intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc

Chia sẻ: Hà Nguyễn | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:61

222
lượt xem
57
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp "Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc" trình bày khái quát về tác giả, tác phẩm và đặc điểm chung của tiểu thuyết Minh, Thanh, bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, một số biện pháp nghệ thuật xây dựng bi kịch con người cá nhân trong Hồng Lâu Mộng,... Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN KHOA SƯ PHẠM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU  THUYẾT “HỒNG LÂU MỘNG” CỦA   TÀO TUYẾT CẦN – CAO NGẠC Sinh viên : Nguyễn Thị Hà Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ văn Khóa học : 2011 ­ 2015
  2. Đắk lắk, 5 /2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN KHOA SƯ PHẠM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BI KỊCH CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU  THUYẾT “HỒNG LÂU MỘNG” CỦA  TÀO TUYẾTCẦN – CAO NGẠC Sinh viên : Nguyễn Thị Hà Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ văn Người hướng dẫn ThS. Phan Thị Tâm Thanh
  3.                                                                                       Đắk lắk, 5 /2015
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Phan   Thị Tâm Thanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực  hiện đề tài tốt nghiệp.              Tôi cũng xin gửi lời cảm  ơn đến quý thầy cô giáo trong Khoa Sư  phạm, đặc biệt là quý thầy cô trong bộ  môn Văn học trường Đại học Tây   Nguyên, đã tận tình truyền đạt kiến thức trong bốn năm học tập và tạo   điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành khóa luận này.             Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động  viên tôi trong suốt thời quá trình nghiên cứu, hoàn thành khóa luận.        Do thời gian hạn hẹp và cũng là bước đầu làm quen với nghiên cứu đề  tài khoa học nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong  nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn. Đắk Lắk, tháng 05 năm 2015 Người thực hiện Nguyễn Thị Hà  4
  5. MỤC LỤC 5
  6. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.  Lí do chọn đề tài Văn học Minh – Thanh có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Trung  Quốc. Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học cổ điển,  đánh dấu sự  chuyển mình sang khuynh hướng hiện đại của nền văn học  Trung Hoa đặc sắc.  Ở  Trung Quốc trước đây, tiểu thuyết bị  xếp vào thể  loại phi chính thống   và bị coi thường. Đến thời Minh – Thanh, tiểu thuyết đã trở thành thể loại  chủ  đạo. Có thể  kể  tên những bộ  tiểu thuyết nổi tiếng của giai đoạn này   như: “Tam chí quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí”, “Liêu trai chí dị”,  “Kim Bình Mai”, “Chuyện làng nho”, “Hồng lâu mộng”,… “Hồng lâu mộng” là một trong bốn kiệt tác của văn học cổ  điển Trung   Quốc. Người Trung Hoa đương thời có câu rằng “ Khai đàm bất thuyết   Hồng lâu mộng, độc tận thi diệc uổng nhiên!” (Chuyện trò mà không nói  “Hồng lâu mộng”, đọc lắm sách xưa cũng uổng công). “Hồng lâu mộng” đã  góp phần làm cho đời sống văn học Trung Quốc nói riêng, văn học nhân   loại nói chung trở nên phong phú hơn.  “Hồng lâu mộng”  phê phán xã hội phong kiến Trung Hoa mục nát với  những giáo điều khắc nghiệt đã ăn sâu, bén rễ  hàng ngàn năm trong đời  sống của người dân Trung Quốc. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần dân chủ,  đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính; đòi bình đẳng và khát khao một lí  tưởng sống mới. Ảnh hưởng của “Hồng lâu mộng” không chỉ dừng lại trong phạm vi đất nước  Trung Hoa mà lan rộng ra trên văn đàn thế giới. Tính đến nay trên thế giới đã  có khoảng 16 ngôn ngữ  khác nhau dịch toàn văn hoặc trích dịch “Hồng lâu  mộng” như: Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Italia, Hungari, Triều Tiên, Việt   Nam,… 6
  7. Là một giáo viên dạy văn tương lai với niềm đam mê dành cho văn học  Trung Quốc, đặc biệt là tiểu thuyết Minh – Thanh, trong đó có tác phẩm   “Hồng lâu mộng”, chúng tôi quyết định chọn vấn đề  “Bi kịch con người  cá nhân trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần– Cao   Ngạc” làm đề tài cho khóa luận, với mong muốn khám phá, đào sâu thêm ý  nghĩa và giá trị  to lớn của tác phẩm qua nghiên cứu bi kịch con người cá   nhân trong tác phẩm, để  từ đó có một cái nhìn toàn diện hơn về  thiên tiểu  thuyết được đánh giá là một trong “tứ đại kì thư” của tiểu thuyết cổ điển  Trung Quốc. 2.  Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng”  để hiểu thêm về tư tưởng của tác phẩm, thấy được sự kế thừa và đổi mới  trong bút pháp tiểu thuyết của tác giả, góp phần khẳng  định vị  trí của   “Hồng lâu mộng” trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết Trung Quốc.  7
  8. PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1.  Từ  khi mới ra đời, “Hồng lâu mộng” đã được bạn đọc hoan nghênh,   truyền bá rộng rãi và được đánh giá rất cao, tác phẩm nhanh chóng trở  thành món ăn tinh thần của quần chúng. “Hồng lâu mộng” không những có   ảnh hưởng lớn trong xã hội mà còn gây hứng thú mạnh mẽ  trong giới  nghiên cứu của nhiều thế hệ người Trung Quốc. Ngay từ đầu đã có hội nghiên cứu riêng về  “Hồng lâu mộng” gọi là  Hồng học. Các nhà Hồng học chia làm nhiều trường phái nhưng họ  đều  cho rằng “Hồng lâu mộng” viết về một câu chuyện có thật vào đời Thanh.  Năm 1919, ở Trung Quốc diễn ra cuộc vận động Ngũ tứ, Hồng học chia ra   thành Cựu Hồng học và Tân Hồng học. Cựu Hồng học đi tìm những câu  chuyện có thực để  chứng minh cho thiên truyện của Tào Tuyết Cần. Tân  Hồng học lại đi nghiên cứu sự  tương đồng giữa cuộc đời tác giả  và tác   phẩm. Sau 1954, việc nghiên cứu “Hồng lâu mộng” có nhiều bước chuyển   đáng kể. Các bài viết dần đi đến chỗ  thống nhất, khẳng định giá trị  tác  phẩm về cả nội dung và nghệ thuật. Nhiêu Đạo Khánh từ góc độ của “Phê bình văn học chủ nghĩa nữ quyền” đã   khảo sát quan điểm nữ  giới của Tào Tuyết Cần qua “Hồng lâu mộng” và  qua đó khẳng định tư tưởng tiến bộ của tác giả. Lý Quốc Tường trong “Luận quan niệm đạo đức hôn nhân của Hồng lâu  mộng” đã nhận định:  “Vấn đề  đạo đức hôn nhân và nữ  giới là nội dung   chủ yếu và chiếm số trang tương đối của Hồng lâu mộng. Dường như hết   thảy nhân vật, sự  kiện, tất cả  việc miêu tả, yếu tố  trữ  tình đều liên quan   đến vấn đề này, cụ thể là liên quan tới vấn đề tự do hôn nhân của phụ nữ,   ái tình và địa vị bình đẳng nam nữ”. 2.2. Ở  Việt Nam, từ những năm đầu thế  kỉ  XX, khi nhắc đến tiểu thuyết  cổ điển Trung Quốc, ít ai không nhắc đến “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết  8
  9. Cần– Cao Ngạc. Nhìn chung, những nghiên cứu về  “Hồng lâu mộng”  ở  Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với những nghiên cứu của Trung  Quốc, nghĩa là các nhà nghiên cứu chủ  yếu đi vào tìm hiểu, khẳng định  những đặc sắc về  nội dung, nghệ  thuật của tác phẩm. Có thể  kể  đến các   công trình chủ yếu sau: Lời giới thiệu “Hồng lâu mộng” của Phan Văn Các trong bộ  tiểu thuyết   “Hồng lâu mộng” do Nxb Văn học xuất bản năm 1996 đã trình bày một số  vấn đề về tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc, quá trình sáng tác, văn bản  và lịch sử  lưu truyền, sự ra đời và phát triển của Hồng học, khái quát nội   dung và nghệ thuật của tác phẩm. “Lịch sử  văn học Trung Quốc”  (1995) của Lê Huy Tiêu và   Lương Duy  Thứ,  từ việc chỉ ra cuộc sống hưởng lạc của hai phủ Vinh – Ninh, tác giả  khái quát nên bản chất của giai cấp thống trị phong kiến. Giáo trình cũng  chỉ ra ý nghĩa xã hội rộng lớn của bi kịch tình yêu trong “Hồng lâu mộng”. “Để hiểu tám bộ  tiểu thuyết cổ Trung Quốc” (2000) của Lương Duy Thứ  đã phân tích bản chất của giai cấp phong kiến, chỉ ra những mâu thuẫn nội  tại của xã hội thượng lưu, những điều kiện tất yếu dẫn đến sự suy tàn của  nhà họ  Giả. Tác giả  cũng đã đề  cập đến vấn đề  bi kịch tình yêu và hôn  nhân dưới chế độ phong kiến. “Giáo trình văn học Trung Quốc” (1998) của Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy   Thứ đã nhận định: “tài năng bậc thầy của ngòi bút tả thực theo quan niệm   nghiêm ngặt” của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc. “Những bộ  tiểu thuyết cổ  điển hay nhất Trung Quốc” (1991) của Trần  Xuân Đề cũng đã khẳng định tác giả “Hồng lâu mộng” không đứng ở vị trí  người thứ ba để  giới thiệu nhân vật mà thông qua hành động để khắc họa   tính cách nhân vật. Tác giả chỉ ra thường có sự  xung đột giữa hai thế  lực:  cũ và mới, tiến bộ và phản động làm địa bàn cho nhân vật hoạt động. 9
  10. “Thơ  văn cổ  Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ” (1999) của Nguyễn Khắc   Phi chú trọng tìm hiểu bút pháp “song quản tề hạ”, một bút pháp tiêu biểu  góp phần làm rõ tính cách nhân vật. Tác giả cũng đã bàn đến vấn đề  miêu   tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm. “Mạn đàm về Hồng lâu mộng” của Trương Khánh Kiện, Lưu Vĩnh Lương  do Nguyễn Phố dịch (2002) là những bàn luận khá sắc sảo và thấu đáo về  tài năng miêu tả hiện thực một cách tỉ mỉ, chi tiết của tác giả. Tác giả đưa   ra hai mươi tám vấn đề  luận giải đầy hấp dẫn và có ý nghĩa với độc giả  về số phận, cuộc đời người phụ nữ. Thành tựu của những công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần khẳng  định những giá trị to lớn của “Hồng lâu mộng” về cả hai phương diện nội   dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Qua khảo sát những   bài viết của các tác giả, chúng tôi nhận thấy vấn đề  bi kịch con người cá   nhân trong “Hồng lâu mộng” là một trong những nội dung được quan tâm  tìm hiểu nhằm làm rõ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm, đó là một gợi ý   hết sức quan trọng để  chúng tôi xây dựng đề  tài. Thành tựu của các công  trình nghiên cứu nói trên là những tài liệu vô cùng quý báu, gợi ý cho chúng  tôi thực hiện đề tài của khóa luận này. 10
  11. PHẦN THỨ BA: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào  Tuyết Cần – Cao Ngạc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Bộ tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc qua bản   dịch của nhóm Bùi Hạnh Cẩn, Ngọc Anh, Kiều Liên dịch (2 tập), Nhà xuất  bản Văn học, năm 2009. 3.3. Nội dung nghiên cứu Tìm hiểu bi kịch con người cá nhân trong “Hồng lâu mộng” qua hai bi kịch   chính: bi kịch tình yêu và bi kịch tư tưởng. Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng con người cá nhân trong   tác phẩm. 3.4. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài nàychúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau: 3.4.1. Phương pháp thống kê – phân loại Để  tiến hành thống kê những chi tiết thể  hiện bi kịch con người cá nhân  trong tác phẩm, sau đó phân loại những dẫn chứng trên góc độ bi kịch tình  yêu và bi kịch lí tưởng sống mới. 3.4.2. Phương pháp phân tích– tổng hợp Tiến hành phân tích các dẫn chứng để  phục vụ  cho các luận điểm của đề  tài, trên cơ sở đó, tổng hợp, khái quát, đánh giá vấn đề và rút ra kết luận. 3.4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu So sánh – đối chiếu với các thiên tiểu thuyết cùng thời khác để  thấy được  sự kế thừa và đổi mới của tác phẩm. 11
  12. 12
  13. 3.4.4. Phương pháp cấu trúc – hệ thống Do tác phẩm có dung lượng lớn (120 hồi), các tình tiết tản mạn nên việc sử  dụng phương pháp cấu trúc – hệ thống giúp chúng tôi nghiên cứu một cách  khoa học, có cái nhìn bao quát để  từ  đó tập trung hiệu quả  vào vấn đề  bi  kịch con người cá nhân, tìm ra các biện pháp nghệ  thuật đặc sắc khi xây  dựng bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm.  13
  14. PHẦN THỨ TƯ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG  CỦA TIỂU THUYẾT MINH – THANH 4.1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm 4.1.1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc Tào Tuyết Cần (1716 – 1763?) tên thật là Tào Triêm, tự  là Mộng  Nguyên, hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê, quê ở Liêu Dương, tổ tiên  ông vốn là người Hán sau nhập tịch Mãn Châu. Ông là một nhà thơ, một  nhà tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả  của cuốn tiểu thuyết   “Hồng lâu mộng” nổi tiếng.  Tào Tuyết Cần xuất thân trong một gia đình quan lại thuộc tầng lớp   đại quý tộc thời nhà Thanh. Vào thời Tào Dần – ông nội Tào Tuyết Cần,  gia đình họ  Tào hết sức thịnh vượng, vua Khang Hy năm lần đi kinh lý  phương Nam thì đã bốn lần trú tại nhà ông. Qua đó có thể thấy được cuộc  sống hào hoa và mối quan hệ  mật thiết giữa gia đình họ  Tào với hoàng  thất.Không chỉ  là một hào môn vọng tộc, gia đình Tào Tuyết Cần còn có   truyền thống về  văn chương thi phú. Tào Dần là người lưu giữ  sách nổi   tiếng thời đó, chính Tào Dần là người đứng ra hiệu đính và in ấn bộ “Toàn  Đường Thi” nổi tiếng, ông còn là tác giả bộ “Luyện đình thi sao” và nhiều   trước tác khác. Đến thời Ung Chính thứ  5 (1729), cha của Tào Tuyết Cần là Tào  Diệu bị  cách chức với tội danh hành vi bất đoan, nhũng nhiễu dịch trạm,  thiếu khống rồi bị  hạ  ngục trị  tội, tịch biên tài sản. Tào Tuyết Cần phải   theo gia đình rời Giang Nam về  Bắc Kinh sinh sống, nhà họ  Tào lâm vào   cảnh sa sút nhanh chóng. Tào Tuyết Cần phải sống qua ngày trong những  14
  15. ngày cay đắng nhất của đời mình với nghèo khổ, sống nhờ  vào việc bán   tranh và sự giúp đỡ  của bạn bè. Sau này vì  ốm đau không tiện chạy chữa,  lại thêm đau khổ trước cái chết của đứa con trai duy nhất, ông mất để lại   người vợ góa bụa với cảnh sống túng quẫn và 80 hồi “Thạch đầu kí” còn  dang dở. Đám tang của ông chỉ  có vài ba người bạn thương tình tống táng  qua quýt. Đó là kết cục bi thảm của một tiểu thuyết gia thiên tài vào bậc   nhất của nhân loại. Tào Tuyết Cần sáng tác nhiều thơ  nhưng đến nay đều bị  thất truyền hết.   Ông sáng tác trước hết là để  giải tỏa chính nỗi lòng tích tụ  bao tâm sự  chồng chất của mình về  con người và thời đại. Thế  giới quan trong sáng   tác của ông thấm đẫm màu sắc hư  vô và bi quan, đó là sự  chiêm nghiệm  sâu sắc về  bản chất hủ bại của giai cấp phong kiến thống trị đã làm nảy  sinh ra những mâu thuẫn xã hội đương thời.  Về  con người của Tào Tuyết Cần, chúng ta chỉ  biết rất sơ  lược: ông là   người thông minh, nhạy cảm, đa tài, đa nghệ, giỏi thơ, khéo vẽ, thích rượu,   cao ngạo, phóng túng và có thái độ  ngạo nghễ  trước các thế  lực đen tối  trong xã hội. Tuy lớn lên trong cảnh bần cùng, suy sụp của gia đình nhưng   ông vẫn giữ  được phẩm chất thanh cao, coi khinh những kẻ  xu thời phụ  thế, chán ghét con đường công danh phú quý. Cao Ngạc (1738 – 1815?) tự  là Lan Thự, Vân Sĩ, biệt hiệu là Hồng lâu  ngoại sĩ (người  ở  ngoài lầu hồng – không dính dáng đến công danh phú  quý). Tổ tiên của ông ở huyện Thiết Lĩnh, tỉnh Liêu Linh.Ông xuất thân từ  tầng lớp quý tộc, là người Hán nhập tịch Mãn Châu như Tào Tuyết Cần. Thuở nhỏ Cao Ngạc thích đi du ngoạn cảnh đẹp quê hương. Ông là người   chăm học, thuộc lòng kinh sử, giỏi văn bát cổ, thi, từ, tiểu thuyết, hí khúc,  hội họa.Cao Ngạc muốn tiến thân lập công danh bằng con đường khoa cử.   Năm Càn Long thứ  53 (1788), Cao Ngạc thi Hương đỗ  cử  nhân. Năm Càn  Long thứ 60, ông thi đỗ tiến sĩ tam giáp và lần lượt làm chức Lịch quan nội  15
  16. các trung thư, Nội  các  thị   độc. Năm Gia  Khánh thứ  6 (1801),  ông  đảm  nhiệm việc khảo xét kì thi Hương và khảo thí quan lại. Đến năm 1809, ông  làm chức Giang Nam đạo Giám sát ngự sử. Đến năm 1813, ông được thăng  chức làm Hình khoa cấp sự trung. Trong thời gian làm quan ông được xem   là người tiết tháo, cẩn trọng, chính sự  cần mẫn, tài năng đứng đầu, hiểu  biết sâu rộng.Cao Ngạc làm quan dưới hai triều Càn Long – Gia Khánh, trải  qua lắm hoạn nạn trên quan trường, về già lại sống cuộc sống thanh bần. Ngoài 40 hồi viết tiếp “Hồng lâu mộng”, Cao Ngạc còn có nhiều tác phẩm   khác: “Thanh sử  cảo – Văn uyển nhị” có chép “Lan thự  thi sao”, “Dương  Tông Hy trong Bát kỳ văn kinh” có chép “Cao Lan Thự tập”, đến nay đều bị  thất truyền. Hiện nay còn “Lan Thự  thập nghệ” (bản thảo), “Lại trị  tập   yếu”  cùng  tập  thơ  “Nguyệt  tiểu  sơn  phòng  di  cảo”  và   tập  từ   “Nghiên  Hương từ ­ Lộc tồn thảo”. 4.1.1.2. Quá trình hình thành tác phẩm “Hồng lâu mộng” “Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu son) là bộ  tiểu thuyết vĩ đại xuất hiện  vào thời Kiền Long (cuối thế  kỉ  XVIII). Đó là tác phẩm có ý nghĩa cắm  mốc một giai đoạn lịch sử  văn học vì dung lượng đồ  sộ, sự  thành thục   trong phương pháp sáng tác, vì âm vang của sự chuyển mình lịch sử mà nó   mang đến cho người đọc. “Hồng lâu mộng” gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết. Viết   chưa xong, ông từ trần. Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi sau. Sống trong xã hội nhiều thăng trầm, gia đình lại lâm vào cảnh sa sút, ngẫm  trải  đủ  cay  đắng cuộc đời bi lụy đã thôi thúc Tào Tuyết Cần sáng tác  “Hồng lâu mộng”. Ông đã dồn toàn bộ trí lực trong mười năm cuối đời để  viết tác phẩm và qua năm lần sửa chữa thì đã hoàn thành được 80 hồi và dự  thảo 40 hồi còn lại. Khi Tào Tuyết Cần mất tác phẩm vẫn chưa hoàn thành và không được  công bố. Mười lăm năm sau, bạn của ông là Cao Ngạc đã dụng tâm nghiên  16
  17. cứu tỉ  mỉ  nguyên ý và căn cứ  trên nền tảng ý tưởng, văn phong của Tào   Tuyết Cần mà viết tiếp 40 hồi sau cho phù hợp. Tác phẩm hoàn thành, Cao  Ngạc  đổi tên “Thạch đầu kí” thành “Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu  hồng), vừa phù hợp với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm  hồn ông vì biệt hiệu của ông là Hồng Lâu Ngoại Sĩ.  Giới nghiên cứu nhận định bốn mươi hồi sau của Cao Ngạc không thể sánh  với tám mươi hồi đầu của Tào Tuyết Cần về  mặt nội dung và tư  tưởng  nghệ  thuật. Nhưng đóng góp to lớn của Cao ngạc là đã bảo vệ  được sự  nhất quán về tư tưởng tình cảm, phong thái dung mạo, ngôn ngữ, tính cách   của hơn 400 nhân vật mà Tào Tuyết Cần xây dựng, hoàn thành kết cấu bi  kịch của toàn bộ  tác phẩm, khiến cho câu chuyện trở  nên hoàn chỉnh, nhờ  vậy mà “Hồng lâu mộng” nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi.  4.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết Minh – Thanh 4.1.2.1. Đặc điểm chung Tiểu thuyết Minh – Thanh kế thừa trực tiếp những thành tựu của thoại bản   Tống Nguyên, thuộc loại hình văn hóa Trung cổ gắn với sự xuất hiện của   tầng lớp thị dân và các đô thị. Thông thường tiểu thuyết Minh – Thanh được chia ra làm năm loại: tiểu  thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp, tiểu thuyết thần ma, tiểu thuyết  nhân tình thế thái và đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn). Tiểu thuyết lịch   sử  lấy đề  tài trong lịch sử rồi diễn nghĩa ra. “Tam quốc diễn nghĩa” là tác   phẩm tiêu biểu cho loại này. Tiểu thuyết nghĩa hiệp viết về anh hùng hảo  hán, trọng nghĩa khinh tài, xả thân vì nghĩa mà “Thủy hử” là tác phẩm tiêu  biểu. Tiểu thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại hoặc trong truyện tôn  giáo mà “Tây du kí” là thành công hơn cả.Tiểu thuyết nhân tình thế thái lấy   đề  tài trong cuộc sống đời thường, nói đến những tình cảm thông thường,   những con người bình thường. Loại này có thể  xem “Hồng lâu mộng” là  thành tựu tiêu biểu, ngoài ra còn có “Kim Bình Mai”, “Chuyện làng nho”  17
  18. cũng là những tác phẩm có giá trị. Loại cuối cùng là đoản thiên tiểu thuyết,  có hàng ngàn tác phẩm nhưng “Liêu trai chí dị” là nổi tiếng hơn cả. Tiểu thuyết Minh – Thanh được viết theo kết cấu chương hồi. Để hấp dẫn  người nghe, đến đoạn cao trào, gay cấn, thì người kể dừng lại với lời mời:   “Muốn biết sự  thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải”. Trong tác phẩm có  sự  giao thoa giữa biên niên sử  và truyện kể  dân gian, sự  xâm nhập của  truyện hoang đường vào sử sách. Ví dụ trong ba tác phẩm “Tam quốc diễn  nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí” đều được đúc kết trên cơ  sở  ba mảng   chuyện kể về lịch sử, về hảo hán anh hùng, về chuyện nhà Phật. Trong tiểu thuyết Minh – Thanh, cốt truyện rất được coi trọng.Câu chuyện   cơ bản được kể theo thời gian một chiều, cái gì xảy ra trước kể trước, cái  gì xảy ra sau kể  sau.Thông qua ngôn ngữ  và hành động tác giả  khắc họa   tính cách  nhân  vật.Đây là  một  trong  những   đặc  điểm nổi bật  của  tiểu  thuyết Minh – Thanh. Tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa cứu người của Lỗ  Trí Thâm trong “Thủy hử” được thể  hiện rất rõ nét thông qua ba cú đấm  đánh   chết   Trần   Quan   Tây   Trịnh   Đồ.   Hoặc   tấm   lòng   cương   trực   của  Trương Phi được thể hiện bằng hành động Trương Phi đánh đến gãy mười  cành liễu vào mông của tên mọt dân hại nước Đốc Bưu. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, tiểu thuyết Minh – Thanh rất chú trọng  vận dụng thủ pháp ước lệ và công thức để miêu tả, lí giải.Nhưng để  hình  tượng nhân vật trở nên sinh động thì ngoài việc phải biết lựa chọn những  chi tiết tiêu biểu, giàu ý nghĩa tượng trưngcòn đòi hỏi tác giả phải sắp xếp  các chi tiết đó thành một hệ thống hoàn chỉnh nhằm làm nổi bật đặc trưng  tính cách nhân vật.Biểu hiện tấm lòng trung nghĩa của Quan Vũ có đâu chỉ  vài lời giới thiệu sơ sài, mà là hàng loạt những câu chuyện sinh động. Thơ  và từ  là hai thể  loại được dùng phổ  biến trong tiểu thuyết Minh –   Thanh.Những câu thơ, bài từ  đặt  ở  đầu chương hoặc cuối hồi nhằm giới  thiệu hay tổng kết, có khi là sự giải thích hoặc là sự mỉa mai, phê phán, rút  18
  19. ra những triết lí nhân sinh. Trong “Hồng lâu mộng”, những bài thơ  từ  còn   có tác dụng nhất định trong việc sáng tạo hình tượng nhân vật. 4.1.2.2. Đặc điểm của tiểu thuyết đời Minh  Các đề  tài về  lịch sử với cảm hứng chủ đạo là ca ngợi anh hùng là đề  tài  chủ  đạo của tiểu thuyết đời Minh. Có thể  kể  tên một số  tác phẩm tiêu  biểu: “Tam quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí”,… Tiểu thuyết đời Minh có sự  kết hợp giữa văn chương bình dân và văn  chương bác học. Bên cạnh những câu văn dẫn chuyện của tác giả là những  câu đối thoại, độc thoại, trong ngôn ngữ nhân vật đậm tính bình dân. Điều  này khiến cho tiểu thuyết đời Minh rất hấp dẫn và có tính nhân dân rất sâu  sắc. Thi pháp kế  thừa thi pháp của loại hình truyện kể  trung đại như  kể  theo   thời gian một chiều, nhân vật được khắc họa chủ  yếu qua ngôn ngữ  và   hành động, ít chú ý miêu tả tâm lí nhân vật. 4.1.2.3. Đặc điểm của tiểu thuyết đời Thanh Đề tài thế sự là đề  tài chủ đạo của tiểu thuyết đời Thanh. Với cảm hứng  phê phán hiện thực, các tác giả  đương thời đã phản ánh chân thực hiện  thực đầy rẫy bất công ngang trái của xã hội phong kiến nhà Thanh đang   trên đà suy tàn. Tiểu thuyết đời Thanh là tiểu thuyết tâm lí xã hội. Quan niệm nghệ  thuật   về con người đã có sự đổi khác, người ta không còn viết về con người phi  thường nữa mà trong tác phẩm đã xuất hiện con người cá nhân, con người   thế tục. Tiểu thuyết đời Thanh đã chú ý miêu tả  tâm lí, tính cách và số  phận nhân  vật. Kết cấu truyện gắn với sự phát triển tâm lí của nhân vật chứ  không  còn miêu tả tuyến tính như  trong tiểu thuyết đời Minh nữa. Vì vậy có thể  thấy tiểu thuyết đời Thanh gần với tiểu thuyết hiện đại. Hình tượng nhân  vật trong tác phẩm cũng có sự  thay đổi cho phù hợp với trình độ, thị  hiếu  19
  20. của tầng lớp thị  dân đang sống trong thời đại có nhiều biến chuyển mới.  Nhân vật lúc này gắn với đời thực và được miêu tả tâm lí nhiều hơn. Trong  tiểu thuyết “Hồng lâu mộng”, Tào Tuyết Cần cũng đã chú ý vận dụng  những đoạn miêu tả tâm lí ngắn gọn để  khai thác bộ  mặt tinh thần và nội   tâm nhân vật.  4.1.3. Tiểu kết Hoàn cảnh sống cơ hàn đã hình thành cho Tào Tuyết Cần cái nhìn sâu   sắc về xã hội phong kiến suy tàn đương thời. Ngòi bút nhạy cảm và tài hoa  của ông đã cho ta thấy được cái tâm trạng tích tụ về con người và thời đại   trong ông. Về cuối đời, trong lúc đói khổ, bệnh tật, đau đớn giày vò thì tài  năng của ông vẫn tỏa sáng ở đỉnh cao, “Hồng lâu mộng” là minh chứng cho  tài năng kiệt xuất ấy. Tiếp bút đầy tài hoa cho bộ  tiểu thuyết còn dang dở  của Tào Tuyết Cần,  Cao Ngạc thực sự  đã kết nối được quan điểm sáng tác của Tuyết Cần,   hoàn thành kết cấu bi kịch cho tác phẩm. Dù còn nhiều hạn chế về mặt nội   dung và tư tưởng nhưng Cao Ngạc đã góp phần đưa bộ tiểu thuyết “Hồng  lâu mộng” trở thành một tác phẩm hoàn chỉnh có giá trị cao, đáng được tôn   vinh là cuốn tiểu hay nhất mọi thời đại mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. “Hồng lâu mộng” được xem là một tiểu thuyết mang tính hiện đại vì  trong tác phẩm đã xuất hiện những tình huống tâm lí đầy mâu thuẫn của số  phận con người cá nhân cụ  thể, họ  đại diện cho một giai cấp, một tầng   lớp. Số phận của họ gắn với những đau đớn, bất hạnh, những thăng trầm,   vui buồn trong cuộc sống đời thường. Văn học Minh – Thanh giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn   học Trung Quốc. Đó là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học   cổ  điển, cũng là giai đoạn dài nhất và có nội dung phong phú nhất, là giai  đoạn đánh dấu sự chuyển mình sang khuynh hướng hiện đại. Thời Minh –   Thanh được xem là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết. Với các bộ  “Tam   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2