intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp đại học: Điều tra hứng thú học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp đại học "Điều tra hứng thú học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương" trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hứng thú trong học tập của sinh viên; Xây dựng bộ câu hỏi điều tra hứng thú học tập; Kết quả điều tra nghiên cứu hứng thú trong học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường Đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp đại học: Điều tra hứng thú học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương

  1.     UBND TỈNH QUẢNG NAM  TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM  KHOA LÝ – HÓA ‐ SINH  ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐    NGUYỄN THỊ HUYỀN    TÊN ĐỀ TÀI    ĐIỀU TRA HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN  SƯ PHẠM VẬT LÝ TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG    NAM TRONG CÁC HỌC PHẦN VẬT LÝ DẠI    CƯƠNG        KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC                                1     
  2.     TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM  KHOA LÝ – HÓA ‐ SINH  ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐      KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC      Tên đề tài:  ĐIỀU TRA HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM  VẬT LÝ TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM TRONG CÁC HỌC  PHẦN VẬT LÝ DẠI CƯƠNG    Sinh viên thực hiện  NGUYỄN THỊ HUYỀN  MSSV: 2113010216  CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM VẬT LÝ  KHÓA 2013 – 2017    Cán bộ hướng dẫn  THS. VÕ HOÀNG TRÂN CHÂU  MSCB: …        2   
  3. I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp sinh viên học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.Hơn nữa, hứng thú học tập là một trong những vấn đề quan trọng của sinh viên. Hứng thú có ý nghĩa rất lớn đến thành tích và kết quả học tập của học sinh, sinh viên. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy phải làm sao gây được hứng thú cho người học với các môn ở mức cần thiết. Đặc biệt trong các trường sư phạm với chức năng đào tạo đội ngũ giáo viên có đủ trình độ chuyên môn vững vàng cũng như nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của xã hội thì việc nâng cao hứng thú đối với môn học chuyên ngành lại càng trở nên cấp thiết hơn. Đối với các sinh viên ngành sư phạm vật lý các học phần vật lý đại cương có vai trò rất quan trọng, cung cấp cho sinh viên những nội dung cơ bản nhất của vật lý, là nền tảng để nghiên cứu sau này. Trang bị cho sinh viên những kiến thức về các hiện tượng tự nhiên trong thế giới vi mô ở cấp độ tương đối tính và ứng dụng những kiến thức đó trong nghiên cứu khoa học. Hầu hết các sinh viên đều nhận thấy tầm quan trọng của các học phần này, nhưng việc nghiên cứu một cách khoa học lại không được sinh viên quan tâm đúng mức dẫn đến sinh viên chưa chủ động , chưa hứng thú khi học trên lớp cũng như ngoài giờ học. Hơn nữa ngành sư phạm Vật lý tại trường Đại học Quảng Nam được mở ra từ lâu nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào về hứng thú học tập của sinh viên đối với các môn học trong chương trình đào tạo. 3   
  4. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn và lí luận trên tôi lựa chọn đề tài “ Điều tra hứng thú học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương” để nghiên cứu. Nếu đề tài này được nghiên cứu thành công thì cơ bản nắm được tình hình hứng thú học tập các học phần này của sinh viên, nguyên nhân của sự mất hứng thú (nếu có), đồng thời có thể đề xuất được những giải pháp hữu hiệu trong việc giảng dạy và học tập các học phần vật lý đại cương đối với giảng viên và sinh viên, qua đó góp phần bồi dưỡng hứng thú học tập cho sinh viên. Nhờ vậy chất lượng học tập toàn diện của sinh viên cũng được nâng cao. Hơn nữa bản thân tôi sẽ có kinh nghiệm hơn, ứng dụng vào điều tra hứng thú học của học sinh để nâng cao chất lượng dạy – học ở trường phổ thông sau này. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Điều tra tình hình hứng thú học tập các học phần vật lý đại cương của sinh viên sư phạm vật lý. - Phân tích nguyên nhân của thực trạng thiếu hứng thú trong học tập các học phần này. - Đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao việc dạy và học các học phần này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: hứng thú học tập của sinh viên ngành Vật Lý năm 1, 2, 3, 4 - Phạm vi nghiên cứu : sinh viên ngành vật lý trường Đại học Quảng Nam đối với các học phần vật lý đại cương. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Phương pháp điều tra giáo dục + Phương pháp điều tra mẫu hỏi thông tin 4   
  5. + Phương pháp quan sát - Phương pháp thống kê toán học 5. Lịch sử nghiên cứu Năm 1896, John Dewey nhà giáo dục học sáng lập ra trường thực nghiệm, ưu tiên hứng thú của học sinh. Năm 1940, A.F.BEEeeliep đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về ‘’ Tâm lý học hứng thú’’ Năm 1955, A.P.Ackhadop có công trình nghiên cứu về mối quan hệ khắng khít giữa tri thức học viên với hứng thú học tập. Năm 1970 có những công trình nghiên cứu như ‘’ Hứng thú bộ môn của học sinh cấp III’’ của Trương Anh Tuấn, Phạm Huy Thụ, Đặng Trường Thanh. Năm 1973, Phạm Tất Dong đã bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ ở Liên Xô với đề tài ‘’ Một số đặc điểm hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp’’. Năm 1981, Nguyễn Thị Tuyết với đề tài luận văn ‘’ Bước đầu tìm hiểu hứng thú học văn học lớp 10 ở một số trường Phổ thông Trung học tại Thành phố Hồ Chí Minh’’. Năm 1982, Đinh Thị Chiến ‘’ Bước đầu tìm hiểu hứng thú với nghề sư phạm của giáo sinh Cao đẳng sư phạm Nghĩa Bình’’. Năm 2003, Dương Thị Kim Oanh nghiên cứu ‘’ Ảnh hưởng của việc sử dụng đa phương tiện trong giảng dạy tới hứng thú học nghiệp vụ sư phạm của sinh viên Khoa sư phạm kỹ thuật 12T, trường Đại học Bách khoa Hà Nội’’. Năm 2007, Lê Thanh Hà với luận văn thạc sĩ về ‘’ Hứng thú của sinh viên đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh’’ . Năm 2013, Lương Thị Kim Chi với đề tài ‘’ Hứng thú học tập môn giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học Quảng Nam’’. 5   
  6. Còn rất nhiều bài nghiên cứu khoa học về hứng thú nhưng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên đây chúng tôi chỉ thể hiện một số bài nghiên cứu về hứng thú nổi bật. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm ba chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hứng thú trong học tập của sinh viên. - Chương 2: Xây dựng bộ câu hỏi điều tra hứng thú học tập. - Chương 3: Kết quả điều tra nghiên cứu hứng thú trong học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường Đại học Quảng Nam trong các học phần vật lý đại cương.   6   
  7. II. NỘI DUNG CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN 1.1. Cơ sở lý luận của việc hứng thú trong học tập 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1 Hứng thú Một số quan niệm về hứng thú các nhà Tâm lý học trên thế giới [8] Từ những năm nửa đầu thế kỉ XX , khái niệm hứng thú đã được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu các tác giả khác nhau cho thấy khái niệm “hứng thú” được sử dụng khá rộng rãi, được hiểu dưới nhiều khía cạnh khá nhau do đó, có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhà tâm lý học I.PH. Shecbec cho rằng ‘‘Hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có của con người nó được hiểu thông qua thái độ, tình cảm của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan’’. Annoi, nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng ‘’ Hứng thú là một sự sáng tạo của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào’’. Harlette Buhler cho rằng ‘’Hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến nay vẫn chưa được xác định, hứng thú là một từ, không những chỉ toàn bộ những hành động khá nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu’’. K.Strong và W James cho rằng ‘’ Hứng thú là một trường hợp riêng của thiên hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như một nét tính cách’’. Tác giả E.Super lại cho rằng ‘’ Hứng thú không phải là thiên hướng không phải là nét tính cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng lẽ với thiên hướng, riêng lẽ với tính cách, riêng lẽ với cảm xúc’’. Tuy nhiên ông không đưa ra một quan niệm rõ ràng về hứng thú. Tác giả Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận ‘’ Hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thoả mãn của cá nhân’’. 7   
  8. Quan điểm hứng thú của Tâm lý học Mácxit[8] Tâm lý học Maxi xem xét hứng thú là kết quả hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại ở con người. Khái niệm hứng thú được xét dưới nhiều góc độ khá nhau. Hứng thú theo khía cạnh nhận thức: Trong đó có V.N Miasixep, V.G.Ivanop, A.GAckhipop coi ‘’ Hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá nhân với những đối tượng trong hiện thực khách quan’’. Tác giả A.A Liublinxcaia lại khẳng định ‘’ Hứng thú là thái độ nhận thức của con người đối với xung quanh, đối với một mặt nào đó của nó, đối với một lĩnh vực nhất định mà trong đó con người muốn đi sâu hơn’’. Hứng thú xét theo sự lựa chọn của cá nhân đối với thế giới khách quan: Tác giả S.L Rubinstein đưa ra tính chất hai chiều trong mối quan hệ tác động qua lại giữa đối tượng với chủ thể. Ông nói ‘’ Hứng thú luôn có tính chất quan hệ hai chiều. Nếu như một vật nào đó làm tôi chú ý có nghĩa là vật đó rất thích thú đối với tôi’’. Tác giả A.N.Leonchiev cũng xem hứng thú là thái độ nhận thức nhưng đó là thái độ nhận thức đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng hoặc hiện tượng của thế giới khách quan’’. P.A.Đudich cho rằng ‘’ Hứng thú là biểu hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh. Đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối ổn định của con người đối với các hoạt động nhất định’’. Hứng thú xét theo khía cạnh gắn với nhu cầu: Tác giả Sbinle cho rằng ‘’ Hứng thú là kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu’’ Quan niệm này đồng nhất hứng thú với nhu cầu. Thực chất hứng thú có quan hệ mật thiết với nhu cầu của từng cá nhân, nhưng nó không phải là chính bản thân nhu cầu. Bởi nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu cần đượcthỏa mãn, là cái con người ta cần, nhưng không phải mọi cái cần thiết đều đem lại đem lại sự 8   
  9. hứng thú. Quan điểm này đã bó hẹp khái niệm hứng thú chỉ trong phạm vi với nhu cầu. Quan điểm hứng thú của các nhà tâm lý học trong nước Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận, đi sâu vào nó. Trong khi đó, Nguyễn Quang Uẩn đã đưa ra một khái niệm tượng đối thống nhất ‘’Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động’’[5]. Khái niệm này vừa nêu được bản chất của hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động cá nhân. Từ những quan niệm hứng thú của các tác giả, có thể phát biểu khái niệm hứng thú như sau: ‘’ Hứng thú là thái độ nhận thức đặc biệt đối với đối tượng nào đó vừa có giá trị vừa có sức hấp dẫn kích thích con người hành động’’ Như vậy, hứng thú của cá nhân được hình thành trong hoạt động và sau khi đã được hình thành chính nó quay trở lại thúc đẩy cá nhân hoạt động. Vì lý do trên, hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng gây ra nó. Khát vọng này được biểu hiện ở chỗ cá nhân tập trung chú ý cao độ vào cái làm cho mình hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình tâm lý theo một hướng xác định. Do đó, tích cực hóa hoạt động của con người theo hướng phù hợp với hứng thú nên dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn người ta vẫn thấy thỏa mái và thu được hiệu quả cao. 1.1.1.2 Hứng thú học tập Học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sinh viên và trong quá trình học tập, hứng thú học tập giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả các quá trình học tập. Nhờ hứng thú mà trong quá trình học tập, sinh viên có thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực tìm 9   
  10. tòi, sáng tạo. Hứng thú tạo nên ở sinh viên sự tích cực học tập, khao khát tiếp cận và đi sâu vào tìm hiểu, khám phá tri thức. Do đó, nói về hứng thú học tập, người ta nghiên cứu cho rằng: Hứng thú hoc tập chính là thái độ nhận thức đặc biệt của người học đối với hoạt động học tập do có ý nghĩa thiết thực và có ý nghĩa trong cuộc sống, trong quá trình học tập làm việc của mỗi người. 1.1.2. Vai trò của hứng thú Theo Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Thạc trích trong giáotrình Tâm lý học đại cương, hứng thú có vai trò [6]: - Đối với hoạt động nói chung: Trong quá trình hoạt động của con người, cùng với nhu cầu, hứng thú kích thích hoạt động làm con người say mê hoạt động đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của mình. Hứng thú hình thành và phát triển đến nhu cầu trong lĩnh vực đó phát triển dễ dàng hơn. Nhu cầu và hứng thú có quan hệ mật thiết với nhau, nhu cầu là tiền đề, cơ sở của hứng thú, khi hứng thú với một cái gì thì cá nhân sẽ hoạt động tích cực chiếm lĩnh đối tượng để thoả mãn nhu cầu trong cuộc sống lúc đó xuất hiện nhu cầu mới cao hơn. Công việc nào có hứng thú cao hơn người thực hiện nó một cách dễ dàng, có hiệu quả cao, tạo ra cảm xúc dương tính mạnh mẽ đối với người tiến hành hoạt động đó, họ sẽ tìm thấy niềm vui trong công việc, công việc sẽ trở nên nhẹ nhàng, ít tốn công sức hơn, có sự tập trung cao. Ngược lại người ta cảm thấy gượng ép, công việc trở nên nặng nhọc khó khăn làm cho người ta mệt mỏi, chất lượng hoạt động giảm rõ rệt. - Đối với hoạt động nhận thức: Hứng thú là động lực giúp con người tiến hành hoạt động nhận thức hoạt động hiệu quả, hứng thú tạo ra động cơ quan trọng của hoạt động. Hứng thú làm tích cực hóa các quá trình tâm lý ( tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng..) -Đối với năng lực: Khi chúng ta được làm việc phù hợp với hứng thú, thì dù phải vượt qua khó khăn người ta vẫn cảm thấy thỏa mái làm cho năng lực trong lĩnh vực hoạt động 10   
  11. ấy dễ dàng hình thành, phát triển. Năng lực phụ thuộc vào sự tập luyện, nhưng không chỉ có hứng thú mới cho phép người ta say sưa làm việc gì đó tương đối lâu dài không mệt mỏi mà không sớm thỏa mãn mà thôi. Hứng thú làm cho năng khiếu thêm sắc bén. Tác giả L.X.Xolovaytrich khẳng định ‘’Bằng cách phát triển hứng thú đối với các hoạt động khác nhau, chúng ta sẽ phát huy được một trong những năng lực quý giá nhất của con người là năng lực thích thú, tập trung vào hoạt động, hoàn toàn say mê với công việc cần làm’’ [4] Đối với người học việc hình thành năng lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó có hứng thú của người học đối với môn học là rất quan trọng, trong quá trình giảng dạy của giảng viên phải thu hút được người học vào bài giảng làm cho người học có hứng thú đối với môn học. Hứng thú là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển năng lực cá nhân. Hứng thú và năng lực có quan hệ biện chứng với nhau, cái này làm tiền đề cho cái kia và ngược lại. Hứng thú và năng lực là một cặp không tách rời lẫn nhau, có nghĩa là tài năng sẽ bị thui chột nếu hứng thú không thực sự sâu sắc, đầy đủ, nói chung hứng thú không được nuôi dưỡng lâu dài nếu không có những năng lực cần thiết để nuôi dưỡng hứng thú. Đối với người học hứng thú học tập có vai trò quan trọng. Nó tạo ra động cơ chủ đạo của hoạt động học tập, đối với người học, vì vậy việc hình thành và phát triển hứng thú nói chung hứng thú học tập nói riêng của người học là mục đích gần của người giảng viên. 1.1.3. Phân loại hứng thú Theo P.A.Rudich, Tâm lý học ( trang 335-338) [7] dựa vào những tiêu chuẩn khác nhau, nên có nhiều cách phân loại hứng thú: + Hứng thú thụ động: Là loại hứng thú tĩnh quan dừng lại ở hứng thú ngắm lại ở hứng thú ngắm nhìn, chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú, không thể hiện mặt tích cực để nhận thức sâu sắc các đối tượng, làm chủ đối tượng và hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực mình hấp thu. 11   
  12. + Hứng thú tích cực: Là loại hứng thú không chỉ chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú mà lao vào hoạt động với mục đích chiếm lĩnh được đối tượng. Nó là một trong những nguồn kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành kĩ năng kĩ xảo, nguồn gốc của sự sáng tạo. - Căn cứ vào nội dung đối tượng nội dung hoạt động chia ra làm 5 loại: + Hứng thú vật chất: là loại hứng thú biểu hiện thành nguyện vọng như muốn có chỗ này đầy đủ, tiện nghi, ăn ngon, mặt đẹp… + Hứng thú nhận thức: ta có thể hiểu hứng thú dưới hình thức học tập như : hứng thú vật lý học, hứng thú triết lý học,… + Hứng thú lao động nghề nghiệp: là hứng thú một ngành nghề cụ thể: hứng thú nghề sư phạm, hứng thú nghề bác sĩ + Hứng thú xã hội- chính trị : hứng thú một lĩnh vực hoạt động chính trị + Hứng thú mĩ thuật: hứng thú về cái hay, cái đẹp…như văn học phim ảnh âm nhạc… - Căn cứ vào khối lượng của hứng thú, chia ra hai loại: + Hứng thú rộng: bao quát nhiều lĩnh vực nhiều mặt thường không sâu + Hứng thú hẹp: hứng thú từng mặt, từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể,…trong cuộc sống cá nhân đòi hỏi hứng thú rộng- hẹp, vì chỉ có hứng thú hẹp mà không có hứng thú rộng thì nhân cách họ sẽ không toàn diện, song chỉ có hứng thú rộng thì sự phát triển nhân cách sẽ hời hợt, thiếu sâu sắc. - Căn cứ vào tính bền vững, chia làm hai loại: + Hứng thú bền vững: thường gắn liền với năng lực cao và sự nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và thiên hướng của mình. + Hứng thú không bền vững: hứng thú thường bắt nguồn từ nhận thức hời hợt đối tượng hứng thú. - Căn cứ vào chiều sâu của hứng thú, chia làm hai loại: + Hứng thú sâu sắc: thường thể hiện thái độ thận trọng có trách nhiệm với hoạt động, công việc. Mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm vững đến mức hoàn hảo đối tượng của mình. 12   
  13. + Hứng thú hời hợt bên ngoài: đây là những người qua loa đại khái trong quá trình nhận thức, trong thực tiễn họ là những người nhẹ dạ nông nổi. - Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú. Chia làm hai loại: + Hứng thú trực tiếp: hứng thú đối với bản thân quá trình hoạt động, hứng thú với quá trình nhận thức, quá trình lao động và hoạt động sáng tạo. + Hứng thú gián tiếp: loại hứng thú gắn liền với kết quả hoạt động. 1.1.4. Biểu hiện của hứng thú Hứng thú là sự kết hợp giữa nhận thức với xúc cảm tích cực và hành động, nghĩa là có sự kết hợp giữa sự hiểu biết về đối tượng với sự thích thú với đối tượng và tính tích cực hoạt động với đối tượng. Như vậy, hứng thú được biểu hiện ở ba mặt: nhận thức về đối tượng, thái độ đối với đối tượng, thể hiện hành vi để vương tới chiếm lĩnh đối tượng. *Biểu hiện của hứng thú học tập: Nhà tâm lý học N.G.Maozova cho rằng để phát hiện ra hứng thú học tập có thể căn cứ vào ba nhóm dấu hiệu dưới đây: [3] Những dấu hiệu đặc thù riêng của hứng thú, đó là những biểu hiện về hành vi và hoạt động của chủ thể trong quá trình hoạt động học tập trên lớp: + Tập trung chú ý trong giờ học: khi hứng thú cá nhân tập trung tư tưởng, không sao nhãn với vấn đề đang quan tâm. + Khi theo dõi bài giảng, cá nhân tham gia vào bàn bạc, thảo luận những vấn đề giáo viên đặt ra cho cả lớp. Do đó việc cá nhân hăng hái giơ tay ý kiến phát biểu xây dựng bài, số lượng và chất lượng của những phát biểu… là một dấu hiệu chứng tỏ cá nhân hứng thú học tập. + Nảy sinh các câu hỏi trong quá trình hoạt động học tập. Khi hứng thú cá nhân muốn đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức, do đó nảy sinh các câu hỏi và sự tìm tòi lời giải đáp cho câu hỏi đó. -Những dấu hiệu của hứng thú liên quan đến sự thay đổi hành vi của cá nhân ngoài giờ học: các cá nhân tranh luận với nhau về vấn đề đặt ra suy nghĩ về nội dung bài học,… 13   
  14. - Những dấu hiệu liên quan tới cách sống của cá nhân ở nhà là biểu hiện độ bền vững, phát triển cao của hứng thú học tập, như là ở nhà cá nhân đọc sách gì, sử dụng thời gian rảnh rỗi như thế nào, lựa chọn các hình thức ngoại khóa nào,... * Các mức độ hứng thú học tập các học phần vật lý đại cương Căn cứ vào cấu trúc và các dấu hiệu của hứng thú học tập, có thể đánh giá hứng thú học tập của sinh viên theo các mức sau đây: - Rất hứng thú : Sinh viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa vai trò của các học phần đối với nghề nghiệp trong tương lai và với cuộc sống cá nhân. Trong quá trình học sinh viên tỏ ra yêu thích môn học, chăm chú nghe giảng, tích cực phát biểu ý kiến, tham gia thảo luận, nghiên cứu tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tham gia nghiên cứu khoa học,… - Có hứng thú : Sinh viên nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của môn học, có thái độ học tập nghiêm túc, chú ý nghe giảng, tích cực phát biểu ý kiến, tham gia thảo luận, nghiên cứu tài liệu , nhưng tính tích cực chưa cao, chủ yếu dựa vào tài liệu trong giáo trình mà chưa đầu tư nhiều cho môn học. - Bình thường : Sinh viên học để cho qua các môn, học theo nghĩa vụ, không biểu hiện sự hứng thú học tập. - Không hứng thú : Trên lớp không tập trung vào nội dung bài học, làm việc riêng, không chú ý nghe giảng, không đọc giáo trình hay tài liệu liên quan. - Rất không hứng thú: Không muốn đến lớp, vô cùng chán nản mỗi khi có giờ học và phải học các học phần này. 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển hứng thú học tập của sinh viên trong quá trình học tập, trong đó, yếu tố xuất phát từ bản thân người học là cơ sở của hứng thú học tập.  Yếu tố chủ quan Trình độ phát triển trí tuệ của người học là cơ sở cần thiết để phát triển hứng thú học tập, và hơn thế nữa, đây là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng hứng thú học tập. Một khi cá nhân đã có được những tri thức ban đầu về đối tượng, có những kĩ năng, kĩ xảo đơn giản, có vốn thao tác trí tuệ nhất định, cá nhân đó mới 14   
  15. có thể có được thái độ nhận thức với đối tượng và mới có thể có hứng thú. Khi người học hiểu được toàn bộ ý nghĩa của việc học tập, sẽ nảy sinh thái độ tự giác trong quá trình học tập. Và chính thái độ tự giác ấy là cơ sở củng cố hứng thú học tập. Mặt khác, sự phát triển trí tuệ còn là cơ sở để cá nhân tạo nên thành tích và song song đó là xúc cảm của sự thành công. Cá nhân không thể hành động đạt hiệu quả khi không có trình độ phát triển trí tuệ, kĩ năng nhất định. Khi nói về vai trò của thành tích trong quá trình hình thành và phát triển hứng thú, ta cần lưu ý đến tính chất và phương thức hoạt động. Một công việc quá dễ dàng dẫn đến thành công, tuy nhiên sự thành công dễ dàng ấy không tạo nên sự thỏa mãn thực sự và niềm vui chiến thắng. Còn những khó khăn, trở ngại khi vượt qua với sự nổ lực, cá nhân sẽ làm việc trở nên hấp dẫn và điều đó trở nên hứng thú. Cho nên có thể nói, sự xuất hiện của hứng thú học tập trước hết phụ thuộc vào trình độ phát triển trí tuệ, kinh nghiệm và tri thức của cá nhân, và không chỉ là điều kiện để hình thành hứng thú, chúng tạo nên chất liệu mới cho hứng thú. Thái độ đúng đắn với đối tượng được xem là yếu tố đi trước của hứng thú học tập. Thái độ đúng đắn này thể hiện ở hai mặt: ở thái độ cảm xúc với đối tượng và thái độ ý thức với đối tượng. Thái độ cảm xúc đúng đắn với đối tượng của hứng thú là tổ hợp của những rung cảm có liên quan đến những gì diễn ra đồng thời với quá trình lĩnh hội môn học, một chương trình, một bài học nào đó. Khi người học chưa có hứng thú nhận thức, hình thành thái độ cảm xúc này là đặc biệt cần thiết. Bởi chúng tham gia vào việc tạo nên thái độ đúng đắn với đối tượng, với hoạt động và với chủ thể hoạt động. Trong quá trình hoạt động nghiên cứu đối tượng, ở cá nhân xuất hiện những cảm xúc khác nhau như niềm vui về nhận thức, niềm vui về kết quả sẽ đạt được. Chính những cảm xúc đó sẽ giúp cho sự duy trì và phát triển hứng thú. A.G.Covaliop nhận xét, hứng thú có thể hình thành một cách tự phát do đối tượng có sự hấp dẫn về tình cảm sau đó mới đến nhận thức về sự cần thiết của đối tượng. Quá trình hình thành nhận thức có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ ý thức về ý nghĩa của đối tượng đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn [1]. Cho nên để tạo 15   
  16. hứng thú cho người học, cần lưu ý áp dụng các biện pháp hướng dẫn người học có thái độ cảm xúc và có ý thức đúng đắn với môn học. Ngoài ra, sự hình thành và phát triển tâm lý còn phụ thuộc vào các đặc điểm tâm lý khác nhau như nhu cầu, năng lực nhận thức, sự thúc đẩy của ý chí thói quen…Nhu cầu nhận thức thể hiện ở tính ham hiểu biết, tự tìm tòi khám phá. Hứng thú nhận thức được phát triển trong mối tương quan chặc chẽ với năng lực. Trong mối quan hệ này, năng lực vừa cơ sở vừa là điều kiện để thành công trong hoạt động, mà thành công là tiền đề nảy sinh hứng thú. Ngược lại đến lượt mình, hứng thú lại phát huy năng lực của cá nhân trong phạm vi hoạt động đó. Khi cá nhân hứng thú với một lĩnh vực tri thức một phạm vi hoạt động nào đó, đó cũng chính là dấu hiệu chứng tỏ người ấy có năng lực và có khả năng phát huy năng lực của mình.  Yếu tố khách quan Đó là những yếu tố tác động vào chủ thể làm cho bản thân sinh viên có hay không có hứng thú với hoạt động học tập Những yếu tố thuộc về môn học Nội dung các môn học tác động đến hứng thú học tập của sinh viên dựa trên cơ sở phù hợp với nhận thức của bản thân họ, thiết thực với ngành nghề đang theo học, cập nhật những nội dung mới, hữu ích trong ngành nghề đang được đào tạo, qua đó tác động vào hệ động cơ học tập của sinh viên mà trước hết là động cơ nhận thức khoa học. Tuy nhiên tính thiết thực, cập nhật của nội dung môn học không phải do bản thân môn học mà phụ thuộc công tác biên soạn giáo trình, tài liệu trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên giảng dạy. Vì vậy, để tạo hứng thú cho sinh viên trong quá trình học tập đòi hỏi nội dung giáo trình, tài liệu bài giảng của các môn học phải thường xuyên cập nhật những thông tin mới mẽ xuất phát từ thực tiễn và đáp ứng được nhu cầu nhận thức của sinh viên trong quá trình học tập. Những yếu tố về nhà trường Cơ sở vật chất, phương tiện kĩ thuật là yếu tố quan trọng của hoạt động dạy- học. Việc đảm bảo của yếu tố này trên thực tế có ảnh hưởng nhất định đến hứng 16   
  17. thú học tập của sinh viên. Khi có hứng thú học tập, bản thân người học sẽ có xu hướng đi sâu tìm hiểu về môn học, thích đọc thêm giáo trình, các tài liệu sách báo, tạp chí… có liên quan đến nội dung của môn học, bài học. Nếu nhu cầu trên không được đáp ứng sẽ làm giảm tính tích cực, sự nhiệt tình của sinh viên đối với hoạt động học tập mà họ ưa thích. Do đó để sinh viên tìm hiểu sâu về kiến thức các môn học cần phải có phòng thí nghiệm, phòng thực hành, tài liệu ở thư viện đầy đủ,.. mới có thể tạo điều kiện sinh viên tiếp cận, khát khao đi sâu tìm hiểu kiến thức ngành nghề mình đang theo học. Mặt khác, các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại đã và đang sử dụng một cách khá phổ biến trong hoạt động dạy – học. Điều này xuất phát từ ưu thế rất lớn của các phương tiện dạy học đó là kết hợp với âm thanh, màu sắc, hình ảnh sống động, qua đó làm tăng hưng phấn và sự tập trung chú ý, kích thích sự tích cực, tư duy độc lập, sáng tạo của người học, làm cho sinh viên cảm thấy hứng thú với bài học, nội dung chương trình học và chủ động tiếp cận kiến thức một cách sâu hơn. Những yếu tố thuộc về giảng viên Hứng thú học tập của sinh viên được tăng cường một phần rất lớn chịu ảnh hưởng tới cán bộ giảng dạy. Cùng với trình độ tri thức chuyên môn thì phương pháp sư phạm của giáo viên cũng là yếu tố tác động mạnh đến hứng thú của sinh viên đối với môn học, đối với việc học tập. Thực tế đã cho thấy cùng một nội dung bài giảng như nhau nhưng giảng viên sử dụng phương pháp dạy khác nhau sẽ dẫn đến thái độ tiếp thu của người học có sự khác nhau. Muốn làm cho mục đích dạy học, nội dung dạy học trở thành thái độ học tập đúng đắn, có khả năng nhận thức được vấn đề và giải quyết được vấn đề một cách thông minh sáng tạo ở sinh viên thì phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng phải là những phương pháp dạy học hiện đại, khoa học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thường khuyên những người làm công tác giáo dục, đặc biệt những giảng viên dạy đại học: ‘’ Phương pháp giảng dạy bao giờ cũng đi đôi với nội dung giảng dạy. Anh dạy thế nào giúp cho người học trò, người sinh viên có khả năng độc lập suy nghĩ, giúp cho cái thông minh của họ làm việc, phát triển chứ 17   
  18. không phải chỉ giúp cho họ có trí nhớ. Phải có trí nhớ nhưng chủ yếu là phải giúp cho họ thông minh sáng tạo. Làm sao cho người học trò lúc nghe thầy đã bắt đầu nắm vững nội dung chương trình, vững giáo trình, từ đó gợi cho họ những ý nghĩ mới. Cao hơn một mức nữa, từ đó họ sẽ có những dự kiến sẽ làm cho ngày mai, ngày kia’’. Phương pháp giảng dạy của giảng viên có làm cho ngọn lửa yêu khoa học, tích cực tìm tòi cái mới của sinh viên phát triển hay chỉ là một bình chứa kiến thức một cách thụ động có ý nghĩa nhất định trong việc tạo ra hứng thú học tập cho sinh viên. Nếu giảng viên trong mỗi bài học biết khéo léo đề ra cho sinh viên những bài tập, bài làm cho sinh viên suy nghĩ, tìm tòi, tìm được câu trả lời, giải được bài tập thì sẽ tạo ra niềm vui trong học tập. Như vậy giảng viên cần có những phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức, nội dung học tập, luôn chú ý tạo tình huống có vấn đề nhằm khêu gợi hứng thú học tập, khả năng tư duy sáng tạo của người học. Bản thân người thầy làm cho người học biết liên hệ kiến thức lý thuyết với thực tế, vận dụng tri thức đã học vào giải quyết tình huống trong thực tiễn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hứng thú học tập của sinh viên. Mặt khác, thái độ của người thầy đối với sinh viên (thái độ đánh giá công bằng, vui vẻ, cởi mở,..) cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hứng thú học tập của sinh viên. Nếu giảng viên biết cách đánh giá sinh viên một cách công bằng, vui vẻ, cởi mở, kích thích sinh viên tin vào khả năng nhận thức của mình một cách đúng đắn… thì sẽ thúc đẩy được hứng thú học tập của sinh viên. Như vậy, hứng thú học tập ảnh hưởng từ cả yếu tố chủ quan và khách quan. Do đó chúng ta cần tìm hiểu cả những điều kiện khách quan bên ngoài và xác định những yếu tố từ chính bản thân chủ thể. Có như thế, việc nhận thức về những yếu tố ảnh hướng đến hứng thú học tập của sinh viên mới đầy đủ và chính xác nhằm đề ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hứng thú học tập, giúp sinh viên học tập hiệu quả. 18   
  19. 1.1.6. Đặc điểm của hứng thú Hứng thú học tập là một dạng đặc biệt của hứng thú, hứng thú học tập có đầy đủ các đặc điểm của hứng thú. Bên cạnh đó, hứng thú học tập còn có những đặc điểm riêng của nó. Theo G.I.Sukina, hứng thú học tập có các đặc điểm sau: ‘’ Hứng thú học tập có liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau của hoạt động học tập. Hứng thú có thể rất rộng, phân tán nhằm thu lượm thông tin nói chung, hoặc nhận biết các mặt mới của đối tượng, hoặc đi sâu vào một lĩnh vực nhận thức nhất định, vào cơ sở lí luận của nó, vào những mối quan hệ và quy luật quan trọng của nó’’ [2] Trong nhà trường, đối tượng hứng thú học tập của sinh viên chính là học tập, là sự lĩnh hội và vận dụng hệ thông kiến thức kĩ năng kĩ xảo mới, hướng tới việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách người chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể. Từ đó chúng ta có thể suy ra rằng, không những chỉ có kiến thức mà sinh viên tiếp thu mới thuộc phạm vi của hứng thú học tập, mà cả quá trình học tập nói chung. Quá trình này cho phép sinh viên tiếp thu những phương pháp nhận thức cần thiết và góp phần làm cho sinh viên tiến bộ. Tính chất lựa chọn của hứng thú học tập được thể hiện ở sự thống nhất giữa khách thể với chủ thể, trong hứng thú tồn tại một sự kết hợp hữu cơ giữa các quá trình trí tuệ với các quá trình tình cảm ý chí. Hứng thú học tập còn có một đặc điểm quan trọng nữa là nhiệm vụ nhận thức đòi hỏi chủ thể phải hoạt động tích cực, tìm tòi, sáng tạo, mà không đòi hỏi định hướng đơn giản vào cái mới, cái bất ngờ - những cái thường là trung tâm của nhiều hứng thú khác. Ngoài ra, A.K.Marcova và V.V.Repkin cho rằng hứng thú học tập còn một số đặc điểm quan trọng khác: Hứng thú học tập, lúc đầu hướng tới nội dung tri thức khoa học, sau đó tới các phương pháp khám phá ra nội dung đó. Hứng thú học tập dần có được tính bền vững, nếu được củng cố trong những điều kiện của tình huống đã làm nó xuất hiện, loại hứng thú này được phân biệt bằng tính không bảo hòa: sự làm quen với đối tượng của hoạt động 19   
  20. nhận thức càng sâu sắc, sự cuốn hút của nó càng cao và càng xuất hiện những vấn đề mới. Hứng thú học tập là sự biểu hiện của một trong những động lực mạnh nhất, thúc đẩy sinh viên nghiên cứu đối tượng trong phạm vi của nó. Nó luôn được nhận thức rõ ràng, nhanh chóng, đúng đắn. Sinh viên giải thích đúng, có cơ sở nguyên nhân tạo ra hứng thú của bản thân. Được xuất hiện trong những cảm xúc trí tuệ lâu dài. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Vài nét về trường đại học Quảng Nam Trường đại học Quảng Nam được thành lập theo quyết định số 722/QĐ- TTg ngày 08/06/2007 của Thủ Tướng Chính Phủ trên cơ sở trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Nam. Việc thành lập trường đại học Quảng Nam nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực, phù hợp với cơ cấu kinh tế- xã hội của tỉnh Quảng Nam, từ đó mở rộng điều kiện và cơ hội học tập cho người học trong và ngoài tỉnh, góp phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn khoa học kĩ thuật và nhân văn cho cộng đồng dân cư địa phương. Trường đại học Quảng Nam được xây dựng và phát triển theo hướng đa ngành, đa hệ, trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, trung tâm văn hóa giáo dục lớn của tỉnh Quảng Nam. Trường được xây dựng tại 2 cơ sở: cơ sở 1 với diện tích gần 7 ha, nằm ở trung tâm thành phố Tam Kỳ, cơ sở 2 với diện tích 50 ha nằm ở phường Tam Phú, thành phố Tam kỳ, tỉnh Quảng Nam (đã được quy hoạch). Về cơ cấu tổ chức, trường đại học Quảng Nam có 12 khoa chuyên môn, 07 phòng chức năng và 04 trung tâm với tổng cộng 327 cán bộ, giảng viên, trong đó có 08 tiến sĩ, 18 nghiên cứu sinh, 160 thạc sĩ. Cho đến nay, nhà trường được phép đào tạo 13 ngành trình độ đại học. 25 ngành trình độ cao đẳng với lưu lượng hàng năm khoảng 2000 sinh viên hệ chính quy ( đại học : 800, cao đẳng 800, trung cấp : 400 ). Tổng số sinh viên ở tất cả các bậc học gần 7000 sinh viên. 20   
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0