến và hậu

chiến. Cuộc chiến tranh trong Bến không chồng kéo dài hơn 40 năm với

những gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh mà còn là những lầm lạc,

những tăm tối của con người trong đêm trước Đổi mới. Với phương châm

13

sáng tác: “Tôi luôn cố đặt vấn đề một cách thẳng thắn, trực diện, không né

tránh hiện thực cho dù hiện thực nghiệt ngã nhất, quan trọng là tấm lòng

người cầm bút gửi vào đâu?” đã giúp tiểu thuyết Bến không chồng của

Dương Hướng trụ vững trong trái tim của độc giả.

Tiểu thuyết Bến không chồng mở đầu bằng hình ảnh Nguyễn Vạn

khoác ba lô về làng sau những năm tháng chiến đấu ở chiến trường Điện

Biên. Làng Đông – quê hương của Nguyễn Vạn là một vùng đất có những câu

chuyện kì lạ, bí ẩn và hoang đường như chuyện: “mắt tiên”, “gò ông Đổng”,

“con ma mặt đỏ chuyên đi hiếp đàn bà góa chồng…”. Ở làng lại có một bến

sông với “vẻ quyến rũ kì lạ” mà các cụ gọi đó là Bến không chồng. Bây giờ,

người ta lại gọi đó là bến Tình. Cũng chính vì sự “quyến rũ kì lạ” của bến

Tình mà biết bao chuyện đau lòng đã xảy ra. Bi thảm nhất là câu chuyện của

hai dòng họ Nguyễn và họ Vũ. Chuyện là cô con gái rượu của cụ tổ dòng họ

Nguyễn bị chàng trai dòng họ Vũ hãm hiếp trên bến Tình. Cụ tổ đã khắc một

lời thề độc đối với họ Vũ. Éo le thay những thế hệ sau như: Nguyễn Vạn,

Nghĩa, Hiệp của dòng họ Nguyễn lại đem lòng yêu thương những người phụ

nữ bên dòng họ Vũ. Đau đớn và bi kịch nhất vẫn là tình yêu giữa Nghĩa và

Hạnh. Họ không giống như chú Vạn và chị Nhân yêu thương nhau nhưng

không đủ can đảm để vượt qua định kiến, dư luận xã hội. Vì vậy cho đến cuối

đời họ vẫn đi bên cạnh nhau như hai cái bóng. Còn Hiệp (trai họ Vũ) đem

lòng yêu thương Dâu nhưng cũng đành lỡ dở vì chiến tranh. Vượt lên trên tất

cả: lời nguyền của cụ tổ, ngăn cản của gia đình, dư luận, Nghĩa và Hạnh đã tổ

chức đám cưới với nhau. Vợ chồng chưa sống với nhau được bao lâu, Nghĩa

lên đường đi bộ đội. Ở nhà, ông Khiên vì thương nhớ con, lo sợ dư luận mà

chết đột tử. Nghĩa nhận được tin bố chết liền trở về. Sáng hôm sau, Hạnh lại

tiễn Nghĩa lên đường. Chiến tranh ngày càng ác liệt, thanh niên trai tráng

trong làng đi bộ đội hết. Làng Đông bây giờ chỉ còn lại những người già tật

14

nguyền, những người mẹ, những người vợ, người con gái đang tuổi xuân sắc

xuân thì… Ngày ngày, người làng Đông vẫn ngóng chờ tin tức của người thân

nơi chiến trường. Hai đứa con trai của chị Nhân đều đã hi sinh. Mười năm sau,

Nghĩa trở về với quân hàm thiếu tá, hai vợ chồng hi vọng có một đứa con trai

để nối dõi tông đường nhưng vô vọng. Trước áp lực của gia đình nhà chồng

cùng dư luận xã hội “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”, Hạnh đã quyết

định li hôn. Nghĩa với mẹ lên tỉnh. Anh lấy Thủy (em gái của một người bạn).

Từ đó, Hạnh như người điên, lúc cười, lúc khóc. Trong ngày gặp gỡ các thương

binh và gia đình liệt sĩ,Vạn đã quá chén và ra về. Bất ngờ Vạn nghe có tiếng

hét và cánh cửa mở toang “bóng người đàn bà lao tới giường và ôm ghì lấy

Vạn”. Bóng tối, hơi men, cùng thân thể người đàn bà, Vạn đã buông thả cho

thân xác tự do gây tội lỗi. Sau đêm đó, Hạnh bỏ đi. Vạn luôn sống trong đau

khổ, dằn vặt. Nghĩa biết được anh không có khả năng làm bố nên đã li dị Thủy

và trở về làng Đông. Sau bao ngày biệt tích, Hạnh trở về dắt theo đứa con của

Vạn. Vạn hối hận, ăn năn bởi đau khổ đã gây ra cho Hạnh nên đã tự vẫn ở bến

Tình. Đám tang Nguyễn Vạn không hề có tiếng khóc. Mọi người lặng lẽ tiễn

đưa linh hồn Nguyễn Vạn ra cánh mả Rốt. Hạnh dắt con gái đi bên Nghĩa. Giữa

tiếng kèn réo rắt bên tai, chị vẫn nghe rõ lời chú Vạn cứ vẳng lên: “Đừng

thương hại tao… Hãy về với thằng Nghĩa”.

Xen vào giữa truyện là biết bao éo le, đau khổ của những người phụ nữ

như: Cúc, Thắm, Dâu, Thủy… Và nỗi buồn chiến tranh luôn ám ảnh Thành.

Tất cả, đã tạo ra bức tranh nông thôn miền Bắc đầu những năm 90 đầy tăm

tối, ê chề bởi chiến tranh cùng với những sự hủ lậu chưa thể nào thay đổi

được trong một xã hội nông nghiệp manh mún, lạc hậu và tâm lí làng, xã lưu

cữu từ ngàn đời.

15

Chƣơng 2

BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN

CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG

CỦA DƢƠNG HƢỚNG

2.1. Hiện thực đời sống

2.1.1. Đời sống nông thôn thời hậu chiến

Trong tác phẩm Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng đã đặt câu

chuyện của mình trong bối cảnh làng Đông – một làng quê được đặc tả với

những đường nét văn hóa điển hình của Bắc Bộ. Không gian bao trùm trong

tác phẩm là không gian của làng Đông với ngôi đình làng Đông, cây quéo,

cầu đá bạc, sông Đình. Cảnh quê hồn hậu ấy đã chắp cánh thành những câu

hát ru con trẻ: “À ơi… chẳng to cũng gọi đình Đông - có cầu Đá Bạc bắc qua

sông Đình - chàng ơi có nhớ đến mình - nhớ cầu Đá Bạc, nhớ đình làng

Đông” [8, 10]. Hay câu ca: “Sông làng Đông vừa trong vừa mát – Đồng làng

Đông ngan ngát hương thơm” [8, 10]. Người đọc ngỡ như Dương Hướng đặt

nhân vật của mình trong bối cảnh thôn dã, nên thơ ấy thì cuộc sống con người

cũng phẳng lặng, êm ả như thế. Nhưng không, làng quê ấy lại đang bị bao

phủ, kìm thúc trong những năm tháng miền Bắc hối hả vừa lo xây dựng xã hội

chủ nghĩa vừa lo chi viện cho miền Nam. Ngòi bút sâu sắc của nhà văn đã bóc

tách thành công hiện thực miền Bắc sau kháng chiến chống Pháp đầy khốc

liệt nhưng vẻ vang của dân tộc. Sau chiến tranh, đất nước như mang một hình

bóng mới, khoác lên một tấm áo mới. Người nông dân được làm chủ cuộc đời

mình. Cách mạng đã đổi đời cho họ, cho họ quyền công dân. Chính quyền

mới thông qua công cuộc cải cách ruộng đất đã cho phép người nông dân

được đấu tố lại địa chủ để đòi lại ruộng đất và quyền bình đẳng. Cuộc đấu tố

16

gay gắt ấy đã trừng trị triệt để địa chủ - giai cấp thống trị người nông dân thấp

cổ bé họng từ ngàn đời xưa. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tố tràn lan ấy chúng ta

mắc phải không ít những sai lầm đáng tiếc như: quy kết nhầm những người

giàu có là địa chủ. Làng Đông cũng hòa trong không khí ấy, người dân lao

động hăm hở đấu tố, tịch thu tài sản của địa chủ Hào. “Mọi thứ bị tịch thu

được đem chồng chất từng đống ngổn ngang ra sân không thiếu thứ gì, từ

cày, cuốc, xẻng, gạo, thóc, nồi niêu, bát đĩa, mâm đồng” [8, 35 - 36]. Những

người dân làng Đông sung sướng khi nhận tài sản: “Bà Nhị được chia một cối

xay lúa, chú Đang được chia cả vại khoai khô, chị Vòng được chia những bốn

vại muối dưa. Có hai vại còn đầy ắp dưa cải nén vàng rộm” [8, 35]. Cuộc đấu

tố ấy diễn ra trong không khí khẩn trương hăng hái của dân làng: “Tùng –

tùng – tùng tiếng trống dậy lên khắp các nẻo đường làng. Từ cụ già lọm khọm

chống gậy, đến các chị con thơ tay bồng, tay bế dắt díu nhau cơm đùm, cơm

nắm đổ dồn về sân đình làng Đông. Thanh thiếu niên giương cờ, biểu ngữ

khẩu hiệu đi trong dòng người luôn miệng hô vang:

- Đả đảo địa chủ Hào gian ác đầu sỏ

- Đả đảo – đả đảo – đả đảo” [8, 49].

Đối lập với không khí sung sướng, mãn nguyện ấy của dân làng là sự

im lặng, cúi đầu của địa chủ Hào: “Địa chủ Hào đứng dưới hố, tóc trắng phơ,

mặt già khọm cúi gằm xuống đất” [8, 50]. Ở tác phẩm Dưới chín tầng trời,

Dương Hướng cũng xây dựng một cảnh đấu tố tương tự, người dân hăm hở

đấu tố địa chủ Hoàng Kì Bắc: “Ngoài đường già trẻ, gái trai rùng rùng

chiêng trống, giương khẩu hiệu, biểu ngữ, hô vang… khí thế cách mạng dâng

tràn. Của cải nhà ông bà bố mẹ Nam bị thu sạch sành sanh. Hoàng Kì Bắc bị

quy những năm tội lớn. Tội thứ nhất: đi xe ngựa học đòi tư sản, tội thứ hai:

nhiều ruộng đất nhất làng Đoài, tội thứ ba: bóc lột tầng lớp bần cố nông, tội

thứ tư: nghi vấn cấu kết với bọn Việt gian phản động phá hoại cách mạng, tội

17

thứ năm là nhà to nhất làng Đoài”… [9, 86]. Trên trường bắn, Hoàng Kì Bắc

bị dân quân bịt mắt trói giật hai cách tay đứng trước rừng người sục sôi căm

thù. Những lời lẽ trong bản tố trạng Hoàng Kì Bắc, ta thấy chỉ có tội thứ ba:

“bóc lột tầng lớp bần cố nông” là đáng trách còn lại những tội trạng khác của

y đều không đáng tội và chưa rõ ràng. Tuy vậy đặt trong bối cảnh lịch sử ấy y

thật đáng tội chết.

Cuộc đấu tố địa chủ và xử bắn những người bị nghi là Việt gian (chú

Xèng, Xình) đã làm cho vùng quê vốn yên bình bỗng sôi động hẳn lên. Có

những mảnh đời đói khát, tả tơi đã được cách mạng cải cách ruộng đất đổi đời

nhưng cũng có những người lại trở thành nạn nhân luôn quằn quại, rên xiết,

đau đớn bởi căn bệnh ấu trĩ, cực đoan, duy ý chí của một bộ phận người. Đó

là mụ Hơn đã phải chịu bao đau khổ, cay đắng, tủi hờn. Trong lời đối thoại

với Vạn, mụ thống thiết: “Con lạy ông ! Con cắn rơm cắn cỏ lạy ông bà nông

dân. Ông đi lâu ngày nên không biết rõ con. Con về làm dâu nhà này nhưng

con không ác với ai, không bóc lột ai. Con còn lén giúp đỡ nhiều người nghèo

khổ ở thôn này” [8, 55]. Đó là thằng cu Tốn con trai mụ Hơn bị hai thằng

choai choai choai con nhà Đan, nhà Hồng lấy quả xoan làm đạn, giương súng

cao su thi nhau bắn thẳng vào đầu thằng Tốn. Sợ hãi cuống cuồng, thằng cu

Tốn khóc thét lên. Mụ Hơn không có tội, thằng cu Tốn chỉ là một đứa trẻ

trong trắng thơ ngây làm gì có tội? Nhưng họ phải âm thầm, chui lủi sống

trong góc bếp nhà địa chủ Hào mà không dám biện minh nửa lời vì sợ: “ông

bà nông dân lại bảo con chống đối lại giai cấp nghèo khổ” [8, 55].

Chú Vạn - người hăng hái nhất trong cuộc đấu tranh chống lại địa chủ,

cường hào ác bá và Việt gian bán nước cũng không tránh khỏi cảm giác bất

nhẫn “Vạn lau súng. Trong đời Vạn đã không biết bao lần lau súng. Nước

thép khẩu súng Vạn giữ vẫn đen bóng, Vạn có cảm giác là lạ, cái khó là mũi

súng của Vạn lần này lại nhằm vào đầu hai thằng con trai ông Xung. Mới

18

hôm nào Vạn còn ngồi cùng mâm ở từ đường họ, cùng véo một đĩa xôi gấc đỏ

au” [8, 53]. Còn địa chủ Hào lại là đích bắn của thằng Thước – con nuôi lão.

Tại sao con người ta lại có thể mông muội đến thế? Họ hăm hở đấu tố, kết tội

địa chủ và sẵn sàng giết cả người thân của mình để thể hiện sự trung thành và

trong sạch. Chính những lầm lẫn, ấu trĩ ấy đã che mắt họ, họ không nhận ra kẻ

thù nguy hiểm, gián tiếp đẩy họ vào đau thương, mất mát, chà đạp, bóc lột họ

không phải là địa chủ, Việt gian mà chính là thực dân Pháp. Dương Hướng

không ngần ngại nhìn thẳng vào sự thật, phơi bày hiện thực đời sống của nông

thôn Việt Nam nói chung và làng Đông nói riêng thời hậu chiến đầy đau

thương và tăm tối.

Bến không chồng không chỉ xây dựng hiện thực đời sống của nông

thôn thời hậu chiến mà còn tập trung khắc họa nên những mảnh đời đau khổ,

bất hạnh sau lũy tre làng. Chiến tranh đã lùi vào quá vãng, những tưởng con

người sẽ được sống yên bình trên mảnh đất, quê hương của họ. Nhưng dường

như hiện thực đời sống đầy “sóng ngầm và gió xoáy” không buông tha cho

những mảnh đời bé nhỏ ấy. Nguyễn Vạn bị thương nặng trong kháng chiến.

Bước ra khỏi cuộc chiến đấu trường kì và gian khổ, Nguyễn Vạn hiện lên đầy

kiêu hùng và lẫm liệt: “Đố ai còn dám coi thường Nguyễn Vạn: Hãy nhìn

những tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực Vạn” [8, 5]. Con người

ấy xông xáo, nhiệt tình với tất cả những công việc của làng, xã lại không thể

có được một phút giây sống thảnh thơi, hạnh phúc cho riêng mình. Chị Nhân

– người phụ nữ sẵn sàng để chồng, con xông pha nơi trận mạc để rồi chị lặng

lẽ, cạn khô nước mắt đau khổ cùng cực khi cả chồng và hai đứa con song sinh

là Hà và Hiệp đều hi sinh. Đó là ông bà Khiên nhân đức, hiền từ thì cuối cùng

ông Khiên cũng chết vì thương nhớ con, vì danh dự. Bà Khiên mang theo ước

nguyện có đứa cháu nội vào miền đất lạnh. Ông Xung, bị điên vì đau khổ, tiếc

thương hai đứa con trai. Hạnh đau khổ, bế tắc vì không làm tròn bổn phận làm

19

dâu, không gây dựng được hạnh phúc cho gia tộc, cho tổ tiên nhà chồng.

Nghĩa luôn day dứt giữa dòng tộc và tình yêu. Có thể thấy, những nhân vật

trong Bến không chồng đều không có hạnh phúc, họ cô đơn, lạc lõng, đáng

thương, tội nghiệp. Những số phận đau thương ấy đã phản ánh đầy đủ bức

tranh về đời sống nông thôn thời hậu chiến đầy thê lương, nghiệt ngã.

2.1.2. Đời sống nông thôn với nhiều hủ tục nặng nề

Trong tiểu thuyết Bến không chồng nhà văn Dương Hướng tái hiện lại

đầy đủ bộ mặt của nông thôn miền Bắc thời hậu chiến với đủ những gam màu

sáng, tối. Đặc biệt, nhà văn người Thái Bình ấy còn khắc họa thành công

những hủ tục, tập tục lạc hậu của con người trong đêm trước Đổi mới.

2.1.2.1. Một nông thôn mang nặng tư tưởng trọng nam, khinh nữ

Ở làng Đông, quan niệm trọng nam, khinh nữ được thể hiện ngay trong

việc phân chia khu vực tắm trên bến Tình đã rõ ràng từ bao đời: “Đoạn cuối

nước dành cho trẻ và trâu, đoạn giữa là dành cho đàn bà con gái, đoạn trên

đầu nước ưu tiên cho cánh đàn ông. Đàn ông phải tắm ở đầu nước thì không

sợ đàn bà bẩn mình” [8, 13]. Đàn bà, con gái luôn bị lép vế họ không có tiếng

nói, không có quyền bình đẳng với “cánh đàn ông”. Ta làm sao quên được

trong cuộc nói chuyện giữa các cụ trong dòng họ Nguyễn khi ông Khiên vừa

qua đời. Những người tham gia góp ý kiến đều là nam giới, là các cụ ông.

Dâu thẳng thắn, dũng cảm đứng lên phát biểu quan điểm của mình. Hành

động ấy khiến cho Hạnh kinh hãi, van xin “Dâu! Tao van mày đừng có động

vào các cụ” [8, 116], chú Xeng thì dọa dẫm “Mày hãy bỏ thói ngông cuồng

đi” [8, 117]. Họ trọng nam nên trong họ mạc người đảm nhiệm cương vị

trưởng tộc luôn là nam giới. Quan niệm này đã chi phối, ảnh hưởng tới cuộc

sống, số phận của biết bao con người trong ngôi làng bé nhỏ ấy. Vì nó mà

Nghĩa luôn day dứt giữa tình yêu và dòng tộc, Hạnh phải chịu bao cay đắng

và oan ức còn Thủy thì đau khổ khi không có con trai để nối dõi tông đường

cho dòng họ Nguyễn.

20

2.1.2.2.Một nông thôn với mối thâm thù gia tộc

Mối thù gia tộc, dòng họ được thể hiện cụ thể qua lời nguyền của cụ tổ

họ Nguyễn với dòng họ Vũ. Bắt đầu từ câu chuyện đau lòng trên bến Tình,

“Đúng vào cái ngày họ Nguyễn ăn mừng lễ khánh thành ngôi từ đường to nhất

làng Đông, cô con gái rượu duy nhất của cụ tổ họ Nguyễn tối hôm ấy bỗng

nhiên lại hỡn mỡ mò ra bến Tình tắm. Cô gái đâu có biết trên đầu bến cũng có

chàng trai họ Vũ đang tắm, sự gợi cảm của dòng nước bến Tình và cái thân thể

tuyệt vời của cô gái đã làm chàng trai nổi loạn. Anh ta lặn một hơi dài chưa

từng có đến ôm ghì lấy tấm thân mềm mại, mát lạnh của cô gái. Cô gái ngất

xỉu trong vòng tay chàng trai. Thân thể đầy dục vọng của chàng trai, cô gái lại

ngỡ là ba ba, thuồng luồng hay con ma mặt đỏ ở gốc ruối mò tới hiếp mình.

Sáng hôm sau người ta thấy xác của cô gái trần truồng nổi dềnh ở chân cầu

Đá Bạc” [8, 14]. Cái chết của cô gái rượu chắc chắn đã khiến cụ tổ họ

Nguyễn đau lòng và dòng họ Nguyễn căm phẫn chàng trai họ Vũ. Để trả thù

cho con gái của dòng tộc thì “Ngày hôm ấy ở làng Đông đã diễn ra một cuộc

đổ máu chưa từng có giữa hai dòng họ Nguyễn và họ Vũ” [8, 14]. Không chỉ

dừng lại ở đó, cụ tổ họ Nguyễn đã truyền cho con cháu họ Nguyễn lời nguyền

độc đối với họ Vũ “Nước sông Đình ngàn năm không cạn – cầu Đá Bạc vạn

kiếp trơ trơ – bến Tình còn đẹp còn mơ – mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi”

[8, 14]. Từ bao đời nay, lời nguyền độc ấy đã thấm vào não cân và huyết quản

của con cháu họ Nguyễn. Chính thì thế mà “Bao nhiêu năm nay thanh niên

làng Đông cứ phải đi mò sang làng khác lấy vợ. Gái làng Đông ta từ xưa đến

nay nết na mà cứ phải khăn gói đi làm dâu thiên hạ” [8, 85]. Họ không thể

lấy nhau cũng bởi vì có mối thù truyền kiếp của dòng tộc.

Nguyễn Vạn, người lính Điện Biên, người lính cụ Hồ kiên trung ấy

không bao giờ khuất phục trước làn tên, mũi đạn của kẻ thù nơi sa trường

nhưng lại gục ngã, bị khuất phục bởi lời nguyền độc của dòng họ. Chính lời

21

nguyền đó đã cướp đi ở Vạn tình yêu thiêng liêng nhất – tình yêu với chị

Nhân. Họ tộc quy tội Vạn khi Vạn yêu thương chị Nhân: “Họ bảo họ Nguyễn

đến ngày mạt vận. Đã thấy nhục chưa? Mạt vận từ ngày thằng Vạn tí tớn với

mẹ con Hạnh nên từ đường họ mới bốc cháy đùng đùng, thằng Xeng, thằng

Xình mới bị chết oan, ông nhà ta mới bị điên khùng thế” [8, 131]. Nhưng họ

không biết rằng “dòng họ Nguyễn mạt vận” chính là do những mâu thuẫn nội

tại bên trong kìm thúc. Từ khi cụ Nghiên, ông Khiên mất đi, cả họ như rắn

mất đầu. Họ tranh nhau ngôi từ đường, tranh nhau chức trưởng nam, mạt sát,

đay nghiến nhau bằng những lời lẽ thô tục. Cuối cùng, mọi người đều vỡ lẽ,

ngôi từ đường cháy không phải là do tình cảm của chú Vạn mà là do ông

Xung: “Còn tao, tao có tội, tuy chẳng ai biết tao có tội nhưng tao biết rõ là

tao có tội. Mày biết tội gì không? Tội đốt từ đường! Chính tao đã đốt từ

đường họ - Ông Xung bỗng tu lên khóc” [8, 204]. Chính ông Xung là người

đốt từ đường nhưng chú Xeng lại một mực gán ghép cho Nguyễn Vạn đã xúc

phạm đến lời nguyền của cụ tổ. Lời nguyền cay độc từ ngàn đời luôn ám ảnh,

khắc ghi trong tâm can mỗi người trong dòng họ Nguyễn. Nó đã xé nát tình

yêu lúc xế chiều mà chú Vạn và chị Nhân dành cho nhau. Lúc nào Vạn cũng

nơm nớp một nỗi lo: “Vạn lo mỗi điều lỡ có ai trong họ lại hỏi về quan hệ

của mình với gia đình chị Nhân. Chuyện này thì Vạn cũng không hiểu chính

lòng mình. Vạn thương lũ trẻ, thương con Hạnh hay thương chính mẹ của

chúng?” [8, 30 - 31]. Cuối cùng, trong thẳm sâu người lính Điện Biên ấy đã

lựa chọn dòng tộc mình và không dám bước vào cánh cửa của hạnh phúc với

chị Nhân.

Lời nguyền của cụ tổ không chừa bất cứ ai là con cháu trong dòng họ

Nguyễn. Ông bà Khiên (bố mẹ Nghĩa) bàng hoàng, kinh hãi bởi tình yêu “tày

trời” mà đôi trẻ Nghĩa và Hạnh dành cho nhau. “Bà Khiên mở mắt thao láo

nhìn con trai rồi nhìn Hạnh. Ông Khiên đang kéo dở hơi thuốc lào bỗng ho

22

sặc sụa” [8, 75]. Họ phản đối kịch liệt tình yêu tội lỗi ấy. Với ông Khiên,

Nghĩa lấy Hạnh về làm vợ chẳng khác nào “rước voi về dày mả tổ” [8, 76].

Nhưng vượt lên trên tất cả, đôi trẻ vẫn đến với nhau và quyết định làm đám

cưới “như thể trêu tức hai họ” [8, 77]. Đám cưới ấy diễn ra ở “nhà kho hợp

tác xã” [8, 77]. Vì họ dám chống lại, bước qua lời nguyền của cụ tổ nên cả họ

không ai tới dự, những bậc cha mẹ, cô, dì, chú bác cũng chẳng ai dám đến.

Kết thúc đám cưới, cả hai vợ chồng không dám về nhà. Họ dẫn nhau ra bến

Tình bởi: “cũng chẳng còn nơi nào ngoài cái bến nước. Cả thế giới, không

cặp vợ chồng nào lại có đêm tân hôn như Hạnh và Nghĩa” [8, 78]. Kết cục

của cuộc “vượt rào”, bước qua lời nguyền là những tháng ngày Nghĩa và

Hạnh phải vụng trộm, lén lút gặp nhau như “một đôi tình nhân” ở bến Tình.

Tình yêu của họ dành cho nhau sâu đậm biết bao nhiêu nhưng cũng chỉ có

những người ngoài tộc, những ông sao, và màn đêm se lạnh làm chứng mà

thôi. Điều này, khiến bạn đọc cảm thông cho nỗi bất hạnh, đau khổ của hai vợ

chồng. Qua đây, Dương Hướng đã dự báo kết cục của tình yêu ấy rồi cũng sẽ

phải trải qua bao sóng gió, gian truân.

Bản chất người nông dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn hiền lành,

thuần phát nhưng khi họ đã mang một mối hận nào đó thì nghĩa là họ sẽ nô lệ

cho nó suốt đời, hơn thế nữa họ còn truyền lại cho con cháu, giam cầm con

cháu trong xiềng xích vô hình đó. Ở đây cũng vậy, lời nguyền của cụ tổ họ

Nguyễn từ ngàn xưa luôn ám ảnh con cháu, hướng con cháu theo lời nguyền

độc đó. Họ luận tội chú Vạn có tình cảm với bà Nhân, nguyền rủa, đay nghiến

tình yêu của Hạnh và Nghĩa bằng những lời cay độc: “Đấy rồi bà con xem, cụ

tổ sẽ trừng trị nó. Nó rước kẻ thù về làm vợ. Nó làm điều ác, gia đình nó sẽ

tuyệt tự. Con Hạnh sẽ chẳng bao giờ có con” [8, 237 - 238]. Con người luôn

tự làm khổ nhau, làm tổn thương nhau chỉ bởi những mâu thuẫn của thế hệ

trước. Ta làm sao quên được những lời lấy khẩu cung của lão Kình trong Trần

23

gian đời người của Dương Hướng. Lão ta ngày ngày tra tấn đứa cháu sau bữa

cơm chiều, cốt để người cháu khắc ghi vào tâm não mối thù sinh tử: “

- Bức ! – lão Kình cất giọng rõ oai.

- Dạ !

- Ai là người đẻ ra bố mày ?

- Bẩm ông ạ, ông là người đẻ ra bố con

- Ai là người đẻ ra mày ?

- Dạ bẩm ông bố mẹ con ạ

- Bố mày là người thế nào ?

- Bẩm ông bố con là người vô cùng tốt bụng ạ

- Thế bố mày đâu rồi ?

- Bẩm bố con chết rồi ạ

- Tại sao bố mày lại chết

- Bẩm ông bố con bị treo cổ chết ạ

- Đứa nào treo cổ bố mày ?

- Bẩm ông tay Lưỡng, tay Học, tay Bấc

- Tay Lưỡng là tay nào ?

- Bẩm ông là bố con Nga

- Con Nga là ai ?

- Bẩm ông là vợ con

- Ai trị tội nó

- Bẩm ông, con ạ” [7, 154]

Những câu hỏi lặp đi lặp lại ấy như những nhát dao khắc vào trí não

của Bức. Nó cướp đi sự bình yên, hạnh phúc trong gia đình lão Kình. Nó làm

Bức đau đớn đến tột cùng.

2.1.2.3. Một nông thôn với những định kiến nặng nề

Dư luận và định kiến xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc và quyết định đến

tính cách, số phận của các nhân vật trong Bến không chồng.

24

Đầu tiên, đó là nhân vật Nguyễn Vạn, một người luôn trung thành với

Tổ quốc, một người lính cụ Hồ, luôn sẵn sàng xả thân để bảo vệ Tổ quốc.

Những tưởng, bước ra khỏi cuộc kháng chiến trở về với cuộc đời, Vạn sẽ

được hưởng hạnh phúc. Nhưng không! Vạn đau khổ, tự tay bóp chết tình yêu

của mình với chị Nhân: “Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn tay con Hạnh –

chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu. Nếu mà chú không vững vàng giữ mình thì

bây giờ cũng đã mất mát hết cả” [8, 69]. Vì sao Vạn lại có suy nghĩ như vậy?

Bởi Vạn biết búa rìu dư luận sẽ không buông tha cho tình yêu của họ. Làm

sao một người lính Điện Biên – người vẻ vang nhất làng Đông, người lính hào

hùng của một thời lửa cháy lại có thể lấy người vợ của đồng đội mình – vợ

liệt sĩ? Cả hai con người luống tuổi này nếu đến với nhau thì dư luận làng

Đông sẽ như thế nào? Đấy là còn chưa kể cả hai người đứng ở hai bờ vực

khác nhau của hai dòng họ Nguyễn – Vũ truyền đời thù oán.

Tình yêu của hai người không đủ sức mạnh để đương đầu với bão tố

nơi miệng đời. Chính vì thế, cho dù cả hai người có những giây phút không

làm chủ được bản thân, lí trí bị con tim đánh bại thì họ lại vội vàng tỉnh giấc,

không dám liều lĩnh bước qua dư luận: “Toàn thân chị run rẩy ôm xiết lấy

chú Vạn (…) Chị thấy hai bàn tay chú Vạn lướt nhẹ lên khắp cơ thể chị. Đã

tưởng cái cơ thể chị nguội lạnh lâu nay, giờ bỗng cháy bùng lên rạo rực. Chị

thở hổn hển giãy giụa khỏi vòng tay chú Vạn. Bất chợt cả hai người đều vùng

dậy hoảng hốt nhảy ra khỏi giường” [8, 151].

Mụ Hơn là vợ của Công – con trai của địa chủ Hào đã bao lần chọc

ghẹo, ve vãn Nguyễn Vạn. Khi thì mụ nói gần nói xa: “Nhà Lang mấy năm

nay cứ sòn sòn năm một. Chiều đến cứ nhìn ông ấy bắt tụi trẻ trần truồng

đứng xếp hàng ở cầu ao lấy gầu té nước tắm cho tụi trẻ mà thèm” [8, 189].

Lúc thì mụ lu loa: “Ôi bác Vạn ơi, bác trông kìa! con gà nhà bác nó “hủy

hoại” con gà nhà em” [8, 188]. Nhưng dù thế nào thì mụ Hơn cũng là người

thuộc giai cấp tư sản còn Nguyễn Vạn là chiến sĩ vững vàng trong hàng ngũ

25

của tầng lớp vô sản cần lao. Làm sao Vạn lại có thể dung hòa cùng bọn tư sản

mà cả đời Vạn thù oán? Mặc dù cố gắng cưỡng lại, kìm chế những ham muốn

của mình nhưng có lúc Vạn không thể kìm nén được bản năng: “Rõ dơ! thích

hử - Mụ Hơn nói nhỏ và chộp lấy tay Vạn đặt nhanh lên ngực mụ… Mụ Hơn

thở hổn hển. Nguyễn Vạn cũng thấy bủn rủn cả chân tay. Cũng tại cái xu

chiêng mềm mềm trên ngực mụ nó như có ma lực hút kiện lí trí Vạn. Bàn tay

Vạn run rẩy đang gây tội lỗi mà Vạn không biết. Khi hai cánh tay của mụ

Hơn choàng lên cổ Vạn và cái mùi xà phòng tư bản cùng với mùi hôi nách

của mụ xộc lên mũi, Vạn mới bừng tỉnh” [8, 264 - 265]. Nhưng rồi những

phút giây yếu lòng đó cũng chỉ là thoáng qua. Dư luận, định kiến xã hội cũng

như bản thân Vạn sẽ không cho phép Vạn buông thả, chung chạ với người vợ

của một tên địa chủ.

Vạn lơ lửng giữa chị Nhân và mụ Hơn nhưng cuối cùng lí tưởng, phẩm

chất trung kiên của người lính cụ Hồ thời chiến lại kéo Vạn về với bến bờ của

cô đơn, chiếc bóng. Vạn khép lòng mình lại, tự đóng cũi sắt tình cảm của

mình để đến cuối đời Vạn lại ngẩn ngơ tiếc nuối: “Đến bây giờ Vạn mới thấy

tiếc mình không lấy vợ sớm” [8, 87].

Dư luận và định kiến xã hội luôn là điều mà người làng Đông sợ nhất.

Dư luận xã hội tốt có thể khiến cho con người mở mày mở mặt, phát triển đi

lên, dư luận theo chiều hướng xấu có thể kìm tỏa, giết chết một con người.

Ông Khiên – vị trưởng tộc dòng họ Nguyễn luôn phải sống trong dằn vặt

suốt thời gian con trai ông đi lính. Thâm tâm ông luôn day dứt, vò xé bởi

suy nghĩ: “Thầy thấy nhục nhã về việc con phải lẻn đi, làm mọi người đã coi

thầy là kẻ hèn nhát, ích kỉ, lạc hậu” [8, 112]. Sự day dứt ấy đã lôi tuột ông

xuống hố sâu của tuyệt vọng. Cuối cùng ông Khiên chết vì lòng tự trọng vì

lo sợ dư luận xã hội.

Dư luận, định kiến xã hội cũng như một lưỡi dao oan nghiệt phạt ngang

hạnh phúc của Nghĩa và Hạnh. Đôi trẻ dũng cảm bước qua lời nguyền, mối

26

thù truyền kiếp của dòng họ để đến với nhau. Hành động táo bạo này lập tức

bị dư luận, định kiến xã hội đuổi theo, truy bức. Nghĩa bị thương trong chiến

tranh khiến anh mất đi khả năng làm bố. Vì lạc hậu, kém hiểu biết, dân làng

và gia tộc Nghĩa buông lời rèm pha Hạnh. Họ rỉ tai nhau: “Bà thiếu tá phu

nhân họ Nguyễn bị điếc”. Những lời lẽ cay độc ấy đã quật ngã người phụ nữ

đáng thương như Hạnh khiến cô phải li hôn với Nghĩa và sống trong đau khổ,

tủi nhục.

Thông qua tiểu thuyết Bến không chồng, Dương Hướng đã vẽ ra trước

mắt chúng ta thảm cảnh của đời sống nông thôn miền Bắc thời hậu chiến biết

bao tăm tối, lầm lạc. Những quan niệm sai lầm, chủ quan duy ý chí, những hủ

tục lạc hậu đã dồn đẩy, cướp đi hạnh phúc, sự bình yên trong mỗi con người.

Bản chất của người nông dân từ bao đời nay luôn hiền lành, cần mẫn, sống

tình nghĩa. Nhưng khi bị đặt trong những cơn dâu bể của thời đại thì họ dễ trở

nên mù quáng, tàn nhẫn, tự tay cướp đi cuộc sống của chính mình và hủy hoại

cuộc đời của những người xung quanh.

2.2. Thân phận con ngƣời

2.2.1. Thân phận người lính thời hậu chiến

2.2.1.1. Người lính mất mát, hi sinh

Lịch sử đất nước Việt Nam là lịch sử của những năm tháng đầy đau

thương nhưng quật cường anh dũng của bao thế hệ đứng lên chống lại giặc

ngoại xâm. Đất nước có biến, mọi người, mọi nhà sục sôi lòng căm thù giặc.

Nhân dân ta không kể già, trẻ, trai, gái, đàn ông, đàn bà, thứ bậc xã hội họ

hăng hái xung phong đi vào cuộc chiến sinh tử đầy hiểm nguy với kẻ thù để

giữ gìn màu cờ sắc áo cho quê hương, đất nước. Chiến tranh kết thúc, họ lại

trở về quê cha, đất tổ nhưng những tổn thương, dấu tích, nỗi buồn chiến tranh

luôn ám ảnh, cầm tù những người lính khiến họ đau khổ, bế tắc.

Vạn ra khỏi cuộc chiến đấu với dọc ngang những vết thương “dấu tích

oanh liệt trên chiến trường là vết thương trên bờ vai và một ống chân bị gãy,

27

làm bước đi của Vạn cứ tập tễnh” [8, 6]. Ra đi là một trai làng Đông khỏe

mạnh, gan góc, giờ trở về Vạn đã đứng tuổi. Để có được thành quả là “những

tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực” [8, 5] thì cả tuổi thanh xuân,

thời trai trẻ Vạn lặng lẽ gửi lại nơi chiến trường đầy lửa cháy.

Bên cạnh nhân vật Vạn, Dương Hướng còn khắc họa thêm nỗi đau của

nhân vật Nghĩa. Nghĩa là thế hệ trẻ cùng thời với Hà, Hiệp – hai người anh

sinh đôi của Hạnh. Họ đều đã chiến đấu anh dũng và vĩnh viễn nằm lại nơi

chiến trường. Nghĩa may mắn hơn họ. Anh lại được trở về quê hương, thần

chết đã bỏ qua anh. Có thể xem đó là cơ may của tạo hóa đối với Nghĩa.

Nhưng xét đến cùng Nghĩa cũng là một người lính thời hậu chiến chịu nhiều

mất mát hi sinh. Vì sao vậy? Nghĩa đường đường là một vị trưởng nam dòng

họ Nguyễn vừa mới cưới vợ chưa được bao lâu, khi chiến tranh xảy ra, Nghĩa

quyết định dứt khoát sẽ đi bộ đội. “Hạnh ơi ! Anh muốn nói với em một

chuyện hệ trọng – bất chợt Nghĩa kéo Hạnh vào lòng. Hạnh, em có đồng ý để

anh đi… Anh sẽ đi bộ đội” [8, 91]. Đây là một quyết định khó khăn, để làm

được điều đó chắc chắn Nghĩa đã phải giằng co, đấu tranh tư tưởng rất nhiều.

Biết bố không muốn Nghĩa đi vào nơi bom đạn nên anh đã giấu bố lẻn đi. Vào

nơi chiến địa bằng tất cả sự anh dũng, quật cường Nghĩa đã lên được hàm

thiếu tá mang lại danh tiếng cho bản thân, dòng tộc. Nhưng để có được cái

danh “ngài thiếu tá” có xe “cam nhông”, Nghĩa đã phải đánh đổi không ít.

Vết thương ở vùng sườn đã lành sẹo mãi mãi là minh chứng kết tội chiến

tranh. Không chỉ dừng lại ở đó, sự khốc liệt của chiến tranh đã cướp đi ở

Nghĩa khả năng làm bố. Nghĩa thất vọng đau đớn vì cảm giác tội lỗi, vì đã vô

tình gây đau khổ cho cả hai người phụ nữ mà anh yêu thương, gắn bó: “Mắt

Nghĩa dại đi, anh nằm thượt ra giường (…) Nghĩa rùng mình như có mũi kim

đâm nhói vào tim. Anh cảm nhận thấy mình có tội với Hạnh, có tội với Thủy”

[8, 300].

28

Thành cũng là một người lính mang trong mình bao mất mát, đau

thương. Qua lời kể của Cúc, Thành là người có “giọng nói ấm đến là dễ

thương” [8, 161]. Thế nhưng chàng trai ấy giờ đây hình hài không còn nguyên

vẹn nữa. Chiến tranh nhận của làng Đông một chàng trai lành lặn, dễ thương

đầy nhiệt tình với cách mạng và trả về cho đời một con người với gương mặt

sần sùi, loang lổ những vết bỏng. Người đời cảm thông, thấu hiểu cho anh,

nhưng Cúc – người yêu của anh lại vô cùng sợ hãi khi nhìn vào gương mặt của

anh: “Khi nhìn lên mặt anh, em thấy anh ấy hoàn toàn xa lạ, xa lạ tới mức

đáng sợ. Gương mặt anh ấy ám ảnh em cả trong những giấc mơ” [8, 160]. Cúc

kinh hãi, xa lánh và trả lại tiền trầu cau cho Thành. Người con gái ấy cũng có

nỗi khổ riêng, cô không thể có tình cảm, không thể yêu và sống với một người

có gương mặt dị thường đó được. Chiến tranh không giết chết Thành nhưng

nó lại bóp chết tình yêu của anh, khoét sâu vào tâm hồn anh những nỗi đau

không bao giờ nguôi, không bao giờ liền sẹo.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng những hậu quả, di chứng của nó vẫn tồn

tại. Nó gặm nhấm làm đau đớn bao người khiến cho họ sống mà chẳng thể

nào được bình yên.

2.2.1.2. Người lính cô đơn, bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc

Vạn trở về sau bão tố của chiến tranh, cả cuộc đời Vạn đã sống, chiến

đấu vì quê hương, đất nước. Có lẽ, con người ấy khi quay trở về với cuộc sống

thời bình sẽ được người đời trọng dụng, biết ơn. Nhưng không, người thân của

anh dửng dưng, họ bao bọc lấy Vạn chỉ vì sợ dư luận xã hội mà thôi “Tôi cũng

thế - Nguyễn Khiên nói – chã lẽ để anh ra ở đình Đông, e làng xóm chê cười cả

dòng họ nhà mình. Dù sao anh ấy cũng là người vẻ vang nhất làng Đông (…)

Anh kém tính bỏ mẹ ! Ai chẳng biết thằng Vạn có công, công lao của nó đối với

dân với nước thì để dân với nước lo nhà cho nó” [8, 26 - 27]. Nguyễn Vạn tình

nguyện hi sinh cả tuổi xuân, cống hiến cuộc đời cho Tổ quốc, vậy mà giờ đây

29

Vạn lại bị chính những người thân trong dòng tộc đẩy ra ngoài lề của sự sống,

của lòng bao dung. Vạn cô đơn, lẻ loi ở giữa dòng tộc, giữa quê cha đất tổ.

Không chỉ họ mạc dửng dưng mà người dân làng Đông dần dần cũng không

còn nhớ đến Vạn. Với họ, dường như Vạn chưa từng tồn tại ở nơi này “Vạn

cảm thấy nơi đây hoàn toàn hoang dã không một ai trên đời này còn biết đến

Nguyễn Vạn. Người làng Đông hầu như đã quên Nguyễn Vạn” [8, 287]. Nỗi cô

đơn của Vạn gợi ta nhớ đến nỗi khắc khoải, bàng hoàng của nhân vật Kiên

trong Nỗi buồn chiến tranh khi hòa bình lập lại: “Hòa bình ập tới phũ phàng,

choáng váng đất trời và siêu đảo lòng người, gây bàng hoàng, gây đau đớn

nhiều hơn là mừng vui…và anh đột nhiên thấy tràn ngập trong cảm giác cô

đơn trơ trọi, trơ trọi hơn bao giờ hết, trơ trọi từ đây”. Sự vô tâm của con

người thời bình như những làn roi quất thẳng vào nỗi đau, sự mất mát, hi sinh

của người lính khiến cho những khoảng trống cô đơn trong tâm hồn ngày

càng lớn, nó nhấn chìm họ trong cô đơn, lạc lõng.

Không chỉ chịu đựng nỗi cô đơn giữa dòng tộc và làng quê mà Vạn

còn phải gồng mình đón lấy những bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc. Cả

cuộc đời trai trẻ Vạn đã dùng để tranh đấu cho lẽ phải, cho tự do, độc lập

của xứ sở. Với Nguyễn Vạn tình cảm cá nhân, riêng tư là một thứ gì đó rất

xa xỉ. Cả đời Vạn đã có một mối tình nào đâu mà biết nỗi buồn và niềm vui

lạc thú của tình yêu? Vạn hi sinh hạnh phúc riêng tư để phục vụ quê hương,

đất nước là một việc làm rất đáng ca ngợi, tôn vinh. Tuy nhiên, điều bất

thường ở đây là khói lửa chiến tranh đã lùi xa, nhưng tại sao Nguyễn Vạn vẫn

không chịu trải lòng ra để đón nhận những tình cảm thiêng liêng mà thượng

đế ban tặng cho con người? Phải chăng, khói lửa chiến tranh đã thui chột đi ở

Vạn ngọn lửa tình trong tâm hồn? Không, khát vọng tình yêu vẫn bền bỉ, âm ỉ

cháy trong tim Vạn. Vạn yêu nhưng phải cố kìm nén tất cả, Vạn ép mình sống

trong lặng lẽ, cô đơn, lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu

30

những nỗi niềm khao khát riêng tư, không dám mở lòng để sống với tình yêu.

Vì sao người lính Điện Biên ấy phải chối bỏ tất cả những điều tốt đẹp ấy để

nhận lấy những bi kịch, đau thương trong tình yêu và hạnh phúc?

Trước hết là với chị Nhân – vợ của đồng đội, Vạn đã nảy sinh những

tình cảm riêng tư đầy thánh thiện. Anh đã thừa nhận tình cảm của mình với

chị Nhân: “Hạnh ơi cháu không hiểu đâu – Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn

tay Hạnh – chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu” [8, 69]. Tình yêu ấy vĩnh viễn

bị chôn chặt dưới đáy mồ lạnh lẽo. Vạn sợ hãi dư luận, lúc đó “sẽ mất mát hết

cả”. Cuối cùng, Vạn vẫn là “người vẻ vang nhất làng Đông” và chị Nhân vẫn

muôn đời là một bà mẹ liệt sĩ kiên trung. Nhưng tình yêu của cả hai người đã

bị dồn đẩy đến bến bờ của bi kịch.

Với mụ Hơn cũng vậy, Vạn cũng đã từng “bủn rủn cả chân tay” vì mụ.

Giá như trong tâm tưởng của Vạn và người dân làng Đông thủa ấy không có

sự phân biệt giai cấp thì biết đâu Vạn đã có thể đến với mụ Hơn để sống vui

vẻ, hạnh phúc nốt những năm tháng cuối đời?

Đỉnh điểm bi kịch của Vạn có lẽ là lần chung đụng với Hạnh, “Nguyễn

Vạn bàng hoàng cả người không rõ mình mơ hay tỉnh. Men rượu vẫn nung

nóng trái tim và tâm trí Vạn quay cuồng. Da thịt đàn bà nần nẫn trong vòng

tay và hơi thở đầy dục vọng phả vào mặt Vạn. Sự ham muốn của Vạn lần này

còn mãnh liệt hơn lần va chạm vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân

xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà.

Lần đầu tiên trong đời Vạn thấy sung sướng và quên hẳn mình” [8, 291].

Phần bản năng đã chiến thắng phần thánh nhân của Vạn. Con người ta không

thể mãi ép xác. Phút giây bản năng trỗi dậy ấy chính là thời khắc Vạn được

làm một con người đúng nghĩa. Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi trong đêm đầy

giông bão ấy không làm cho cuộc đời Vạn tươi sáng hơn. Trái lại, Vạn suy

sụp tinh thần và mặc cảm bởi tội lỗi mà mình gây ra: “Vạn tự xỉ vả mình và

31

thấy ngực nhói đau muốn cầm thanh củi chọc thẳng vào bụng. Nhục! Nhục

nhã quá! Tồi tệ hơn cả lão Xung và mụ Hơn. Thế mà bao nhiêu năm nay,

trong suốt cả cuộc đời, Vạn cứ đinh ninh, tin tưởng vào phẩm giá của mình.

Thế là hết! Vạn tưởng tượng rõ thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đọa, hủy hoại cả

cuộc đời tiết hạnh của Hạnh” [8, 292 - 293]. Vạn từng động viên Nghĩa khi

anh lên đường nhập ngũ: “Đi nhé! Hãy noi gương trai làng Đông, chiến đấu

giỏi. Mày cứ nhìn chú mày đây mà sống” [8, 98]. Vậy mà giờ đây Vạn lại hủy

hoại cuộc đời của chính đứa cháu mà mình yêu quý. Con người ấy như rơi

vào hố sâu của đau đớn, bi kịch. Vạn sống nhưng sự sống với Vạn bây giờ

còn đáng sợ hơn cái chết, Vạn bị cầm tù bởi chính tội lỗi mà mình gây ra. Có

lẽ bi kịch, đau khổ đối với con người bất hạnh đó chỉ đến thế. Nhưng không,

dường như định mệnh trớ trêu không buông tha cho Vạn. Hạnh sau một thời

gian xa quê trở về dắt theo đứa con của Vạn. Cái ngày Hạnh dắt con về làng

Đông cũng là điềm báo cho sự kết thúc của một cuộc đời anh hùng nhưng đầy

bi kịch, xót đau của Vạn: “Hạnh sững người chân tay bủn rủn khi nhìn thấy

cái xác chết được Nghĩa kéo từ đáy sông lên chính là chú Vạn” [8, 308].

Giá như trong Vạn những kỉ cương, kỉ luật thép trong quân ngũ tạm

nhường chỗ cho tình yêu, hạnh phúc cá nhân trong thời bình thì đâu đến nỗi

Vạn phải gánh chịu bi kịch thảm khốc như vậy? Đau đớn thay cho con người

ấy lúc tình người, tình cảm cá nhân riêng tư trỗi dậy thì cũng là lúc cái chết cận

kề. Vạn không thể yêu, không được yêu, định kiến xã hội, tòa án lương tâm sẽ

ngấm ngầm dõi theo đẩy Vạn đến bi kịch.

Không chỉ Vạn mà Nghĩa trong tác phẩm Bến không chồng cũng là

người lính chịu nhiều bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc. Sau bao năm chiến

đấu nơi chiến địa hiểm nguy trở về thăm gia đình, gặp lại mẹ, gặp lại người

vợ vò võ ngóng trông, nhưng Nghĩa lại không thể sinh hoạt vợ chồng. Có nỗi

đau buồn, uất nghẹn nào hơn nữa: “Hạnh ơi – Nghĩa nói. Anh không muốn em

32

buồn. Anh không thể … Bác sĩ dặn anh còn phải kiêng chừng hơn một năm

nữa, vết thương của anh chưa lành hẳn” [8, 208]. Nỗi buồn chiến tranh ấy đã

lan truyền từ Nghĩa và giờ đây nó xuyên vào tim Hạnh làm cả hai như chết

lặng. Nỗi đau không dừng lại ở đó, chiến tranh đã để lại di chứng trên cơ thể

anh mà anh nào có biết? Sau nhiều lần sinh hoạt vợ chồng, thậm chí Hạnh còn

“lên đơn vị của Nghĩa hàng tháng trời” mà người vợ ấy vẫn không thể mang

thai. Nỗi khao khát có con ngày càng cháy bỏng, sức ép của gia đình, dòng tộc

lại càng khiến Nghĩa khổ tâm, day dứt. Họ cho rằng Hạnh không thể có con

“Bà – thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc” [8, 280] và khuyên anh nên bỏ

Hạnh. Nghĩa khó xử, đau khổ biết bao khi tình yêu, hạnh phúc của mình bị dồn

vào bi kịch. Anh không muốn mất đi Hạnh, người vợ của mình, anh níu kéo

Hạnh bằng mọi giá: “Hạnh ơi, hãy nghĩ lại đi, bây giờ anh được chuyển về tỉnh

đội rồi. Gần nhau mọi chuyện sẽ êm đẹp” [8, 283]. Nhưng còn êm đẹp làm sao

được nữa khi người vợ đáng thương của anh đã phải chịu bao nhiêu đau khổ,

cay đắng từ những người xung quanh? Cuối cùng, Nghĩa buộc phải li hôn với

Hạnh. Nghĩa lên tỉnh ở với Thủy. Có lẽ, đây là giải thoát tốt nhất cho bi kịch

của người lính chống Mỹ ấy. Thủy sẽ sinh cho Nghĩa những đứa con bụ bẫm,

trắng trẻo. Bao nhiêu hi vọng mẹ con Nghĩa dồn cả vào nơi Thủy. Thế nhưng,

đợi mãi Thủy cũng chẳng thấy có tin vui. Là một bác sĩ, Thủy biết rõ tình

trạng của Nghĩa. Vì yêu anh, Thủy không nỡ để Nghĩa phải đau khổ, mẹ

Nghĩa phải héo mòn vì ngóng mong đứa cháu nội. Cô đã thử đủ mọi cách,

đưa anh đến bệnh viện khám, rồi có cả suy nghĩ sẽ quan hệ với một người đàn

ông lạ. Cuối cùng, Thủy cũng đành bất lực. Cô đành thú thực với Nghĩa:

“chuyện em dẫn anh đi khám bệnh viện hồi nọ…chúng mình sẽ xin một đứa

con nuôi” [8, 300]. Chiến tranh thật phũ phàng. Nghĩa nhận ra mình đã vô

tình gây ra đau khổ cho cả hai người phụ nữ đã yêu anh tha thiết. Nghĩa đau,

nỗi đau của kẻ chẳng bao giờ được làm cha. Con người khốn khổ ấy đã bị cơn

lũ của chiến tranh cướp đi những gì quý giá nhất.

33

Không dừng lại ở việc miêu tả những nỗi đau của Vạn, của Nghĩa mà

Dương Hướng còn miêu tả bi kịch trong tình yêu và hạnh phúc của Thành.

Anh rời chiến trường với những chứng tích của chiến tranh in hằn ngay trên

khuôn mặt. Vì điều đó mà anh bị Cúc từ hôn. Nỗi đau, bất hạnh của Thành

khiến ta liên tưởng tới nỗi xót xa, ngậm ngùi của ông Sáu trong Chiếc lược

ngà của Nguyễn Quang Sáng. Ông trở về sau chiến tranh với “vết thẹo” dài

trên mặt khiến bé Thu – con gái ông sợ hãi, không nhận cha. Hay nhân vật

Tuấn trong Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy. Tuấn trở về sau

những năm tháng kháng chiến chống Mỹ oanh liệt với nhiều vết bỏng bởi

bom Napan trên ngực. Trớ trêu thay vết thương ấy chính là vật cản vô hình

chen vào giữa tình yêu của Tuấn và Hảo. Vết thương nhỏ trên da thịt ấy lại

khoét sâu vào tâm hồn anh, khiến hạnh phúc của anh thấm đẫm xót xa, đau

đớn. Vì vết thương quái ác đó, Tuấn luôn mang trong mình mặc cảm khi nhớ

lại ánh mắt hoảng sợ của người yêu. Thành cũng vậy vết thương trên mặt ấy

đã kéo gục Thành xuống đầm lầy của đau khổ. Nó buộc anh phải sống trong

âm thầm, lặng lẽ. Cúc hủy hôn, anh cũng âm thầm chấp nhận. Vết thương trên

mặt đã gây cho Thành bao mặc cảm, tủi hổ. Những vết thương của Tuấn,

Thành rồi sẽ lành theo thời gian, năm tháng nhưng nỗi đau tinh thần, vết

thương lòng của họ sẽ muôn đời còn rỉ máu.

Trong thế giới của Bến không chồng không chỉ có Nguyễn Vạn, Nghĩa,

Thành là những người lính chịu những mất mát, hi sinh, cô đơn, bi kịch trong

tình yêu và hạnh phúc mà còn có những thế hệ vĩnh viễn gửi lại một phần

xương thịt của mình trên chiến trường để cho Tổ quốc được nảy mầm bình

yên. Chiến tranh đã đi qua, nhưng những nỗi đau mà nó để lại trong thời bình

vẫn còn mãi. Những nhân vật người lính trong Bến không chồng của Dương

Hướng là những nhân chứng sống kết tội chiến tranh. Từ Nguyễn Vạn, Nghĩa

cho đến Thành… mỗi người mang một bi kịch, một nỗi đau riêng. Ngòi bút

34

sắc sảo của Dương Hướng đã phác họa rất thành công những bi kịch đó.

Thông qua những nhân vật ấy, Dương Hướng đã gióng một hồi chuông cảnh

tỉnh mọi con người hãy biết quan tâm, chia sẻ với nỗi đau của những người

lính thời hậu chiến. Bởi họ sẵn sàng đánh đổi tất cả sự sống, tuổi xuân để đem

lại hòa bình độc lập cho đất nước, quê hương Việt Nam. Những hi sinh, mất

mát của họ không gì sánh nổi, vì thế cần lắm một sự tri ân để sưởi ấm những

tâm hồn cô độc, lẻ loi giữa chiến trường “không tiếng súng” ngày hôm nay.

2.2.2. Thân phận người phụ nữ

2.2.2.1. Những nạn nhân của chiến tranh

Ngay từ những trang đầu của tác phẩm, người đọc không khỏi xúc

động, xót xa trước nỗi bất hạnh của chị Nhân, khi nghe chú Vạn – người lính

Điện Biên vừa trở về sau chiến tranh báo tin chồng chị đã anh dũng hi sinh.

Cái tin sét đánh đó, khiến chị Nhân chết lặng. Chị “vật vã khóc” câu nói của

chị Nhân khi vừa nhìn thấy đứa con gái bé bỏng trên tay chú Vạn: “Con ơi,

bố chết rồi” [8, 20] cứ ám ảnh trong lòng bạn đọc. Xa chồng bao năm, chị

một mình nuôi dạy ba đứa con khôn lớn. Nay cái tin chồng chị đã hi sinh nơi

chiến trận như quật ngã người đàn bà bất hạnh ấy, khiến cho: “Chị Nhân thấy

mình như đang ở một thế giới khác, cảnh vật quanh chị đều nhuốm màu chết

chóc” [8, 20]. Nhưng rồi dù đau đớn đến đâu, chị vẫn phải sống, phải nuôi ba

đứa con còn nhỏ dại của mình. Chị sống bằng một niềm tin sắt đá cứ vững

vàng mà sống. Hòa bình chị tin tưởng, hi vọng vào một tương lai mới.

Hòa bình vừa lập lại không được bao lâu thì chiến tranh lại ập đến. Nó

xộc đến từng nhà, từng đường làng, ngõ xóm, nó lôi tất cả những người lính

vào cuộc đụng độ sinh tử, nó cướp đi hạnh phúc chính đáng, cuộc sống yên

bình của hàng triệu người phụ nữ trong đó có chị Nhân. Nếu cuộc kháng chiến

chống Pháp cướp đi người chồng của chị thì cuộc kháng chiến chống Mỹ dữ

dội này lại lấy đi hai đứa con chị dứt ruột đẻ ra. Chị òa khóc trong nghẹn ngào

35

xót xa: “Nghĩa ơi, thằng Hà thằng Hiệp chết hết rồi” [8, 202]. Hòa bình mỗi

người mang một tâm trạng riêng nhưng ai cũng thấy cả làng Đông chỉ có mỗi

chị Nhân là đau xót nhất. Lần thứ hai đón nhận tin Hà mất “Hạnh ngỡ ngàng vì

thấy mẹ đón nhận cái tin khủng khiếp đáng sợ này một cách điềm tĩnh đến mức

lạnh lùng. Mặt mẹ chỉ hơi tái đi khi nghe chú Vạn giải thích. Mắt chị Nhân ráo

hoảnh không có lấy giọt nước mắt nghẹn ngào” [8, 146]. Mất mát quá lớn

khiến chị không thể khóc, nước mắt không trào ra ngoài mà lặn sâu trong tim

thật xót xa, u uất biết bao. Hạnh có ngờ đâu mẹ đã “âm thầm khóc cạn nước

mắt suốt đêm qua” [8, 146]. Bằng linh cảm của người đàn bà đã từng đón nhận

cái tin chồng hi sinh trong kháng chiến chống Pháp, chị nhận ra con chị chắc

chắn đã hi sinh: “Là người mẹ đẻ ra nó, tôi đã linh cảm thấy điều này từ lâu, từ

mấy đám truy điệu trước ở làng này” [8, 146].

Gạt nước mắt, chị hi vọng đứa con thứ ba nơi chiến trường sẽ sống sót

để trở về. Nhưng cái bóng của sự nghiệt ngã trong chiến tranh không buông

tha chị. Hiệp đã hi sinh, quái ác hơn là tin Hiệp hi sinh lại đúng vào lúc cả

nước, cả làng Đông hạnh phúc đón hòa bình trở lại: “chị Nhân thấy mình

hẫng đi như người rơi tõm xuống chiếc hố sâu thẳm. Đêm chị nằm mơ thấy

cả ba bố con nó dẫn nhau về oán trách. Chị nhìn vào mắt chồng, mắt hai

đứa con cứ cháy rực lên” [8, 227]. Rồi trong cơn mê sảng đó, chị thấy từng

người thân kết tội mình.

“Chồng chị nói: Mình là kẻ giết người, là mụ đàn bà ác độc? Tôi đã đi

rồi sao mình không để các con được sống?”

Thằng Hà nói: “Bố và con đã đi rồi, sao mẹ không để cho em con được

sống”.

Thằng Hiệp nói: “Sao mẹ lại vui mừng khi con đi vào chỗ chết?” [8, 228]

Hỡi ơi, nào có ai kết tội chị đâu? Những lời lẽ trách cứ của chồng, con

chị kia chỉ là những lời luận tội từ lương tâm chị. Nó vò xé, làm người phụ nữ

36

khốn khổ ấy tiều tụy, xót xa. Chị khiếp sợ hét lên: “Không! Tôi không phải là

kẻ ác. Tôi không muốn thế, không phải tại tôi. Tất cả là do thằng Pháp, thằng

Mỹ. Tôi không phải là kẻ giết người. Tôi lạy mình hãy tha cho tôi. Mẹ lạy các

con hãy tha thứ cho mẹ” [8, 228]. Lời chị thống thiết, đáng thương biết bao.

Giặc Pháp, Mỹ đã vĩnh viễn cướp đi sự bình yên trong tâm hồn người vợ,

người mẹ liệt sĩ ấy.

Nỗi đau ấy, chị nén chặt trong lòng. Người ra đi chẳng trở về nữa. Chị

dồn tình yêu, hi vọng cuối cùng vào Hạnh – đứa con gái út. Nhưng cuộc hôn

nhân của Hạnh và Nghĩa cũng lại đổ vỡ, đi vào ngõ cụt. Hạnh buộc phải li

hôn với Nghĩa sau bao nhiên đau khổ, oan khuất. Người nhà Nghĩa kết tội

Hạnh “sẽ chẳng bao giờ có con” [8, 243]. Bất hạnh đó đâu phải ở nơi Hạnh?

Mà do Nghĩa bị chiến tranh cướp đi quyền làm bố. Thấy con gái khăn gói trở

về nhà, chị Nhân “cuống cuồng ngỡ trời sập” [8, 273]. Giá như không có

chiến tranh thì tình vợ chồng của Nghĩa và Hạnh đâu phải bị sứt mẻ như thế?

Và chị Nhân cũng không phải rơi vào tột cùng bất hạnh như vậy? Chồng và

hai con trai đều đã nằm lại nơi chiến địa mù sương, còn hạnh phúc của đứa

con gái cũng chỉ như gió thoảng, mây bay. Cả cuộc đời chị là những chuỗi dài

của bi kịch. Tất cả những bi kịch đó đều do chiến tranh gây ra. Người phụ nữ

ấy đã đi qua hai cuộc chiến tranh và đi qua cả những bất hạnh ở thời bình. Chị

sẽ chẳng còn hi vọng vào ngày mai được nữa. Người phụ nữ đáng thương và

tội nghiệp ấy phải sống “gần như câm lặng” cho đến hết những tháng ngày

còn lại.

Cộng hưởng vào nỗi đau, bất hạnh của phụ nữ trong chiến tranh đó là

hình ảnh của bà Khiên. Cũng tiễn chồng ra trận trong cuộc kháng chiến chống

Pháp, nhưng bà may mắn hơn chị Nhân và nhiều người phụ nữ khác bởi

chồng bà còn sống sót trở về. Nhưng trong mấy người bị giặc Pháp bắt rồi

được trở về thì riêng ông Khiên – chồng bà bị tra tấn, đánh đập nhiều nhất.

37

Chiến tranh đã cướp mất sức khỏe của ông: “Về nhà ông có làm được việc gì

nặng đâu, nhúng chân xuống bùn là về ho sù sụ” [8, 135]. Một tay bà phải lo

toan, gánh vác việc đồng, việc nhà, việc của dòng tộc. Tiếp bước cha, con trai

bà cũng hăng hái lên đường nhập ngũ. Thương con bao nhiêu thì khi chia tay

lòng người mẹ ấy càng đau khổ bấy nhiêu. Làm gì có người phụ nữ nào lại

muốn con mình dấn thân vào chỗ chết, vào nơi mưa bom bão đạn? Nhưng con

trai bà ra đi để cứu trăm nhà khỏi cảnh tan tác, lầm than. Bà đau đớn đến gần

như ngất xỉu khi Nghĩa thì thầm vào tai bà: “Con đi”. Người mẹ đáng thương

ấy không thể cầm nổi lòng mình trước cảnh chia tay ấy: “Bà lạnh cả người

nhìn theo bóng thằng Nghĩa chạy vụt ra ngõ. Bà vội đứng dậy chạy vào bếp

đứng lặng cho nước mắt chảy xuống đôi gò má khô gầy của bà. Bà cố kìm lòng

để không bật khóc thành tiếng” [8, 97]. Bà Khiên đã trao đứa con duy nhất của

mình vào tay Tổ quốc. Con trai đi, ông Khiên biết chuyện và luôn tự trách

mình, trách bà, trách Nghĩa đã giấu ông. Vì danh dự, uy tín luôn giằng xé, đấu

tranh trong lòng con người đau khổ ấy khiến ông chết đột tử. Cái chết của ông

làm cho bà đau khổ quằn quại: “bà bỗng kêu lên mấy tiếng thất thanh rồi ngất

xỉu” (…) “bà Khiên không gượng dậy nổi phải vào giường nằm” [8, 117].

Tháng ngày xa con bà như chiếc bóng, tâm trạng luôn phấp phỏng

ngóng tin con nơi chiến trường. Bà mang tâm trạng đó vào cả trong những

giấc mơ: “Đêm hôm qua tao nghe rõ tiếng bố thằng Nghĩa về báo mộng

thằng Nghĩa bị cụt mất một tay… Đúng ngày 17 là nó về. Thôi, nó cụt tay là

may…” [8, 157]. Bà tuy sống ở làng Đông nhưng tâm trí lại luôn song hành

trên mỗi bước đường hành quân đầy vất vả, nhọc nhằn của Nghĩa. Mong

muốn con trai được bình yên trở về, bà đi lễ chùa cùng với mấy bà trong làng.

Con người ta vẫn vậy, khi bị đẩy vào hoàn cảnh lo âu, sợ hãi thì người ta hay

tìm đến với tâm linh để tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Ngày lại ngày

không có tin Nghĩa bà héo hắt hẳn đi, bà ốm liệt giường và chỉ khi được tin

38

con thì bà liền khỏe ra trông thấy. Nghĩa về và niềm vui, hạnh phúc lại gõ cửa

nơi tâm hồn già nua vì thương nhớ con. Bao năm nay bà mới lại biết đến nụ

cười. Chiến tranh đã lấy đi của bà những niềm vui, hạnh phúc. Nó cầm tù,

biến bà trở thành nạn nhân trong suốt những tháng ngày đằng đẵng xa con.

Thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, Nghĩa lại ra đi theo tiếng gọi của

Tổ quốc. Hạnh phúc thật ngắn ngủi so với những tháng ngày đau buồn mà bà

phải xa con. Song với bà Khiên, hạnh phúc chỉ là một chấm nhỏ giữa muôn

trùng đau khổ. Chiến tranh đã cướp đi quyền làm bà của người phụ nữ ấy. Trở

về sau chiến tranh, nhưng không nguyên vẹn, Nghĩa không thể có con khiến

cho niềm đau thiêu đốt, cháy rụi hi vọng và sự bình yên trong gia đình vốn

đơn độc, nhỏ bé của bà. Để lại cho người phụ nữ bất hạnh ấy là những niềm

đau vô bờ bến. Đó là sự tan vỡ trong hạnh phúc của những đứa con, bởi mặc

cảm không làm tròn bổn phận làm dâu trong dòng tộc, bởi khao khát tiếng trẻ

thơ của đứa cháu nội cứ đau đáu, da diết trong bà. Đáng thương thay, tội

nghiệp thay cuộc đời bất hạnh của biết bao người mẹ, người vợ, người phụ nữ

Việt Nam khi buộc phải trở thành những nạn nhân của chiến tranh, bị chiến

tranh vùi dập tất cả những gì là tốt đẹp nhất.

Xen vào giữa truyện, Dương Hướng có kể cho chúng ta câu chuyện của

một bà lão bảy mươi tuổi bên bến phà Triều ở Hưng Yên. Đó là một người

phụ nữ phải chịu bao nhiêu mất mát, đau khổ. Chồng bà chết, con trai lớn

cũng nằm lại nơi chiến trường lạnh lẽo. Ghi tiếp những trang sử hào hùng của

cha ông, đứa con trai út của bà cũng xông pha trận mạc. Bà mẹ già ngày ngày

ngóng tin con nhưng ngày qua ngày vẫn bặt vô âm tín. Lòng người mẹ ấy run

sợ, bà sẽ ra sao nếu như lại một lần nữa nhận tin dữ nơi chiến trường như chị

Nhân? Có lẽ, bà không đủ nghị lực để vượt qua. Dù vẫn biết, đã có chiến tranh

là phải có hi sinh nhưng với người mẹ già đã 70 tuổi cứ ngày càng “lập cập”

hơn bởi bước đi của thời gian và chờ đợi con trai mình trở về gợi cho chúng ta

39

biết bao thương cảm, xót xa. Không thể chịu đựng đau khổ thêm nữa, người mẹ

già ấy hi vọng, mơ ước: “Ước gì thằng út nhà này nó cũng bị thương như anh

để được về” [8, 175]. Dù có bị tật nguyền hay ra sao chăng nữa thì bà lão bảy

mươi tuổi ấy cũng chỉ mong muốn con trai mình được sống sót mà trở về. Câu

nói của mẹ đã lật trắng sự thật về sự khốc liệt của chiến tranh.

Đọc Bến không chồng ta không thể quên nhân vật Cúc – người con gái

phải chịu “cơn chấn động về tinh thần” quá lớn. Cúc yêu Thành, thương

Thành. Nhưng người lính chống Mỹ ấy khi chiến đấu trở về, gương mặt anh

không còn lành lặn nữa. Những vết sẹo chằng chịt trên mặt của anh đã đẩy

cuộc đời Cúc vào tột cùng đau khổ, bi kịch, Cúc cũng chỉ là một nạn nhân của

chiến tranh. Khi ngày ngày đối diện với Thành, cô nhận ra cô không thể yêu

Thành được nữa: “Nghe giọng nói thì đúng là anh ấy nhưng khi nhìn lên mặt

anh, em lại thấy anh ấy hoàn toàn xa lạ, xa lạ tới mức đáng sợ” [8, 160]. Cúc

thấy “bàng hoàng”, thấy “mọi sự đều tan biến đổ vỡ hết”. Mới có ba ngày

Cúc nhận trầu cau đã trả lại: “Cúc nhào vào ôm choàng lấy Hạnh khóc nức

nở” [8, 160], rồi nấc lên trong nghẹn ngào, day dứt “em đúng là kẻ ác độc,

em có tội với anh ấy, có tội với mọi người” [8, 161]. Yêu Thành, thương

Thành nhưng Cúc không thể làm vợ Thành vì không thể chấp nhận khuôn mặt

dị dạng, đáng sợ của Thành. Gương mặt của Thành còn ám ảnh Cúc trong

những lúc mơ. Cúc đau đớn nhận ra sự thật nghiệt ngã, phũ phàng: “Em

không thể yêu anh ấy, em không thể yêu anh ấy. Ôi giá mà đôi mắt của e mù

lòa đi không nhìn thấy mà chỉ nghe anh ấy nói” [8, 161]. Chiến tranh với

những di họa của nó đã để lại ở cả Thành và Cúc những “vết dập xóa trên

thân thể và trong tâm hồn”. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những nỗi đau mà nó

để lại vẫn tồn tại mãi mãi trong thời bình. Nó đeo bám hiện hữu dai dẳng

trong cuộc đời họ không cho họ được hưởng những gì bình dị nhất: Quyền

yêu, được yêu và gắn bó với nhau trong hạnh phúc vợ chồng. Thành suốt đời

40

phải mang bộ mặt dị dạng không vợ con còn Cúc cũng đành gạt nước mắt làm

vợ lẽ ông Ba Chương.

Đất nước có chiến tranh, những người chồng, người con lên đường

chiến đấu và có không ít người đã hi sinh, để lại trong lòng người phụ nữ

những vết thương lòng, những nỗi đau âm ỉ không bao giờ tắt. Có biết bao

phụ nữ phải xa chồng những tháng ngày đằng đẵng và những người góa bụa

chịu đựng nỗi đau về sự mất mát, hi sinh của người mình thương yêu nhất. Đó

là nhân vật Hạnh, người phụ nữ chịu bao nhiêu thiệt thòi bởi chiến tranh.

Hạnh lấy chồng chưa được bao lâu thì hai vợ chồng phải tạm xa nhau. Nghĩa

đi bộ đội, Hạnh cô độc, lẻ loi, lo âu, phấp phỏng, mòn mỏi chờ chồng: “Đã

tám năm nay Hạnh nhận ra mình sống bằng những kỉ niệm với Nghĩa nhiều

hơn là chờ đợi ở tương lai. Những hi vọng ngày một mong manh, dù mong

manh vẫn hơn là tắt hẳn. Hạnh lội xuống bến rửa chân, lòng ngẩn ngơ nhìn

mặt trăng loang loáng dưới nước. Hạnh thấy mình lạc vào thế giới mông lung

sâu thẳm của những câu chuyện huyền thoại xa xưa…” [8, 185]. Hạnh thật sự

đã trở thành “bến đợi”, thành hòn Vọng phu ngay khi đang sống. Nỗi trông

đợi mòn mỏi của Hạnh được nhà văn miêu tả với một cái nhìn đầy cảm

thương, trân trọng: “Mãi đến khi Nghĩa đi, Hạnh mới kì công tự làm lấy chiếc

gối đôi thêu bông hoa hồng và đôi chim, con bay con đậu. Hạnh tự nhận mình

là con chim đậu chờ đợi con chim bay đi trở về. Chiếc gối đôi hạnh phúc mà

chưa một lần hai vợ chồng được gối chung. Chiếc gối đôi hạnh phúc đã thấm

bao mồ hôi và nước mắt của Hạnh, Hạnh đã giặt không biết bao nhiêu lần

sờn cũ đi mà anh vẫn chưa về. Chiếc gối khâu bằng vải pơ pô lin trắng dài tới

tám mươi phân, mỗi lần đem ra sông Đình giặt, Hạnh phải giấu giếm không

muốn để ai nhìn thấy sợ người ta quở, khi phơi Hạnh cũng phải mang ra tận

ngoài vườn chuối để phơi cho đỡ chướng” [8, 159].

41

Bao năm trôi qua, bù lại nỗi đau quá lớn trước sự ra đi của cả hai người

anh trai ruột thịt, Nghĩa trở về với Hạnh sau bao nhiêu tháng ngày chờ đợi

mỏn mòi ngóng trông. Hạnh vẫn cứ ngỡ đó là mơ, niềm vui, niềm hạnh phúc

tột đỉnh trước sự thật quá bất ngờ. Đêm hôm trước Nghĩa về Hạnh gần như

thức trắng, “Hạnh đứng bên cửa sổ lấy gương soi… Hạnh thấy mình già đi

bao nhiêu. Mười năm rồi còn gì” [8, 200]. Chiến tranh, thời gian và biết bao

lo toan bộn bề mà Hạnh gồng mình lên để gánh vác… Tất cả đã cướp mất tuổi

xuân, sự tươi trẻ ở Hạnh. Sự thật đó làm ta xót xa. Sau bao xa cách được ở

bên chồng, Hạnh thấy lòng mình rạo rực biết bao. Rồi đây “mọi biến động đã

qua, sự bình yên đã trở lại. Sau bao nhiêu năm chờ đợi, khát khao Hạnh

muốn được mãi thế này” [8, 207]. Tưởng như sóng yên, bể lặng, Hạnh sẽ

được sống những ngày hạnh phúc bên chồng. Nhưng không, cay đắng hơn, bẽ

bàng hơn, một lần nữa bóng đen phủ xuống cuộc đời Hạnh khi cướp mất khả

năng đàn ông của chồng Hạnh. Nghĩa trở về sau chiến tranh nhưng không

nguyên vẹn, anh mang trong mình di họa của chiến tranh. Nỗi đau đó của

Nghĩa cứ thấm thía dần vào Hạnh đẩy Hạnh vào bi kịch đầy chua xót.

Trong chiến tranh không chỉ có Hạnh phải chịu nỗi đau không làm tròn

bổn phận làm dâu, không gây dựng được hạnh phúc cho gia tộc mà Thủy

cũng lâm vào hoàn cảnh đáng thương không kém. Thủy - người vợ tục huyền

của Nghĩa không khỏi ái ngại mỗi khi nhìn lên gương mặt buồn rầu, khắc khổ

của mẹ Nghĩa. Với Nghĩa, Thủy luôn tìm mọi cách để tránh cho anh không

rơi vào thảm kịch. Hình ảnh Nghĩa ngồi thừ người ngắm bức tranh đứa trẻ

trong căn phòng hạnh phúc của hai người khiến Thủy không thể cầm lòng

được. Sự háo hức của Nghĩa và tâm trạng thấp thỏm chờ đợi của mẹ chồng

càng làm cho Thủy khổ tâm hơn. Lòng Thủy trào lên một nỗi xót thương vô

tận. Thủy thương chồng, yêu chồng nhưng cay đắng thay bản thân cô cũng bị

cơn bão tố của chiến tranh vây hãm. Cô cũng khao khát được làm mẹ. Nhưng

42

sự thật đầy oan nghiệt đã bóp nát mơ ước ấy. Sức tàn phá của chiến tranh còn

luôn âm ỉ, gây đau khổ và cướp đi hạnh phúc của biết bao người phụ nữ như

Hạnh, như Thủy?

Dâu – một cô gái làng Đông với cá tính mạnh mẽ, trẻ trung, năng động,

thẳng thắn và đáo để vô cùng. Cô đã từng vật ngã những gã đàn ông muốn

cưỡng hiếp, bắt nạt cô và Hạnh giữa cánh đồng vắng, từng giơ tay tát thẳng

vào mặt gã trai phố huyện trong đám cưới của Thắm và thẳng thắn góp ý với

các cụ để Hạnh được về sống với bà Khiên khi chồng bà mất. Dâu là chỗ dựa

tinh thần vững chắc nhất của Hạnh khi Nghĩa đi bộ đội. Người con gái họ

Nguyễn ấy yêu thương anh trai của Hạnh là Hiệp – một chàng trai họ Vũ. Dâu

sẵn sang chờ đợi Hiệp dẫu năm năm mười năm hay lâu hơn nữa. Nhưng cuối

cùng, đáp lại sự chờ đợi mòn mỏi ấy của Dâu là câu trả lời nghiệt ngã từ chiến

tranh: Hiệp đã hi sinh nơi chiến trường. Hiệp không trở về khiến cho Dâu hụt

hẫng, chới với trong niềm xót xa: “Giá như hồi ấy tao với anh Hiệp mày cứ

liều…thì bây giờ nó phải lớn tướng” [8, 206]. Từ ngày Hiệp mất, Dâu sang ở

với mẹ Hạnh, ngày ngày lo toan, chăm sóc bà. Cuối cùng, khi chiến tranh đi

qua thì cũng là lúc Dâu lem lém của ngày xưa không còn nữa. Dâu lấy chốn

cửa Phật làm vui. Dâu mạnh mẽ, táo bạo nhưng cũng phải chịu nỗi đau, cô

đơn, buồn tủi sống lặng lẽ đến cuối đời như một cái bóng lẻ loi, đơn chiếc.

Thắm là cô gái đẹp nhất làng Đông. Sắc đẹp trời phú đó không giúp cô

có được một tấm chồng xứng đôi, vừa lứa. Cô lấy Huy một thanh niên chân

thọt, làm nghề chụp ảnh trên phố huyện. Nhưng hắn lại là một gã đa tình, hắn

cặp kè với nhân tình ngay trong phòng chụp ảnh. Thắm tan nát, đau khổ. Rồi

trong một lần đi phụ giúp bà con bên Hưng Yên bị lũ lụt tàn phá, Thắm quen

anh chàng pháo thủ và sau đó có với anh ta một đứa con. Chiến tranh thật tàn

nhẫn, hai người không nhận được tin nhau. Có lẽ, anh chàng pháo thủ kia

không biết mình đã có con với Thắm nên đã lấy vợ. Còn Thắm cứ một mình

43

vò võ ngóng tin, tự tay chôn vùi tuổi thanh xuân của mình trong ngôi làng

Đông ngột ngạt, tù túng ấy. Chị Nhài – người phụ nữ đã âm thầm chờ đợi

người chồng đi chiến tranh những mười năm trời. Cô Thao, con gái út của

ông Xung đã mang trả trầu cau cho Hân – người chồng sắp cưới ngay khi Hân

đảo ngũ trở về. Từ ngày đó “Thao sống lặng lẽ chờ đợi ông trời xe duyên cho

cô người đàn ông nào đáng mặt. Nhưng khổ nỗi, thời buổi chiến tranh thì đàn

ông lại hiếm hoi nên cô chẳng gặp được chàng trai nào vừa ý” [8, 230].

Tất cả đều bởi chiến tranh! Móng vuốt của nó len lỏi và cào xé biết bao

mảnh đời phụ nữ khiến họ phải sống trong chờ đợi, héo mòn theo năm tháng.

Chiến tranh lôi tuột những người phụ nữ vào vòng xoáy của nó, biến họ trở

thành những nạn nhân. Những người phụ nữ tuy không phải gánh chịu mưa

bom bão đạn trên trận chiến chống quân thù nhưng chiến tranh vẫn hằn lên

trong cuộc đời của họ bao bi kịch cay đắng, tủi hờn. Hình ảnh những người

phụ nữ ở làng Đông mòn mỏi chờ chồng, chờ con, chờ người yêu phấp phỏm

lo âu khiến ta hình dung ra những dáng hình của phụ nữ nơi dãy núi Đợi trong

tác phẩm Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu: “Khắp bốn phía trời những hòn

vọng phu đứng nhan nhản. Thật là đủ hình, đủ dáng, đủ tư thế của một thế

giới đàn bà đã sống và trải bao thời can qua, chiến trinh dường như đã hội tụ

về đây, mỗi người một ngọn núi đứng chơi vơi trên các chóp núi cao ngất,

người ôm con bên nách, người bế con trước ngực, người còng con sau lưng,

hai tay buông thõng xuống quay mặt đủ các hướng, các ngả có súng nổ, có

lửa cháy”.

2.2.2.2. Những nạn nhân của định kiến xã hội

Không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, thân phận những người phụ nữ

làng Đông còn bị giam hãm trong “cái lồng sắt” của những định kiến xã hội.

Chính những định kiến xã hội hủ lậu đã cướp đi hạnh phúc của những người

phụ nữ. Đọc tiểu thuyết Bến không chồng, bạn đọc làm sao có thể quên được

44

hình ảnh của chị Nhân – một con người với bao nhiêu bất hạnh, tai ương?

Chồng và con đều hi sinh nơi sa trường. Nhưng số phận nghiệt ngã vẫn không

buông tha cho người đàn bà đáng thương ấy. Chị vẫn còn quá trẻ, trong chị

vẫn còn bao khát khao được yêu thương và chia sẻ. Nỗi đau mất chồng, mất

con cũng dần nguôi ngoai. Trái tim người phụ nữ ấy lại xao động trước

Nguyễn Vạn – người lính Điện Biên kiên trung và gan góc. Họ yêu thương

nhau, đồng cảm với những nỗi bất hạnh, cô đơn của nhau. Nhưng hạnh phúc

với hai người cứ ngấp nghé rồi lại tuột mất. Nếu không phải vì định kiến xã

hội và mặc cảm mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ Nguyễn – họ Vũ hẳn

chị Nhân đã có một mái ấm với chú Vạn. Hai con người vừa cháy lòng mong

muốn được sống bên nhau, lại vừa phải kiềm tỏa, canh chừng nhau để kìm

nén cảm xúc. Day dứt vì lời con trẻ tránh móc: “Chú Vạn không lấy vợ được

là tại mẹ” khiến chị Nhân vừa thương chú Vạn lại vừa giận chính mình. Có

những lúc tình yêu dành cho Nguyễn Vạn bùng lên, thiêu đốt chị, buộc chị

phải hành động: “Chị ngồi xuống giường, run rẩy nắm chặt lấy bàn tay chú

Vạn (…). Toàn thân chị run rẩy ôm xiết lấy chú Vạn” [8, 151]. Nhưng tập tục

phong kiến, hủ tục, định kiến xã hội ở làng quê đã kéo chị lại với hiện thực

tàn nhẫn bởi chị là vợ liệt sĩ nên phải luôn làm gương cho kẻ khác. Chị Nhân

yêu Nguyễn Vạn tha thiết nhưng đành câm lặng, chôn kín mối tình vào tận

đáy lòng. Và tới cuối cuộc đời mình, chị Nhân vẫn lặng lẽ một mình, vẫn là

cái “bến không chồng”.

Song hành cùng nỗi đau của chị Nhân là bi kịch của Hạnh – con gái

chị. Không giống như mẹ, Hạnh và Nghĩa đã dũng cảm bước qua lời nguyền

của cụ tổ để cùng nhau xây dựng gia đình. Đám cưới của họ được tổ chức tại

“nhà kho của hợp tác xã” [8, 77]. Khi Nghĩa đi bộ đội, Hạnh mòn mỏi sống

trong khắc khoải, lo lắng. Nhưng người phụ nữ khốn khổ ấy nào có được yên

thân với sự hận thù ở những người trong dòng tộc nhà Nguyễn. Hạnh phải

45

sống trong áp lực, những lời đay nghiến, xỏ xiên: “Chừng nào con Hạnh còn

ở trên đất từ đường thì tai họa còn xảy ra”. Nỗi ám ảnh, sợ hãi còn theo Hạnh

cả vào trong những giấc mơ: “Cút đi, mày là loài yêu tinh quyến rũ thằng

Nghĩa. Mày làm cho gia đình bà Khiên tuyệt tự, làm cho cả họ Nguyễn suy

sụp. Mày là đứa đã phá từ đường. Mày...” [8, 239]. Hạnh không chịu đựng

nỗi sợ tra tấn về tinh thần ở ngục tù nơi nhà chồng, họ tộc của Nghĩa. Cùng

với những dòng nhật kí của Thủy mà Hạnh vô tình đọc được, Hạnh biết được

mối quan hệ giữa Nghĩa và Thủy – cô y tá trên tỉnh. Tất cả, đã buộc Hạnh đi

đến quyết định li hôn với Nghĩa dù vẫn còn yêu anh tha thiết. Chia tay Nghĩa

khiến Hạnh đau đớn: “Xưa nay chúng ta cứ lầm, ngỡ là chỉ cần hai người yêu

nhau là được. Lỗi lầm này chúng ta phải trả quá đắt. Anh đi xa nên không

biết ở nhà tôi phải chịu đựng bao điều oan nghiệt. Lời nguyền của cả họ nhà

anh vẫn còn đó. Nó ngấm vào máu thịt ngàn đời cũng không bao giờ sạch.

Thôi cũng không nên nói tới những điều ấy nữa. Mọi chuyện tới giờ coi như

đã chấm dứt” [8, 282 - 283]. Những lời lẽ thống thiết đó của Hạnh là những

dẫn chứng đanh thép nhất luận tội tư tưởng bảo thủ lầm lạc trong gia đình,

dòng họ nhà chồng và những định kiến của xã hội một thời.

Không chỉ có mẹ con Hạnh là những người phụ nữ trở thành nạn nhân

của định kiến xã hội mà những người phụ nữ như Cúc, chị Nhài, mụ Hơn

cũng không tránh khỏi vòng quay nghiệt ngã ấy.

Cúc là một cô gái trẻ, cô yêu Thành nhưng từ khi Thành trở về sau

chiến tranh với gương mặt bị bỏng nặng thì cô sợ hãi. Đó có lẽ là tâm lí chung

của những cô gái mới lớn đầy hi vọng vào cuộc sống. Cô không thể sống với

Thành nên đã từ hôn, trả lại trầu cau cho Thành. Hành động đó của Cúc cũng

không tránh khỏi những định kiến của miệng lưỡi thế gian. Cúc vì quá sợ hãi

gương mặt bị bỏng nặng của Thành nên đã trả lại trầu cau. Trước hành động

của cô gái trẻ ấy, cả làng đều ghét cô, giận cô, quay lưng với cô. Bà Nhị - cô

46

ruột Cúc còn chỉ trích “Cháu dại lắm, chê thằng Thành thì cháu sẽ ế đến già

không lấy được chồng đâu. Đàn ông ở làng này sẽ không ai dám hỏi mày làm

vợ và cũng đừng có hi vọng có thanh niên làng khác vác mặt đến làng này với

mày” [8, 173]. Từ đây, tính nết Cúc thay đổi hẳn. Cúc ý thức được việc mình

làm, ý thức được từ đây số phận cô cũng chẳng có cơ hội lấy được người tử

tế. Cô tự ti, mặc cảm, tự thu mình vào ốc đảo của sự cô đơn: “Hạnh thấy

thương hại Cúc, suốt ngày nó lặng lẽ như cái bóng, bất kể đi đâu, làm gì ở

chỗ đông người Cúc không dám nói to, cười đùa như trước” [8, 173]. Rồi có

lúc vô tình chạm mặt Thành, nghe Thành tếu táo, hóm hỉnh kể chuyện chiến

trường, nghe mọi người khen Thành “tốt lắm” Cúc lại chạnh lòng sụt sùi

khóc và thốt lên đau đớn “em khổ lắm chị ơi” [8, 179].

Chị Nhài cũng vô tình trở thành tâm điểm bàn tán của người đời: “Chị

Nhài mười năm nay chung thủy chờ chồng bỗng nhiên hôm nọ lại nổi máu lên

tí tởn với thằng Dục, mẹ chồng bắt quả tang, chuyến này chồng nó mà về thì

nó giết” [8, 196]. Chị Nhài trong truyện không đáng trách, chị âu cũng chỉ là

người phụ nữ đáng thương, chị đã kiên nhẫn chờ chồng mười năm, quãng thời

gian mười năm đối với một người phụ nữ còn trẻ thật khủng khiếp biết bao.

Cũng bởi chị còn trẻ nên khao khát được yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong chị.

Việc chị Nhài đi bước nữa là một điều dễ hiểu và cần được cảm thông.

Không chỉ những người phụ nữ nghèo khổ của giai cấp cần lao trở

thành nạn nhân của định kiến xã hội mà ngay cả mụ Hơn con dâu của địa chủ

Hào cũng không tránh khỏi số kiếp đau thương ấy. Mụ Hơn từ một người phụ

nữ xinh đẹp “mắt đen lay láy thắt đáy lưng ong, da đỏ hồng hồng” [8, 53],

được làm vợ ông con trai địa chủ giàu có, được sống sung sướng nhàn hạ

bỗng chốc cơn bão tố của thời đại nổi lên. Cuộc đấu tố khốc liệt đã khiến mụ

mất đi tất cả. Bố chồng chị bị xử bắn, chồng mụ thì cắn lưỡi chết. Tài sản bị

tịch thu hết. Chị chỉ còn lại đứa con trai là thằng Tốn và hai gian bếp ọp ẹp

47

làm nơi ăn, ở. Hai mẹ con mụ Hơn bị cả làng khinh rẻ, cuộc sống của hai mẹ

con cũng chẳng được yên thân. Thằng cu Tốn bị bọn trẻ trong làng đánh đập,

nguyền rủa. Người đau khổ nhất vẫn là mụ Hơn, thương con, xót con mà

không dám phàn nàn nửa lời. Mụ sợ dư luận xã hội sẽ không buông tha cho

họ. Mụ bị mọi người trong làng ruồng rẫy, hắt hủi, xa lánh. Ngay cả việc thắp

hương cúng người chồng đã khuất của mình, mụ cũng phải vụng trộm, lén lút.

Cuộc sống của mụ thật khốn khổ. Mụ tồn tại như cái gai trong mắt dân làng.

Họ căm ghét, sung sướng, hả hê trước nỗi đau, bất hạnh của người đàn bà ấy.

Người đọc không khỏi bàng hoàng, lặng đi đau xót trước những lời van xin

của mụ Hơn với Vạn: “Mụ nhào đến quỳ xuống, hai tay chới với nắm lấy tay

Vạn, mắt rực lên. Bây giờ đời con chỉ còn mỗi thằng con trai, thằng cu Tốn

ấy. Chồng con đã chết rồi, dù nó là con cháu địa chủ nhưng con hứa với ông

bà nông dân cố gắng nuôi dạy nó thành người nghèo khổ. Vâng! Con cố nuôi

dạy nó thành người nghèo khổ hu…hu…con chắp tay lạy ông trăm ngàn lần

đừng ghét bỏ nó, đừng để các con của ông bà nông dân đánh đập nó…Con

đau khổ mà không dám nói cùng ai. Con liều đến cửa nhà ông, ông ở gần bảo

hộ giúp con” [8, 55]. Lời mụ thống thiết, ám ảnh mỗi chúng ta. Mụ Hơn tuy

là người thuộc giai cấp quý tộc nhưng mụ “không ở ác với ai”. Người phụ nữ

ấy đáng thương hơn là đáng trách. Vậy mà định kiến xã hội, định kiến giai

cấp đã cô lập, bỏ rơi mụ bơ vơ giữa dòng đời.

Sự dữ dằn của chiến tranh cùng những di họa của nó và sự ấu trĩ, lầm

lạc của con người trong quá khứ đã trở thành căn nguyên gây ra những nỗi

đau, thua thiệt, mất mát của biết bao phụ nữ. Họ thực sự là những “bến đợi”,

“bến không chồng”, những hòn vọng phu hóa đá đúng như tên truyện. Tất cả

những người phụ nữ trong thế giới của Bến không chồng một ai được hạnh

phúc, được trọn vẹn, được sống đúng là mình. Ở họ những ước mơ giản đơn

như được làm vợ, làm mẹ cũng khó khăn, xa vời biết chừng nào.

48

Chƣơng 3

MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI

TRONG TIỂU THUYẾT BẾN KHÔNG CHỒNG

CỦA DƢƠNG HƢỚNG

3.1. Sử dụng những biểu tƣợng có giá trị nghệ thuật cao

Khái niệm biểu tượng chỉ thực sự xuất hiện khi tri thức nhân loại đạt

đến một trình độ nhất định. Thuật ngữ “biểu tượng” vốn xuất phát từ thuật

ngữ “symbol” trong tiếng Anh. Còn tiếng Pháp là “symbole”. Hai thuật ngữ

đó dịch sang tiếng Việt thành “biểu tượng” hoặc “biểu trưng”. Cách dịch

thành “biểu tượng” được chấp nhận rộng rãi hơn.

Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm biểu tượng là một loại kí hiệu mà mối

quan hệ giữa mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc

trong tưởng tượng của con người đó là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái

được biểu trưng) mang tính có lý do, tất yếu.

Trong tiểu thuyết Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng đã sử dụng

hàng loạt những biểu tượng văn học giàu ý nghĩa để biểu hiện hiện thực đời

sống và thân phận con người một cách sâu sắc, có tính giá trị cao.

3.1.1. Biểu tượng “bến”

Hình tượng “bến” trong Bến không chồng được tác giả tập trung miêu

tả như một biểu tượng xuyên suốt, có sức ám ảnh lớn đối với nhân vật cũng

như người đọc. “Bến” đã đi vào tâm thức người Việt như một điểm hẹn, một

bến đỗ bình yên. Không gian bình dị của “bến” vẫn gắn với những sinh hoạt

thường nhật của vùng nông thôn Việt Nam, gắn với lối suy nghĩ mộc mạc,

chân chất của người bình dân. “Bến” là nơi quy tụ của dân làng: Già, trẻ, gái,

49

trai. Nó gắn với những kí ức tuổi thơ của biết bao người, là nơi bao người con

xa quê vẫn luôn mong ngóng và tha thiết nhớ về quê hương. Trong tiểu thuyết

Bến không chồng, có hơn 90 lần xuất hiện tín hiệu thẩm mĩ “bến” dưới các

tên gọi khác nhau với nhiều ý nghĩa biểu tượng .

“Bến” là sự dung hợp của sự sống. Trong tác phẩm Bến không chồng,

“bến” không chỉ là không gian sinh hoạt của người lao động, nhân chứng cho

những biến cố trong làng mà nó còn trở thành điểm tựa tinh thần, là không

gian tâm tưởng của mỗi con người. “Bến” như người bạn tình của Hạnh

những lúc cô chờ đợi Nghĩa: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một tiếc nuối

thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ân ái với Nghĩa bỗng trỗi dậy.

Đầu óc Hạnh căng ra rung lên ngây ngất đi tìm lạc thú trong hoang tưởng –

Hạnh lao ra dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng” [8, 186]. “Bến” như

là người bạn an ủi, vỗ về Dâu và cuốn đi cảm giác có lỗi của Cúc khi cô trả lại

trầu cau cho Thành. Ngoài ra, “bến” còn là điểm hẹn của trai gái làng Đông,

là nhân chứng cho những cuộc tình lãng mạn của người làng Đông. Chuyện

tình Dâu – Hiệp, Hồng – Hà, Cúc – Thành, và ngay cả đêm tân hôn của Nghĩa

và Hạnh cũng gắn với bến Tình… Cái “bến” đó tồn tại giữa ngôi làng Đông,

nó gắn với bao câu chuyện huyền thoại mà những thế hệ người già kể lại cho

con trẻ đời sau: “Các cụ bảo: Đất làng Đông nằm trên mình con rồng. Con

rồng đó chính là dòng sông Đình bắt nguồn từ cống Linh chảy qua làng Đông

uốn lượn như một con rồng. Nước sông như dòng sữa mẹ làm tươi tốt đất và

người làng Đông” [8, 10].

“Bến” là biểu tượng cho sự chờ đợi mòn mỏi của bao thế hệ phụ nữ

làng Đông. Biểu tượng “bến” từ lâu đã thấm vào những lời ca dao mượt mà

tha thiết:

“Thuyền đi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”

50

Trong tác phẩm này cũng vậy. “Bến” gắn với sự chờ đợi của những

người phụ nữ làng Đông. Chị Nhàn, Hạnh, Dâu, Thắm, Cúc…lần lượt tiễn

chồng, người yêu vào chiến trường để rồi họ lặng lẽ gạt nước mắt sống với

những tháng ngày dài đằng đẵng trong chờ đợi, héo mòn. Thời gian cứ lạnh

lùng trôi qua cuốn phăng tuổi xuân của những người phụ nữ làng Đông ấy.

Chị Nhân một đời chờ chồng, chờ con trong mỏi mòn, vô vọng. Hạnh cưới

Nghĩa chưa được bao lâu cũng đành phải xa chồng, sống âm thầm lặng lẽ chờ

đợi người ra đi không hẹn ngày trở về… Dường như sự chờ đợi đã trở thành

một điệp khúc giữa bản nhạc trầm buồn dài đằng đẵng mà những người phụ

nữ phải nhận lấy. Dòng sông kia vẫn đều đặn chảy trôi, chỉ có “bến”, có

những người phụ nữ vẫn muôn đời kiên nhẫn, đợi chờ.

“Bến” còn là sự thanh tẩy những nỗi niềm oan ức, đau thương và mất

mát của con người. Dương Hướng đã mở đầu tiểu thuyết của mình bằng câu

chuyện cô con gái rượu duy nhất của cụ tổ họ Nguyễn bị chàng trai họ Vũ làm

nhục trên “bến Tình”. Người con gái trong trắng đáng, thương ấy đã lấy cái

chết để thanh tẩy, minh chứng cho sự trinh tiết của mình. Hạnh cũng vậy, cô

phải xa chồng, phải sống trong nhung nhớ đã là một thiệt thòi. Vậy mà, cô

còn bị dòng tộc nhà chồng mỉa mai, đay nghiến: “Con Hạnh sẽ chẳng bao giờ

có con, chuyện này nó đã rõ như ban ngày” [8, 243]. Những nỗi đau khổ ấy

đã kéo Hạnh xuống dòng nước mát lạnh nơi “bến Tình” và kì diệu thay, dòng

nước ấy đã cuốn đi tất cả những oan ức mà Hạnh phải chịu đựng lâu nay. Với

Nguyễn Vạn cũng vậy, sau một đêm cùng Hạnh thỏa mãn khát khao, Vạn

luôn sống trong dằn vặt, đau khổ, xót xa. Sau bao tháng ngày biệt tích, Hạnh

trở về dắt theo đứa con gái của Vạn, cảm giác tội lỗi, đau khổ càng nhân lên

gấp bội trong Vạn. Con người khốn khổ ấy đã tìm đến dòng sông và nơi đây

lại một lần nữa trở thành cái “bến” thanh tẩy cảm giác tội lỗi, uất nghẹn của

người lính đã già nua vì ân hận, xót xa.

51

3.1.2. Biểu tượng “ngôi từ đường họ Nguyễn”

Hình ảnh “ngôi từ đường họ Nguyễn” mọc lên khang trang giữa làng

Đông luôn là niềm tự hào của con cháu trong dòng tộc bao đời “Ba gian từ

đường có hai hàng cột cái và hai hàng cột con, cả thảy là mười sáu cột.

Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen bóng lên. Các chân cột đặt đá tảng

xanh, nổi vân trắng, nền từ đường lát đá đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian

hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật với vôi, cát rắn như đá. Trên bệ

thờ là những con rồng đắp bằng vữa, sơn son, thếp vàng rực rỡ. Cỗ ngai đặt

ở giữa bệ thờ, có bát hương to lúc nào cũng tỏa khói thơm ngát” [8, 23 - 24].

Qua “ngôi từ đường họ Nguyễn” và những ngày giỗ tổ hàng năm được các vị

trưởng nam, con cháu trong họ tổ chức linh đình, chúng ta thấy được đời sống

tâm linh, quan hệ họ hàng ở nông thôn được giữ gìn, bảo tồn, nối tiếp qua các

thế hệ. Đây là một nép đẹp văn hóa đáng trân trọng, tuy nhiên, hình ảnh ngôi

từ đường họ Nguyễn được Dương Hướng sử dụng ở đây với một dụng ý nghệ

thuật khác. Nó là hiện thân cho biết bao nhiêu thiên kiến cổ hủ, lạc hậu của

một bộ phận người trong dòng tộc đã gây ra bao đau xót, bi kịch cho con cháu

đời sau. Nó khiến cho Nguyễn Vạn và chị Nhân không thể đến được với nhau,

Nghĩa và Hạnh luôn phải sống trong day dứt, khổ đau.... Vấn đề tâm linh đè

nặng lên suy nghĩ, tâm hồn mỗi con người. Điều đó, khiến cho làng Đông nhỏ

bé ấy không hề bình yên, cuộc sống con người luôn bị khuấy đảo, bất an.

3.1.3. Biểu tượng “vạt cỏ bằng”

Hình ảnh này được lặp đi lặp lại đến năm lần trong truyện đặc biệt gắn

với tình yêu của Hạnh và Nghĩa. Đó là nơi ghi dấu thời khắc lần đầu tiên

Nghĩa và Hạnh vượt qua mọi rào cản để thành vợ chồng. Hai con người bất

hạnh ấy chẳng còn nơi nào để trở về trong đêm tân hôn của mình, họ đã tìm

đến bến Tình. “Vạt cỏ bằng” nơi bến sông ấy đón họ vào lòng, nâng niu, che

chở cho tình yêu của họ. Thông qua biểu tượng “vạt cỏ bằng”, Dương Hướng

52

đã lên án sâu sắc sự khắc nghiệt của tập tục, (ở đây là mốt thù truyền kiếp của

hai dòng họ Nguyễn Vũ) đã làm cho con đường đi đến hạnh phúc của nhiều

mối tình trở nên trắc trở, đớn đau.

Như vậy thông qua những biểu tượng nghệ thuật chủ yếu trên, Dương

Hướng đã cho chúng ta thấy hiện thực xã hội nông thôn miền Bắc nói chung

và làng Đông nói riêng trong những năm tháng trước đổi mới đầy tăm tối, bế

tắc, hủ lậu. Con người gào thét, quẫy đạp trong “thung lũng đau thương” mà

chính họ tạo ra. Thông qua những biểu tượng này, người đọc có được cái nhìn

hiện thực, toàn diện về lịch sử và đất nước trong những năm tháng trong và

sau chiến tranh. Tác phẩm “Không có cái sắc sảo, róng riết của mảnh đất lắm

người nhiều ma, không có cái chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh của nỗi buồn

chiến tranh” nhưng với tài năng kết hợp: “Cốt truyện mộc mạc và chân

phương trong cách dẫn dắt và ngôn từ - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa,

mà giản dị, tự nhiên”, đã khẳng định được giá trị của nó trong lòng độc giả.

3.2. Giọng điệu cảm thƣơng, xót xa

Từ điển thuật ngữ văn học giải thích: “Giọng điệu là thái độ, lập

trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể

hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,

cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm” [5, 134 - 135].

Cảm thương, xót xa là cảm xúc xót thương của con người đối với đồng

loại hoặc đối với chính mình khi gặp những bất hạnh trong cuộc sống

Như vậy giọng điệu cảm, thương xót xa chính là thái độ của tác giả đối

với những số phận bất hạnh, khổ đau. Giọng điệu ấy ẩn chứa trong những câu

văn thấm đẫm xúc cảm về cõi nhân sinh, mang giá trị thẩm mĩ sâu sắc.

Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng nói về số phận bi kịch

của những con người chịu sự tác động sâu sắc của lịch sử, chiến tranh. Chiến

53

tranh đã gây ra bao nhiêu tang tóc, biệt li, khiến vợ xa chồng, mẹ xa con…

Biết bao người mẹ, người vợ phải chịu cảnh không chồng. Còn bao cái Bến

không chồng trên khắp đất nước ta chưa đi vào trang sách? Cảm thương cho

số phận của những con người bé nhỏ, Dương Hướng đã xây dựng số phận

những người phụ nữ như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc… dở dang, đau khổ. Số

phận của những người lính như Vạn, Nghĩa, Thành… đầy oan trái. Ngòi bút

thấm đẫm niềm cảm thương của nhà văn làm cho cuộc đời của những người

phụ nữ như chị Nhân, Hạnh, Thắm, Dâu… trở nên ám ảnh lạ lùng. Không

người phụ nữ nào được sống an nhàn, sung sướng.

Đối với nhân vật Hạnh, Dương Hướng đã có cái nhìn một cái nhìn đầy

cảm thương, thông cảm: “Đã tám năm nay Hạnh nhận ra mình sống bằng

những kỉ niệm với Nghĩa nhiều hơn là chờ đợi ở tương lai. Những hi vọng

ngày một mong manh, dù mong manh vẫn hơn là tắt hẳn (...) Hạnh lội xuống

bến nước rửa chân, lòng ngẩn ngơ nhìn mặt trăng loang loáng dưới nước.

Hạnh thấy mình lạc vào thế giới mông lung sâu thẳm của những câu chuyện

huyền thoại xa xưa” [8, 185 - 186]. Dường như, nhà văn có thể thấu hiểu

được tất cả nỗi khổ đau của con người và miêu tả hết sức chân thực và xúc

động sự chờ đợi mòn mỏi, khắc khoải của cô và cũng là sự day dứt của những

người phụ nữ Việt Nam thời ấy. Dương Hướng đã nhìn vào nỗi éo le của

Hạnh với cái nhìn hiện thực đầy nhân bản: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một

nỗi nuối tiếc thoáng qua. Một thời xuân sắc và những giây phút ân ái với

Nghĩa bỗng trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra và rung lên ngây ngất trong

hoang tưởng. Hạnh lao vào dòng nước mát lanh sóng sánh bóng trăng. Cơ

thể lâu nay khô héo bỗng rạo rực ngập tràn hưng phấn (…) Hạnh lao lên bến

chạy dọc bờ sông. Hạnh chạy mãi, chạy mãi” [8, 186]. Nỗi khao khát đầy bản

năng của người phụ nữ trẻ xa chồng được nhà văn diễn tả thật tinh tế và đầy

cảm thông, vừa nói lên cái khốc liệt của chiến tranh chia cắt hạnh phúc, lại

54

nói được những gì nhân bản nhất về con người. Sống trong những năm tháng

chiến tranh con người ta mới dễ cảm thông cho niềm khao khát đầy nhân bản

này. Hạnh phúc quá ít ỏi, quá mong manh, Hạnh sống trong kí ức nhiều hơn

là sống với hi vọng. Nỗi khát khao cháy bỏng ấy lại càng trở thành nỗi ám

ảnh, dằn vặt khi niềm hạnh phúc riêng tư trong cô luôn phải giấu kín. Kí ức về

những ngày bên Nghĩa, được làm vợ, được sống trọn vẹn trong tình yêu luôn

bùng cháy trong Hạnh. Cuộc đời Hạnh là cuộc đời dằng dặc những buồn

thương. Hạnh đã chịu bao khó khăn, thử thách để đến với Nghĩa, dám chống

lại lời nguyền để yêu thương Nghĩa, Hạnh hi sinh cả tuổi xuân chờ chồng,

nuôi mẹ. Hạnh đã gan góc vượt qua được định kiến của dòng họ nhưng lại

không thể bước qua dông tố của chiến tranh. Chiến tranh ập tới, nó cướp đi

khả năng đàn ông của chồng chị. Hạnh sống trong đau đớn nhưng không thôi

khao khát được làm mẹ. Cuối cùng, Hạnh đã được bù đắp. Chị có thai với chú

Vạn – người bạn đồng ngũ với bố, người đã yêu nhưng không dám đi đến hôn

nhân với mẹ Hạnh. Niềm vui muộn màng buộc chị phải xa xứ để bảo vệ danh

dự cho người đàn ông ấy. Cái hạnh phúc bình dị ngỡ như người phụ nữ nào

cũng có quyền hưởng, nhưng với Hạnh, đó cả là một hành trình nhọc nhằn,

cay đắng và vật lộn. Còn biết bao người phụ nữ xứng đáng có hạnh phúc

nhưng rồi đành để tuột mất trong âm thầm tiếc nuối?

Người đọc cũng không khỏi xót xa, thương cảm khi đọc những trang

văn Hương Hướng miêu tả nỗi bất hạnh của Dâu. Dâu vì chờ đợi người yêu

mà không lấy chồng. Nhưng sau bao năm chờ đợi đến ngày toàn thắng,

người yêu lại hi sinh, bản thân thì sống trong cô đơn và tìm sự thanh thản

nơi cửa Phật.

Có lẽ, người phụ nữ chịu nhiều hi sinh mất mát nhất làng Đông là bà

Nhân – người phụ nữ cả một đời phải sống trong bi kịch, khổ đau “Trong

đời bà đã có ba cái tang – tang chồng, tang hai thằng con trai – Cả ba lần

55

bà chỉ được đứng trước ba cái quan tài giả” [8, 310]. Tất cả, họ đều là

những người phụ nữ bất hạnh họp chung nhau lại ở Bến không chồng.

Giọng điệu này còn nhiều lần trở lại khi nói về những bi kịch của

những con người làng Đông. Người trần thuật ở ngôi thứ ba đã thể hiện

những nỗi cảm thương, khắc khoải cho những thân phận của con người: “cả

làng Đông bây giờ bói cũng chả còn đứa nào cho ra hồn. Đứa nào không đui

què, sứt môi, tai điếc thì mười bẩy đã đòi khai thêm tuổi để đi khám nghĩa vụ.

Cánh con trai làng Đông hiện đang ở nhà đếm trên đầu ngón tay. Thứ nhất

anh Nhan ở nhà ho hen cò cừ đi khám nghĩa vụ quân sự năm lần bảy lượt đều

không đạt, ở nhà làm thư kí đội sản xuất. Thứ hai là Tẹo, chột mắt được giao

chân coi đồng…Tất cả các cô gái làng Đông đều đòi lấy Ngốc” [8, 139]. Có

khi là suy nghĩ của Nghĩa: “Chú Vạn hồi này hầu như không bước chân ra

khỏi mảnh vườn ươm. Hôm ra thăm chú, Nghĩa sững sờ nhìn lên gương mặt

gầy xạm đi, tóc bạc trắng như một ông lão. Còn Thành suốt đời phải mang

một bộ mặt dị dạng không vợ con. Cúc ngày xưa đùng đùng đem trả trầu cau

Thành, đã tưởng lấy được đám khá hơn, ai ngờ vơ bèo gạt tép làm lẽ ông Ba

Chương. Dâu ngày xưa lem lém vậy, giờ lại lấy cửa Phật làm vui. Đến như

cái Thắm rực rỡ nhất nhì làng Đông bây giờ vẫn vò võ nuôi con một mình.

Còn mẹ Hạnh thì gần như câm lặng…” [8, 301].

Những ước mơ rất chính đáng và cũng rất bình dị của những phận

người đã bị đập nát bởi sự tác động dữ dội của chiến tranh. Dương Hướng đã

sử dụng những từ chỉ trạng thái “sững sờ”, “ai ngờ”, “giờ lại”, những từ

cảm thán “đến như”, “suốt đời phải”… để thể hiện âm hưởng xót xa, thương

cảm cho những thân phận chịu bao cay đắng của cuộc đời. Âm hưởng này

cũng thấy ngay khi nhà văn nói về sự thật của những cô gái, chàng trai làng

Đông thời chiến: “Ở lứa tuổi tưng tưng mười chín, đôi lăm chưa chồng vận

áo trắng, áo màu vào người nó cứ phừng phừng muốn nhảy nhót một tí cho

56

nó tươi đời. Như thời xưa thì tha hồ mà hờn anh nọ, dỗi anh kia, giờ thì con

gái cứ đầy ra đấy chả có ma nào” [8, 141].

Tất cả đều do chiến tranh. Hóa ra, móng vuốt của chiến tranh len lỏi

vào mọi ngóc ngách của cuộc đời này. Từng là một người lính, Dương Hướng

hiểu hơn bao giờ hết những cay đắng nhọc nhằn, những mất mát của chiến

tranh. Chiến tranh không chỉ mang những nỗi đau về thể xác với những tật

nguyền suốt đời người lính phải chấp nhận chung sống mà còn những di

chứng nặng nề trong tâm hồn đeo đẳng họ mới đáng sợ. Những người lính

như Vạn, Nghĩa, Thành… mang trong mình những nỗi đau riêng không gọi

thành tên. Người thì chưa bao giờ được biết đến hạnh phúc riêng tư, đến chết

vẫn cô đơn như chú Vạn. Người thì bước ra chiến tranh với những méo mó, dị

tật về thể xác như Thành. Người thì tay trắng với sự đổ vỡ hạnh phúc như

Nghĩa… Những số phận này là câu hỏi nghiêm túc về trách nhiệm của cả xã

hội và “Dương Hướng là người có tình khi nói về nỗi đau của con người”

(Nguyên Ngọc). Để khắc họa những con người nhỏ bé, đáng thương ấy, giọng

điệu cảm thương xót xa trở thành một phương tiện được nhà văn sử dụng vô

cùng đắc địa.

57

KẾT LUẬN

1. Mặc dù không thuộc lớp nhà văn mở đường, đặt nền móng cho thể

loại tiểu thuyết đương đại ở Việt Nam đâm chồi, nảy nở như: Nguyễn Minh

Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu... nhưng Dương Hướng

vẫn xứng đáng là một trong những tác giả tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết

đương đại ở Việt Nam. Bằng những nỗ lực và cống hiến hết mình cho nghệ

thuật, Dương Hướng đã để lại cho đời những tác phẩm văn học có giá trị, giàu

ý nghĩa nhân văn. Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng là một đóa

hoa ngát hương giữa vườn hoa văn học nghệ thuật đa sắc.

2. Trước khi đặt bút viết nên tác phẩm văn học, Dương Hướng luôn tâm

niệm một lẽ: “Hiện thực cuộc sống đầy sôi động ở mọi mặt. Nhưng điều quan

trọng của nhà văn là phải trăn trở để viết thế nào chứ không phải viết cái gì.

Quan trọng hơn vẫn là tác phẩm của anh nói được điều gì?”. Phương châm

sáng tác tích cực đó đã dẫn dắt Dương Hướng đến với “Tiếng nói của nhân

dân, nỗi lòng của người cần lao”. Tác phẩm Bến không chồng là sự tri ân,

tấm lòng của nhà văn người Thái Bình ấy đối với quê hương. Ông dám nhìn

thẳng vào sự thật để khắc họa nên những mất mát, hi sinh, nỗi cô đơn, bi kịch

trong tình yêu, hạnh phúc của người lính và những nỗi thống khổ bởi chiến

tranh, định kiến xã hội chà đạp người phụ nữ. Người đọc vì thế càng cảm

thông, thấu hiểu, chia sẻ với con người đặc biệt là những người lính thời hậu

chiến.

3. Dương Hướng không thực sự có những cách tân táo bạo về mặt nghệ

thuật. Nhưng Bến không chồng vẫn thực sự hấp dẫn bạn đọc bởi sự gần gũi,

giản dị của một ngòi bút suốt đời trăn trở, nỗ lực mang lại cho đời những tác

phẩm nghệ thuật giàu ý nghĩa. Thông qua những biểu tượng nghệ thuật và

giọng điệu cảm thương đầy nhân đạo, Dương Hướng đã vẽ ra bức tranh nông

58

thôn miền Bắc trong những năm tháng trước đổi mới đầy cay đắng, ê chề, xót

xa. Ở đó có những con người luôn quằn quại, đớn đau, bị chắp vá bởi chiến

tranh, định kiến xã hội. Những mảnh đời bất hạnh đó sẽ còn ám ảnh bạn đọc

nhiều thế hệ.

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

2. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.

3. Nguyễn Minh Châu (1999), Cỏ lau, Nxb Văn học Hà Nội.

4. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại

học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.

5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Dương Hướng (1989), Gót son, Nxb Hải Phòng.

7. Dương Hướng (1991), Trần gian đời người, Nxb Hải Phòng.

8. Dương Hướng (2000), Bến không chồng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

9. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

10. Phong Lê (2009),“Dương Hướng – từ Bến không chồng đến Dưới chín

tầng trời”, Tạp chí Sông Hương (số 248), trang 75 – 80.

11. Nguyễn Duy Liễm (2009), Dương Hướng – Người ghi mốc son cho văn

học thời kì đổi mới, duonghuongqn.vnwebblos.com.

12. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thờ kì mới, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

13. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học.

15. Nguyễn Đăng Mạnh (1985),“Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát

triển”, báo Nhân dân (26/10).

16. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và

phong cách, Nxb Trẻ.

18. Nguyên Ngọc (1991),“Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy

luật phát triển”, Tạp chí Văn học, trang 9 – 13.

19. Trần Đình Sử (chủ biên), (2007), Giáo trình lí luận văn học (3 tập), Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

20. Trần Thị Phương Thảo (2008), Tiểu thuyết Dương Hướng (từ Bến không

chồng đến Dưới chín tầng trời), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Thái

Nguyên.